ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN<br />
ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
BÀI THẢO LUẬN<br />
Đề tài: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT <br />
ĐỘNG QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Môn: QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC<br />
Lớp 02 Nhóm 01<br />
DANH SÁCH NHÓM<br />
<br />
<br />
1. NGUYỄN ĐỖ QUYÊN<br />
<br />
2. LÂM THU HUYỀN<br />
<br />
3. PHẠM THỊ TẬP<br />
<br />
4. HÀ HOÀNG THÁI SƠN<br />
<br />
5. NÔNG VĂN TUẤN<br />
LỜI NÓI ĐẦU<br />
<br />
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một ''tài nguyên đặc biệt''. <br />
Bởi vậy việc quản lý con người, quản lý nguồn nhân lực trở thành mối quan <br />
tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Đó là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự <br />
phồn vinh, thịnh vượng của đất nước.<br />
<br />
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia trong <br />
mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế ngày càng quyết liệt hơn, gay gắt hơn. <br />
Lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về quốc gia nào có nguồn nhân lực chất lượng cao <br />
hơn. Nguồn nhân lực nói chung, lao động kỹ thuật có chất lượng cao nói riêng <br />
đang thực sự trở thành yếu tố cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội <br />
của mỗi quốc gia.<br />
<br />
Việt Nam đang bước trên con đường phát triển công nghiệp hóa hiện đại <br />
hóa, cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế khi gia nhập WTO, đòi hỏi <br />
việc quản lý nguồn nhân lực phải phù hợp với tình hình phát triển của đất <br />
nước. Tuy nhiên, hiện nay nguồn nhân lực Việt Nam tuy dồi dào về số lượng <br />
nhưng lại yếu và thiếu về chất lượng, mà đây mới là điều có ý nghĩa quan <br />
trọng. Nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay chưa có trình độ học vấn cũng như <br />
trình độ chuyên môn cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường và quá trình <br />
hội nhập. Vì vậy vấn đề quản lý nguồn nhân lực sao cho hiệu quả nhất là một <br />
vấn đề nóng và bức thiết đặt ra, cần được giải quyết và cải thiện hiện nay.<br />
PHẦN I: CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN<br />
I. Phát triển kinh tế<br />
<br />
Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ <br />
cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm công bằng xã <br />
hội. Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tích cực dựa trên sự biến đổi cả <br />
về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế.<br />
<br />
Muốn phát triển kinh tế trước hết phải có sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng <br />
không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn tới phát triển kinh tế. Phát triển <br />
kinh tế đòi hỏi phải thực hiện được ba nội dung cơ bản sau:<br />
<br />
Sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc <br />
dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Nội dung này phản <br />
ánh mức độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.<br />
<br />
Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thể hiện ở tỷ trọng của <br />
các ngành dịch vụ và công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân tăng lên, còn tỷ <br />
trọng nông nghiệp ngày càng giảm xuống. Nội dung này phản ánh chất lượng <br />
tăng trưởng, trình độ kỹ thuật của nền sản xuất để có thể bảo đảm cho sự tăng <br />
trưởng kinh tế bền vững.<br />
Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội thể hiện bằng sự tăng <br />
lên của thu nhập thực tế, chất lượng giáo dục, y tế, ... mà mỗi người dân được <br />
hưởng. Nội dung này phản ánh mặt công bằng xã hội của sự tăng trưởng kinh <br />
tế.<br />
<br />
Với những nội dung trên, phát triển kinh tế bao hàm các yêu cầu cụ thể là:<br />
<br />
Trước hết là sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự <br />
tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Mức tăng trưởng kinh tế phải lớn <br />
hơn mức tăng dân số. Sự tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ cấu kinh tế hợp <br />
lý, tiến bộ để bảo đảm tăng trưởng bền vững.<br />
<br />
Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội, tạo điều kiện cho <br />
mọi người có cơ hội ngang nhau trong đóng góp và hưởng thụ kết quả của tăng <br />
trưởng kinh tế.<br />
<br />
Chất lượng sản phẩm ngày càng cao, phù hợp với sự biến đổi nhu cầu <br />
của con người và xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.<br />
<br />
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế gắn liền với quá trình công <br />
nghiệp hóa và hiện đại hóa của mỗi quốc gia, là bước đi tất yếu của mọi sự <br />
biến đổi kinh tế từ thấp đến cao, theo xu hướng biến đổi không ngừng.<br />
<br />
II. Nguồn nhân lực<br />
<br />
Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, được nghiên cứu dưới nhiều <br />
khía cạnh khác nhau:<br />
<br />
Với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội thì nguồn nhân <br />
lực bao gồm toàn bộ dân cư trong xã hội có khả năng lao động.<br />
Với tư cách là yếu tố của sự phát triển kinh tế xã hội thì nguồn nhân <br />
