1<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Mang thai và sinh con là thiên chức tự nhiên, là niềm vui và hạnh phúc<br />
của mỗi phụ nữ. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo tiềm ẩn về các biến chứng sản<br />
khoa có thể xảy ra. Biến chứng sản khoa là những biến chứng gặp trong các<br />
giai đoạn mang thai, chuyển dạ và trong thời kì hậu sản. Các biến chứng sản<br />
khoa thường gặp là chảy máu sau sinh, nhiễm khuẩn, nhiễm độc thai nghén…<br />
Các biến chứng sản khoa không những gây nguy hiểm cho thai nhi mà<br />
còn đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người mẹ.<br />
Trong biến chứng sản khoa, một chỉ số quan trọng phản ánh mức độ<br />
nghiêm trọng là tỉ lệ tử vong mẹ. Tỷ lệ tử vong mẹ trên thế giới năm 2000 là<br />
400/100.000 trẻ sinh ra sống [31]. Hiện nay trên thế giới mỗi năm có khoảng<br />
500.000 bà mẹ tử vong do các nguyên nhân có liên quan đến thai sản, trong đó<br />
99% xảy ra ở các nước đang phát triển [11]. Nguyên nhân hàng đầu của tử<br />
vong mẹ là hậu quả và biến chứng do thai nghén hoặc do sinh đẻ.<br />
Việt Nam là một nước đang phát triển có số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ<br />
cao. Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế năm 1995, tỷ lệ tử vong mẹ ở Việt<br />
Nam là 137/100.000 trẻ sinh ra sống [11], còn theo ước tính của Quỹ Nhi đồng<br />
Liên hiệp quốc (UNICEF) năm 2000, tỷ lệ tử vong mẹ ở Việt Nam là<br />
130/100.000 trẻ sinh ra sống [28]. Nguyên nhân chính gây ra tử vong mẹ ở<br />
Việt Nam là do các tai biến sản khoa.<br />
Tình hình mắc và tử vong do tai biến sản khoa ở nước ta trong những năm<br />
qua giảm không đáng kể. Do vậy, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh<br />
sản là một trong những mục tiêu được ngành y tế và toàn xã hội quan tâm. Trong<br />
đó hệ thống y tế có vai trò quyết định trong việc quản lý, theo dõi, phòng bệnh<br />
cũng như chẩn đoán và điều trị các khi các tai biến sản khoa xảy ra.<br />
<br />
2<br />
<br />
Khoa hồi sức tích cực bệnh viện Bạch Mai là nơi tiếp nhận rất nhiều các<br />
cấp cứu từ hầu như tất cả các chuyên khoa. Trong đó cấp cứu các tai biến sản<br />
khoa chiếm phần không nhỏ. Hầu hết các cấp cứu sản khoa tại đây đều rất nặng<br />
và đa dạng về mặt bệnh. Mặc dù có vai trò quan trọng trong mô hình bệnh tật<br />
của khoa hồi sức tích cực nhưng từ trước đến nay chưa có một nghiên cứu nào<br />
được thực hiện để đưa ra một cái nhìn đầy đủ về tình hình cấp cứu sản khoa<br />
thường gặp tại khoa này.<br />
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu<br />
kết quả hồi sức tích cực một số biến chứng sản khoa tại bệnh viện Bạch<br />
Mai từ 1/2008 – 6/2012”<br />
Với mục tiêu:<br />
1. Mô tả các hình thái biến chứng sản khoa thường gặp tại khoa hồi sức<br />
tích cực.<br />
2. Nhận xét kết quả điều trị các biến chứng thường gặp trên .<br />
<br />
3<br />
<br />
Chương 1<br />
TỔNG QUAN<br />
1.1. Tử vong mẹ và biến chứng sản khoa trên thế giới và tại Việt Nam<br />
1.1.1. Tình hình tử vong mẹ và biến chứng sản khoa trên thế giới<br />
Hiện nay trên thế giới mỗi năm có khoảng 500.000 phụ nữ tử vong có liên<br />
quan đến thai sản. Phần lớn do hậu quả hoặc những biến chứng liên quan đến<br />
thai nghén và nạo phá thai không an toàn [11], [29]. Không những thế, theo<br />
ước tính cứ một bà mẹ tử vong do thai sản thì có khoảng 30 bà mẹ khác bị đau<br />
yếu, mất sức lao động hoặc bị những tổn thương sinh lý do hậu quả của các<br />
biến chứng thai sản [29].<br />
Theo số liệu thống kê về số tử vong mẹ năm 2000 của tổ chức y tế thế<br />
giới, quĩ nhi đồng liên hợp quốc, quĩ dân số liên hợp quốc thì số tử vong bà mẹ<br />
trên toàn thế giới là 529.000 bà mẹ. Tuy nhiên số tử vong mẹ khác nhau giữa<br />
các châu lục và có tới 99% là những người đang sống ở các nước đang và kém<br />
phát triển, đặc biệt là ở châu Phi (251.000 bà mẹ), châu Á (253.000 bà mẹ). Ấn<br />
Độ là nước có số bà mẹ tử vong cao nhất (136.000 bà mẹ), tiếp theo đó là<br />
Nigeria (37.000 bà mẹ), Paskistan (26.000 bà mẹ), Cộng hòa Côngô và<br />
Ethiopia (24.000 bà mẹ), Cộng hòa Tanzania (21.000 bà mẹ), Afghanistan<br />
(20.000 bà mẹ), Bangladesh (16.000 bà mẹ), Angola (11.000 bà mẹ), Trung<br />
Quốc (11.000 bà mẹ), Kenya (11.000 bà mẹ), Indonesia (10.000 bà mẹ) và<br />
Uganda (10.000 bà mẹ). Tổng số bà mẹ tử vong ở 13 nước này đã chiếm tới<br />
67% tổng số bà mẹ tử vong trên toàn thế giới năm 2000 [36].<br />
Tỷ lệ tử vong mẹ trên 100.000 trẻ sinh ra sống (Maternal Mortality Rate)<br />
của thế giới là 400 và tỷ lệ này cũng có sự khác nhau giữa các quốc gia và các<br />
châu lục trên thế giới [28], đặc biệt là tỷ lệ này có sự khác biệt rất lớn giữa các<br />
<br />
4<br />
<br />
nước phát triển và đang phát triển. Theo số liệu của UNICEF năm 2000, tỷ lệ<br />
tử vong mẹ trên 100.000 trẻ sinh ra sống của các nước công nghiệp phát triển<br />
là 13, của các nước đang phát triển là 440 còn của các nước kém phát triển là<br />
890 [28].<br />
Nguyên nhân tử vong mẹ có liên quan chặt chẽ với các BCSK và nguy cơ<br />
tử vong mẹ do BCSK có sự khác biệt rất lớn giữa các khu vực có điều kiện<br />
kinh tế – xã hội – y tế khác nhau.<br />
Tử vong mẹ phần lớn xảy ra trong tuần đầu sau khi sinh (60%), đặc biệt<br />
là 24 giờ đầu sau khi sinh [11]. Có 2 nhóm nguyên nhân chính dẫn đến tử vong<br />
mẹ là nguyên nhân sản khoa trực tiếp và các nguyên nhân gián tiếp khác trong<br />
đó nhóm nguyên nhân sản khoa trực tiếp chiếm tới 80% số ca tử vong mẹ trên<br />
thế giới [25], [34].<br />
Các nguyên nhân sản khoa trực tiếp gây tử vong mẹ là các BCSK (trong<br />
các giai đoạn mang thai, chuyển dạ đẻ và sau đẻ). Có năm nguyên nhân sản khoa<br />
hay gặp nhất gây tử vong mẹ là: băng huyết (thường trong giai đoạn sau đẻ),<br />
nhiễm khuẩn, sản giật, đẻ khó và tai biến do nạo phá thai [25], [29],[30], [34].<br />
Các nguyên nhân gián tiếp gây tử vong mẹ thường liên quan đến tình<br />
trạng bệnh tật trước khi mang thai hoặc các bệnh tật trong khi quá trình thai<br />
nghén, thường gặp nhất là sốt rét, thiếu máu, HIV/AIDS (virus suy giảm<br />
miễn dịch ở người / hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải), bệnh tim<br />
mạch… [30], [34].<br />
Điều đáng quan tâm là hầu hết các trường hợp tử vong mẹ do các nguyên<br />
nhân sản khoa cũng như các nguyên nhân gián tiếp khác, đặc biệt là các BCSK<br />
đều có thể phòng tránh được nếu như có biện pháp xử trí kịp thời khi có dấu<br />
hiệu sớm cũng như có sự chăm sóc đối với người phụ nữ trong suốt quá trình<br />
mang thai, đẻ con và thời kì hậu sản.<br />
<br />
5<br />
<br />
BCSK vẫn luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu để<br />
giảm tỷ lệ tử vong mẹ. Theo tài liệu của WHO thì tỷ lệ BCSK có thể lên tới<br />
15%, đặc biệt là ở các nước đang phát triển [26]. Trong các BCSK thì chảy<br />
máu sau đẻ (băng huyết sau sinh) là hình thái BCSK thường gặp nhất. Tổ chức<br />
y tế thế giới ước tính hàng năm có khoảng 20 triệu trường hợp bệnh lý do băng<br />
huyết sau đẻ . Hội nghị sản phụ khoa quốc tế diễn ra ở Hà Nội tháng 5 năm<br />
2007 cho biết, băng huyết sau sinh chiếm khoảng hơn 10% trong đó 1% trường<br />
hợp nguy kịch, và 25% trường hợp tử vong do băng huyết nặng gây ra. Tiền<br />
sản giật/sản giật cũng là một hình thái BCSK ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức<br />
khỏe bà mẹ và trẻ. Tiền sản giật là bệnh nhiễm độc thai ghén thường gặp,<br />
chiếm tỷ lệ 6% - 8% số phụ nữ mang thai và 85% trường hợp xảy ra trong thời<br />
kì mang thai đầu tiên. Nhiễm khuẩn hậu sản cũng là một trong những hình thái<br />
BCSK thường gặp, nhiễm khuẩn hậu sản có thể chiếm 3-4% trong số những<br />
phụ nữ có thai và đẻ . BCSK do nạo phá thai không an toàn cũng là một trong<br />
những vấn đề hàng đầu trong chăm sóc sức khỏe sinh sản và là một trong<br />
những vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới. Theo tài liệu của WHO thì mỗi<br />
năm trên thế giới có khoảng 19 triệu ca phá thai không an toàn và có khoảng<br />
40% các ca nạo phá thai không an toàn trong lứa tuổi vị thành niên từ 15-24<br />
tuổi [35]. Mỗi năm có khoảng 68.000 phụ nữ tử vong do nạo phá thai không an<br />
toàn, chiếm khoảng 13% phụ nữ tử vong do các nguyên nhân [33], [35]. Theo<br />
thống kê năm 2004 của Hiệp hội Kế hoạch hóa gia đình khu vực Đông Á Châu<br />
Đại Dương cứ một phút trên thế giới có 10 phụ nữ tử vong do nạo phá thai<br />
không an toàn [7]. Hầu hết các trường hợp nạo phá thai không an toàn được<br />
thực hiện ở các nước đang phát triển, chiếm khoảng 95% tổng số trường hợp<br />
nạo phá thai không an toàn [33].<br />
Tử vong mẹ liên quan đến thai nghén và sinh đẻ không chỉ là một vấn đề<br />
sức khỏe mà còn là một vấn đề mất công bằng xã hội và là một trong những chỉ<br />
<br />