Đề tài: Địa lý tôn giáo
lượt xem 9
download
Mời các bạn tham khảo Đề tài: Địa lý tôn giáo dưới đây để nắm bắt được những nội dung về vấn đề chung của tôn giáo, địa lý một số tôn giáo lớn trên thế giới, tình hình tôn giáo hiện nay trên thế giới, tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Địa lý tôn giáo
- LƠI M ̀ Ở ĐÂU ̀ Trong các vấn đề Địa lý kinh tế xã hội quan trọng ngày nay không thể thiếu được vấn đề về tôn giáo. Tôn giáo luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của con người. Niềm tin và thực tiễn tôn giáo vô cùng đa dạng và có rất nhiều tôn giáo trên thế giới ngày nay. Có tôn giáo chỉ hạn chế trong một vùng địa lý không lớn nhưng có những tôn giáo có thể gọi là tôn giáo thế giới với nhiều triệu tín đồ ở khắp nơi trên thế giới. Nói chung có khoảng 87 phần trăm dân số thế giới đang gắn bó với một tôn giáo nào đó; chỉ có khoảng 13 phần trăm là không tôn giáo.Và con người chúng ta ngay từ buổi đầu tiên xuất hiện trên mặt đất, khi chưa có văn hóa, chưa có các tổ chức xã hội, chưa có luật pháp, chưa lập thành quốc gia, mới chỉ biết sống với nhau trong từng đơn vị nhỏ, như: Nhóm du mục, hoặc bộ lạc du cư, du canh... Nhưng con nguời đã cố gắng lập quan hệ với thế giới linh thiên vô hình. Các hình thức thờ cúng cổ sơ nhất cho thấy con người tin có một đấng khác mình, vượt xa mình về mọi mặt, tài năng, sức mạnh, trí tuệ... Đấng ấy phù hộ nguời lương thiện, trừng phạt kẻ gian ác. Như vậy ,tôn giáo phát sinh từ khát vọng tự nhiên và sâu xa nhất của con nguời là muốn gặp thần linh, Thuợng đế. Khát vọng này không thể thoả mãn về vật chất, văn hoá, nghệ thuật hoặc bất cứ một tiến bộ khoa học kỹ thuật nào. Dù cho có tuyên truyền xuyên tạc, sinh hoạt tôn giáo có bị giới hạn, nhưng không bao giờ có thể xoá bỏ khuynh hướng tôn giáo trong bản chất con người. Chính vì vậy khi nghiên cứu Địa lý kinh tế xã hội chúng ta không thể bỏ qua vấn đề tôn giáo. Sự ổn định hay bất ổn định của một tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của một khu vực nói riêng và toàn thế giới nói chung. Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 1
- PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHAI QUAT MÔT SÔ VÂN ĐÊ VÊ TÔN GIAO ́ ́ ̣ ́ ́ ̀ ̀ ́ I. Khái niệm tôn giaó 1. Lịch sử hình thành thuật ngữ “Tôn giáo” “Tôn giáo” là một thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài vào từ cuối thế kỷ XIX. Xét về nội dung, thuật ngữ Tôn giáo khó có thể hàm chứa được tất cả nội dung đầy đủ của nó từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây. Thuật ngữ “Tôn giáo” vốn có nguồn gốc từ phương Tây và bản thân nó cũng có một quá trình biến đổi nội dung và khi khái niệm này trở thành phổ quát trên toàn thế giới thì lại vấp phải những khái niệm truyền thống không tương ứng của những cư dân thuộc các nền văn minh khác, vì vậy trên thực tế đã xuất hiện rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về tôn giáo của nhiều dân tộc và nhiều tác giả trên thế giới “Tôn giáo” bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (Tiếng Anh) và“religion” lại xuất phát từ thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên. Vào đầu công nguyên, sau khi đạo Kitô xuất hiện, đế chế Roma yêu cầu phải có một tôn giáo chung và muốn xóa bỏ các tôn giáo trước đó cho nên lúc này khái niệm “religion” chỉ mới là riêng của đạo Kitô. Bởi lẽ, đương thời những đạo khác Kitô đều bị coi là tà đạo. Đến thế kỷ XVI, với sự ra đời của đạo Tin Lành tách ra từ Công giáo – trên diễn đàn khoa học và thần học châu Âu, “religion” mới trở thành một thuật ngữ chỉ hai tôn giáo thờ cùng một chúa. Với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản ra khỏi phạm vi châu Âu, với sự tiếp xúc với các tôn giáo thuộc Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 2
- các nền văn minh khác Kitô giáo, biểu hiện rất đa dạng, thuật ngữ “religion” được dùng nhằm chỉ các hình thức tôn giáo khác nhau trên thế giới. Thuật ngữ “religion” được dịch thành “Tông giáo” đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ XVIII và sau đó du nhập vào Trung Hoa. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, vào thế kỷ XIII, thuật ngữ Tông giáo lại bao hàm một ý nghĩa khác, nó nhằm chỉ đạo Phật (Giáo: đó là lời thuyết giảng của Đức Phật, Tông: lời của các đệ tử Đức Phật). Thuật ngữ Tông giáo được du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, nhưng do kỵ húy của vua Thiệu Trị nên được gọi là “Tôn giáo”. Như vậy, thuật ngữ tôn giáo ban đầu được sử dụng ở châu Âu nhằm chỉ một tôn giáo sau đó thuật ngữ này lại làm nhiệm vụ chỉ những tôn giáo. 2. Khái niệm Tôn giáo Trong suốt quá trình hình thành và phát triển tôn giáo đã và đang đóng vai trò lớn trong đời sống cá nhân và xã hội ở nhiều nước. Nó tác động đến hành vi dân số, tới việc chuyển cư và đôi lúc đưa đến những hậu quả nhất định trong đời sống xã hội. Vậy tôn giáo là gì? Tôn giáo là thế giới quan và những hành vi tương ứng, liên quan đến niềm tin vào lực lượng siêu tự nhiên cũng như ảnh hưởng của nó đến đời sống con người, đồng thời là sự thể hiện một cách tưởng tượng các lực lượng tự nhiên và xã hội trong nhận thức con người. Tôn giáo được biểu hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau đây: Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 3
- Tôn giáo là sự phản ánh thế giới vật chất vào ý thức con người một cách đặc biệt. Tôn giáo là hệ thống giáo lý về lực lượng siêu tự nhiên và xã hội chi phối con người, là sự tín ngưỡng và sùng bái các lực lượng siêu tự nhiên chi phối thế giới. Tôn giáo là một tổ chức có giáo lý, cơ cấu và nghi thức. Là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh những điều kiện xã hội nhất định của đời sống con người và tạo ra niềm tin vào các lực lượng siêu tự nhiên. Niềm tin tôn giáo đối với sự tồn tại thực tế của các lực lượng siêu tự nhiên thường không cần chứng minh, không được phép tranh cãi hay nghi ngờ. II. Vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội 1. Mặt tích cực của tôn giáo 1.1. Khuyên con người sống hướng thiện thông qua giáo lý. Mỗi tôn giáo đều có một giáo lý riêng, đây là cơ sở để phân biệt tôn giáo này với tôn giáo khác. Giáo lý là một khái niệm phản ánh tập hợp những quan niệm, ý tưởng, khuyến nghị, khuyến cáo chỉ rõ những nội dung cơ bản của một tôn giáo nhất định. Ví dụ: Phật giáo cho rằng con người không phải do Thượng đế hay đấng tối cao nào sinh ra. Con người cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác trong vũ trụ đều tuân theo quy luật sinhtrụdịdiệt. Con người sinh ra bởi “nhân – duyên” kết hợp, nghĩa là khi nhân gặp duyên sẽ tạo ra quả, quả lại nhân lên để có đủ duyên và sẽ tạo thành quả mới. Vì vậy, quan niệm của người Việt trong hôn nhân: Duyên số, duyên trời định… Điều này cứ phát triển không ngừng. Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 4
- Giáo lý Phật giáo có thuyết luân hồinghiệp báo, giải thích rằng con người sau khi chết chịu nghiệp báo luân hồi, con người sống ở kiếp này phải chịu quả báo về những việc họ làm ở kiếp trước. Do đó mọi hành vi thiện ác, dù nhỏ bé cũng không thể tránh khỏi nghiệp báo luân hồi… Vì vậy trong nhận thức của người Việt sống phải tu nhân tích đức để phúc cho con cháu, làm nhiều việc thiện để được đầu thai làm người ở kiếp khác, làm nhiều điều ác sẽ không được đầu thai làm người và bị đày xuống 12 tầng địa ngục (Đời cha ăn mặn, đời con khát nước…). Mọi sự tồn tại của con người đều là khổ đau và muốn đạt đến sự bình an về tinh thần, Phật giáo phủ nhận mọi hình thức vui thú vật chất, thủ tiêu các ham muốn vật chất hay thể xác. Trong Cơ Đốc giáo, giới răn yêu thương được xem là nền tảng. Con người trước hết phải yêu Thiên Chúa rồi yêu thương đến bản thân mình. Đây là cơ sở để thực hiện tình yêu tha nhân. Kinh thánh khuyên con người phải yêu chồng vợ, cha mẹ, con cái, anh em, làng xóm, cộng đồng... Những điều mà Kinh thánh răn cấm cũng rất cụ thể: không giết người, không lấy của người, không nói sai sự thật, không ham muốn chồng hoặc vợ của người, không làm chứng giả để hại người... Ngoài ý nghĩa đức tin vào cái siêu nhiên (Thượng Đế, Chúa), những chuẩn mực, quy phạm đạo đức ấy hướng con người đến điều thiện, tránh xa điều ác. Theo niềm tin của tín đồ Cơ Đốc giáo, Chúa phục sinh là bằng chứng về việc Người là con Thiên Chúa, Người được phái đến để giải phóng xã hội loài người. Con người không chỉ là bề tôi của Chúa, kẻ được cứu rỗi mà là con của Chúa, do vậy con người có bổn phận noi gương Chúa trong tình yêu cuộc sống, tình yêu đồng loại, con người phải sống thánh thiện và đạt đến cuộc sống vĩnh hằng. Cũng giống Cơ Đốc giáo, Hồi giáo tin rằng có địa ngục, thiên đàng và ngày phán xét, mọi người có trách nhiệm giải thích trước thánh Alah về những việc làm Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 5
- của mình trên trần thế. Tín đồ Hồi giáo cũng thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ đức tin, chống lại mọi đe dọa và trong một số trường hợp, giáo lý này của Hồi giáo được sử dụng để biện minh cho các cuộc Thánh chiến. Do Thái giáo cũng không hướng đến thế giới bên kia mà xem quá khứ là nguồn hướng dẫn hiện tại và tương lai. Người Do Thái phục tùng ý Chúa bằng cách thực hiện đầy đủ tinh thần cũng như lời văn của Thánh thư thì một ngày kia, Chúa sẽ phái sứ giả mang thiên đàng xuống trái đất. Những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về niềm tin, rất xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung khuyên thiện. Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn giáo là, ngoài những điều phù hợp với tình cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua tình cảm tín ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng. Hoạt động hướng thiện của con người được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn. Đặc biệt, đạo đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái siêu nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh Alah) và sau này, Đức Phật cũng được thiêng hóa, nên các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi, giữa cái thực và cái thiêng đã mang lại cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín đồ khá mạnh mẽ. 1.2. Vai trò đối với chính trị, xã hội Tôn giáo góp phần tạo mối liên kết trong xã hội: Tôn giáo có các giá trị, tiêu chuẩn của nó, vì thế những người có cùng một tôn giáo gắn bó với nhau hơn nhờ những giá trị và tiêu chuẩn chung ấy. Thể hiện khả năng liên hệ giữa những người có chung một tín ngưỡng. Sự liên hệ (giao tiếp) Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 6
- được thực hiện chủ yếu trong hoạt động thờ cúng, sự giao tiếp với thánh thần được coi là sự giao tiếp tối cao. Ngoài mối liên hệ giao tiếp trong quá trình thờ cúng, giữa các giáo dân còn có sự giao tiếp ngoài tôn giáo như liên hệ kinh tế, liên hệ cuộc sống hàng ngày, liên hệ trong gia đình... Những mối liên hệ ngoài tôn giáo có thể lại củng cố, tăng cường các mối liên hệ tôn giáo của họ. Ví dụ: Từ xã hội nguyên thủy, những thành viên của xã hội đã có chung một vật tổ biểu hiện hữu hình của sự gắn kết. Ngày nay, tất cả những đồng tiền giấy của nước Mỹ đều in dòng chữ: Chúng con tin tưởng tuyệt đối vào Chúa hàm ý sự đoàn kết tập thể dựa trên niềm tin Tôn giáo. Dẫu đó là Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo hay Do Thái giáo, cũng đều cung cấp cho người ta ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống của họ. Nó mang đến cho họ những giá trị tối hậu và những cùng đích nào đó để giữ họ chung lại với nhau. Trong những lúc khủng hoảng hay hỗn loạn, tôn giáo cũng giúp cho con người gắn bó với nhau hơn. Tôn giáo góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân: Tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn mực, những giá trị nhằm điều chỉnh hành vi của những con người có đạo. Những hành vi được điều chỉnh ở đây không chỉ là những hành vi trong thờ cúng mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày trong gia đình cũng như ngoài xã hội của giáo dân. Vì vậy, hệ thống chuẩn mực, giá trị trong lý thuyết đạo đức và xã hội mà tôn giáo tạo ra đã ảnh hưởng quan trọng đến mọi hoạt động của con người. Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Do tôn giáo là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã góp phần chế ngự các hành vi phi Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 7
- đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết. Tôn giáo giúp xoa dịu những đau khổ của con người: Dù ít hay nhiều, con người thường phải đối mặt với khó khăn, hiểm nguy, thất bại, thiên tai, bệnh tật, cái chết của những người thân thuộc, yêu quý và cái chết của chính bản thân mình. Trong những lúc như thế, cuộc sống rất dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm tin tôn giáo giúp cho con người khó bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Một số tôn giáo còn cung cấp cho con người những biện pháp như cầu nguyện, cúng bái thần linh trong niềm tin rằng những việc làm như vậy sẽ giúp cải thiện tình hình. Trên góc độ khác, tôn giáo còn cho con người một cứu cánh trong bất hạnh đó là coi bất hạnh ấy là ý của Đấng thiêng liêng và có một ý nghĩa nào đấy mà con người không nhận thức được. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu của nhà xã hội học người MỹPeter Berger nêu rằng khi đối mặt với những đe dọa như tai họa hay cái chết, sức mạnh hỗ trợ của niềm tin thần thánh hay sự thiêng liêng giảm đi rất nhiều nếu con người xem thần thánh đơn thuần chủ yếu là công cụ để giải quyết bi kịch. Tôn giáo gắn với chính trị: Tôn giáo ra đời với tư cách là một thực thể xã hội, có mối quan hệ mật thiết với chính trị và ngược lại, chính trị luôn tìm cách chi phối, lợi dụng tôn giáo phục vụ cho mục đích và lợi ích của các tập đoàn thống trị. + Tôn giáo có vai trò thúc đẩy xã hội phát triển: Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, tôn giáo có lúc là chỗ dựa cho các thế lực chính trị. Tuy nhiên không phải nền chính trị nào chi phối tôn giáo đều làm tăng tính tiêu cực của nó. Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 8
