Đề tài: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục và sự vận dụng tư tưởng đó trong viêc xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
lượt xem 35
download
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người anh hung dân tộc , một danh nhân văn hóa thế giới, luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục. Luôn nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc ta một tư tưởng lớn, những quan điểm mới về giáo dục. Để tìm hiểu kĩ hơn về điều đó, mời các bạn cùng tham khảo đề tài "Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục và sự vận dụng tư tưởng đó trong viêc xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện nay" dưới đây.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục và sự vận dụng tư tưởng đó trong viêc xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
- A. MỞ ĐẦU Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người anh hung dân tộc , một danh nhân văn hóa thế giới, luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục. Người luôn quan niệm: “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích tram năm trồng người”. Luôn nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc ta một tư tưởng lớn, những quan điểm mới về giáo dục. Để tìm hiểu kĩ hơn về điều đó, em chon đề tài “phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục và sự vận dụng tư tưởng đó trong viêc xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện nay”. Bài làm còn nhiều sai sót, mong quý thầy cô góp ý để hoàn thiên hơn. Em xin chân thành cảm ơn! B. NỘI DUNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA GIÁO DỤC 1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo,… đã tồn tại ngàn đời nay trong đời sống nhân dân ta. Không chỉ vậy, người còn ảnh hưởng sâu sắc từ những quan điểm mới mẻ của giáo dục phương Tây như tinh thần tư học là chính, là quan niện “học đi đôi với hành”… Nguồi gốc quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục vẫn là chủ nghĩa Mác Lênin và những tấm gương sáng của các ông. Mác và Ăngghen đã tuyên bố trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” là: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Tại diễn đàn Đại hội giáo dục toàn Nga lần thứ nhất( 2881918), Lênin đã
- khẳng định vai trò to lớn của công tác giáo dục, coi đó là một điều kiện đảm bảo thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khẩu hiệu nổi tiếng của Lênin: “Học, học nữa, học mãi” đã trở thành triết lý sống của hàng triệu, hàng triệu con người trong các thế hệ. Uỷ ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đã đưa giáo dục suốt đời thành một nguyên lý của nền giáo dục mở đầu thiên niên kỷ mới. Ngoài ra, trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Bác đã học tập được rất nhiều, trong nhân dân, trong lao động, tự học là chủ yếu. Bác nhận ra phương pháp học mới gắn liền với thực tiễn khác xa với cách học truyền thống. Đúc kết giá trị truyền thống và hiện đại, tiếp thu tư tưởng Mác Lênin và vận dụng trong trải nghiệm của mình, Hồ Chí Minh có những qun niệm mới mẻ về văn hóa giáo dục, phù hợp với “nội tạng” của người Việt Nam ta. 2. Nội dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến kinh viện xa thực tế và coi trọng mẫu người theo quan niệm của nho giáo: “tam cương ngũ thường”, phụ nữ bị tước mất quyền học vấn sống trong khuôn phép “tam tòng tứ đức”… Người cũng đã tố cáo nền giáo dục thực dân là nền giáo dục “ngu dân”, nhồi sọ và giả dối, làm cho cả thế giới hiểu rõ hơn thực chất của nền giáo dục ấy, đồng thời thúc tỉnh nhân dân các nước thuộc địa vùng dậy đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công văn hóa giáo dục trở thành một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.Việc xây dựng văn hóa giáo dục mới trở thành nhiệm vụ vừa lâu dài, vừa cấp bách của dân tộc ta. Người viết: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là
- phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục: Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa và bằng giáo dục. Người chỉ rõ: “Dốt nát cũng là kẻ địch... Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, theo Người, giáo dục để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách lành mạnh cho nhân dân. Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. Trong tác phẩm: “Đời sống mới” viết năm 1947, Người nói: “Từ tiểu học, trung học cho đến đại học, là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên. Óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, và tương lai của thanh niên là tương lai của nước nhà. Vì vậy cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”. Nền giáo dục mới phải thực hiện dạy và học theo hướng: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Giáo dục còn là để “cải tạo trí thức cũ”, “đào tạo trí thức mới”, thực hiện “công nông tri thức hóa”, xây dựng đổi ngũ tri thức ngày càng đông đảo và có trình độ ngày càng cao. Nền văn hóa giáo dục còn phải đào tạo
- lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước giàu mạnh sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Phải tiến hành cải cách giáo dục gồm xây dựng một hệ thống trường lớp với trương trình nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những bước phát triển của ta. Giáo dục phải đảm bảo kiến thức toàn diện. Nội dung giáo dục phải bao gồm cả văn hóa, trính trị, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, lao động. Các nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cần phải học tập khoa học, kỹ thuật bởi chúng ta đang sống trong thời đại mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đang tiến như vũ báo, loài người đang vận dụng những thành tựu kỳ diệu của khoa học, kỹ thuật, công nghệ để đẩy mạnh sản xuất và cải tạo nhanh chóng bộ mặt của thế giới. Phải chú ý học chính trị, vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác –Lênin và đường lối của Đảng để hiểu rõ nhiệm vụ cách mạng, từ đó vững tin vào lý tưởng cách mạng, tránh được mọi sai lầm vấp ngã. Do vậy, học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế; học tập phải kết hợp với lao động. Muốn đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục phải phối hợp cả ba khâu; gia đình, nhà trường, xã hội. Trả lời câu hỏi “Học như thế nào?” Hồ Chí Minh đã đưa ra phương pháp kết hợp lý luận với thực tế, học đi đôi với hành, kết hợp chặt chẽ nhà trường với gia đình và xã hội. Chú trọng tự học, học suốt đời, học thực tiễn, học nhân dân, học lẫn nhau, học ở sách vở, học ở trường. Dạy và học không phải chạy theo kiến thức đơn thuần, mà chú trọng tư duy sáng tạo, tự do tư tưởng. Quan điểm về phương pháp giáo dục của Hồ Chí Minh đáp ứng được nhu cầu và khả năng tự học của người học. Đó còn là phương pháp học suốt đời, học mọi lúc,
- mọi nơi, bằng mọi cách. Người cho rằng: “Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ càng thấy phải học thêm”. Tư tưởng và tấm gương của Người là “ngày nào cũng phải học”. Người cho rằng “Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”. Việc học là quyển vở không có trang cuối cùng. Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người, học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Người quan niệm: " Học không biết chán, học không bao giờ đủ, còn sống còn học”. Học ở lớp chỉ là một phần, phần chủ yếu là phải học trong lao động, trong công tác trong hoạt động thực tiễn. Học ở những người thầy ở trong trường lớp, học ở những người xung quanh – bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp, nhất là nhân dân. Học tập là một quá trình lao động gian khổ, phải rèn luyện những đức tính, những tập quán tốt đẹp trong học tập, phải có tinh thần say học tập, có quyết tâm, có nghị lực để học tập không ngừng Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục và cần thực hiện dân chủ bình đẳng trong giáo dục. Giáo dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải dung phương pháp nêu gương; giáo dục phải gắn liền với thi đua. Phải không ngừng nâng cao đảng trí, quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên vì không có giáo viên thì không có giáo dục. Trong thư gửi hội nghị giáo dục toàn quốc (tháng 31955), Người viết: “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy dạy học là: chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”. Người còn nói: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc.
- Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân. Các cháu thì học tập cần gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện mục đích cao quý: thật thà phụng sự nhân dân”. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề; phải có đạo đức có đạo đức cách mạng; phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương pháp. Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm mãi, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học. Ngoài ra việc giáo dục cán bộ, đảng viên là vấn đề đã được Hồ Chí minh đặc biệt quan tâm trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của người. Nếu nâng cao dân trí là mục tiêu của giáo dục với các tầng lớp nhân dân thì nâng cao đảng trí phải là mục tiêu giáo dục đối với cán bộ đảng viên. Người đỏi hỏi cán bộ, đảng viên phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác –Lênin để giữ vững lập trường, quan niệm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin và tổng hợp những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn về đặc điểm của nước ta. II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NÀY TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC HIỆN NAY 1. Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay a. Thành tựu Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, điều này thể hiện ở những con số thống kê trong những năm vừa qua. Hiện nay, hệ thống giáo dục ở nước ta đã khá hoàn chỉnh từ bậc mầm non đến sau đại học; hầu hết các bản, làng, xã, phường đều có trường lớp tiểu học; trường trung học cơ sở được xây
