intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

Chia sẻ: Thùy Linh Nguyễn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

195
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp từ lâu đã được các sử gia phong kiến nhà Nguyễn chú ý. Có thể ra các tác phẩm tiêu biểu có đề cập đến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 vấn đề nông nghiệp và ruộng đất như: Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh dư địa chí... Từ sau năm 1945 trở lại đây đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng về tình hình ruộng đất và nông nghiệp Việt Nam trong lịch sử như...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN ĐỨC THẮNG TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN ĐỨC THẮNG TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo sư Trần Văn Giàu từng viết: “ Trải qua mấy ngàn năm, nước ta vẫn là một xứ nông nghiệp và lấy xã thôn làm đơn vị cơ sở. Tới đầu thế kỷ XIX, cương vực nước ta mới ổn định và thống nhất về mặt hành chính suốt từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau, gồm khoảng 18.000 làng với các tên gọi khác nhau như xã, thôn, phường, giáp, điếm, ấp, lân, trang, trại, man, sách ... Làng nước gắn bó xương thịt với nhau, vì nước là thân thể, còn làng là chi thể. Cả làng và nước đều sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Cho nên, hai vấn đề nông nghiệp và xã thôn là vô cùng quan trọng đối với sự tồn vong và lớn mạnh của dân tộc ta...” [8, tr.5] Chính vì lẽ đó việc quản lý nông nghiệp và ruộng đất là một trong những công việc trọng tâm của các vương triều phong kiến Việt Nam nói chung và triều Nguyễn nói riêng. “ Nhà nước Quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền có nắm chắc được ruộng đất mới có cơ sở để thu tô thuế-mà trong các xã hội tiền tư bản đều sống bằng nguồn thu từ tô thuế của dân. Với một đất nước nông nghiệp như Việt Nam vấn đề quản lý ruộng đất đặc biệt quan trọng. Việc quản lý chặt chẽ và có hiệu quả ruộng đất nhà nước có thể chi phối được mọi mặt của xã hội, trong đó trước hết là chi phối người nông dân. Đồng thời trên cơ sở làm tốt công việc này quyền sở hữu tối cao của nhà nước đối với ruộng đất trong cả nước mới được xác lập một cách vững chắc” [31] Chúng ta đi vào nghiên cứu chế độ sở hữu ruộng đất của các triều đại là đi vào vấn đề cơ bản, then chốt để giải mã lịch sử xã hội Việt N am phong kiến. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. 2 Nhà nước phong kiến lấy nông nghiệp làm gốc, là cơ sở của nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, tình hình ruộng đất và nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, qua việc nghiên cứu tình hình ruộng đất và nông nghiệp giúp chúng ta hiểu biết về chính sách về ruộng đất, thực trạng nông nghiệp từng địa phương. Từ thực tiễn đó cho chúng ta những hiểu biết cơ bản, toàn diện về những vấn đề xã hội, chính trị của từng địa phương. Đồng thời giúp lý giải thêm những vấn đề liên quan đến sản xuất, tập quán sản xuất, sinh hoạt văn hoá, các mối quan hệ xã hội cũng như sự phân hoá giai cấp trong làng xã. Từ những kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình nghiên cứu tình hình ruộng đất và nông nghiệp không chỉ có tác dụng tìm hiểu địa phương đó trong một khoảng thời gian nhất định là nửa đầu thế kỷ XIX , mà còn có ý nghĩa trong cuộc sống hiện đại. Chúng ta có thể học tập từ cha, ông ta trên nhiều lĩnh vực như: quản lý ruộng đất, kinh nghiệm canh tác, cải tạo tự nhiên, tìm hiểu về dòng họ mình thời xưa, kết cấu làng bản trong lịch sử… Xuất phát từ quan điểm nghiên cứu, tìm hiểu tình hình nông nghiệp và chế độ quản lý ruộng đất triều Nguyễn - một trong những vấn đề cơ bản của lịch sử phong kiến Việt Nam, từ đó tìm hiểu tình hình ruộng đất, nông nghiệp của huyện Ba Bể qua một thời kỳ lịch sử cụ thể là nửa đầu thế kỷ XIX. Việc nghiên cứu này cũng có thể góp phần thực hiện chính sách của Đảng, nhà nước trong việc đầu tư phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh trung du miền núi phía Bắc nói chung và Bắc Kạn nói riêng. Chúng tôi lựa chọn đề tài “ Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) nửa đầu thế kỷ XIX ” làm đề tài tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp từ lâu đã được các sử gia phong kiến nhà Nguyễn chú ý. Có thể ra các tác phẩm tiêu biểu có đề cập đến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 3 vấn đề nông nghiệp và ruộng đất như: Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh dư địa chí... Từ sau năm 1945 trở lại đây đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu rộ ng về tình hình ruộng đất và nông nghiệp Việt Nam trong lịch sử như: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI -XVIII của Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX của Vũ Huy Phúc, Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn của Trương Hữu Quýnh - Đỗ Bang (chủ biên), Địa Bạ Hà Đông của Phan Huy Lê và P.Brocheux, Địa bạ cổ Hà Nội của Phan Huy Lê, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu... Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tình hình nông nghiệp và ruộng đất Việt Nam, dựa trên nguồn sử liệu chính thống và những nguồn tư liệu địa phương như văn bia, gia phả, hương ước…Trên cơ sở đó thu được thành quả to lớn, hệ thống hoá chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn và tác động của nó đối với kết cấu xã hội… Những thành quả trên là cơ sở tham khảo quan trong giúp chúng tôi trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài. Trong phạm vi địa phương đã có một số công trình nghiên cứu được xuất bản thành sách,có đề cập tới vấn đề đang được nghiên cứu như: Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Lịch sử Đảng bộ huyện Ba Bể (tập 1,2,3), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ … Đây là những tác phẩm nghiên cứu trực tiếp về huyện Ba Bể , là nguồn tư liệu để nghiên cứu kết hợp làm nổi bật vấn đề. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi thừa hưởng rất ít các kết quả nghiên cứu của những người đi trước. Đặc biệt, một công trình nghiên cứu có đối tượng là địa bạ huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến nay chưa được thực hiện. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. 4 Mặc dù vậy, một số luận văn Thạc sĩ hay khoá luận tốt nghiệp của sinh viên về tình hình ruộng đất và nông nghiệp từng địa phương gần đây đã được thực hiện như: Khoá luận tốt nghiệp Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Phú Lương (Thái Nguyên), nửa đầu thế kỷ XIX của Nguyễn Thị Mai Anh,Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Đồng Hỷ (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX của Mai Thị Hồng Vinh, Luận văn Thạc sĩ Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ XIX của Nông Quốc Huy, Huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên qua tư liệu địa bạ triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX của Lê Thị Thu Hương… Chúng tôi xem các thành quả nghiên cứu của nhữn g người đi trước là những ý kiến gợi mở, những kinh nghiệm quý báu để thực hiện đề tài nghiên cứu địa bạ của mình, nhằm mục đích tìm hiểu các vấn đề trên. Đặc biệt những địa phương có đặc thù gần gũi về mặt địa lý đối với địa bàn huyện Ba Bể sẽ là đối tượng để chúng tôi so sánh và đối chiếu. Như vậy, cho đến nay, chưa có một tác phẩm là kết quả của một công trình nghiên cứu toàn diện về nông nghiệp và địa bạ vùng trung du và miền núi phía Bắc được xuất bản. Chính vì vậy, vẫn còn nhiều vấn đề về chế độ sở hữu ruộng đất, thành phần dân tộc, tình hình ruộng đất nông nghiệp ... của vùng này còn trống vắng cần được nghiên cứu. 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: thực hiện đề tài “Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể(tỉnh Bắc Kạn) nửa đầu thế kỷ XIX ”, trên cơ sở nguồn tư liệu khai thác được, chúng tôi mong muốn góp phần phản ánh một cách khách quan, khoa học về ruộ ng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn vào thời điểm giữa thế kỷ XIX. Từ đó, đề tài tiến hành phân tích và đưa ra một số nhận xét về tình hình ruộng đất và cơ cấu kinh tế - xã hội của địa phương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 5 - Đối tượng nghiên cứu: tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. - Giới hạn nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn lịch sử Việt Nam có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, xã hội. Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của huyện Ba Bể, khi đó còn nằm trong tỉnh Thái Nguyên. 4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu - Nguồn tư liệu thành văn: bao gồm những tài liệu chính sử của quốc sử quán triều Nguyễn như Lịch triều hiến chương loại chí, Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đồng Khánh dư địa chí ... Đặc biệt những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI -XVIII của Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam của Vũ Huy Phúc, Địa Bạ Hà Đông của Phan Huy Lê và P.Brocheux, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu ... - Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Địa lý tỉnh Bắc Kạn... - Nguồn tư liệu thực địa, điền dã: các tài liệu truyền miệng, truyện kể, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ địa phương... - Nguồn tư liệu địa bạ: bao gồm 21 đơn vị địa bạ có niên đại Minh Mệnh 21 (1840) và một đơn vị địa bạ có niên hiệu Gia Long 4 (1805) đang được lưu giữ tai Trung tâm lưu tr÷ quốc gia I, Hà Nội với các ký hiệu từ 8195 đến 8257. Hầu hết các thôn, xóm đều có địa bạ , đây là cơ sở để chúng tôi phục dựng lại tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiêp của huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. 6 Trên cơ sở thực tế là nguồn tư liệu gốc địa bạ triều Nguyễn, chúng tôi đặc biệt chú ý khâu giám định, biên dịch tư liệu chữ Hán. Trên cơ sở khảo sát tư liệu gốc kết hợp với phân tích, định lượng để bóc tách và xử lý tư liệu trong nguồn tư liệu địa bạ vốn đề cập đến nhiều vấn đề, nhằm tìm hiểu chính xác tình hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của huyện Ba Bể, đồng thời xử lý số liệu, so sánh, đối chiếu với các nguồn tư liệu khác có liên quan. Kết hợp khai thác nguồn tư liệu thành văn, đồng thời chúng tôi sử dụng phương pháp hồi cố và điền dã làm trọng tâm. Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc, phương pháp thống kê, đối sánh,phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân loại, phương pháp phê phán tư liệu nhằm mục đích làm rõ vấn đề nghiên cứu. 5. Đóng góp của luận văn Đề tài này được thực hiện nhằm đạt được những thành quả cụ thể: Từ góc độ địa lý lịch sử phân tích một cách khái quát về vị trí địa lý huyện Ba Bể. Thống kê chi tiết địa bạ huyện Ba Bể tới từng chủ sở hữu. Trên cơ sở các kết quả thống kê diện tích, chúng tôi tiến hành phân tích và đối chứng so sánh, rút ra những kết luận về ảnh hưởng của những thập kỷ chiến tranh, loạn lạc tới tình hình ruộng đất và nông nghiệp, đặc điểm chế độ sở hữu ruộng đất của huyện Ba Bể. Trên cơ sơ phân tích địa bạ, luận văn tìm hiểu phong tục tập quán liên quan đến ruộng đất và nông nghiệp của đồng bào các dân tộc huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. Đúc rút những kinh nghiệm của cha, ông trong việc quản lý và khai thác đất đai. Cung cấp thêm tư liệu giúp địa phương phát triển kinh tế nông nghiệp một cách có hiệu quả nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. 7 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm 103 trang, được chia làm 3 phần, phần mở đầu (7 trang), phần nội dung ( 86 trang), phần kết luận (5 trang). Ngoài ra còn có 5 trang tài liệu tham khảo và phần phụ lục. Phần nội dung được chia làm 3 chương: Chương 1: Khái quát về huyện Ba Bể - Tỉnh Bắc Kạn (17 trang). Chương 2: Tính hình ruộng đất huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX (41 trang). Chương 3: Kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX (28 trang). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 8 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN BA BỂ - TỈNH BẮC KẠN 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 1.1.1. VÞ trÝ ®Þa lý Huyện Ba Bể ngày nay là huyện miền núi, vùng cao của tỉnh Bắc Kạn, cách thị xã tỉnh lỵ 60 km về phía Tây bắc, cách thủ đô Hà Nội 230 km. Ba Bể nằm ở Tây Bắc tỉnh Bắc Kạn, phía bắc giáp huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng và huyện Pác Nặm (trước đây là 10 xã thuộc Ba Bể năm 2003 được chia tách thành lập huyện Pắc Nặm), phía tây giáp huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáp huyện Ngân Sơn, phía nam giáp huyện Bạch Thông và Chợ Đồn. Huyện Ba Bể nằm trong toạ độ địa lý từ 22027’ đến 22035’ vĩ độ Bắc và 105044’ đến 105058’ kinh độ Đông. Huyện Ba Bể có vị trí địa lý tương đối thuận lợi để giao lưu, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội với các huyện trong tỉnh và các tỉnh lân cận. Theo số liệu thống kê mới nhất năm 2009, huyện có tổng diện tích là 678,09km2 tương đương 68.412 ha (bằng 14,1% diện tích tỉnh Bắc Kạn), trong đó hơn 90% là rừng núi và sông, hồ . Trung tâm của huyện là huyện lị Chợ Rã và 15 xã trực thuộc là: Mỹ Phương, Chu Hương, Yến Dương, Địa Linh, Hà Hiệu (đầu thế kỷ XIX có tên là Hạ Hiệu đến cuối thế kỷ XIX đổi tên thành Hà Hiệu) [20,tr.3], Phúc Lộc, Bành Trạch, Cao Trĩ, Khang Ninh, Cao Thượng, Thượng Giáo, Nam Mẫ u, Quảng Khê, Đồng Phúc, Hoàng Trĩ. Ba Bể là một huyện miền núi với bề mặt địa hình bị chia cắt mạnh và có độ dốc lớn, hướng núi không đồng nhất. Độ cao trung bình trên 600m so với mặt nước biển, nơi có địa hình cao nhất là 1517m nằm trên đỉnh Phia Bjooc. Địa hình Ba Bể nghiêng dần theo hướng đông bắc - tây nam. Huyện Ba Bể có địa hình hiểm trở nhưng hùng vĩ và đa dạng về sinh thái. Cánh cung sông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 9 Gâm chạy dài theo hướng đông bắc - tây nam xuyên suốt địa giới của huyện với dãy Phja Bjoóc trùng điệp, hùng vĩ như một bức trường thành. ở Phía tây bắc và đông nam có hai ngọn núi Phja Mạ cao 1.980m và Phja Ngoàm cao 1.190m. Ba Bể có nhiều hang động kỳ thú, độc đáo có thể cải tạo thành nhiều điểm du lịch đặc sắc, hấp dẫn. Trên địa bàn huyện có hồ Ba Bể, đây là một hồ kiến tạo lớn nhất và cũng là một danh thắng nổi tiếng cả nước. Hồ Ba Bể nằm trên độ cao 145m, chứa khoảng gần 5 triệu m3 gồm ba hồ (Pộ Nằm, Pộ Lự, Pộ Làng) dài gần 9 km, nơi rộng nhất tới gần 2 km, sâu chừng 30 - 40m, là hồ kiến tạo được cấu tạo trong đá phiến và đá vôi. Hồ hơi eo lại ở giữa thành dạng một hành lang giữa các vách đá dựng đứng. Giữa hồ có 3 đảo nhỏ, lớn nhất là đảo An Mã cùng với hồ Ba Bể là vườn Quốc gia Ba Bể với một hệ t hống rừng đặc dụng, di sản thiên nhiên quý giá có diện tích 23.340ha, ở đây có tới 417 loài thực vật và 299 loài động vật có xương sống. Huyện Ba Bể có rất nhiều tiề m năng để phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là ngành du lịch sinh thái. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để tỉnh Bắc Kạn đầu tư phát triển thoát nghèo. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên Theo sách Đại Nam nhất thống chí mục thổ sản cho biết, châu Bạch Thông nói chung và Ba Bể nói riêng là vùng khá phong phú về các loại thổ sản và khoáng sản. Châu Bạch Thông có mỏ vàng Bằng Thành, mỗi năm thu thuế 15 lạng, mỏ sắt Quảng Khê 500 cân. Các loai lâm thổ sản quý đã được khai thác và sử dụng trong cuộc sống lao động và sản xuất như: “Cỏ tranh, lá cọ, các loại mây, hậu phác, sa nhân, tre nứa, tre gai, tre hoa (tức ban trúc, có vằn tròn, như hình trôn ốc, chất cứng rắn, người ta thường dùng làm đòn cáng), gỗ lim, gỗ sến, gỗ đinh, gỗ táu, gỗ xoan: các thứ kể trên đều sản ở các châu huyện Đông Hỉ, Phổ Yên, Phú Lương và Bạch Thông” [7, tr.181] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. 10 Về địa hình: huyện Ba Bể có thể chia thành ba khu vực. Các xã phia Tây như Nam Mẫu, Quảng Khê, Cao Trĩ, Hoàng Trĩ với những dãy núi đá vôi cao trên 1000m, xen giữa là các thung lũng hẹp tạo thành những dãy núi dựng đứng treo leo. Độ cao phổ biến từ 600 - 1000m, độ dốc trên 30. Đây là vùng núi cao điển hình, ít có điều kiện phát triển nông nghiệp. Phía Nam là các xã với địa hình núi đất độ cao từ 300 - 400m, độ dốc bình quân trên 20 nhưng bị chia cắt mạnh bởi các khe suối, là địa bàn có thể phát triển nông nghiệp và nông - lâm kết hợp. Đây là vùng có tiềm năng lớn để phát triển các loại cây ăn quả, cây lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Vùng trung tâm huyện và các xã phụ cận là các thung lũng phân bố dọc theo các dòng sông, dòng suối. Xen giữa các thung lũng là các dãy núi có độ cao trung bình từ 200 - 300m. Diện tích vùng này khoả ng 1000ha đây là vùng tập trung các cánh dồng mầu mỡ của huyện. Với đặc điểm bao gồm cả ba loại hình núi đá vôi, núi đất và thung lũng là đặc điểm thuận lợi phát triển nông lâm nghiệp kết hợp,đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi Về khí hậu: Theo sách Đồng Khánh dư địa chí thì khí hậu chung của châu Bạch Thông là: “Khí trời nhiều lạnh rét, khí đất ẩm ướt, cuối xuân còn lạnh, đến mùa hạ mới hơi nóng, đầu thu đã rét, đến mùa đông rét đậm. Mùa đông và mùa xuân sương mù khí núi che phủ bầu trời, trước giờ Tý sau giờ Thân từ nhìn quanh không thấy núi” [10, tr.820] Ba Bể có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa nóng từ tháng tư đến tháng mười, mùa lạnh từ tháng mười một đến tháng ba năm sau. Nhìn chung Ba Bể có đặc điểm khí hậu tương đối thuận lợi cho việc phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vât nuôi. - Các dạng thời tiết chính: Thời tiết giá rét-gió Mùa Đông bắc, thời tiết nồm, thời tiết sương muối, thời tiết khô nóng, thời tiết mây mù.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 11 Sông ngòi, thuỷ văn: Ba Bể có những hệ thống sông suố i khá dày và trực tiếp chi phối chế độ thuỷ văn của huyện, song các sông suối đa phần đều có đầu nguồn hẹp, độ dốc lớn nên thường gây ra lũ ống, lũ quét và ngập úng về mùa mưa, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất cây trồng và làm xói lở, vùi lấp một phần diện tích nông nghiệp. Cụ thể Ba Bể có các hệ thống sông chính: - Sông Năng: Bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Bảo Lạc - Cao Bằng chảy vào tỉnh Bắc Kạn ở xã Bằng Thành, huyện Pác Nặm. Một nhánh phụ bắt nguồn từ phần phía đông của dãy Phia Bjooc , theo hướng đông - tây, chảy qua các xã Chu Hương, Mỹ Phương, Hà Hiệu và nhập với nhánh chính trên địa bàn xã Bành Trạch đi qua thị trấn Chợ Rã, xã Thượng Giáo, xã Cao Trĩ, Khang Ninh, sau đó nhận được nước của sông Chợ Lèng rồi chảy sang địa phận Tuyên Quang.Tổng chiều dài 113km2, phần qua Bắc Kạn 87km2. Tổng lưu vực rộng 2270km2 với phần chảy qua Bắc Kạn rộng 890km2. Hướng chảy: Từ Cao Bằng - Bằng Thành (Pắc Nặm) - Xuân La - Anh Thắng - Bành Trạch. Hướng Tây Bắc - Đông Nam. Từ Bành Trạch- Cao Thượng - Tuyên Quang theo hường Đông – Tây. Sông qua núi Lũng Nham tạo thành động Puông dài 300m rộng và cao 30- 40m. Hết địa phận Bắc Kạn, sông bị chặn bởi nhiều tảng đá to, chia thành các dòng nhỏ và tạo thành thác Đầu Đẳng hùng vĩ dài hơn 1000m, chảy sát hồ Ba Bể nên sông có cửa thông với hồ là cửa Bế Cam (Nam Mẫu). Sông có tiềm năng thủy điện lớn hiện đang xây dựng nhà máy thuỷ điện Na Hang(Tuyên Quang). Cuối cùng sông Năng đổ vào sông Gâm ở Tuyên Quang. Sông Năng có nhiều sông, suối nhỏ đổ vào sông như sông Bộc Bố, sông Hà Hiệu. - Sông Chợ Lèng chảy vào lòng hồ Ba Bể bắt nguồn từ dãy núi Phia Booc chảy theo hướng đông nam - tây bắc, qua địa bàn huyện Ba Bể trên địa phận các xã Đồng Phúc, Quảng Khê, Nam Mẫu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. 