TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014<br />
<br />
<br />
ĐỀ TÀI ĐIỆN BIÊN PHỦ<br />
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM 1954 - 1975<br />
<br />
PHẠM NGỌC HIỀN (*)<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đề tài Điện Biên Phủ được thể hiện khá nhiều trong văn học nghệ thuật. Trong văn<br />
học Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, đã có 9 tiểu thuyết về đề tài này. Hầu hết điều là<br />
những tài liệu lịch sử quý giá, cung cấp cho bạn đọc nhiều tài liệu bổ ích về cuộc chiến<br />
Điện Biên. Ngoài ra, một số tác phẩm còn có giá trị nghệ thuật cao, có vị trí vẻ vang trong<br />
dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.<br />
Từ khoá: Điện Biên Phủ, tiểu thuyết, văn học cách mạng.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
Dien Bien Phu is one of the most favorite topics in Vietnamese literature and art. In<br />
the 1954-1975 period, there are 9 novels about this topic. Most of them are valuable<br />
historical documents, providing readers with useful information about the battle of Dien<br />
Bien Phu. In addition, some of these works have high artistic value, and high position in<br />
the stream of modern Vietnamese novels.<br />
Keywords: Dien Bien Phu, novel, revolutionary literature.<br />
<br />
Điện Biên Phủ là sự kiện l ch sử lớn, phẩm viết về đề tài này nhiều nhất. Truyện<br />
không chỉ có ý nghĩa quan trọng ở Việt ngắn có số lượng ít hơn nhưng cũng có tới<br />
Nam mà còn trên cả thế giới. Nó không chỉ hàng trăm tác phẩm. Do dung lượng khiêm<br />
là đ a hạt khai thác vô tận cho các nhà tốn nên truyện ngắn chỉ phản ánh một lát<br />
nghiên cứu l ch sử mà còn là một đề tài rất cắt nhỏ của trận chiến. Muốn tìm hiểu một<br />
quen thuộc trong văn học nghệ thuật. Đã có cách đầy đủ chiến d ch Điện Biên, người ta<br />
rất nhiều tác phẩm ca k ch, hội hoạ, điêu thường tìm đến tiểu thuyết.<br />
khắc, phim ảnh… khai thác đề tài Điện Trong số 180 tiểu thuyết cách mạng<br />
Biên Phủ. Nhưng có lẽ nó được tái hiện Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, có<br />
một cách đầy đủ, chân thực và sinh động khoảng 9 tác phẩm viết về đề tài Điện Biên<br />
nhất trong các tác phẩm văn chương, nhất Phủ. Ta có thể chia làm hai loại lớn: Một là<br />
là tiểu thuyết.* những tác phẩm miêu tả trực tiếp chiến<br />
1. KHẢO SÁT CÁC TIỂU THUYẾT VỀ trường, tức là miêu tả từ điểm nhìn bên<br />
ĐỀ TÀI ĐIỆN BIÊN PHỦ ngoài của nhân vật, như Người người lớp<br />
Điện Biên Phủ là một trong những đề lớp, Cao điểm cuối cùng, Truyện một<br />
tài lớn của văn chương. Trong các thể loại người bị bắt, Trong này Điện Biên, Dòng<br />
văn chương, thơ và kí chiếm số lượng tác sông v.v... Thứ hai là những tác phẩm miêu<br />
tả gián tiếp chiến trường. Đó là hoạt động<br />
()<br />
TS, Trường Đại học Sài Gòn. của hậu phương tiếp vận cho tiền tuyến<br />
<br />
41<br />
như Chiến đấu sau hoả tuyến, Thồ lên Điện hơn, toàn diện hơn và được giới phê bình<br />
Biên, Đằng sau phía trước v.v. Hoặc miêu ưu ái hơn do cuộc đời Hữu Mai ít thăng<br />
tả chiến trường thông qua hồi ức của các trầm hơn Trần Dần.<br />
chiến sĩ Điện Biên như Bốn năm sau… Năm 1962, Lê Khánh, Phan Đình<br />
Ngoài ra, chưa kể đến hàng loạt tiểu thuyết Huyền công bố tiểu thuyết Trong này Điện<br />
khác có nhắc đến Điện Biên Phủ nhưng Biên nói về cuộc sống khổ cực của người<br />
không xem nó như một đề tài chính trong dân Điện Biên trong vòng kiểm soát của<br />
tác phẩm. Pháp. Đằng sau phía trước (1974) của<br />
Tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài Điện Hoàng Minh Châu là cuốn tiểu thuyết cuối<br />
Biên Phủ là Người người lớp lớp của Trần cùng về đề tài Điện Biên trong bộ phận tiểu<br />
Dần. Tác phẩm được viết ngay sau khi thuyết cách mạng Việt Nam thời chiến<br />
chiến d ch kết thúc. Tập I được in cuối năm tranh. Dĩ nhiên, đề tài Điện Biên Phủ vẫn<br />
1954, tập II và III được in vào năm 1955, tiếp tục chảy trong tiểu thuyết Việt Nam<br />
tổng cộng 239 trang. Nếu cho rằng các tác sau 1975 nhưng nó là đối tượng khảo sát<br />
phẩm Xung kích (1951), Vùng mỏ (1951), của một công trình nghiên cứu khác.<br />
Con trâu (1952) chỉ là truyện vừa hoặc 2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA CÁC TIỂU THUYẾT<br />
truyện kí thì Người người lớp lớp là cuốn VỀ ĐỀ TÀI ĐIỆN BIÊN PHỦ<br />
tiểu thuyết đầu tiên của văn học cách mạng Nhiều nhà văn quan niệm tiểu thuyết là<br />
Việt Nam. tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống.<br />
Cũng trong năm 1955, bạn đọc còn Bởi vậy, họ cố gắng miêu tả chân thực các<br />
đón nhận thêm một tiểu thuyết khác về đề sự kiện l ch sử. Tuy nhiên, cách phản ánh<br />
tài Điện Biên là Dòng sông của Nguyễn hiện thực của tiểu thuyết không khô khan<br />
Chân. Tác phẩm lồng ghép nhiều đề tài, như trong kí hoặc các công trình sử học.<br />
trong đó có chiến d ch Điện Biên và miêu Hiện thực trong tiểu thuyết đã được hư cấu,<br />
tả cả thân phận người lính thời hậu chiến. nhào nặn lại theo ý đồ sáng tạo của tác giả.<br />
Năm 1957, có hai tiểu thuyết về đề tài này. Nhiều nhà văn cách mạng thường có xu<br />
Thồ lên Điện Biên của Đào Phương miêu tả hướng tô hồng hiện thực theo kiểu ta tốt -<br />
cảnh dân công Thanh Hoá phục vụ chiến đ ch xấu, ta dũng cảm - đ ch hèn nhát, ta<br />
trường Điện Biên. Truyện một người bị bắt tổn thất ít - đ ch tổn thất nhiều… Nhưng<br />
của Vũ Cao nói về thân phận của các tù những thiếu sót này đã được khắc phục<br />
binh Việt Minh b đ ch bắt giam trong lòng trong một số tiểu thuyết về đề tài Điện<br />
chảo Điện Biên. Biên Phủ.<br />
Bốn năm sau (1959) của Nguyễn Huy Trong Cao điểm cuối cùng, Hữu Mai<br />
Tưởng miêu tả hai sắc màu Điện Biên đã tái hiện thành công một không gian<br />
trong chiến tranh và hòa bình. Tác phẩm chiến trường khốc liệt và sinh động bậc<br />
phản ánh hoạt động khai phá đất hoang xây nhất trong văn học Việt Nam. Tính khốc<br />
dựng kinh tế mới của các chiến sĩ Điện liệt của cuộc chiến được thể hiện qua sức<br />
Biên. Năm 1961, Hữu Mai công bố cuốn mạnh vũ khí của quân Pháp: “Chúng còn<br />
tiểu thuyết hay nhất về đề tài Điện Biên dựng lên cả một hàng rào lửa trước vị trí.<br />