lực là khả năng lao động của xã hội.<br />
<br />
Với tư cách là tổng thể cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá <br />
trình lao động thì nguồn nhân lực bao gồm cả yếu tố thể lực và trí lực của <br />
những người từ 15 tuổi trở lên.<br />
<br />
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô nguồn nhân lực, <br />
song đều nhất trí với nhau đó là nguồn nhân lực và cung nói đến khả năng lao <br />
động của xã hội.<br />
<br />
Nguồn nhân lực được xem xét trên góc độ số lượng và chất lượng:<br />
<br />
Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô <br />
và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu <br />
quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng <br />
cao thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. <br />
Tuy nhiên có mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một <br />
thời gian nhất định.<br />
<br />
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trên các khía cạnh: sức khỏe, <br />
trình độ học vấn, kiến thức, trình độ kỹ thuật và kinh nghiệm tích lũy được, ý <br />
thức tác phong của người lao động.<br />
<br />
Từ những quan niệm trên có thể tổng quát lại: Nguồn nhân lực hay nguồn <br />
lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó lực <br />
lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong <br />
độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Lao <br />
động dự trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao <br />
động nhưng không có nhu cầu lao động.<br />
<br />
III. Quản lý nguồn nhân lực<br />
<br />
Quản lý nguồn nhân lực được hiểu là các hoạt động của chủ thể quản lý <br />
tác động lên nguồn nhân lựcthông qua một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, <br />
phương pháp, công cụ, … nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực <br />
để đạt được những mục tiêu nhất định.<br />
<br />
Nói cách khác, quản lý nguồn nhân lực là những hoạt động có tính hệ thống <br />
nhằm định hướng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý nhằm <br />
đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội.<br />
<br />
Vậy, thực chất quản lý nguồn nhân lực là các hoạt động nhằm kế hoạch, <br />
tổ chức, phối hợp chỉ huy và giám sát việc sử dụng nguồn nhân lực sao cho đạt <br />
được hiệu quả cao nhất.<br />
<br />
PHẦN II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NGUỒN NHÂN <br />
LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY<br />
<br />
I. Thực trạng phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay<br />
<br />
(1) Tạo lập được sự ổn định kinh tế vĩ mô; công tác xoá đói giảm nghèo, <br />
tăng việc làm đã đạt được những thành tựu quan trọng : nước ta đã giữ vững ổn <br />
định chính trị và đời sống xã hội, thiết lập các cơ chế chính sách và ổn định kinh <br />
tế vĩ mô, huy động được nhiều nguồn lực phát triển. Các cân đối lớn trong nền <br />
kinh tế đều được cải thiện.<br />
(2) Cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng tích cực, phát huy tiềm năng <br />
của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế.<br />
<br />
Tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh, đóng góp <br />
tích cực vào việc tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công <br />
nghiệp hoá, hiện đại hoá.<br />
<br />
Các vùng kinh tế đã phát huy được các lợi thế so sánh trong từng vùng, liên <br />
kết nhau cùng phát triển bền vững. Ba vùng kinh tế trọng điểm được hình thành <br />
và phát triển và đã đóng góp trên 60% GDP cả nước. Các vùng khó khăn được sự <br />
hỗ trợ của cả nước, đang từng bước vươn lên, tiếp tục có những bước phát <br />
triển khá; đời sống nhân dân có nhiều cải thiện.<br />
<br />
Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ lệ lao động <br />
trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp và <br />
dịch vụ.<br />
<br />
(3) Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành <br />
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.<br />
<br />
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu <br />
quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của <br />
nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, thực hiện <br />
mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong <br />
kinh doanh.<br />
<br />
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực <br />
và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng <br />
trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp <br />
khoảng 38% GDP của cả nước.<br />
<br />
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở <br />
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối <br />
quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp <br />
vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.<br />
<br />
(4) Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được <br />
hình thành; kinh tế đối ngoại phát triển khá, vị thế của nước ta trên trường quốc <br />
tế đã được nâng cao.<br />
<br />
Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị <br />
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Với <br />
chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của <br />
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt <br />
Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các <br />
cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại <br />
Việt Nam Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ... Đến <br />
nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký <br />
hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát <br />
triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.<br />
<br />
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây <br />
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể <br />
chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; <br />
môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại <br />
thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước <br />
phát triển mạnh.<br />
<br />
II. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay<br />
<br />
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu <br />
người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi <br />
dào.<br />
<br />
Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, <br />
trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn <br />
nhân lực nông dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân <br />
lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt <br />
nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% <br />
dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, <br />
khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người…. Sự xuất hiện của giới <br />
doanh nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong nguồn nhân lực, nếu <br />
biết khai thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề quan <br />
trọng trong phát triển kinh tế xã hội.<br />
<br />
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ <br />
thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số <br />
đông, trong khi đó, nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu <br />
của Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất <br />
lượng cao. Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua <br />
đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người <br />
có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ <br />
15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm <br />
khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: <br />
Đại học và trên Đại học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ <br />
thuật là 0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1 4 10.<br />
<br />
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao <br />
động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn <br />
nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm <br />
là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 <br />
nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là <br />
5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94; ...<br />
<br />
Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ <br />
thuật công nghệ, nông lâm ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó <br />
các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ, ... lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh <br />
vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực.<br />
<br />
PHẦN III: ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỚI HOẠT <br />
ĐỘNG QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC<br />
<br />
I. Ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế tới hoạt động quản lý <br />
nguồn nhân lực<br />
<br />
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quản lý nguồn nhân lực có mối quan hệ <br />
chặt chẽ với nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thực hiện <br />
quy hoạch phát triển trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn, thu hút nhiều <br />
lao động, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân <br />
bố lao động.<br />
Việc xây dựng những công trình kinh tế lớn của quốc gia, mở mang và nâng <br />
cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các khu kinh tế với <br />
những mô hình thích hợp ở các vùng chậm phát triển, tăng cường các hoạt động <br />
đầu tư nước ngoài và liên doanh liên kết rộng với các cơ sở kinh tế địa phương, <br />
… đều tạo khả năng thu hút nguồn lao động lớn và đặt ra yêu cầu lớn về quản <br />
lý nguồn nhân lực.<br />
<br />
Nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp công nghiệp dịch vụ <br />
sang công nghiệp nông nghiệp dịch vụ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao <br />
động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% năm 2000 xuống <br />
50% vào năm 2010 và nâng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch <br />
vụ. Nhưng trong đó đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động được đào <br />
tạo theo ngành và trình độ phù hợp với định hướng phát triển kinh tế. Rõ ràng <br />
chuyển dịch cơ cấu kinh tế như phân tích đã đặt ra những thách thức đối với <br />
nguồn nhân lực và do đó trực tiếp tác động tới quản lý nguồn nhân lực cả về <br />
quy mô, cơ cấu và trình độ cũng như việc phân bổ, khai thác sử dụng hợp lý <br />
nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.<br />
<br />
II. Ảnh hưởng của trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất <br />
kinh doanh tới hoạt động phát quản lý nguồn nhân lực<br />
<br />
Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, các trang thiết bị <br />
kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng ngày càng thay đổi theo hướng hiện <br />
đại, do đó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực phù hợp để có thể sử dụng hiệu quả <br />
các trang thiết bị hiện đại, nâng cao hiệu quả đầu tư; sau đó tiếp tục nghiên cứu <br />
và ứng dụng một cách sáng tạo các thiết bị công nghệ mới.<br />
Thực tế cho thấy, đầu tư xây dựng cơ bản dù tăng nhưng thiếu người lao <br />
động và thiếu sự đồng bộ giữa trình độ công cụ lao động với trình độ chuyên <br />
môn của người lao động thì hiệu quả lao động không cao, gây lãng phí vốn đầu <br />
tư trong xã hội. Tính đồng bộ giữa trình độ công nghệ cao với trình độ kỹ thuật <br />
và công nhân lành nghề đòi hỏi hoạt động quản lý phải đáp ứng đủ và đúng <br />
chuyên môn, ngành nghề để có thể làm chủ các công nghệ mới.<br />
<br />
Trong xu thế hội nhập hiện nay, muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải <br />
tổ chức đào tạo nguồn nhân lực tốt hơn; đã có rất nhiều bài học về sự thất bại <br />
khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập trong khi trình độ chuyên môn <br />
người lao động trong nước còn non yếu. Nếu thiếu các chuyên gia giỏi về khoa <br />
học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề <br />
thì không thể ứng dụng được công nghệ mới, do đó phải đào tạo nguồn nhân <br />
lực.<br />
<br />
Việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất <br />
lượng mà còn phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho việc sắp xếp, phân công đó <br />
phải đảm bảo sự hợp lý, đúng người đúng việc.<br />
<br />
III. Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa tới hoạt <br />
động quản lý nguồn nhân lực<br />
<br />
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay gắn kiền với <br />
nền kinh tế tri thức, yếu tố con người được phát huy hơn bao giờ hết. Tính chất <br />
hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa trong sản xuất và cạnh tranh của các <br />
quốc gia ngày càng đi vào chiều sâu, nền kinh tế tri thức với động lực là sự tiến <br />
triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng phát triển.<br />
Lao động đơn giản ngày càng giảm ý nghĩa trong sản xuất và cạnh tranh <br />
mang tính toàn cầu. Năng lực và tư chất mới là điều quyết định vị trí mỗi con <br />
người. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn cầu hóa ngày càng <br />
phát triển, thì các thị trường ngày càng mở rộng, thương mại ngày càng tự do. <br />
Sức ép cạnh tranh của mỗi nền kinh tế, mỗi cá nhân cũng ngày càng tăng cao.<br />
<br />
Trước đây, giá công nhân rẻ là lợi thế của các nền kinh tế đang phát triển, <br />
trong đó có Việt Nam, để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động. <br />
Nhưng ngày nay, lợi thế ấy đang ngày càng mất đi. Trong bối cảnh khả năng <br />
tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại của mỗi nền kinh tế là như nhau, yếu <br />
tố cạnh tranh chủ yếu nằm ở khả năng quản lý nguồn nhân lực. Bởi vậy, việc <br />
không ngừng nâng cao tính cạnh tranh của nguồn nhân lực đang trở thành cuộc <br />
chạy đua giữa các nền kinh tế. Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu <br />
hóa đang tạo ra yêu cầu, động lực và điều kiện phát triển nguồn nhân lực, đào <br />
tạo và nâng cao tay nghề chuyên môn kỹ thuật.<br />
<br />
Hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình toàn cầu hóa kích thích sự phát triển <br />
nhanh chóng của khoa học công nghệ đòi hỏi người lao động phải không ngừng <br />
nâng cao trình độ để thao kịp yêu cầu của công việc, của cuộc sống. Toàn cầu <br />
hóa tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng tiếp cận được thông tin, tri <br />
thức mới, nâng cao dân trí.<br />
<br />
PHẦN IV: VÍ DỤ THỰC TIỄN CHỨNG MINH<br />
<br />
I. Thành tựu đã đạt được<br />
<br />
Kinh tế tăng trưởng và phát triển liên tục. Năm 2007 – năm đầu tiên là thành <br />
viên của WTO, chỉ số tăng trưởng GDP là 8,5%, của xuất khẩu 20,5%, thu hút <br />
FDI tăng 17%. Năm 2007, Việt Nam được UNDP đánh giá là nước thứ 6 trong <br />
“top ten” của thế giới về thu hút FDI cho các năm 2008 2009 (sau Trung Quốc, <br />
Mỹ, Ấn độ, Nga, Brazil), xếp hạng môi trường kinh doanh được nâng cấp lên <br />
13 bậc, … Nhờ GDP tính theo đầu người tăng gấp 4 lần so với trước đổi mới, <br />
nên đời sống của nhân dân nhìn chung được nâng cao rõ rệt. Việc Việt Nam <br />
ngày 16/10/2007 được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng bảo an <br />
Liên hợp quốc khóa 2008 2009 cho thấy vị thế Việt Nam trên trường quốc tế <br />
ngày càng được nâng cao.<br />
<br />
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, từ năm 2000 đến nay, đầu tư toàn xã <br />
hội ước chừng chiếm khoảng 30 – 40% GDP/năm, so với chỉ số tăng trưởng của <br />
những năm này ta có chỉ số ICOR hàng năm là xấp xỉ 5 hoặc