12 - Sông Tả Han và suối Bó Lù đều bắt nguồn từ dãy Phia Bjooc chảy vào hồ Ba Bể. - Suối Cao Thượng bắt nguồn từ xã Cổ Linh huyện Pắc Nặm chảy qua địa bàn xã Cao Thượng rồi hoà vào sông Năng. Điều kiện tự nhiên của Ba Bể có nhiề u thuận lợi để phát triển nông - lâm nghiêp. Mặc dù vậy, Ba Bể cần phải đầu tư nâng cấp và phát triển mạng lưới giao thông đường bộ để mở rộng thị trường, tạo điều kiện thông thương giao lưu hàng hoá phát triển. Trong thời gian vừa qua mạng lưới giao thông của tỉnh Bắc Kạn nói chung và huyện Ba Bể nói riêng đã được quan tâm đầu tư xây dựng. Mạng lưới đường bộ gồm hệ thống quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường đô thị, đường xã và đường thôn xóm với tổng chiều dài 1166 km, trong đó: Quốc lộ với tổng chiều dài 160 km với 42 cầu; Đường tỉnh với tổng chiều dài 367 km với 47 cầu; Đ ường huyện có tổng chiều dài 673 km với 106 cầu, mật độ đường đạt 24,31 km/km2. Do địa hình vùng này phức tạp nên hệ thống đường giao thông của tỉnh rất nhiều cầu, cống, với trên 10 00 km đường bộ có tới 195 cây cầu và 1673 cống. Quốc lộ 3 chạy suốt theo chiều dài của tỉnh và các đường tỉnh lộ đều bắt đầu từ trục quốc lộ 3. Quốc lộ 279 (đường vành đai II) cũng đã và đang được từng bước năng cấp nối Bắc Kạn với Lạng Sơn và Tuyên Quang. Các t uyến khác như đường 254 Đèo So - Chợ Đồn- Ba Bể và đường Bằng Lũng qua Ba Hồ – Yên Thượng, huyện Chợ Đồn cũng đã được nâng cấp. Trong thời kỳ 2001-2006 đã đầu tư nâng cấp, xây dựng mới trên 500 km đường h uyện, trên 1000 km đường liên xã, liên thôn đạt tỷ lệ 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã. Hoàn thành các cầu lớn như Thác Giềng, Yên Đĩnh, Hảo Nghĩa, Dương Quang, Bắc Kạn II. Đường liên xã tổng chiều dài trên 1000 Km, đạt tiêu chuẩn giao thông nội tỉnh loại A, B, mặt đường là đất cấp phối tự nhiên, ngoài ra hệ thống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 13 đường giao thông nội tỉnh, đường thôn xóm có chiều dài khoảng 4000 Km đạt tiêu chuẩn giao thông nội tỉnh loại B không tính vào mạng lưới giao thông đường bộ. Nhìn chung mạng lưới đường bộ trong tỉnh tạo thuận lợi trong việc giao lưu với các tỉnh bạn, nối liền trung tâm của tỉnh với trung tâm của huyện và trung tâm các xã. Về chất lượng tuy có được cải thiện song vẫn thấp so với yêu cầu cần thiết, có nhiều tuyến chưa được nâng cấp trải nhựa, đặc biệt là những tuyến nằm ở miền núi và các tuyến đường huyện xã. Nhìn chung, hệ thống giao thông của tỉnh Bắc Kạn tuy đã được Chính phủ đầu tư, song vẫn còn rất nhiều khó khăn, vì vậy để tạo môi trường đầu tư thuận lợi và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, đòi hỏi phải nâng cấp trục quốc lộ 3 thành đường cao tốc, nhằm rút ngắn thời gian vận chu yển từ Bắc Kạn về các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, đồng thời tiến hành đồng bộ việc mở thêm các tuyến đường mới với việc nâng cấp các các tuyến đường hiện cũ. Trên địa bàn tỉnh có 5 dòng sông chảy qua nhưng chủ yếu là sông đầu nguồn, dòng chảy hẹp, mực nước nông lại nhiều ghềnh thác nên hệ thống giao thông đường thuỷ của Bắc Kạn không có điều kiện phát triển. Chỉ có sông Năng và sông Cầu có thể khai thác từng đoạn ngắn và cũng chỉ vận chuyển được bằng thuyền gắn máy nhỏ. 1.2. Các thành phần dân tộc huyện Ba Bể Thành phần dân tộc của huyện Ba Bể được viết trong một số tài liệu không thống nhất trong việc xác định số lượng các dân tộc trên địa bàn huyện. Về cơ bản Ba Bể có 6 dân tộc chính sinh sống trên 16 đơn vị hành chính xã, thị trấn với 199 thôn, bản. Năm dân tộc đó là Tày, Kinh, Dao, Mông, Nùng, Sán Chí với 10.025 hộ, khoảng 47.000 người. Trong đó dân số nông thôn khoảng 43.54 người (chiếm tỷ lệ 92,7%). Mật độ dân số trung bình là 69 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. 