- Lịch sử chứng minh, trong thời kỳ nhất định có nhiều dân tộc sử dụng tôn giáo vào mục đích chính trị, song đó là thời kỳ phát triển thịnh vượng của dân tộc. Ví dụ: Thời LýTrần ở Việt Nam khi Phật giáo trở thành quốc giáo. Các nhà vua thời LýTrần thâm nhập, thấu rõ giáo lý nhà Phật và đưa ra chính sách an dân, trị nước. Muốn thái bình, thịnh trị phải trau dồi đạo đức, vị tha, triết lý sống nhập thế trên tinh thần “từ, bi, hỉ, xả” của đạo Phật. Giáo lý này được phổ biến trong dân chúng giúp con người hướng đến ChânThiệnMỹ. Các vị vua thời này đã dùng chính sách trị dân có tính khoan hồng kết hợp với pháp trị. Ví như Vua Lý Công Uẩn khi lên ngôi đã hủy bỏ mọi cực hình trong ngục, xây dựng nhiều chùa mới trong nước; hay như Lý Thánh Tông cũng được xem là vị vua anh minh, đức độ… Vì vậy, thời LýTrần tồn tại lâu dài với trên 400 năm (nhà Lý tồn tại 200 năm (10101225); nhà Trần tồn tại 200 năm (12261400) với sự phát triển rực rỡ của văn hóa, kinh tế, xã hội… Những nghiên cứu của Max Weber về giáo phái Calvin của đạo Tin Lành đã dẫn đến kết luận tôn giáo có tác dụng thúc đẩy xã hội. Các cải cách của Tin Lành đã dẫn đến việc duy lý hóa xã hội, con người thay vì chấp nhận số mệnh và hướng về đời sống sau khi chết theo truyền thống, phải đạt tới cuộc sống thịnh vượng, phải phấn đấu để thành công bằng mọi nỗ lực để thực hiện hoạch định của Chúa. Weber cho rằng chính vì thế chủ nghĩa tư bản hình thành vững chắc ở những nơi mà giáo phái Calvin phát triển mạnh, thậm chí còn gọi tinh thần của tôn giáo này là cốt tủy của chủ nghĩa tư bản. + Tôn giáo thúc đẩy tính tuân thủ xã hội và qua đó duy trì sự ổn định: Trong một giai đoạn nhất định nó có tác dụng kiện toàn các định chế và trật tự xã hội như một tổng thể, duy trì hiện trạng của xã hội. Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 9
- Chẳng hạn: Trong thời Xuân Thu Chiến Quốc và qua các triều đại sau ở Trung Quốc có nhiều thuyết về cai trị đất nước, song có hai thuyết lớn: Thuyết nhân trị và thuyết pháp trị. Thuyết nhân trị xuất phát từ Nho giáo, nhà cầm quyền phải có đủ tài đức, lấy đạo đức mà giáo hóa nhân dân, rõ ràng đạo đức theo Nho giáo là phương tiện chủ yếu để cai trị đất nước. 1.3. Vai trò trong sáng tạo, bảo vệ và tôn tạo các giá trị văn hóa, nghệ thuật Tôn giáo là cảm hứng của những sáng tạo văn hóa, nghệ thuật: Có người ví toàn bộ giá trị văn hóa nhân loại như một tảng băng, phần nổi của những không tôn giáo, phần chìm là của những người theo tôn giáo hoặc có niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo, cảm xúc tôn giáo, đạo đức tôn giáo một khi được hình thành trở thành động lực thúc đẩy con người bộc lộ lòng nhiệt thành của mình qua các công trình kiến trúc, hội họa. Ví dụ: kiến trúc các chùa chiền Phật giáo, nhà thờ của Công giáo… Thúc đẩy con người bảo vệ và tôn tạo các di tích, di sản tôn giáo cũng như các lễ hội tôn giáo mang ý nghĩa tích cực: Việc bảo vệ, tôn tạo các di sản văn hóa của Liên Hiệp Quốc cũng như của các quốc gia, trong đó có các di sản liên quan đến tôn giáo (Đền Ăngcovat ở Campuchia, quần thể các chùa chiềng ở Thái Lan, Tòa thánh Vatican, Đền Tatmaha Ấn Độ…) là sự thừa nhận những đóng góp của tôn giáo đối với đời sống con người. Tôn giáo là một phần tài sản văn hóa của nhân loại: Do tôn giáo có sự đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, lan truyền trên bình điện thế giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 10