Phủ là Cao điểm cuối cùng. Mặc dù có Cả thung lũng Mường Thanh sôi lên ầm<br />
nhiều điểm giống với Người người lớp lớp, ầm”, “Khúc hoà tấu rầm rộ ầm ầm như<br />
nhưng Cao điểm cuối cùng có cái nhìn sâu động biển của các cỡ pháo lớn”,“Không<br />
<br />
42<br />
gian rung rinh vì tiếng máy bay”. Trước sự dẫn ở những trang văn bừng bừng khí thế<br />
liều chết cố thủ của đ ch, quân đội Việt chiến đấu. Các chiến sĩ Việt Minh dũng<br />
Minh b tổn thất nặng nề. Có lẽ chưa có cảm lao mình trong “thác lửa rừng khói”,<br />
cuốn tiểu thuyết nào trong văn học Việt “rừng bom lửa”, “biển khói lửa”, “trận<br />
Nam đã mạnh dạn miêu tả tổn thất của bộ mưa sắt lửa”. Đôi lúc, tác giả cũng hơi<br />
đội như tác phẩm này: “Dưới chiến hào, “phóng đại” sự khốc liệt của chiến trường,<br />
thương binh tử sĩ chặt như nêm”, “Những nhưng có thể chấp nhận được vì nó có tác<br />
xác chết xám đen, chương nứt không còn dụng tô đậm khí thế chiến đấu của binh sĩ.<br />
ra hình người, nằm ngổn ngang khắp Trong văn học Việt Nam, khó tìm được<br />
nơi”,“Họ đưa tay lên xoa mặt tưởng là bị những câu văn miêu tả chiến trận hùng<br />
bùn đánh bắn vào, chợt nhận ra đấy chỉ là tráng như thế này: “Cả miền khu đông sát<br />
mảnh thi thể nát vụng của bạn đồng đội”. khí đằng đằng”,“quân ta chạy như<br />
Khi nguồn bộ đội chủ lực cạn kiệt, các sĩ bão”,“xô lên như biển động”,“Quân ta<br />
quan huy động cả vệ binh, vận tải, cấp đánh náo động cả lên, hai mũi cứ dọc<br />
dưỡng, nhân viên văn phòng… tiếp tục ngang vùng vẫy, diệt một toán, lại diệt tiếp<br />
chiến đấu để giành thắng lợi. sang toán khác”.“Lửa chớp hung dữ,<br />
Giá tr của Cao điểm cuối cùng còn những tiếng nổ như tầm sét đánh (…) Cao<br />
được thể hiện ở cái nhìn khách quan của xạ pháo ta đang đan lửa trên không. Bà<br />
tác giả về cuộc chiến. Để khẳng đ nh sự già rụng, B26 rụng (…) Một cuộc đấu pháo<br />
dũng cảm của Việt Minh, Hữu Mai đã đấu phi cơ kịch liệt, vang trời dậy đất diễn<br />
chứng minh rằng đối thủ của họ cũng ra từ hai tiếng. Trong khi đó, bộ binh bộc<br />
không phải tầm thường. Quân Pháp không phá dấn thân trong mưa lửa đánh phá<br />
chỉ có hoả lực mạnh mà còn có tướng tài. hàng rào Him Lam! Người trước ngã, kẻ<br />
Dưới mắt của binh lính Pháp, De Castries sau xô lên tiếp! Mặc dù đạn xé lửa thiêu,<br />
quả là một anh hùng. Cô hộ lí Đờ Ga-la mặc dù xương tan thịt nát, người người lớp<br />
“giữ một ấn tượng tốt đẹp về vị tướng. Sao lớp xông lên”.<br />
mà ông ta bình thản đến thế, bình thản một Đọc các tiểu thuyết về đề tài Điện<br />
cách lạ lùng. Sao mà một vị tướng lại có Biên, ta không chỉ thấy được cuộc sống<br />
thể giản dị và thân mật với mọi người đến chiến đấu của Việt Minh mà còn cả phía<br />
như thế”. Chính nhờ có cái nhìn khách quân Pháp. Người người lớp lớp và Cao<br />
quan mà Cao điểm cuối cùng chinh phục điểm cuối cùng đều có nhiều trang miêu tả<br />
cả bạn đọc nước ngoài. Trong các công nội bộ phức tạp của Pháp ở Hà Nội,<br />
trình nghiên cứu của mình, nhà sử học Paris… Hữu Mai đứng từ đ a hình Việt<br />
Bernard Fall (Mỹ) thường trích dẫn các Minh phóng tầm nhìn sang hầm De<br />
đoạn văn trong Cao điểm cuối cùng và Castries. Còn Trần Dần cho nhân vật Sâm<br />
nhận đ nh về Hữu Mai: “Nhà trần thuật b đ ch bắt làm tù binh. Qua cái nhìn cận<br />
Việt Minh này không phải là người huênh cảnh của Sâm, toàn bộ cuộc sống phức tạp<br />
hoang” [5]. hỗn độn của phe đ ch hiện ra khá rõ nét.<br />
Nếu như Cao điểm cuối cùng thuyết Cuộc sống của tù binh Việt Minh ở Điện<br />
phục bạn đọc ở cái nhìn khách quan và Biên Phủ cũng được tái hiện trong Truyện<br />
mạnh dạn lột tả tổn thất của cuộc chiến thì một người bị bắt của Vũ Cao. Các tù binh<br />
Người người lớp lớp của Trần Dần lại hấp Lượng, Đang, Nông… đã vận động binh<br />
<br />
43<br />
lính đ ch mở đường cho bộ đội đánh vào họ cũng góp phần vẻ vang làm nên chiến<br />
đại bản doanh của Pháp. Trong nhiều tác thắng Điện Biên. Cậu thanh niên Quy trong<br />
phẩm văn xuôi về đề tài Điện Biên, tác giả Chiến đấu sau hỏa tuyến cũng mơ ước trực<br />
chỉ miêu tả không gian chiến trận trong tiếp cầm súng chiến đấu nhưng không được<br />
phạm vi đồn đ ch. Nhưng tiểu thuyết Trong thỏa nguyện. Cậu đã tiếp sức cho trận đ a<br />
này Điện Biên đã mở rộng đối tượng phản bằng cách tham gia đội xe vận tải chở hàng<br />
ánh. Khái niệm “chiến trường Điện Biên” hóa vượt 4000 cây số đến Điện Biên. Nhờ<br />
bao gồm cả vùng dân cư nhiều dân tộc sinh có sự tiếp viện đầy đủ và k p thời của<br />
sống. Pháp bắt thanh niên người Việt đi những người “sau hoả tuyến”, chiến d ch<br />
lính. Các binh sĩ như Bản, Lương, Khụt, Điện Biên toàn thắng.<br />
Ơng, cai bếp… đã tìm cách làm nội ứng Có thể nói, mỗi cuốn tiểu thuyết đã<br />
cho cách mạng. Như vậy, “Trong này Điện cung cấp một mảng hiện thực khác nhau<br />
Biên” không chỉ có phe đ ch mà còn có cả góp phần làm cho bạn đọc có cái nhìn toàn<br />
phe ta nữa. cảnh về chiến d ch Điện Biên. Ngày nay,<br />
Một số tác phẩm không chỉ miêu tả những trang văn đó vẫn còn tính thời sự<br />
cuộc chiến Điện Biên mà còn phản ánh cả nóng hổi, vẫn cần được tiếp tục khai thác<br />
những hậu quả mà nó để lại. Tiểu thuyết trên nhiều góc độ khác nhau.<br />
Dòng sông có nhiều trang miêu tả khá sinh 3. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA<br />
động trận đánh Điện Biên. Anh bộ đội CÁC TIỂU THUYẾT VỀ ĐỀ TÀI<br />
Lương b cụt mất tay và được cô y tá Na ĐIỆN BIÊN PHỦ<br />
chăm sóc tận tình. Hòa bình lập lại, Tần Giá tr của một tác phẩm văn xuôi<br />
chấp nhận hi sinh tình yêu để Na lấy không chỉ thể hiện ở việc phản ánh chân<br />
Lương và giúp đỡ người thương binh này. thực cuộc sống mà còn thể hiện ở cách viết<br />
Ta cũng gặp một mối tình bộ ba khác trong sinh động, hấp dẫn. Chính giá tr nghệ<br />
Bốn năm sau. Trong một trận đánh, anh bộ thuật sẽ quyết đ nh sự trường tồn của tác<br />
đội Doan cứu cô bé Ngàn thoát khỏi vòng phẩm. Trong số các tiểu thuyết về đề tài<br />
lửa đạn, nay anh trở lại Điện Biên thì Ngàn Điện Biên, mức độ kết tinh nghệ thuật rất<br />
đã thành thiếu nữ. Mẹ của Ngàn muốn gả khác nhau. Sau đây là một số tác phẩm có<br />
cô cho Doan nhưng anh lại vướng vợ ở Hà những điểm đáng ghi nhận về nghệ thuật.<br />
Nội. Anh mai mối Ngàn cho Cường nhưng Tiểu thuyết Bốn năm sau có cái hấp<br />
Cường b vướng mìn cụt chân khi khai dẫn của cốt truyện đầy k ch tính. Thứ nhất<br />
hoang. Những hình ảnh chiến tranh vẫn là mâu thuẫn giữa đ ch và ta trong cuộc<br />
còn đó qua những bãi đất đầy bom mìn và chiến Điện Biên được thể hiện qua dòng<br />
trong vết thương lòng của mỗi người lính. hồi tưởng của các nhân vật. Những quả<br />
Nói đến chiến d ch Điện Biên, ta mìn của thời chiến vẫn nổ trong thời bình<br />
không chỉ nói đến những trận đánh trực làm Cường b cụt chân. Mâu thuẫn thứ hai<br />
diện giữa hai phe mà còn phải kể đến công là mâu thuẫn trong nội bộ những người<br />
việc tiếp vận chiến trường. Hai tiểu thuyết lính trở lại chiến trường xưa. Họ so bì với<br />
Thồ lên Điện Biên và Đằng sau phía trước những người được ở lại Hà Nội êm ấm, họ<br />
miêu tả những khó khăn vất vả của dân chỉ thích cầm súng chứ không thích cầm<br />
công Thanh Hóa chi viện chiến trường. cuốc, nội bộ cãi nhau k ch liệt về phương<br />
Mặc dù không trực tiếp chiến đấu nhưng thức canh tác… Mâu thuẫn thứ ba là sự<br />
<br />
44<br />
trắc trở tình duyên giữa bộ ba Ngàn – Doan hấp dẫn ở những tình tiết xung đột gay cấn<br />
– Đào. Doan đứng trước một tình huống giữa ta và đ ch.<br />
khó xử là nên về Hà Nội đoàn tụ gia đình Trong Người người lớp lớp, ta có thể<br />
hay ở lại Điện Biên xây dựng cuộc sống tìm thấy tất cả các hình thức điệp. Nhiều<br />
mới. Nói chung, dù chiến tranh hay hoà nhất là lặp từ “đi” và lặp các động từ cùng<br />
bình, vẫn còn đó nhiều xung đột gay cấn trường nghĩa chiến đấu, góp phần tạo nên<br />
trên mảnh đất Điện Biên. “không gian động”. Hình tượng lá cờ được<br />
Cao điểm cuối cùng được xây dựng nhắc hơn 150 lần: “Lá cờ phất sang phía<br />
theo nguyên tắc “tam duy nhất” giống như đông: xung kích ở phía đông nổi dậy, xông<br />
sử thi Iliade của Homer. Duy nhất về lên cướp phăng đột phá khẩu! / Lá cờ phất<br />
không gian: đồi A1 thuộc chiến trường về hướng tây: xung kích ở phía tây đã vào<br />
Điện Biên. Duy nhất về thời gian: những đồn, rồn rập đánh diệt các hào, các ụ! / Lá<br />
ngày cuối cùng của năm cuối cùng trong cờ phất sang mũi điểm, mũi điểm thọc<br />
cuộc chiến chống Pháp. Duy nhất về hành mạnh! Phất sang mũi diện, mũi diện xô lên.<br />
động: tấn công đánh chiếm “Cao điểm cuối Lá cờ phất đến đâu, chiến sĩ nổi dậy đến<br />
cùng”. Cao điểm cuối cùng còn hấp dẫn ở đó (…) / Lá cờ vẫn quẫy. Lá cờ quay về<br />
nghệ thuật miêu tả chiến trận. Người ta có hướng nào, xung kích ở hướng đó nổi dậy,<br />
thể cảm nhận chiến trường Điện Biên bằng kẻ địch ở đó tan, những người anh hùng ở<br />
tất cả các giác quan. Th giác và xúc giác: hướng đó xuất hiện”. Ngoài hình thức điệp<br />
“Buổi trưa, trời nắng to. Một thứ nắng màu cú pháp như đoạn văn trên, còn có hình<br />
đồng vàng chóe nung đỏ thêm quả đồi A1 thức điệp đoạn ở chương 9. Hình thức điệp<br />
đã bầm tím vì máu và lửa đạn. Gió Lào này rất hiếm thấy trong văn xuôi hiện đại.<br />
từng cơn đổ về nóng hầm hập như hơi tuôn Người người lớp lớp có được một<br />
ra từ một lò than”. Thính giác: “Khúc hoà giọng văn hùng tráng của thể loại anh hùng<br />
tấu rầm rộ ầm ầm như động biển của các ca. Nói như Hegel, tác giả sử thi đã mang<br />
cỡ pháo lớn đã đổi giọng”. V giác: “Hơi trong mình “một dòng sử thi cường tráng”<br />
thuốc súng làm miệng đắng, cổ họng khô và “một hơi thở sử thi hùng mạnh”. Trần<br />
rát”. Khứu giác: “những con quạ mê mệt vì Dần mang trong mình một ngọn lửa anh<br />
mùi khắm lặm của những xác chết”… Để hùng ca hừng hực từ lòng chảo Điện Biên<br />
khắc hoạ sự tàn khốc của chiến trường, tác và thổi nó vào trang văn. Đọc tác phẩm, ta<br />
giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần các hình ảnh có cảm giác không thể ngồi yên một chỗ<br />
đàn dòi (dưới đất), ruồi nhặng (lưng mà phải vừa đi vừa đọc. Nh p văn rất<br />
chừng), quạ (trên cao): “đàn giòi nhung nhanh, mạnh, phản ánh khí thế chiến đấu:<br />
nhúc đang hoành hành”, “Ruồi nhặng vo “Thoắt cái: lựu đạn ném tới tấp. Thoắt cái:<br />
vo từng đàn, nhiều lúc đâm sầm vào mặt chiếm một ổ súng (...) Thoắt cái: tổ 1 đánh<br />
như có ai ném trấu”, “Trên đầu chúng tôi tan một ổ súng nữa”. Ngọn lửa chiến trận<br />
lúc này chỉ toàn quạ đen thôi”… Hữu Mai ấy không chỉ bốc lên trong lòng tác giả và<br />
cũng dùng khá nhiều biện pháp tu từ để nhân vật trong khi diễn ra cuộc chiến mà cả<br />
cho câu văn giàu hình ảnh sống động. Cách sau khi hoà bình lập lại: “Ta đi đường<br />
sử dụng chi tiết cũng rất đắt. Ngoài ra, thương lượng là vì có điều kiện, có lí, có<br />
cũng như nhiều tiểu thuyết khác về đề tài lợi, có thể làm được, ai cũng cầu mong!<br />
Điện Biên Phủ, Cao điểm cuối cùng còn Hoà bình có thể có, do ta. Có hoa mừng<br />
<br />
45<br />
hoa, có nụ mừng nụ. Giơ ne còn mới mẻ, khía cạnh khác nhau về chiến d ch Điện<br />
nhưng ta cứ mừng Giơ ne đi hãy...”. Tiểu Biên. Một số tác phẩm có giá tr nghệ thuật<br />
thuyết Người người lớp lớp có một giọng cao, tạo ra được những bước ngoặt quan<br />
điệu đặc biệt, khó có thể tìm thấy trong các trọng, in dấu ấn đậm nét trong tiến trình<br />
tác phẩm văn xuôi khác. tiểu thuyết Việt Nam như Người người lớp<br />
Nhìn chung, so với các thể loại khác lớp, Cao điểm cuối cùng… Những tác<br />
trong văn học Việt Nam 1954 – 1975, số phẩm này có giá tr cả về nội dung và nghệ<br />
lượng tiểu thuyết về đề tài Điện Biên Phủ thuật, có khả năng trường tồn cùng với sự<br />
không nhiều. Nhưng mỗi tác phẩm đều có âm vang của chiến thắng Điện Biên.<br />
giá tr l ch sử, cung cấp cho bạn đọc một<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
1. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (tập 2),<br />
Nxb Giáo dục, H.<br />
2. Trần Dần (2004), Người người lớp lớp, Nxb Hội nhà văn, H.<br />
3. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, H.<br />
4. Hữu Mai (1961), Cao điểm cuối cùng, Nxb Văn học, H.<br />
5. P.V (2004), “Nhà văn Hữu Mai: có bất công mới cần đến nhà văn”, Báo An ninh thế<br />
giới cuối tháng, số 4.<br />
<br />
<br />
* Nhận bài ngày: 24/2/2014. Biên tập xong: 13/5/2014. Duyệt đăng: 22/5/2014<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
46<br />