- dựng ở các xã hoặc cụm liên xã; trường trung học phổ thông được xây ở các huyện, một số huyện có 2 3 trường. Hệ thống giáo dục ở nước ta về cơ bản đã đáp ứng được như cầu học tập của nhân dân. Đến nay, hầu hết người dân trong độ tuổi đi học đều được đến trường. Các trường Trung cấp chuyên nghiệp được củng cố và phát triển, mở rộng quy mô đào tạo, cơ cấu ngành nghề đào tạo đang từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Công tác dạy nghề phát triển mạnh mẽ. Năm 2010, cả nước có khoảng 2300 cơ sở dạy nghề (kể cả các trường trung cấp nghề và cao đẳng nghề). Quy mô đào tạo nghề dưới một năm vào khoảng 1.268.150 người, ở bậc trung cấp nghề, cao đẳng nghề là 394.350. Nhà nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục, thường xuyên cải cách giáo dục về cả chương trình học và phương pháp học. Kiên trì đường lối phát triển giáo dục như là một bộ phận quan trọng của công cuộc đổi mới, tháng 10 năm 2013, Trung ương đã ra Nghị quyết 29 đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục với tinh thần chủ đạo là chuyển từ phát triển số lượng sang phát triển chất lượng, với khẩu hiệu thực học, thực nghiệp để giáo dục con người Việt Nam, thế hệ trẻ Việt Nam và nguồn nhân lực chất lượng cao theo Nghị quyết Đại hội XI đề ra. Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực theo hướng khắc phục các tiêu cực trong ngành, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đổi mới cơ chế tài chính trong ngành giáo dục; tăng cường phân cấp quản lý giáo dục nhằm tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các địa phương và cơ sở giáo dục; ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin truyền thông
- hình thành giám sát xã hội đối với chất lượng giáo dục; đẩy mạnh cải cách hành chính trong toàn ngành; mở rộng môi trường giáo dục thân thiện. Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, đồng thời chỉ đạo đổi mới đồng bộ cách tiếp cận và thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo hướng chuyển mạnh từ phương thức giáo dục nặng về trang bị kiến thức một chiều sang chú trọng phát triển phẩm chất, năng lực người học. Mới đây nhất, Bộ giáo dục đào tạo đã quyết định đổi mới phương thức kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông và kì thi đại học thành kì thi trung học phổ thông quốc gia. Bước đầu đã có những kết quả nhất định như tiết kiệm chi phí đi lại cho gia đình thí sinh, đảm bảo tính liên kết chặt chẽ giữa đại học và trung học phổ thông… Kì thi trung học phổ thông tiếp theo, Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ tiếp tục có những đổi mới để nâng cao chất lượng đầu vào cho các trường đại học. Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu, dân trí dần được nâng cao, chất lượng giáo viên cũng tăng lên. Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo có tiến bộ, trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức của học sinh, sinh viên bước đầu được nâng cao một bước. Phát triển giáo dục và đào tạo đã chuyển theo hướng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, khoa học và công nghệ, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Hầu hết nhà giáo có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, cụ thể: giáo viên mầm non đạt 90%; giáo viên tiểu học đạt 97,8%; giáo viên trung học cơ sở đạt 98,6%; giáo viên trung học phổ thông đạt 97,5%... Trình độ tin học và ngoại
- ngữ của đội ngũ nhà giáo đã được nâng lên (đặc biệt ở các cấp học cao và đối với giảng viên). Về cơ bản đội ngũ nhà giáo có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt; hầu hết đều tận tuỵ với nghề, cần cù chịu khó, có tinh thần trách nhiệm cao, sáng tạo và quyết tâm tự bồi dưỡng nâng cao năng lực để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Giáo dục Việt Nam đạt được một số kết quả quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Thành tựu to lớn đó của ngành giáo dục 70 năm qua gắn liền với kết quả của các phong trào thi đua yêu nước, như lời dạy của Bác Hồ trong bức thư Người gửi ngành giáo dục năm 1968: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt”. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 5 năm từ 2010 đến 2015, toàn ngành giáo dục đã có 11 tập thể được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, 110 cá nhân được nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc, 79 Nhà giáo Nhân dân và hơn 1.000 Nhà giáo Ưu tú. Cùng với đó là biết bao thầy giáo, cô giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đang miệt mài, âm thầm, sáng tạo, lặng lẽ vượt lên mọi khó khăn, bám trường, bám lớp để chăm lo, nuôi, dạy các em học sinh thành người. Cũng chính nhờ sự tận tâm, hết lòng vì học sinh của các thầy, các cô và sự nỗ lực mạnh mẽ của các em học sinh, 5 năm qua, Việt Nam đã có 166 học sinh tham dự các kỳ thi học sinh giỏi khu vực và quốc tế. 36 em đã đoạt Huy chương Vàng, 52 em đoạt Huy chương Bạc, 51 em đoạt huy chương Đồng… Với hơn 94% người Việt Nam biết chữ, Liên hợp quốc đã công nhận chỉ số phát triển con người của Việt Nam, đến năm 2013, là 0,638 đứng thứ 121/190 nước và vùng lãnh thổ. Riêng về chỉ số giáo dục qua tiêu chí về người biết chữ,
- chúng ta, đứng ở khoảng trung bình (đứng thứ 7080) trong các nước thành viên của Liên hợp quốc. b. Hạn chế Tuy nhiên, nền giáp dục nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chương trình giáo dục con coi nhe th ̀ ̣ ực hanh, vân dung kiên th ̀ ̣ ̣ ́ ưc; ph ́ ương pháp giáo dục, kiểm tra, thi và đánh giá lạc hậu, thiếu thực chất; thiêu găn kêt gi ́ ́ ́ ữa đao tao v ̀ ̣ ơi nghiên ́ cưu khoa hoc, san xuât, kinh doanh và nhu c ́ ̣ ̉ ́ ầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kĩ năng làm việc. Hệ thống giáo dục thiếu tính liên thông giữa các trình độ đào tạo và các phương thức giáo dục, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Quản lí giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém, la nguyên nhân cua nhiêu y ̀ ̉ ̀ ếu kém khác, nhiều hiện tượng tiêu cực kéo dài trong giáo dục, gây bức xúc xã hội. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục còn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kĩ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. 2. Giải pháp nâng cao vận dụng tư tưởng Hồ CHí Minh trong việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện nay Thực hiện tốt chính sách công bằng, dân chủ trong giáo dục, theo như lời Bac vẫn nói: “ai cũng có cơm ăn áo mặ, ai cũng được học hành”. Tức là bảo
- đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong học tập để mọi người, dù giàu nghèo đều có cơ hội học tập và thành đạt ngang nhau. Giáo dục phải tôn trọng, phát triển cá tính, phải mở ra nhiều con đường, nhiều hướng, tạo nhiều cơ hội lựa chọn cho thế hệ trẻ phát triển tài năng, bồi dưỡng nhân tài. Đặc biệt chú ý đến giáo dục nhân cách và phương pháp tự học, phát huy khả năng tư duy sáng tạo cho học sinh, sinh viên. Các trường từ phổ thông đến đại học cần giáo dục cho học sinh, sinh viên có lòng ham mê khoa học và rèn luyện thói quen tự học, tự đọc, tự tìm thông tin để nâng cao sự hiểu biết. Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới quản lý giáo dục, nhất là việc quản lý chất lượng đào tạo ở các cấp học, bậc học để khắc phục dần tình trạng "học giả, bằng thật". Chú trọng đổi mới giáo dục phù hợp với tình hình đất nước, đào tạo đội ngũ giáo viên “vừa hồng vừa chuyên” để làm nền móng cho giáo dục. C. KẾT LUẬN Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính... Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và
- hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục noi riêng, ngành giáo d ́ ục nói chung hiện nay.. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ CHí Minh, nxb Chính Trị Quốc Gia, 2012 2. PGS.TS Nguyễn Mạnh Tường, Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhận thức và vận dụng, nxb Tư Pháp, 2013 3. http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ArticleDetail.aspx? articleid=213&sitepageid=425#sthash.ejkxO5ni.dpuf 4. http://www.hocviencanbo.hochiminhcity.gov.vn/c/document_library/get_file ?uuid=d00820bdd5a249ec9607bd362393b646&groupId=10217 5. http://binhson.edu.vn/home/nghiencuukhoahoc/199tutuonghochiminh vegiaoduc.html 6. http://vietbao.vn/Giaoduc/5thanhtuuva4yeukemcuagiaoduc VN/40054973/202/
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: "Phân tích tình hình tài chính"
104 p | 2170 | 1318
-
ĐỀ TÀI: Phân Tích Ma Trận BCG của VINAMILK
28 p | 1840 | 395
-
Đề tài "Tìm hiểu về Phân tích kỹ thuật"
31 p | 335 | 107
-
Đề tài tiểu luận: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục và sự vận dụng tư tưởng đó trong viêc xây dựng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
12 p | 1017 | 98
-
Đề tài: Phân tích tư tưởng quản trị nhân sự của người Nhật
38 p | 378 | 83
-
Đề tài triết học " NHỮNG SUY TƯ TRIẾT HỌC CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH TRONG VIỆC XÁC LẬP LẠI ĐƯỜNG LỐI TƯ TƯỞNG CHỦ NGHĨA MÁC "
18 p | 172 | 42
-
Đề tài: "Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác".
19 p | 275 | 41
-
Đề tài triết học " TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG DI CHÚC "
11 p | 185 | 34
-
Tiểu luận Triết học Mác: Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó
18 p | 234 | 29
-
Khóa luận tốt nghiệp Kế toán tài chính: Phân tích báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Xây dựng Giao thông Thừa Thiên Huế
119 p | 90 | 28
-
Đề tài triết học " XÃ HỘI CÔNG DÂN VÀ XÃ HỘI DÂN SỰ: TỪ ARIXTỐT ĐẾN HÊGHEN "
13 p | 132 | 27
-
Tiểu luận môn Lịch sử tư tưởng quản lý: Phân tích tư tưởng quản lý chủ yếu trong tác phẩm Nghề quản lý của Henry Mintzberg
26 p | 90 | 18
-
Đề tài: Phân tích và thẩm định dự án đầu tư quán Cafe Đất Phù Sa
26 p | 138 | 13
-
Bài thảo luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
37 p | 75 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố Đà Nẵng hiện nay
118 p | 5 | 4
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn: Tư tưởng chính trị của Jean Jacques Rousseau trong tác phẩm ‘Bàn về khế ước xã hội’ với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
26 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Triết học: Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn