intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc

Chia sẻ: Hoàng Diên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

248
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc" trình bày nội dung như sau: Tình hình trước khi cải cách, một số đặc điểm của công cuộc cải cách ở Trung Quốc, thành tựu của công cuộc cải cách, bài học kinh nghiệm,...Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc

  1. ĐỀ BÀI: Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc. BÀI LÀM: Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác ­ Lênin chỉ rõ để tiến lên chủ nghĩa   cộng sản có rất nhiều con đường khác nhau phụ  thuộc vào những điều kiện  kinh tế, xã hội và đặc điểm của các dân tộc. Từ  đó các ông khẳng định, đi lên   chủ  nghĩa cộng sản, bỏ  qua giai đoạn phát triển tư  bản chủ  nghĩa là một con   đường phát triển tất yếu, khách quan của nhiều dân tộc có xuất phát điểm tiền  tư  ban chu nghia v ̉ ̉ ̃ ới những điều kiện nhất định. Trong bối cảnh hiện nay, rõ  ràng nhiều quan niệm về thời kỳ quá độ từ chu nghia t ̉ ̃ ư ban lên chu nghia xa hôi ̉ ̉ ̃ ̃ ̣  không còn phù hợp; nhiều vấn đề  của thời đại cần được quan tâm; sự thay đổi   một cách tổng thể tương quan lực lượng, sức mạnh, vai trò trong quan hệ quốc   tế... đoi hoi ta cân co s ̀ ̉ ̀ ́ ự  thay đôi môt cach căn ban t ̉ ̣ ́ ̉ ư  duy ly luân vê qua đô lên ́ ̣ ̀ ́ ̣   ̉ ̃ ̃ ̣ chu nghia xa hôi trong bôi canh m ́ ́ ới. Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã  trải qua hàng nghìn năm dưới chế  độ  phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia   có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự  thống trị của phong kiến và thực dân làm cho nền kinh tế  Trung Quốc lâm vào  khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn  con  đường  xây dựng  chủ  nghĩa xã hội,  đưa  đất nước  ngày càng phát triển.  Những cuộc cải cách của Trung Quốc trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội   được ghi nhận như những cố gắng lớn lao nhằm tìm ra lối thoát cho một quốc   gia xã hội chủ nghĩa trì trệ trở thành quốc gia năng động, phát triển. Nó còn đóng   góp nhiều kinh nghiệm cho các nước phát triển đi lên hiện đại. 1
  2. I. TÌNH HÌNH TRƯỚC KHI CẢI CÁCH Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ  nghiêm trọng chưa từng có bùng  nổ  rồi nhiều cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế, tài chính, tiền tệ...tiếp theo   sau đó, mở đầu cuộc khủng hoảng chung của toàn thế  giới, đặt ra cho toàn thể  nhân loại những vấn đề  bức thiết phải giải quyết như: sự  bùng nổ  dân số  và   hiểm hoạ vơi cạn tài nguyên thiên nhiên cung cấp cho sự  sống của con người;   yêu cầu đổi mới, thích nghi về kinh tế, chính trị, xã hội trước sự phát triển vượt   bậc của cách mạng khoa học kĩ thuật và sự giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng   phát triển mạnh mẽ theo xu thế quốc tế hoá cao... Trong hoàn cảnh đó, các nước tư bản phát triển đã kịp thời cải cách nên  khắc phục được khủng hoảng và tiếp tục phát triển, còn các nước xã hội chủ  nghĩa chủ  quan cho rằng mô hình chủ  nghĩa xã hội không chịu tác động của   khủng hoảng nên không có cải cách kịp thời làm cho đất nước lâm vào tình  trạng trì trệ, tiền khủng hoảng. Từ đó có thể khẳng định, cải cách để thích nghi   với hoàn cảnh mới là xu thế phát triển tất yếu khách quan của thế giới. Sau 20 năm (1958 ­ 1978) sai lầm về  đường lối và tranh chấp về  quyền  lực, Trung Quốc lâm vào khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội rất trầm trọng.  Về  kinh tế, do sự  lũng đoạn của đường lối cực tả, nhiều thành tựu đạt  được trong thời kì trước đã không được phát huy, việc xây dựng kinh tế  không   được coi trọng, tình trạng hỗn loạn trong đời sống xã hội  ảnh hưởng nghiêm  trọng đến sản xuất, kinh doanh.   Nền kinh tế  mất phương hướng  ổn định nên  giảm sút nghiêm trọng, sản xuất đình đốn, lương thực, thực phẩm và hàng tiêu  dùng khan hiếm, giá cả  đắt đỏ, đời sống nhân dân khó khăn. Theo thống kê,  trong mười năm cách mạng văn hoá (1966 ­ 1976), tổn thất về kinh tế của Trung  Quốc là khoảng 5000 tỉ nhân dân tệ. Trong mười năm đó, thu nhập thực tế của   2
  3. người công nhân viên chức giảm 4,9%, thu nhập bình quân của nông dân “giẫm   chân tại chỗ”.Trong mười năm cách mạng văn hoá, nhân dân Trung Quốc không  những phải chịu đựng sự khổ sở về mặt tinh thần, mà còn phải chịu đựng thiếu  thốn trong đời sống vật chất. Thời gian này trên thế giới và trong khu vực, nhiều  quốc gia đã tận dụng thời cơ cho nền kinh tế cất cánh. Trung Quốc đã bỏ lỡ cơ  hội đó.  Hậu quả tại hại nhất của cách mạng văn hoá là phá hoại hệ  thống chính   trị XHCN, gây tác hại xấu đến tình hình tư  tưởng văn hoá toàn xã hội. Nguyên  tắc dân chủ  tập trung trong sinh hoạt Đảng không còn nữa, tệ sùng bái cá nhân   Mao Trạch Đông phát triển đến đỉnh điểm. Bọn cực tả, tiêu biểu là “bè lũ bốn   tên”, đã lợi dụng uy quyền của Mao Trạch Đông để bức hại nhiều cán bộ đảng  viên. Tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương bị phá hoại hoàn toàn hoặc  chỉ tồn tại về hình thức. Ở Trung ương, “Tiểu tổ cách mạng văn hoá” lũng đoạn  mọi quyền hành. Tổ  chức Đảng và chính quyền nhân dân các cấp bị  Hồng vệ  binh lật đổ. Nội bộ  Đảng Cộng sản mất đoàn kết, nhiều cán bộ, đảng viên bị  thanh trừng. Nội bộ Nhà nước cũng bất đồng và tranh chấp quyền lực trong lãnh  đạo. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ngày càng xa cách. Các tổ  chức đoàn thể quần chúng bị giải tán. Đất nước Trung Hoa ngột ngạt trong bầu  không khí khủng bố. “Cách mạng văn hoá” ở  Trung Quốc trên thực tế là một cuộc tàn phá văn  hoá. Các nhà văn hoá bị bức hại. Di sản văn hoá dân tộc bị tàn phá. Đội ngũ trí  thức bị mai một. Giới trí thức vừa bị tổn thất trong phong trào “chống phái hữu”  những năm 50, trong “cách mạng văn hoá” những năm 60 lại phải “lên núi,  xuống làng” để  lao động cải tạo và được bần nông, trung nông lớp dưới “giáo  dục”. Theo thống kê, trong 10 năm (1968 ­ 1978) có 16,23 triệu trí thức trẻ phải  3
  4. “lên núi, xuống làng”, được tổ  chức thành những “binh đoàn sản xuất” đi khai   hoang những vùng đất xa xôi hẻo lánh nơi biên cương, hoặc phải an cư  lạc   nghiệp ở nông thôn, bỏ sự nghiệp học tập, nghiên cứu. Nền giáo dục bị tổn thất   nghiêm trọng. Nhiều năm, các trường đại học bị  đóng cửa để  sinh viên đi làm  Hồng vệ  binh. Hàng chục triệu thanh niên, học sinh, sinh viên bị  nhồi nhét tư  tưởng cuồng tín, “tạo phản”.   Về  đối ngoại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc gây xung đột biên giới với  các nước láng giềng, phản bội lại đồng minh (nhất là Liên Xô), bắt tay với Mĩ,  Nhật Bản... Trung Quốc cần phải cải cách để   ổn định tình hình mọi mặt, đưa đất  nước thoát khỏi khủng hoảng toàn diện, xây dựng thành công CNXH. Từ 18 ­ 22/12/1978, ĐCS TQ họp hội nghị TW 3 khoá XI, thông qua công  cuộc cải cách mở cửa. Sau đó đường lối cải cách được hoàn thiện dần qua các   kì   đại   hội:   Đại  hội   Đảng  lần thứ  XII   (1982),  XIII   (1987),  XIV  (1992),  XV   (1997), XVI (2002). Đường lối cải cách xác nhận Trung Quốc đang ở giai đoạn  đầu của CNXH, giai đoạn này kéo dài ít nhất 100 năm (từ  1949 đến 2049) và  chia làm 3 bước. II.   MỘT   SỐ   ĐẶC   ĐIỂM   CỦA   CÔNG   CUỘC   CẢI   CÁCH   Ở   TRUNG  QUỐC. 1. Cải cách được tiến hành dần dần theo hướng chậm rãi, vừa làm vừa rút   kinh nghiệm.  Trung Quốc đưa ra đường lối cải cách từ năm 1978 nhưng những năm sau   đó vẫn tiếp tục hoàn thiện về  cơ  sở  pháp lý và chính sách cải cách, có thể  nói  cho đến ngày nay, quá trình hoàn thiện đó vẫn tiếp tục.  4
  5. ­ Giai đoạn thứ nhất: cuối năm 1978 – 1980: Tại Hội nghị TW III khóa XI   đã phê phán triệt để chính trị độc tài trong cách mạng văn hóa và chủ trương dân  chủ  hóa đời sống chính trị  trong nước để  đảm bảo nền dân chủ  nhân dân, tăng  cường pháp chế XHCN, chế độ hóa, pháp luật hóa dân chủ, làm cho chế độ  và   pháp luật có tính ổn định... Do vậy sau khi chuyển sang cải cách, Đặng tiểu Bình đã chủ  trương thể  chế hóa, pháp luật hóa nền dân chủ, làm cho những thể chế pháp luật đó không  thể  thay đổi do thay đổi người lãnh đạo, không thay đổi do sự  thay đổi quan  điểm và sự  quan tâm của người lãnh đạo. Có thể  nói đây là bước mở  đầu tiến  tới thiết lập nhà nước pháp quyền  ở  Trung Quốc. Mặc dù lúc bấy giờ  ĐCS   Trung Quốc chưa chính thức đặt vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. ­ Giai đoạn 2: 1980 – 1987 (Đại hội XIII): Đây là giai đoạn cải cách thể  chế kinh tế được triển khai một cách toàn diện và bắt đầu gặp trở ngại từ thể  chế  chính trị  không còn thích hợp. Do vậy cải cách chính trị  càng trở  nên cấp  thiết. Đại hội cho rằng không cải cách thể chế  chính trị  thì không thể  cải cách  thể  chế  kinh tế. Hai công cuộc cải cách này cần thích  ứng lẫn nhau, phối hợp   nhau và cần coi cải cách thể chế chính trị là một tiêu chí để đánh giá công cuộc   cải cách nói chung đã đi vào chiều sâu. Trong bài phát biểu vào tháng 11/1986, Đặng Tiểu Bình cho rằng: “lúc  chúng ta đề ra cải cách là  bao gồm cải cách thể chế chính trị . Bây giờ cải cách  thể  chế  kinh tế  đã đi trước một bước càng cảm nhận sâu sắc tất yếu của cải  cách thề  chế  chính trị. Không thể  cải cách thể  chế  chính trị  thì sẽ  không giữ  vững được thành quả  cải cách kinh tế... Nội dung cải cách   thể  chế  chính trị  đang được thảo luận... đất nước rộng lớn, tình hình phức tạp, cải cách khộng  dễ dàng, vì vậy phải thận trọng trong quyết sách.  5
  6. ­ Giai đoạn thứ ba: Đại hội XIII (1987) – trước Đại hội XV (1997): Cuối   những năm 80 – đầu những năm 90 biến động chính trị dẫn đến sự sụp đổ  chế  độ  XHCN  ở  Đông Âu, Liên Xô và vụ  trấn áp phong trào sinh viên trên quảng   trường Thiên An Môn mùa hè năm 1989 đã  ảnh hưởng tới tiến trình cải cách.   Sau sự kiện Thiên An Môn, Trung quốc chuyển sang 3 năm “chữa trị, chỉnh đốn”  (1989 – 1991). Bấy giờ xuất hiện xu hướng hãm cải cách để  giữ  vững XHCN.   Nhưng đến ĐH IV đã đề  ra nhiệm vụ “Ra sức thúc đẩy cải cách , làm cho dân  chủ và pháp chế XHCN phát triển mạnh mẽ”. ­ Giai đoạn thứ  tư: ĐH XV (1997) – ĐH XVI (2002): Đại hội XV ĐCS  Trung Quốc đánh dấu một bước đột phá trong tiến trình cải cách TCCT ở Trung   Quốc. Bước đột phá đó thể hiện trong ba vấn đề. Một là đã xác nhận khái niệm  “pháp trị” (pháp quyền), chủ trương “quản lí đất nước bằng luật pháp, xây dựng  nhà nước pháp quyền XHCN”. Từ  “pháp chế” đến “pháp trị” là một cuộc đột  phá lớn, ở Trung Quốc trước đó người ta vẫn ngần ngại không dám bàn về khái  niệm “nhân trị” và “pháp trị”. Hai là đã xác nhận khái niệm “nhân quyền”, chủ  trương “tôn trọng và bảo vệ  nhân quyền”.    Ở  Trung Quốc trước đó người ta  cũng né tránh nói về nhân quyền trong khi phương Tây thường xuyên dùng vấn  đề nhân quyền để công kích và đẩy Trung Quốc vào thế bị động. Thứ ba là xác  định khái niệm dân quyền cho rằng quyền “quyền lực của chúng ta là do nhân   dân giao phó”, và đề  ra nhiệm vụ  “hoàn thiện cơ  chế  giám sát dân chủ”. Sau   cách bộ máy hành chính qui mô lớn từ trung ương đến địa phương, thu được kết  quả  đáng khả  quan, thu được kết quả  đáng khích lệ, nhất là cải cách bộ  máy  Quốc vụ viện. Tuy nhiên cải cách thể chế chính trị không chỉ là cải cách bộ máy   hành chính, mà nó còn  đòi  hỏimột cải cách  đồng bộ  trên mọi lĩnh vực của   6
  7. TCCT, nhất là mối quan hệ  giữa Đảng lãnh đạo với nhà nước và các tổ  chức  khác trong hệ thống chính trị.... ­ Giai đoạn thứ năm: là giai đoạn sau đại hội XVI Đảng cộng sản Trung  Quốc. Đại hội XVI là đại hội chuyển giao quyền lực từ thế hệ lãnh đạo thứ ba  sang thế  hệ  lãnh đạo thứ  tư  của Đảng cộng sản Trung Quốc do ông Hồ  Cẩm   Đào làm tổng bí thư, là đại hội đầu tiên của Đảng cộng sản Trung Quốc trong   thế  kỉ  XXI, đưa cải cách thể  chế  chính trị   ở  Trung Quốctiếp tục đi vào chiều  sâu, nhất là vấn đề xây dựng Đảng, quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Trước   đó Trung quốc đã có khái niệm “ văn minh vật chất”, Đại hội XVI bổ sung thêm  khái niệm “ văn minh chính trị” và chủ  trương “ phát triển nền dân chủ  xã hội   chủ  nghĩa, xây dựng nền văn minh chính trị  xã hội chủ  nghĩa là mục tiêu quan   trọng của công cuộc xây dựng xã hội toàn diện khá giả”. Trong bối cảnh lịch sử mới, vấn đề xây dựng Đảng nói chung và quan hệ  giữa Đảng với quần chúng nói riêng càng là khâu then chốt trong xây dựng nền   chính trị xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Đại hội XVI đã thông qua điều lệ sửa   đổi của Đảng, quy định “ Đảng cộng sản Trung Quốc là đội tiên phong của giai  cấp công nhân Trung Quốc, đồng thời là đội tiên phong của giai cấp công nhân   Trung Quốc, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân Trung Quốc và dân tộc  Trung Hoa.... ĐCS Trung Quốc lấy chủ nghĩa Mác –Lênin, tư  tưởng Mao Trạch Đông,  lý luận Đặng Tiểu Bình, và tư  tưởng quan trọng ba đại diện làm kim chỉ  nam  hành động của mình”. Đại hội XVI đã ra nhiệm vụ  cải cách và phát triển “nền   chính trị XHCN đặc sắc Trung quốc”, cụ thể kiên trì và hoàn thiện chế  độ  dân  chủ  XHCN,   tăng  cường   xây  dựng  pháp   chế   XHCN,   cải  cách  và  hoàn  thiện  phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng, cải cách và hoàn  7
  8. thiện cơ  chế  quyết định đường lối chính sách, đưa cải cách thể  chế  quản lí   hành chính vào chiều sâu, đẩy mạnh cải cách thể  chế  tư  pháp, đi sâu vào cải  cách chế độ tổ chức cán bộ, tăng cường chế tài và giám sát quyền lực, giữ vững   ổn định xã hội. Quán triệt tinh thần của Đại hội XVI, Hội nghị TW IV khóa XVI   (năm 2004) đã ra “Nghị  quyết của TW ĐCS Trung Quốc về  tăng cường xây  dựng năng lực cầm quyền của Đảng”. Cải cách dần dần được tiến hành qua việc cải cách từ  đơn lẻ  đến tổng   thể. Nghĩa là ban đầu chỉ  là  ở  khu vực nhỏ  lẻ, sau đó bằng thực tế  cảm thấy  thích hợp mới cho tiến hành tổng thể, từ  một khía cạnh nhỏ  của  kinh tế  đến  toàn bộ nền kinh tế. Hay là đi từ thí điểm đến đại trà. Như việc thực hiện khoán   ở nông nghiệp là một minh chứng, ban đầu từ một số tỉnh lẻ như An Huy rồi Tứ  Xuyên thực hiện “khoán chui” nhà nước vẫn để các tỉnh này thực hiện như là thí   điểm, sau đó đạt được thành quả  tốt thì mới đưa ra chính sách, nghị  quyết cho  thực hiện đại trà cả nước cùng làm (chỉ thị số 2 ngày 1 tháng 1 năm 1982).  Cải cách  ở  Trung Quốc vẫn là một quá trình từ  “ dò đá qua sông” đến   “ngồi thuyền qua sông” . Tức là đứng trước yêu cầu bức thiết của lịch sử  là  phải đổi mới, cải cách, người Trung Quốc đã tiến hành cải cách với những lý  luận làm tiền đề, tuy nhiên ngay từ đầu các biện pháp cải cách không phải được  đưa ra ngay mà dần dần tìm cách thích hợp. Vì thế  qua mỗi giai đoạn cải cách  đều có những điều chỉnh, sửa chữa, bổ  sung cho phù hợp với tình hình mới.   Thực tiễn chứng minh cách làm này là thích hợp với Trung Quốc mang lại hiệu   quả  rõ rệt, tránh được những va chạm xã hội lớn và sự  phân hóa hai cực quá  nhanh như  đã xãy ra  ở  Liên Xô và các nước Đông Âu do thực hiện “liệu pháp  sốc”. 8
  9. Cải cách tiến dần phải trả giá nhất định như thời gian cải cách tương đối  dài, tác dụng tiêu cực của sự  kéo dài dai dẳng chế  độ  cũ, song cuộc cải cách   được thúc đẩy trong điều kiện xã hội tương đối  ổn định, tuyệt đại đa số  nhân  dân được hưởng lợi ích của cuộc cải cách. Cải cách theo phương thức tiến dần  ở Trung Quốc được thể hiện ở mấy  phương diện sau đây: ­ Sau cải cách ở nông thôn thu được những kết quả thực tế mới mở rộng   ra thành phố, đến năm 1984 cuộc cải cách mới lấy thành phố làm trung tâm. ­ Ra sức thúc đẩy sự  phát triển kinh tế  không thuộc sở  hữu nhà nước,  biến nó thành động lực quan trọng thúc đẩy sự  phát triển kinh tế  hơn 30 năm   qua sau đó thực hiện có trọng điểm cuộc cải cách chiến lược kinh tế nhà nước   và các doanh nghiệp nhà nước. ­ Trong việc xây dựng hệ  thống thị  trường, thì trước hết phát triển thị  trường hàng hóa tiêu dùng rồi đến hàng hóa tư liệu sản xuất, sau đó mới chú ý  phát triển thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn lao động, kỷ thuật   thông tin… ­ Cải cách giá cả, được coi là mấu chốt, quan hệ  đến toàn bộ  thành bại  của cải cách thể chế  kinh tế, vì vậy đã được tiến hành rất thận trọng, kết hợp   giữa điều chỉnh và thả lỏng, điều chỉnh  trước, thả lỏng sau, sau đó mới gắn với  giá cả  của thị  trường thế  giới. Trong nền kinh tế  thị  trường, mọi sản ph ẩm   không được thể hiện giá cả chính xác của nó, cuộc cải cách trước hết thực hiện  thị  trường hóa giá cả  các hàng hóa hiện vật và các dịch vụ, rồi dần dần thực   hiện thị trường hóa giá các yếu tố sản xuất. ­ Về  kế  hoạch hóa các khâu sản xuất, lưu thông giá cả…, thì trước hết   cho phép một phần tồn tại ngoài kế hoạch, rồi dần dần mở rộng ra, phần theo  9
  10. kế hoạch thì thu hẹp lại dần. khi điều kiện đã chin muồi thì thực hiện sự  điều   tiết của thị  trường. Việc từng bước hợp  nhất chế  độ  hai giá của tư  liệu sản   xuất là ví dụ  nổi bật về sự  quá độ  yên ổn từ  chế  độ  cũ sang chế  độ  mới một  cách tiệm tiến. ­ Trong việc mở  cửa đối ngoại, mở  đầu là việc xây dựng các đặc khu   kinh tế, các thành phố ven biển, sau đó mới dần dần mở cửa sâu vào nội địa, và  cho đến nay mới hình thành cục diện mở cửa theo mọi hướng, mọi cấp độ. 2. Cải cách được tiến hành theo đường lối lãnh đạo nhất quán của Đảng và   Đặng Tiểu Bình. Dưới sự  lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc, lý luận Đặng Tiểu   Bình được nhân dân  ủng hộ, cuộc cải cách là sự  xuyên suốt các chính sách chỉ  đạo của Đảng. Trước sau vì mục đích phát triển đất nước. Khi được phỏng vấn  vấn đề  cuộc cải cách  ở  Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã trả  lời: “Tôi có một  điều tâm đắc nhất, khi tôi đưa ra phương pháp mở cửa, tôi đưa ra phương châm:  Không được tranh luận, tức là không tranh cãi những điều đưa ra mà chỉ  được   tiến hành, sai đâu sửa đấy”.  Để làm được điều đó cần có sự đồng lòng, nhất trí   cao và Trung Hoa là một dân tộc có lòng tự hào cao độ để có thể đồng lòng trong   công việc phát triển đất nước. Nói như  thế  không có nghĩa là các nhà lãnh đạo   Trung Quốc cứng nhắc, độc đoán trong việc đề  ra phương hướng cải cách mà  như  đã nói  ở  trên, dựa vào thực tế  họ   đã không ngừng sửa đổi, hoàn thiện  phương pháp. Và sự có nhiều nguyên nhân nhưng suy cho cùng thì cũng chỉ là vì   có phương pháp đúng, chính sách phù hợp và lãnh đạo tài tình mà thôi. Dựa  vào thực  tế,  Đảng cộng sản Trung Quốc  đã sửa   đổi, hoàn thiện   phương pháp cho phù hợp với quá trình phát triển. 10
  11. 3. Cải cách ở Trung Quốc được thực hiện theo một cơ sở lý luận vững chắc   và ngày càng hoàn thiện. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa thực tiễn và lý luận. Cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc được tiến hành trên cơ sở có điều   kiện thuận lợi về  mặt lý luận từ  những cuộc cải cách của các nước đi trước   cũng như từ những tư tưởng cải cách trong và ngoài nước: Tiếp thu kinh nghiệm của thế giới (John Keynes, Roton) Rút kinh nghiệm lý luận của thời kì điều chỉnh Tôn Dã Phương. Lý luận của Đặng Tiểu Bình là định hướng của cuộc cải cách. Đặng Tiểu  Bình đã chuyển hướng chiến lược từ đấu tranh giai cấp sang xây dựng kinh tế  đề  ra phương châm  là một trung tâm hai điểm cơ  bản (một trung tâm là phát  triển kinh tế, hai điểm cơ  bản là cải cách và mở  cửa, kiên trì 4 nguyên tắc cơ  bản của chủ  nghĩa xã hội, chủ  nghĩa Mác, tư  tưởng Mao Trạch Đông, sự  lãnh  đạo của  Đảng xây dựng  chủ  nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, nền  chuyên chính dân chủ nhân dân). Trên cơ  sở  nhận thức về  mô hình chủ  nghĩa xã hội đã tồn tại  ở  Trung   Quốc 30 năm qua, các nhà lãnh đạo đã vạch rõ những sai lầm, kiên quyết xóa bỏ  những quan điểm tả  khuynh, xét lại những nhận thức của Trung Quốc về  chủ  nghĩa Mác­ Lênin. Đặng Tiểu Bình trong bài nói tại hội nghị  Trung  Ương 3 khóa XI (tháng  12 năm 1978) đã đưa ra quan điểm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị”:  Giải phóng tư  tưởng nhằm khuyến khích suy nghĩ, hành động theo  cái mới, không bị ràng buộc theo chủ nghĩa giáo điều tả khuynh. Thực sự cầu thị. Quan điểm thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý, Đặng Tiểu   Bình nhấn mạnh vai trò của sức sản xuất trong đời sống xã hội: “Chủ  nghĩa  11
  12. Mác chú trọng nhất là phát triển sức sản xuât... Vì vậy, nhiệm vụ  căn bản của   CNXH ở Trung Quốc là phát triển sức sản xuất”. Sự chuẩn bị về mặt lý luận là nhân tố thành công của công cuộc cải cách  ở Trung Quốc. Không chỉ nói mà phải làm và làm thì phải biết dựa trên lý luận   đúng. Những quan niệm về cải cách ngày càng được định hình, sửa chữa và trở  thành hệ  thống. Đây là điều không phải cuộc cải cách nào trong lích sử  Trung  Quốc cũng như các nước khác trên thế giới làm được. Và đổi mới về tư tưởng   là bước chuẩn bị  tiên quyết cho cải cách, rồi thì trong quá trình cải cách đó, lý   luận lại được nâng lên tầm cao mới. Có thể  thấy, vai trò của Đặng Tiểu Bình  trong việc chuẩn bị và hoàn thiện lý luận cho cuộc cải cách ở Trung Quốc là rất   quan trọng. 4. Cải cách ở Trung Quốc là cuộc cải cách toàn diện, trong đó cải cách thể   chế kinh tế là trọng điểm ­ Dù chọn ngay từ khi tiến hành cải cách chỉ  là “dò đá qua sông” chỉ  thực   hiện thí điểm, đơn lẻ nhưng dần dần đó lại là một cuộc cải cách toàn diện trên  tất cả các phương diện về  kinh tế  ­ từ chế độ  sở  hữu, chính sách giá cả, ngân  hàng….Và cải cách cả  về  chính trị, văn hóa, chú trọng văn minh tinh thần, làm   cho xã hội Trung Quốc phát triển một cách hài hòa, cân đối. ­  “Cải cách là toàn diện, bao gồm cải cách thể chế kinh tế, cải cách thể  chế  chính trị  và cải cách các lĩnh vực tương  ứng khác”.Trung Quốc tuy chủ  trương cải cách toàn diện, song khi thực hiện phải có trọng điểm để  tập trung  sức lực.Trọng điểm chính là cải cách thể  chế  kinh tế.Trọng điểm đó được xây  dựng bởi phương châm chung là “lấy xây dựng kinh tế  làm trung tâm”, nhằm  không ngừng phát triển sức sản xuất nâng cao mức sống của nhân dân, nâng cao  sức mạnh tổng hợp của đất nước.  12
  13. ­ Trung Quốc coi đó là nhiệm vụ trung tâm, lâu dài, quyết định vận mệnh   của đất nước và khẳng định Trung Quốc chỉ có một trung tâm, mọi mặt công tác  phải xoay quanh việc phục vụ  trung tâm đó, không được xa rời hoặc cản trở  trung tâm đó. Điều này khác ở Liên Xô sau này (cải tổ năm 1985). Trung Quốc cải cách năm 1978 thì chỉ  mới chú trọng đến kinh tế, không  đả động gì đến chính trị. Cho đến những năm 80, 90, chính trị mới được đưa vào  chương trình cải cách nhưng cũng phải dựa trên cơ sở là kinh tế. Cải cách kinh tế  đi trước một bước so với cải cách chính trị mà cụ thể  hơn là cải cách thể  chế  chính trị  xuất phát từ  quan điểm lấy kinh tế  làm gốc,   kinh tế chính là nhân tố sâu xa của mọi vấn đề. Vì vậy, đây là điểm đúng đắn của công cuộc cải cách đã được lịch sử  chứng minh và phát huy tác dụng trong suốt quá trình cải cách mở cửa. ­ Cải cách được tiến hành từ một xuất phát điểm thấp, trình độ  sản xuất   còn lạc hậu, thấp kém. Nhưng từ  việc biết chú tâm đến nhân tố  kinh tế  mà  Trung Quốc đã đưa ra được phương pháp đúng để có thể phát triển đất nước.  ­ Cải cách trước hết từ kinh tế và trong kinh tế thì trước hết là trong nông   thôn, từ nông thôn mới đến thành thị. Đối với một đất nước đông dân, đa phần   làm  nghiệp thì đó là một điều đúng đắn, bởi lẽ trước hết phải đảm bảo lương   thực, đảm bảo đời sống cho nông dân nói riêng và nhân dân nói chung thì mới có   thể tính đến điều xa hơn. 5. Cải cách gắn liền với ổn định và phát triển.  ­ Cải cách để  phát triển, muốn phát triển thì phải  ổn định vững chắc đã   trở thành điều kiện tiên quyết làm cho cách mạng thắng lợi. ­ Cải cách toàn diện chứ không phải đảo lộn vô nguyên tắc. 13
  14. ­ Duy trì thường xuyên 4 nguyên tắc (vì không có nguyên tắc nhất quán  trong khi tiến hành cải cách nên Liên Xô và các nước Đông Âu đã bị sụp đổ chế  độ CNXH). ­ Không đảo lộn nên phải tiến hành cải cách dần dần: sau 6 năm mới cải   cách chính trị, 13 năm mới đi vào thế chế kinh tế thị trường. ­ Cải cách là đả phá cái cũ: thể chế kinh tế tập trung quan liêu, kế  hoạch  hóa cao độ    đồng thời xây dựng cái mới: nền kinh tế  thị  trường XHCN có sự  quản lí của nhà nước. Tóm lại, với những đặc điểm trên, công cuộc cải cách mở cửa của Trung  Quốc đã gặt hái được những thành công đáng nể. Nó được tiến hành một cách  chắc chắn, chậm rãi,  toàn diện có trọng tâm, trọng điểm, dựa trên những cơ sở  lý luận khoa học, tiến hành dưới sự  lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản   Trung Quốc và đã xử  lý tốt mối quan hệ  giữa lý luận và thực tiễn,  ổn định và  phát triển. Chính vì vậy, thành công của Trung Quốc là một điều tất yếu. III. THÀNH TỰU CỦA CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Sau hơn 30 năm cải cách, mở  cửa nền kinh tế Trung Quốc đã ổn định và   phát triển nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới. Tổng   sản phẩm trong nước (GDP) tăng trung bình 9,6%/năm (1978 ­ 2000), đạt giá trị  8740 tỉ  nhân dân tệ, đứng hàng thứ  7 thế  giới. Năm 2006, dự  trữ  ngoại tệ  của  Trung Quốc đã vượt Nhật Bản và trở  thành nước có dự  trữ  ngoại tệ  lớn nhất  thế  giới. Với chính sách mở  cửa, tổng giá trị  xuất nhập khẩu năm 1997 lên tới   325,06 tỉ USD (tăng 15 lần so với năm 1978). Hàng hóa giá rẻ, áp dụng khoa học   kĩ thuật mới của Trung Quốc len lách vào khắp mọi nơi trên thế giới. Cũng tính  đến năm 1997, có 145.000 doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động  ở  Trung  Quốc và đã đầu tư  vào Trung Quốc hơn 521 tỉ  USD. Đời sống nhân dân được   14
  15. nâng cao rõ rệt: từ năm 1978 ­ 1997, thu nhập bình quân ở nông thôn đã tăng từ  133,6 lên 1090,1 nhân dân tệ,  ở thành thị từ  343,4 lên 5160,3 nhân dân tệ. Khoa   học kĩ thuật cũng rất phát triển, năm 2003, Trung Quốc phóng thành công tàu vũ  trụ  Thần Châu V và trở  thành nước thứ  3 trên thế  giới đưa con người bay vào  quỹ đạo trái đất bằng tàu vũ trụ dùng tên lửa đẩy của mình  Về  chính trị, giới lãnh đạo Trung Quốc đã  ổn định được tình hình chính  trị, chấm dứt tình trạng bất đồng về đường lối và tranh chấp về quyền lực, tạo   bầu không khí thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội.  Về đối ngoại, Trung Quốc đã thu được nhiều kết quả, góp phần củng cố  địa vị của mình trên trường quốc tế. Từ cuối những năm 80 đầu những năm 90   của thế kỉ trước, Trung Quốc đã lần lượt bình thường hóa quan hệ với Liên Xô,   Mông Cổ, Lào, Inđônêxia, Việt Nam,... mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với  hầu hết các nước trên thế giới. Trung Quốc đã thu hồi Hồng Công (1997) và Ma  Cao (12 ­ 1999). Đó là những sự  kiện có ý nghĩa lịch sử  to lớn đối với Trung  Quốc. Như  vậy, cải cách đã  ổn định lại tình hình chính trị  ­ xã hội, đạt nhiều   thành tựu to lớn về kinh tế, văn hoá, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. địa  vị quốc tế được nâng cao. Bộ mặt đất nước Trung Quốc có nhiều thay đổi tích   cực chưa từng có. Những thành tựu mọi mặt của Trung Quốc trong công cuộc  cải cách hiện nay là bàn đạp để Trung Quốc vững bước tiến vào thế kỉ XXI với   những bước tiến lớn hơn nữa trên con đường xây dựng chủ  nghĩa xã hội mang  màu sắc Trung Quốc. Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc lớn về kinh tế,   khoa học kĩ thuật, là nước xã hội chủ  nghĩa lớn nhất thế  giới hiện nay, góp  phần phát triển cách mạng thế giới.  IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM 15
  16. Trung Quốc không phải là nước duy nhất thực hiện cải cách kinh tế, xoá  bỏ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cũ, song nước này đã gặt hái được nhiều   thành công khiến cho các nước khác phải ngưỡng mộ.Viện sỹ  Ô.Bôgômôlôp  (Nga) đã nhận xét, có nhiều người cho rằng các nước chuyển đổi sang nền kinh   tế thị trường "nhất định sẽ kéo theo các xung đột đổ máu hay ít ra là mất mát và   thiếu thốn vật chất. Kinh nghiệm của các nước Trung và Đông Âu, của Nga và  các nước SNG khác dường như  khẳng định điều đó. Thế  nhưng cải cách thị  trường của Trung Quốc đã chứng minh điều ngược lại. Ngay từ  những ngày  đầu, cải cách của Trung Quốc đã cải thiện về  kinh tế  và cuộc sống cho nhân   dân, và cho đến nay vẫn duy trì tốc độ  tăng trưởng cao". Những điều đó chứng   tỏ  rằng con đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc mà Đảng, Chính phủ  và nhân dân Trung Quốc lựa chọn là đúng đắn, không những phù hợp với thực  tiễn, giúp cho Trung Quốc phát triển, mà còn đóng góp nhất định cho sự  tăng   trưởng của kinh tế thế giới đồng thời cung cấp những bài học kinh nghiệm có  giá trị  tham khảo rất tốt cho các nước đang phát triển khác, nhất là các nước   đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Việt Nam là nước láng giềng có   nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc. Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản  Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo cũng đã giành được những thành tựu quan  trọng và có ý nghĩa lịch sử. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Chính  phủ  Việt Nam rất coi trọng tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, nhất là của  Trung Quốc. Từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay, lãnh đạo cấp   cao hai nước đã nhiều lần xác định sẽ tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm  trên các lĩnh vực như xây dựng và phát triển kinh tế, quản lý đất nước, xây dựng   Đảng v.v…  16
  17. Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc đã để lại cho Việt Nam một  số kinh nghiệm sau đây: 1. Cải cách toàn diện, song phải coi cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm.  Ngay từ   đầu, Trung Quốc  đã chủ  trương  cải cách toàn diện. Lãnh tụ  Trung Quốc Đặng Tiểu Bình người được coi là kiến trúc sư  của công cuộc cải   cách của Trung Quốc nói : " Cải cách là toàn diện, bao gồm cải cách thể  chế  kinh tế, cải cách thể  chế  chính trị  và cải cách các lĩnh vực tương  ứng khác".  Trung Quốc tuy chủ trương cải cách toàn diện, song khi thực hiện phải có trọng  điểm tập trung sức lực. Trọng điểm chính là cải cách thể  chế  kinh tế. Sở  dĩ  Trung Quốc cải cách thành công vì trong khi cải cách tất cả các lĩnh vực, họ đã  kiên trì coi cải cách kinh tế làm trọng điểm. Một số quốc gia khác cải cách thất   bại, bởi vì cải cách kinh tế  chưa có kết quả  gì rõ rệt, đã vội vã chuyển trọng   điểm sang lĩnh vực khác, làm cho chính trị  không  ổn định, mà cải cách kinh tế  cũng bị buông lỏng, kết quả là cả kinh tế lẫn chính trị đều bị rối loạn.  2. Kiên trì lựa chọn thể  chế kinh tế thị trường xã hội chủ  nghĩa thay thế  cho thể chế kinh tế kế hoạch truyền thống.  Thực hiện cải cách ­ mở  cửa, những người lãnh đạo Trung Quốc đã lựa  chọn thể chế kinh tế thị trường, nền kinh tế được thúc đẩy và phồn vinh, được   nhân dân tiếp nhận. Quá trình lựa chọn và tiếp nhận thế chế kinh tế thị trường   ở Trung Quốc có thể chia làm 4 giai đoạn :  ­ Từ năm 1979 đến năm 1984 là thời kỳ thể hiện sự quay lại tôn trọng quy  luật giá trị, mở rộng tác dụng của cơ chế thị trường. Các biện pháp cải cách áp   dụng đầu tiên ở nông thôn đã khiến nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và phát   triển , tạo ra sức thuyết phục để  đông đảo người dân tiếp nhận cuộc cải cách  theo hướng thị trường.  17
  18. ­ Năm 1984, Hội nghị Trung  ương 3 khoá XII xác nhận kinh tế XHCN là  kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Nhận thức của mọi người đã được nâng lên, hiểu   rõ hơn về vấn đề phát triển kinh tế hàng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua.  ­ Năm 1987, Đại hội Đảng CSTQ lần thứ  13 đưa ra mô hình "nhà nước   điều tiết thị trường, thị trường dẫn dắt xí nghiệp" đã làm nổi bật tác dụng của   thị trường và có thể coi đó là giai đoạn quá độ từ thuyết kinh tế hàng hoá XHCN  sang thuyết kinh tế thị trường XHCN  ­ Đầu năm 1992, trong bài nói chuyện khi đi thăm các tỉnh phía Nam, Đặng  Tiểu Bình đã nêu ra ý kiến " Kinh tế kế hoạch không phải là chủ  nghĩa xã hội,   chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch; kinh tế thị trường không phải là chủ nghĩa  tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có thị trường". ý kiến đó một lần nữa giải phóng  tư tưởng cho cán bộ và nhân dân Trung Quốc. Đại hội Đảng CSTQ lần thứ XIV   lại đề ra "lấy xây dựng kinh tế thị trường XHCN làm mục tiêu của cải cách thể  chế  kinh tế", cuộc cải cách theo hướng  thị  trường hoá càng được thúc đẩy   nhanh chóng. Thể chế kinh tế mới đã có vai trò ưu thế trong vận hành kinh tế.  3. Kiên trì sách lược cải cách kiểu tiến dần từng bước.  Ngay từ  khi mới bắt đầu cải cách, Trung Quốc đã xác định không dùng  phương án cải cách kiểu "bùng nổ" , mà đã kiên trì phương án "dò đá qua sông",  áp dụng phương châm trước dễ sau khó, tiến dần từng bước , giảm bớt rủi ro.  4. Xử  lý đúng đắn quan hệ  biện chứng giữa cải cách, phát triển và  ổn  định.  Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cải cách của Trung Quốc  tương đối thành công là trong tiến trình cải cách đã coi trọng và xử lý đắn quan  hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định. Kinh nghiệm 20 năm phát triển kinh tế  18
  19. của Trung Quốc cho thấy, muốn xử lý đúng đắn ba mặt trên, người Trung Quốc  đã chú trọng mấy điểm sau:  ­ Trước hết, phải duy trì được tốc độ phát triển kinh tế thích hợp ­ Thứ hai, phải giữ cho mức độ  tăng hàng năm của vật giá bán lẻ  ở mức   dưới 10%.  ­ Thứ ba, việc thực hiện các biện pháp cải cách cần tính toán đầy đủ đến  sự ổn định về tiêu dùng của người dân.  ­ Thứ tư, giữ vững chủ trương cùng giàu có, đề  phòng và giảm bớt mức   chênh lệch quá lớn giữa các cá nhân, các đơn vị, các địa phương .  5. Kết hợp chặt chẽ giữa cải cách trong nước với mở cửa ra thế giới.  Trung Quốc coi cải cách và mở cửa là hai mặt của một chỉnh thể. Sự kết   hợp giữa hai mặt này là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của  cải cách.  V. MỘT SỐ HẠN CHẾ. Một là, tụt hậu xa hơn về kinh tế ­ khoa học kĩ thuật so với thế giới trước   sự  phát triển mạnh mẽ  của cuộc cách mạng khoa học công nghệ  hiện nay. Vì  sự phát triển khoa học kĩ thuật của thế giới vừa tạo ra thời cơ cho những nước   tiếp cận được vừa tạo ra nguy cơ đối với những nước không tiếp cận được. Hai là, chệch hướng xã hội chủ  nghĩa. Nguy cơ  này dẫn tới mất vai trò  lãnh đạo của Đảng, mất định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là tham nhũng, mẫu thuẫn xã hội và các tệ  nạn xã hội khi phát triển   kinh tế thị trường phải đối mặt với suy thoái đạo đức, phân cực giàu nghèo quá  lớn, mất công bằng và ổn định xã hội. Bốn là diễn biến hoà bình của các thế  lực thù địch chống phá sự  nghiệp  cách mạng của Trung Quốc. 19
  20. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2