14 người/km2. Trong quá trình lịch sử, huyện Ba Bể đã tiếp nhận n hiều dân tộc di cư đến cùng làm ăn, sinh sống: “Trong toàn huyện, người Thổ (người Tày), người Nùng, người Mán ở xen nhau. Tiếng nói, quần áo, tập tục ăn cũng giống dân huyện Cảm Hoá.Người Mán cũng có Mán Đại Bản, Mán Đeo Tiền, Mán Sơn Miêu, phong tục khác nhau” [10, tr.820] 1.2.1. Người Tày: Người Tày ở Bắc Kạn là cộng đồng dân số có số dân đông nhất với 149.459 người chiếm 54,32% dân số toàn tỉnh. Người Tày ở Bắc Kạn gồm ba bộ phận cấu thành với những tên gọi khác nhau: + Bộ phận người Tày bản địa từ thờ i nguyên thuỷ đã có mặt và sinh sống ở Bắc Kạn + Bộ phận người Tày gốc Kinh từ dưới xuôi lên theo thời gian lâu dài đã Tày hoá + Bộ phận người Tày - Nùng từ Quảng Tây (Trung Quốc) sang Bắc Kạn. Bộ phận người Tày ở Ba Bể chủ yếu là người Tày Nặm (Tày nước đ ể phân biệt với Tày Bốc tức Tày cạn ở huyện Pắc Nặm). Người Tày Nặm sống ở vùng thấp nhiều sông nước như các xã hạ lưu sông Năng, sông Cầu. Ngoài ra còn có người Tày Slo ở Mường Slo thuộc thung lũng sông Năng. Người Tày sống tập trung thành làng bản trong các thung lũng lòng chảo, lòng máng hoặc dọc theo hai bờ sông, suối. Có bản đông tới vài chục nóc nhà, cũng có bản chỉ có vài ba nóc nhà đơn sơ dựng bên sườn núi. Ở nhà sàn cho tới nay vẫn là truyền thống của đồng bào. Tại một số địa phương như Nghiêm Loan, đồng bào vẫn còn giữ được đặc trưng của nếp nhà sàn cổ xưa. Ở những vùng tiếp cận với thị trấn và các chợ như Phố cũ, xã Hà Hiệu, nhiều hộ đã bỏ nhà sàn chuyển sang ở nhà đất, nhà xây như ở dưới xuôi. Đồng bào Tày làm ruộng nước là chính, ngoài ra còn chống ngô và hoa mầu ở các soi, bãi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 15 1.2.2 Người Kinh: Ngay từ buổi đầu dựng nước, các triều đại phong kiến Lý - Trần đã rất chú ý đến cộng đồng các dâ n tộc miền núi phía Bắc, thể hiện qua việc phong tước, chọn phò mà là các tù trưởng có uy tín. Có lẽ bộ phậ n người Kinh đầu tiên ở vùng núi phía Bắc là những binh lính đồn trú ở biên giới, hay những người hầu cận của các vị công chúa phong kiến xuất hiện ở đây. Đặc biệt thời kỳ nội chiến Nam - Bắc triều (từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII), các thế lực họ Mạc, các lực lượng Lê - Trịnh phát triển mạnh lên miền núi, trong đó có Bắc Kạn. Một số người ở lại và bị Tày hoá. Sang đến thời Nguyễn rồi thời Pháp, người Kinh ở miền xuôi vẫn tiếp tục lên Bắc Kạn bằng nhiều con đường: lưu quan, binh lính, phu mỏ, phu làm đườ ng…và họ tiếp tục bị Tày hoá. Số người Kinh lên Bắc Kạn khoảng đầu thế kỷ XX đến trước 1945 nằm trong bộ máy cầm quyền của Pháp như binh lính, thầy giáo, thầy thuốc và một số tiểu thương buôn bán nhỏ không bị Tày hoá mạnh như trước. Họ trở thành bộ phận người Kinh ở Bắc Kạn.Năm 1932 có khoảng 3.900 người Kinh ở Bắc Kạn, chủ yếu ở các thị trấn, thị xã. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Bắc Kạn đón tiếp nhiều cán bộ, bộ đội, thanh niên xung phong và cả đông bào tản cư lên tham gia kháng chiến. Sau năm 1954, một số người không trở về quê hương mà ở lại sinh cơ lập nghiệp rối thành người Bắc Kạn. Thời kỳ những năm 60 thế kỷ XX, theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiêù kiều bào đã từ nước ngoài trở về xây dựng tổ quốc. Nhiều người vốn quê ở Bắc Kạn đã trở về quê hương. Ngày này nhiều người là cán bộ chủ chốt của tỉnh Bắc Kạn. Từ năm 1963 trở đi, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đưa một số đồng bào Kinh lên miền núi khai hoang phát triển kinh tế- văn hoá, số người Kinh lên Bắc Kạn tăng nhanh với hàng nghìn hộ, phân bố hầu khắp các xã trong toàn tỉnh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. 16 Người Kinh định cư ở Ba Bể chủ yếu từ sau năm 1963 , hiện nay vẫn có người Kinh lên Ba Bể lập nghiệp theo con đường buôn bán hoặc hôn nhân. Người Kinh ở Ba Bể sống tập trung chủ yếu ở thị trấn, số đông làm nghề buôn bán. 1.2.3.Người Nùng: Người Nùng từ Trung Quốc đến s inh sống ở Bắc Kạn chủ yếu từ 6 - 7 đời gần đây. Ở Bắc Kạn chủ yếu có các nhóm Nùng là Nùng Phản Sinh, Nùng An, Nùng Giang, Nùng Cháo. Người Nùng ở Ba Bể chủ yếu là người Nùng An, phần lớn theo đường Quảng Hoá - Cao Bằng sang, một số sang Hoà An ngược sông Nguyên Bình đến các huyện Ba Bê, Bạch Thông. Người Nùng chủ yếu sống ở vùng thấp, lấy nghề nông lúa nước làm nguồn sống chính, họ ở xen canh trong vùng người Tày, sớm hoà nhập vào cộng đông dân cư địa phương, một số có xu hướng chuyển sang dân tộc Tày. 1.2.4 Người Dao: Có số dân đứng thứ hai sau người Tày, người H’Mông có số dân khoảng hơn nửa số dân người Dao. Người Dao và người H’Mông sinh sống chủ yếu ở vùng núi cao, làng bản thưa thớt, nhà cửa đơ n sơ. Địa bàn sinh sống tập trung của đông bào là quanh chân núi Phja Bjoóc với phương thức du canh, du cư, phát nương làm rẫy, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu. Ngày nay, Đảng bộ, chính quyền địa phương đang từng bước giải quyết, ổn định đời sống của đồng bà o, xoá bỏ nạn phá rừng. Người Dao ở huyện Ba Bể chủ yếu là người Dao thuộc ngành Dao đỏ với các nhành Dụ Lảy, Dụ Tsiăng. “- Dụ Lảy là tên tự gọi, còn gọi là Dao Quế Lâm. Nguyên chi này gốc ở Quế Lâm - Trung Quốc, hiện cư trú tập trung tại hai bên dãy núi Phja Bjoóc thuộc các huyện Ba Bể, Chợ Đồn, Bạch Thông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. 17 - Dụ Tsiăng (còn gọi là Dụ Nhiaa): Dụ Tsiăng là tên tự gọi, Dụ Nhiaa là do nhóm Dụ Kùn gọi. Đây là chi có dân số đông nhất và địa vực cư trú rộng nhất tại Bắc Kạn. Bao gồm hầu hết các vùng, khu vực củ a tỉnh” [3, tr.164]. Người Dao sống du canh là chính nhưng cũng có sống tập trung xen kẽ với các dân tộc khác. Mặc dù ở cùng bản với người Tày, Nùng nhưng người Dao thường tách ra ở một khu riêng biệt. Người Dao thường tập trung khoảng 5 - 7 gia đình sống tại một triền đồi, núi hay một khu vực nào đó đáp ứng được nhu cầu về nguồn nước và thuận lợi trong sinh hoạt, cũng như có điều kiện canh tác tốt. Người Dao ở Bắc Kạn thường sống ở khu vực tương đối thấp nhưng ở Ba Bể cư dân sống ở các núi cao như bản Nà V ài, Nà Hai (Quảng Khê), Tẩn Lùng, Lủng Mình (Đồng Phúc)….Bản của người Dao thường cư trú theo quan hệ dòng tộc, huyết thống. Rất ít bản có nhiều dòng họ, nhiều ngành, nhóm cùng sinh sống [3, tr.187]. Nền kinh tế truyền thống của người Dao chủ yếu là nông n ghiệp, chăn nuôi và thu hái lâm thổ sản. Người Dao do cuộc sống du canh, du cư đời sống không ổn định, cư trú dựa vào nương rầy là chính nên nghề thủ công không được coi trọng. Các nghề dệt, rèn, đan lát…hầu hết là để phục vụ cho cuộc sống gia đình. sản phẩm thừa mới đem bán nhưng lãi suất thấp. Những nghề này chỉ được làm khi nông nhàn. 1.2.5.Người Mông: Người Mông ở Bắc Kạn tập trung đông nhất ở Ba Bể và Pắc Nặm với dân số là 9.938 người. Trong đó ở Ba Bể tập trung đông nhất ở xã Nam Mẫu: “+ Nam Mẫu (Ba Bể): 211 hộ, 1428 người, 49% dân số xã” [3, tr.319]. Người Mông ở Ba Bể là nhóm Mông Trắng từ Trung Quốc di cư sang Việt Nam, trước hết vào Cao Bằng, sau đó di cư tới các tỉnh trong đó có Bắc Kạn. Nhóm người Mông Trắng là nhóm người Mông đầu tiên di cư đến sống ở Bắc Kạn. “…Sớm nhất là các nhóm Mông Trắng đến phía Bắc các huyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0