- con người, mà còn có vai trò chuyển tải, hoà nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư cách một bộ phận của ý thức hệ, tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần. Tôn giáo còn góp phần tạo dựng nếp sống cộng đồng mang tính nhân văn. Điều đó thể hiện ở chỗ, trong quá trình hình thành, tôn giáo nào cũng xây dựng cho mình một hệ giá trị đạo đức mang tính hướng thiện. Đây là một trong những lý do để tôn giáo có sức lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân. Hình thành những giá trị văn hoá phi vật thể: lễ hội, phong tục, lối sống, tập quán 1.4. Vai trò trong bảo tồn nòi giống: Giáo lý một số tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo…. Có vai trò to lớn trong duy trì nòi giống, không cho phép người cùng họ hay cùng huyết thống lấy nhau 2. Một số hạn chế của tôn giáo. 2.1. Tôn giáo ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị, xã hội Góp phần vào sự căng thẳng giữa các nhóm hoặc các quốc gia: Tôn giáo thúc đẩy tính tuân thủ xã hội và qua đó duy trì sự ổn định. Nhưng tôn giáo không những là định chế xã hội duy nhất có chức năng tích hợp tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc... mà còn là chất keo gắn kết những thành viên của một xã hội. Khi sự "rối loạn chức năng" xảy ra, đó là lúc tôn giáo góp phần vào sự căng Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 11
- thẳng, thậm chí xung đột giữa các nhóm hoặc giữa các quốc gia với nhau. Thời Trung Cổ, niềm tin tôn giáo thúc đẩy tín đồ Cơ Đốc châu Âu tổ chức thành những đạo quân Thập tự chống lại tín đồ Hồi giáophương Đông. Ngày nay, mâu thuẫn giữa các tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo cũng góp phần vào sự bất ổn định chính trị của khu vực Trung Đông hay căng thẳng giữa các tín đồ Tin Lành với Thiên Chúa giáo ở Bắc Ireland; giữa các tín đồ Ấn Độ giáo với đạo Sikh ở Ấn Độ... Tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần. Nhưng bên cạnh đó cũng đưa đến sự tốn kém, mất thời gian cho những lễ hội, cúng bái… của những tín đồ quá sùng đạo hoặc một số cá nhân, tổ chức… lợi dụng tôn giáo để trục lợi riêng, hoặc làm mất vẻ đẹp cảnh quan do tổ chức lễ hội Chính trị lợi dụng tôn giáo vì mục đích không lành mạnh làm tăng tính tiêu cực của nó. Tôn giáo tồn tại song song với chính trị, nếu giai cấp thống trị sử dụng tôn giáo một cách hợp lý, phát huy những mặt mạnh của nó sẽ có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển. Nếu ngược lại, giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo bỏ vệ quyền lợi của giai cấp mình thì mặt tiêu cực của tôn giáo sẽ nhân lên. Ví dụ: Thời kỳ Trung Cổ (Thế kỷ XIIIXVII), công giáo chi phối can thiệp vào văn hóa, nhận thức, quyết định chế độ xã hội của các nước Châu Âu; khoa học địa lý không phát triển trong thời gian dài, Galileo đã bị giáo hội bắt từ bỏ Thuyết Nhật tâm. Thời kỳ này, chính trị kết hợp với tôn giáo bóc lột nhân dân, tạo ra đẳng cấp trong xã hội. (Đây là thời kỳ gọi là “Đêm trường Trung cổ” thời kỳ đen tối nhất trong văn hóa, nhận thức của Châu Âu). Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 12
- Trong lịch sử, tôn giáo thường đi song song với chính trị. Các hoàng đếTrung Quốc lấy căn cứ quyền của họ từ Thiên mệnh. Giáo hội Công giáo Rôma đã thống trị phần lớn châu Âu cho đến cuộc Cải cách Tin lành… Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, không có giai cấp bóc lột nào không lợi dụng tôn giáo bằng cách này hay cách khác, mức độ này hay mức độ khác. Có thể nói, trong xã hội có giai cấp, tôn giáo luôn luôn và bao giờ cũng bị chính trị lợi dụng. 2.2. Tôn giáo ảnh hưởng đến nhận thức của con người Giáo lý tôn giáo làm cho các tín đồ quên đi hiện thực, sống hư ảo, không đấu tranh trong hiện thực… là một trong những lực cản sự phát triển của con người và xã hội Về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế giới quan tiêu cực. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người, nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên đường của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa và trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa quỷ dữ. Đề cao cuộc sống hạnh phúc ở cõi niết bàn, Thiên đàng làm tê liệt ý chí đấu tranh cho hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại. Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 13
- Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không đề cao cuộc sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh nô lệ, biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn giáo không phải là của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào đam mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp. C.Mác gọi "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” là theo nghĩa đó cũng vì vậy, đạo đức tôn giáo đối lập với đạo đức chân chính. Theo quan điểm duy xung đột, đặc biệt là của Mác, tôn giáo ngăn cản sự biến đổi xã hội bằng cách khuyến khích những người bị áp bức vào các quan tâm ở thế giới khác, thay vì vào sự đói nghèo, hay sự bóc lột đang hiện diện. Tôn giáo giữ nguyên cấu trúc bất bình đẳng của nó cũng như củng cố lợi ích của tầng lớp thống trị. Ví dụ :Thiên Chúa giáo dạy con người sự vâng lời và như vậy rất có thể nó làm cho những người bị áp bức không chống lại; hay hệ thống đẳng cấp ở Ấn Độđịnh hình cấu trúc xã hội của đại đa số người theo Ấn Độ giáo; những người cầm quyền thường viện dẫn tôn giáo để thực hiện quyền kiểm soát xã hội... Đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với tính cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con người. Do vậy, muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân, không thể tách nó khỏi những điều kiện sinh họat vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của con người. C. Mác đã khẳng định rằng, "bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội" và Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 14
- nhân cách con người cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong các mối quan hệ xã hội mà thôi. 2.3. Góp phần kìm hãm sản xuất Trong lịch sử nhân loại, tôn giáo đã từng ủng hộ quan hệ kinh tế này hay phá bỏ quan hệ kinh tế khác. Nghi lễ, giáo lý của tôn giáo cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất. Ví dụ: Đạo Hồi kiêng ăn thịt lợn, Đạo Bàlamon kiêng ăn thịt bò, …. ảnh hưởng đến cơ cấu ngành chăn nuôi. Ở Ấn Độ, đàn trâu rất lớn nhưng có một số lượng lớn trâu già, người Ấn theo Hindu coi trâu là con vật linh thiêng nên không giết trâu. Tháng ăn chay Ramadan của người Hồi Giáo không ăn thịt cá, nên kìm hãm sản xuất lương thực. III. Quá trình phát triển của Tôn giáo. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Đặc điểm quan trọng trong ý thức tôn giáo là một mặt nó phản ánh tồn tại xã hội. Mặt khác, nó lại có xu hướng phản kháng lại xã hội đã sản sinh ra và nuôi dưỡng nó. Vì vậy, từ khi ra đời đến nay, cùng với sự biến đổi của lịch sử, tôn giáo cũng biến đổi theo. Với những thành tựu to lớn của ngành khảo cổ học, người ta đã chứng minh được sự tồn tại của con người cách đây hàng triệu năm (từ 4 – 6 triệu năm). Tuy nhiên, với những hiện vật thu được người ta khẳng định: có đến hàng triệu năm con người không hề biết đến tôn giáo. Bởi vì tôn giáo đòi hỏi tương ứng với nó là một trình độ nhận thức cao, nó là sản phẩm của tư duy trừu tượng trong một đời sống xã hội ổn định. Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 15
- Hầu hết trong giới khoa học đều thống nhất rằng chỉ khi con người hiện đại – người khôn ngoan (Homo Sapiens) – hình thành và tổ chức thành xã hội, tôn giáo mới xuất hiện. Thời kỳ này cách đây khoảng 95.000 – 35.000 năm. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu mới chỉ là các tín hiệu đầu tiên. Đa số các nhà khoa học đều khẳng định tôn giáo ra đời khoảng 45.000 năm trước đây với những hình thức tôn giáo sơ khai như đạo Vật tổ (Tôtem), Ma thuật và Tang lễ… đây là thời kỳ tương ứng với thời kỳ đồ đá cũ. Bước sang thời kỳ đồ đá giữa, con người chuyển dần từ săn bắt, hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi, các hình thức tôn giáo dân tộc ra đời với sự thiêng liêng hóa các nguồn lợi của con người trong sản xuất và cuộc sống: thần Lúa, thần Khoai, thần Sông… hoặc tôn thờ các biểu tượng của sự sinh sôi (thờ giống cái, hình ảnh phụ nữ, phồn thực…), đó là các vị thần của các thị tộc Mẫu hệ. Khi đồ sắt xuất hiện, các quốc gia dân tộc ra đời nhằm mục đích phục vụ cho sự củng cố và phát triển của dân tộc. Tất cả các vị thần ấy còn tồn tại chừng nào dân tộc tạo ra vị thần ấy còn tồn tại và khi dân tộc tiêu vong, các vị thần ấy không còn nữa. Trong thời kỳ văn minh nông nghiệp, nhiều đế chế ra đời và thâu tóm vào mình nhiều quốc gia. Do nhu cầu một tôn giáo của đế chế, những tôn giáo như Phật, Nho, Kitô, Hồi… đã xuất hiện từ trước trở thành tôn giáo của đế chế và được chấp nhận như một tôn giáo chính thống. Theo thời gian, do nội dung của các tôn giáo mang tính phổ quát, không gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các vị thần cụ thể, với nghi thức cụ thể của một cộng đồng tộc người, dân tộc hay địa phương nhất định nên sự bành trướng của nó diễn ra thuận lợi, dễ dàng thích nghi với các dân tộc khác. Do vậy, dù được phổ biến bằng cách nào (chiến tranh hay hòa bình), các tôn giáo đó đã được các quốc gia bị lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác tiếp nhận và trên nền tảng của tôn giáo truyền thống, biến đổi thành Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 16
- tôn giáo riêng của quốc gia đó. Sự bành trướng kiểu như vậy diễn ra trong suốt thời kỳ văn minh công nghiệp và cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên cũng cần phải chú ý rằng, giữa tôn giáo khu vực hay tôn giáo thế giới vừa chung sống cạnh nhau, vừa tranh chấp xung đột nhau và không ít trường hợp, với sự ủng hộ của các thế lực quân sự, chính trị, chiến tranh tôn giáo đã xảy ra. Những tôn giáo như Kitô, Hồi do tính cực đoan của mình (chỉ coi chúa hay thánh của mình là đối tượng tôn thờ duy nhất) nên ban đầu đi đến đâu cũng khó chung sống với các tôn giáo khác đã có mặt ở đó từ trước. Còn một số tôn giáo phương Đông như Nho, Phật thì khác, chúng chấp nhận hòa đồng với các tôn giáo bản địa, có xu hướng trần tục nhiều hơn là thế giới bên kia. Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra một xã hội công nghiệp, xã hội này đòi hỏi phải có một tôn giáo năng động và tự do hơn, khó chấp nhận một tổ chức, một giáo lý với những nghi thức cứng nhắc, phức tạp. Tình trạng độc tôn của một tôn giáo trong một quốc gia đã bắt đầu chấm dứt và chấp nhận sự đa dạng trong đời sống tôn giáo. Từ đây quan niệm và sau là chính sách tự do tôn giáo ra đời, phát triển nhanh hay chậm và thể hiện khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Những yếu tố lỗi thời được huỷ bỏ hoặc tự thay đổi, thay thế để thích nghi. Với xu thế quốc tế hóa ngày càng gia tăng, việc mỗi cá nhân chỉ biết đến tôn giáo của mình đã trở nên lạc hậu. Mỗi người đều rằng trên thế gian có nhiều thánh thần, có nhiều tôn giáo. Họ bắt đầu hoài nghi và lựa chọn, thần thánh được mang ra tranh luận, bàn cãi và làm nảy sinh xu thế thế tục hoá tôn giáo và xu thế này ngày càng thắng thế. Trong thời đại ngày nay, khi mà xu thế toàn cầu hóa đang chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự nâng cao về trình độ học vấn và đặc biệt là những thành tựu của khoa học và công nghệ đã làm cho các tôn giáo ngày càng trở nên thế tục hóa kéo theo sự đa dạng trong đời sống tôn giáo. Từ đây xuất hiện các ý kiến Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 17
- khác nhau trong một tôn giáo và dẫn đến sự chia rẽ trong các tôn giáo một cách có tổ chức, bùng nổ các giáo phái và xuất hiện nhiều tôn giáo mới. Bản thân trong các tôn giáo khu vực và thế giới cũng có những biểu hiện khác trước: số tín đồ ngày càng tăng nhưng số tín đồ thực tế giảm, nghĩa là người ta theo đạo nhưng không hành đạo, nhiều tín đồ bỏ đạo để theo các “đạo mới”. Trong nội bộ các tôn giáo có sự chia rẽ thành những giáo phái với những tính chất cấp tiến, ôn hòa hoặc cực đoan. IV. Phân loại tôn giáo 1. Cơ sở phân loai tôn giao ̣ ́ Cơ sở chủ yếu của việc phân chia này dựa vào sự phổ biến của nó theo lãnh thổ. Ngoài ra có thể còn phân biệt tôn giáo truyền thống (cổ) và tôn giáo hiện nay. Sự khác nhau giữa chúng là ở chỗ: + Niềm tin vào lực lượng thần linh và vào khả năng của con người được lục lượng này hỗ trợ. + Các nghi lễ tôn giáo. + Quan niệm về cuộc sống sau khi chết + Quan niệm về những điều cấm, những vật thần….. Có thể chia ra làm 3 loại hình tôn giáo: + Tôn giáo cổ. + Tôn giáo địa phương (quốc gia) + Tôn giáo thế giới. 2. Các loại hình tôn giáo Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 18
- 2.1. Tôn giáo cổ (thị tộc, bộ lạc): Xuất hiện vào đầu thời kì chiếm hữu nô lệ bao gồm những tín ngưỡng tôtem, đạo bái vật và đạo vật linh. Cho đến nay những hình thức này của tôn giáo vẫn còn tồn tại ở một số bộ lạc thuộc châu Phi nhiệt đới, người Anh điêng ở lưu vực Amazôn, thổ dân châu Úc. Ngoài ra những vết tích của tôn giáo cổ cũng được phát hiện ở một số dân tộc có trình độ phát triển cao hơn. + Tô tem giáo (thờ vật tổ): Tô tem theo ngôn ngữ của thổ dân Bắc Mỹ nghĩa là giống loài. Đây là hình thức tôn giáo cổ xưa nhất, thể hiện niềm tin vào mối quan hệ gần gũi, huyết thống giữa một cộng đồng người (thị tộc, bộ lạc) với một loài động thực vật hoặc một đối tượng nào đó. Tô tem giáo thể hiện hình thức nhận biết đầu tiên về mối liên hệ của con người với các hiện tượng xung quanh. Chẳng hạn: một bộ lạc tồn tại được nhờ săn bắt một loài động vật nào đó dẫn đến xuất hiện một ảo tưởng về mối quan hệ giữa loài vật đó với cộng đồng người săn nó và cuối cùng con vật này lại trở thành tổ tiên chung – là một tô tem của một tập thể nào đó. Ví dụ: người Ai Cập cổ đại thờ cúng sư tử thần, cừu thần, rắn thần, cá sấu thần, ong thần, diều hâu thần,…, không ở đâu mà hình thức thờ cúng động vật lại thịnh hành như ở Ai Cập lúc đó. + Ma thuật giáo: Ma thuật theo tiếng Hi Lạp cổ là phép phù thủy. Đây là biểu hiện của việc người nguyên thủy tin vào khả năng tác động đến tự nhiên bằng những hành động tượng trưng (cầu khấn, phù phép, thần chú…) nghĩa là bằng con đường siêu nhiên. Nhờ các biện pháp ma thuật, người nguyên thủy cố gắng tác động đến những sự kiện và làm cho nó diễn ra theo ý mình mong muốn. Về sau, ma thuật trở thành một thành tố quan trọng không thể thiếu được của các tôn giáo phát triển. Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 19
- Việc thờ cúng của bất kỳ tôn giáo nào cũng phải có ma thuật (cầu nguyện, làm phép…). Tàn dư của ma thuật là các hiện tượng bói toán, tướng số ngày nay. + Bái vật giáo: Bái vật theo tiếng Bồ Đào Nha là bùa hộ mệnh, phép lạ. Bái vật giáo xuất hiện vào lúc mới hình thành tôn giáo và sự thờ cúng. Bái vật giáo đặt lòng tin vào những thuộc tính siêu nhiên của các vật thể như hòn đá, gốc cây, bùa, tượng… Họ cho rằng có một lực lượng siêu nhiên, thần bí trú ngụ trong vật đó. Bái vật giáo là thành tố tất yếu của sự thờ cúng tôn giáo. Đó là sự thờ cúng các tượng gỗ, cây thánh giá… hoặc lòng tin vào sức mạnh kỳ quái của các lá bùa… + Vật linh giáo: Là hình thức tôn giáo xuất hiện muộn hơn, khi mà ý thức của con người đã đủ khả năng hình thành nên những khái niệm. Vật linh giáo là lòng tin ở linh hồn. Lòng tin này là cơ sở quan trọng để hình thành nên quan niệm về cái siêu nhiên của người cổ xưa. Giai đoạn này đã có ảo tưởng cho rằng có hai thế giới: một thế giới tồn tại thực sự và một thế giới siêu nhiên, trong đó thế giới siêu nhiên thống trị thế giới thực tại. Thế giới siêu nhiên này của người nguyên thủy cũng đầy đủ động vật, thực vật, các đối tượng do tinh thần tưởng tượng ra và không khác biệt gì lắm so với thế giới thực tại. Bước sang thời kỳ đồ đá giữa, con người chuyển dần từ săn bắt, hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi, các hình thức tôn giáo dân tộc ra đời với sự thiêng liêng hóa các nguồn lợi của con người trong sản xuất và cuộc sống: thần Lúa, thần Khoai, thần Sông… hoặc tôn thờ các biểu tượng của sự sinh sôi (thờ giống cái, hình ảnh phụ nữ, phồn thực…), đó là các vị thần của các thị tộc Mẫu hệ. Khi đồ sắt xuất hiện, các quốc gia dân tộc ra đời nhằm mục đích phục vụ cho sự củng cố và phát triển của dân tộc. Tất cả các vị thần ấy còn tồn tại chừng nào dân tộc tạo ra vị thần ấy còn tồn tại và khi dân tộc tiêu vong, các vị thần ấy không còn nữa. Địa lý tôn giáo Nhóm 1 LL và PPDH Địa lý 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài tiểu luận: Ảnh hưởng của dân tộc và tôn giáo đến bản đồ chính trị thế giới
38 p | 509 | 40
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay - lý luận và thực tiễn (Qua khảo sát tại tỉnh Ninh Bình)
32 p | 117 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
115 p | 47 | 19
-
Đề tài: “Lý luận về địa tô của C.Mac”
38 p | 149 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Sự thực hành nghi lễ tôn giáo của người công giáo nhập cư tại Hà Nội hiện nay
140 p | 52 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
26 p | 44 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
105 p | 19 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
130 p | 41 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền cho cán bộ cơ sở làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
92 p | 43 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Tổ chức quản lý hoạt động giáo dục văn hóa địa phương thông qua di sản văn hóa phi vật thể hát Xoan cho học sinh trong các trường trung học cơ sở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đáp ứng Chương trình giáo dục phổ thông mới
169 p | 33 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động của các hội đoàn tôn giáo trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
115 p | 42 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kiểm soát và Bảo vệ môi trường: Thực trạng quản lý và sử dụng đất của các cơ sở tôn giáo tại tỉnh Quảng Bình
94 p | 36 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động của các hội đoàn tôn giáo trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
27 p | 26 | 5
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp khoa Quản lý văn hóa: Tìm hiểu về vai trò của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay
8 p | 71 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
26 p | 8 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk
26 p | 7 | 4
-
Đề án tốt nghiệp Quản lý công: Phát huy vai trò của đạo Công giáo trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
74 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn