intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Điển cố trong Thư trì thi tập của Vũ Phạm Hàm

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

51
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Điển cố là một câu chuyện về việc cũ người xưa được rút gọn lại hoặc có thể chỉ là một vài chữ được rút ra từ tác phẩm cổ. Trong Thư Trì thi tập, Vũ Phạm Hàm đã sử dụng một số điển cố nhằm giúp câu thơ ngắn gọn, súc tích, thanh nhã, sinh động. Các điển cố ông sử dụng chủ yếu được rút ra từ truyền thuyết, thơ văn cổ Trung Hoa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Điển cố trong Thư trì thi tập của Vũ Phạm Hàm

Ngô Thị Thu Trang<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 109(09): 15 - 19<br /> <br /> ĐIỂN CỐ TRONG THƯ TRÌ THI TẬP CỦA VŨ PHẠM HÀM<br /> Ngô Thị Thu Trang<br /> Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Điển cố là một câu chuyện về việc cũ người xưa được rút gọn lại hoặc có thể chỉ là một vài chữ<br /> được rút ra từ tác phẩm cổ. Trong Thư Trì thi tập, Vũ Phạm Hàm đã sử dụng một số điển cố nhằm<br /> giúp câu thơ ngắn gọn, súc tích, thanh nhã, sinh động. Các điển cố ông sử dụng chủ yếu được rút<br /> ra từ truyền thuyết, thơ văn cổ Trung Hoa. Ông không dùng nhiều điển cố và những điển cố trong<br /> thơ ông thường dễ hiểu. Đó có thể là một vài từ ngữ nhằm gợi đến bài học về phẩm chất đạo đức<br /> của con người, có thể là mượn tên một nhân vật nào đó trong sách xưa hoặc một số từ được lấy từ<br /> Kinh Thi… Với cách dùng điển khéo léo, tinh tế, Vũ Phạm Hàm đã làm tăng thêm sức biểu cảm<br /> và sự sâu sắc cho câu thơ đồng thời thể hiện được vốn kiến thức uyên bác của ông.<br /> Từ khoá: điển cố, Thư Trì thi tập, Vũ Phạm Hàm, ngắn gọn, uyên bác<br /> <br /> Điển cố là một trong những biện pháp tu từ<br /> được sử dụng nhiều trong các tác phẩm thơ<br /> văn trung đại nhằm giúp cho câu thơ, câu văn<br /> cô đọng, hàm súc, ý nhị và sâu sắc. Theo<br /> Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn<br /> học sử yếu thì “Điển 典 (nghĩa đen là việc cũ)<br /> là một chữ hoặc một câu có ám chỉ đến một<br /> việc cũ, một sự tích xưa khiến cho người đọc<br /> sách phải nhớ đến việc ấy, sự tích ấy mới hiểu<br /> được ý nghĩa và cái lý thú của câu văn. Dùng<br /> điển chữ Nho gọi là dụng điển 用 典 hoặc sử<br /> sự 使 事 (nghĩa đen là khiến việc) ý nói sai<br /> khiến việc đời xưa cho nó có thể ứng dụng<br /> vào bài văn của mình” [1, 170]. Nguyễn Ngọc<br /> San trong Từ điển điển cố văn học trong nhà<br /> trường thì cho rằng “ … Điển cố là viết gọn<br /> chuyện cũ lời xưa thành đôi ba chữ để đưa<br /> vào văn chương, làm cho câu văn hàm súc,<br /> ngắn gọn, lời ít ý nhiều” [3, 3]. Điển cố xuất<br /> hiện ở hầu hết các thể loại trong văn học cổ<br /> như thơ ca, từ phú, biền văn, tản văn… và<br /> được coi là “một dạng thức độc đáo để biểu<br /> hiện tư tưởng, tình cảm cũng như để xây dựng<br /> hình tượng nghệ thuật” [2, 5]. Chính vì vậy,<br /> muốn hiểu các tác phẩm văn học cổ chúng ta<br /> không thể không quan tâm đến cách sử dụng<br /> điển cố và vai trò của điển cố.*<br /> Vũ Phạm Hàm là một vị Thám hoa, là người<br /> đã từng đỗ đầu cả ba kỳ thi Hương, thi Hội,<br /> thi Đình cho nên chắc chắn rằng ông là người<br /> *<br /> <br /> Tel: 0915176762<br /> <br /> rất thông thuộc các tác phẩm thi phú, kinh, sử,<br /> truyện… trong kho tàng thư tịch cổ và việc<br /> vận dụng những kiến thức đó trong sáng tác<br /> cũng góp phần thể hiện học vấn uyên thâm<br /> của ông. Các điển cố trong Thư Trì thi tập<br /> không nhiều và hầu hết đều được lấy từ trong<br /> sách vở Trung Hoa. Qua việc tìm hiểu những<br /> điển cố trong tập thơ này chúng ta sẽ có cơ<br /> hội hiểu rõ hơn về tư tưởng tình cảm cũng<br /> như tài năng thi ca của tác giả.<br /> Điển cố có khi chỉ là vài từ nhưng ẩn trong<br /> hình thức cô đọng ấy là cả một thế giới hình<br /> tượng với những bài học về phẩm chất đạo<br /> đức, những triết lý nhân sinh sâu sắc, những<br /> kinh nghiệm quý báu trong cuộc sống mà tác<br /> giả mượn của người xưa để gửi gắm suy nghĩ<br /> của mình. Trong bài 調 同 院 年 兄 恭 平 叔<br /> 道 成 Điệu đồng viện niên huynh Cung Bình<br /> Thúc đạo thành (Viện huynh Cung Bình Thúc<br /> người cùng viện là Đề Điệu, làm lúc đi<br /> đường), tác giả đã dùng điển cố án nâng<br /> ngang mày:<br /> 一簾風雨夜聯床<br /> 眉案雙雙對國郎<br /> Nhất liêm phong vũ dạ liên sàng,<br /> Mi án song song đối quốc lang.<br /> (Một mảnh rèm thưa mưa gió liên miên bên<br /> giường,<br /> Ngang mày nâng án cùng với chàng đẹp đôi)<br /> 15<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Ngô Thị Thu Trang<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Theo sách Hậu Hán thư, Lương Hồng nhà<br /> nghèo, có khí tiết, nhiều người muốn gả con<br /> gái cho nhưng Hồng không nhận, sau đó lấy<br /> nàng Mạnh Quang xấu người nhưng hết lòng<br /> vì chồng. Mỗi khi dâng cơm cho chồng nàng<br /> đều nâng lên ngang mày để biểu thị sự lễ độ,<br /> mẫu mực của vợ đối với chồng. Dùng điển án<br /> nâng ngang mày ở đây tác giả muốn nói tới<br /> người phụ nữ dịu hiền, thương yêu, kính<br /> trọng chồng.<br /> Cũng có trường hợp từ một câu thơ, một bài<br /> thơ tác giả rút gọn lại thành vài từ. Kinh Thi<br /> là tổng tập thi ca ra đời sớm nhất của Trung<br /> Quốc và được coi là tập đại thành thơ ca dân<br /> gian, được xếp vào một trong các sách kinh<br /> điển của Nho gia. Rất nhiều từ ngữ, câu thơ<br /> của Kinh Thi được người đời sau dùng làm<br /> điển cố trong văn học. Trong Thư Trì thi tập,<br /> Vũ Phạm Hàm cũng mượn điển cố từ Kinh<br /> Thi : “自 顧 夭 桃 猶 摽 梅 Tự cố yêu đào do<br /> xiếu mai” (少 婦 行 - Thiếu phụ hành).<br /> Yêu đào lấy ý từ bài Đào yêu để nói về người<br /> con gái xinh đẹp, trẻ trung; phiếu mai là<br /> mượn từ bài Phiếu hữu mai chỉ người phụ nữ<br /> quá lứa lỡ thì mong tìm được hạnh phúc gia<br /> đình. Bằng cách mượn hai điển cố yêu đào và<br /> phiếu mai, tác giả đã thể hiện sự cảm thông<br /> sâu sắc của mình với số phận người thiếu phụ<br /> “đẹp như ngọc” (頑 如 玉 ngoan như ngọc)<br /> nhưng gặp cảnh éo le để cuối cùng bị gả cho<br /> người thương nhân già “Gân sức thì yếu mắt<br /> kèm nhèm” (筋 力 就 哀 夜 眼 熟 Cân lực<br /> tựu ai dạ nhãn thục).<br /> Có trường hợp từ một câu chuyện thần thoại,<br /> truyền thuyết... người xưa đúc kết thành một<br /> vài từ ngữ ngắn gọn mà hàm chứa được nội<br /> dung ý nghĩa của nó. Từ câu chuyện Hậu<br /> Nghệ xin được thuốc trường sinh của Tây<br /> Vương Mẫu, Hằng Nga lấy trộm thuốc ấy bay<br /> lên cung trăng, Hằng Nga bèn gửi thân ở cung<br /> trăng tác giả đã khái quát thành các điển cố<br /> như : Hằng Nga, Tố Nga, cung Quảng Hàn,...<br /> với ý nghĩa chỉ mặt trăng, tiên nữ, người đẹp,<br /> cung trăng... Trong thơ chữ Hán của Vũ Phạm<br /> Hàm ta cũng bắt gặp những câu thơ dùng các<br /> điển này :<br /> <br /> 109(09): 15 - 19<br /> <br /> 笑喚姮娥來問訊<br /> Tiếu hoán Hằng Nga lai vấn tấn<br /> (Cười gọi Hằng Nga đến dò hỏi)<br /> (客 中 對 月 Khách trung đối nguyệt<br /> – Nơi đất khách trông trăng)<br /> 姮娥應有昔今心<br /> Hằng Nga ứng hữu tích kim tâm<br /> (Nàng Hằng Nga xưa nay có một lòng)<br /> (中 秋 玩 月 Trung thu ngoạn nguyệt –<br /> Trung thu ngắm trăng)<br /> 廣寒宮外桂花香<br /> Quảng Hàn cung ngoại quế hoa hương<br /> (Bên ngoài cung Quảng Hàn hoa quế thơm<br /> phức)<br /> (中 秋 對 月 同 石 雲 兄 作 Trung thu đối<br /> nguyệt đồng Thạch Vân huynh tác – Trung<br /> thu đối nguyệt làm thơ với anh Thạch Vân)<br /> 卻笑姮娥一女流<br /> Khước tiếu Hằng Nga nhất nữ lưu<br /> (Lại cười Hằng Nga một nữ lưu)<br /> 廣寒宮殿無關鎖<br /> 分付詩人管素娥<br /> Quảng Hàn cung điện vô quan tỏa,<br /> Phân phó thi nhân quản Tố Nga<br /> (Quảng Hàn cung điện không then khoá,<br /> Nhắn nhủ nhà thơ Quản nàng Tố Nga)<br /> (春 夜 對 月 Xuân dạ đối nguyệt Đêm xuân trông trăng)<br /> Như vậy một điển cố có thể được nhà thơ thể<br /> hiện dưới nhiều hình thức từ ngữ khác nhau<br /> giúp đem lại cho câu thơ, bài thơ sự đa dạng,<br /> uyển chuyển, linh động, tránh cảm giác tẻ<br /> nhạt, khô khan và nhàm chán.<br /> Dùng điển cố cũng giúp tác giả diễn đạt suy<br /> nghĩ và tư tưởng của mình một cách sâu sắc,<br /> hàm súc “言 有 盡 而 意 無 窮 ngôn hữu tận<br /> nhi ý vô cùng” (lời hết nhưng ý không cùng).<br /> Trong Thư Trì thi tập, nhiều câu thơ tác giả<br /> dẫn điển tang hải:<br /> 眼前桑海付沈浮<br /> Nhãn tiền tang hải phó trầm phù<br /> (Trước mắt nổi chìm phó mặc bể dâu)<br /> (春 夜 對 月 Xuân dạ đối nguyệt –<br /> Đêm xuân trông trăng)<br /> <br /> 16<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Ngô Thị Thu Trang<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 桑海何年樽酒外<br /> Tang hải hà niên tôn tửu ngoại<br /> (Dâu bể năm nào còn ngoài chén rượu)<br /> (遊 还 劍 湖 Du Hoàn Kiếm hồ - Chơi<br /> hồ Hoàn Kiếm)<br /> 桑海塵夢五更鍾<br /> Tang hải trần mộng ngũ canh chung<br /> (Bụi trần dâu bể mộng năm canh)<br /> (重 修 鎮 武 觀 Trùng tu Trấn Vũ quán<br /> – Trùng tu quán Trấn Vũ)<br /> Tang hải hay tang điền, tang thương... lấy ý<br /> từ câu Thương hải tang điền (Biển xanh biến<br /> thành nương dâu) chỉ sự thay đổi lớn lao.<br /> Trong con mắt một thi nhân đa sầu đa cảm,<br /> cuộc đời luôn chứa đựng những điều bất ngờ.<br /> Nhất là trong hoàn cảnh thời cuộc đang có<br /> nhiều biến cố lớn lao, bản thân ông cũng chỉ<br /> là một thư sinh áo vải đành phó mặc sự đời<br /> cho “con tạo xoay vần” mà thôi.<br /> Trong văn chương cổ, việc mượn tên một<br /> nhân vật nổi tiếng làm điển cố là hiện tượng<br /> dễ thấy. Vũ Phạm Hàm ở bài 張 遯 叟 祠<br /> Trương Độn Tẩu từ (Đề đền Trương Hán<br /> Siêu) đã viết:<br /> 終古高風配孟韓<br /> Chung cổ cao phong phối Mạnh Hàn<br /> (Ngàn năm danh tiếng còn xứng với<br /> hai ông Mạnh Hàn).<br /> Mạnh Hàn ở đây chỉ Mạnh Tử và Hàn Dũ.<br /> Mạnh Tử là người đã kế thừa và phát triển<br /> xuất sắc học thuyết Nho gia do Khổng Tử đề<br /> xướng, được coi là bậc Á Thánh (bậc thánh<br /> nhân thứ hai) của Nho học. Hàn Dũ là người<br /> đời Đường, tinh thông kinh sách, đỗ tiến sĩ,<br /> làm chức thị lang bộ lại. Vì tội dâng sớ can<br /> ngăn vua không mê tín đạo Phật nên ông bị<br /> đổi ra làm thứ sử đất Triều Châu. Qua điển cố<br /> này tác giả thể hiện sự ngợi ca và lòng<br /> ngưỡng mộ của mình đối với Trương Hán<br /> Siêu. Đồng thời ông cũng ngầm có ý so sánh<br /> sự tương đồng giữa Hàn Dũ và Trương Hán<br /> Siêu ở chỗ cả hai người đều phản đối và lên<br /> án đạo Phật.<br /> <br /> 109(09): 15 - 19<br /> <br /> Trong bài 交 承 水 仙 花 開 偶 得 Giao thừa<br /> thuỷ tiên hoa khai ngẫu đắc (Làm lúc hoa<br /> thuỷ tiên nở đêm giao thừa), tác giả đã ca<br /> ngợi vẻ đẹp của những đoá thủy tiên bằng lời<br /> thơ thanh nhã, gợi cảm và bằng điển cố dễ<br /> hiểu, tự nhiên:<br /> 此身海島與蓬萊<br /> 何事籬前帽雪開<br /> Thử thân hải đảo dữ Bồng Lai,<br /> Hà sự ly tiền mạo tuyết khai<br /> (Bồng Lai, hải đảo tấm thân này,<br /> Cớ sao đội tuyết ở bên rào)<br /> Theo lời chú sách Sơn hải kinh thì núi Bồng<br /> Lai ở giữa biển, trên núi có tiên, cung thất<br /> toàn bằng vàng ngọc, chim muông đều trắng<br /> cả, ở xa trông như mây. Như vậy dùng điển<br /> Bồng Lai ở đây ý muốn chỉ cảnh tiên. Hoa<br /> thuỷ tiên trong trắng, cao khiết kia dường như<br /> là sứ giả từ cõi tiên tới để báo tin mùa xuân<br /> về. Trong con mắt nhà thơ, hoa thuỷ tiên với<br /> cốt cách vượt trội, với vẻ đẹp “清 似 寒 霜<br /> 淡 似 梅 Thanh tự hàn sương đạm tự mai”<br /> (Trong tựa sương đêm, mỏng tựa hoa mai)<br /> còn mang nét phong lưu đa tình như người<br /> con gái chưa thoát khỏi vòng tình chướng:<br /> 情障卻憐猶未<br /> 一年一度下陽臺<br /> Tình chướng khước liên do vị thoát<br /> Nhất niên nhất độ há Dương Đài<br /> (Tình chướng lại buồn chưa thể thoát,<br /> Mỗi năm một độ xuống Dương Đài)<br /> Dương Đài là tên ngọn núi ở huyện Vu Sơn<br /> tỉnh Tứ Xuyên, trên đỉnh núi còn di chỉ<br /> Dương Vân đài. Điển cố này được dùng để<br /> nói đến việc trai gái gặp gỡ ân ái. Nhờ dùng<br /> điển cố, tác giả đã làm cho sự diễn đạt của<br /> mình trở nên tinh tế, nhẹ nhàng, kín đáo mà<br /> vẫn làm cho người đọc cảm nhận được ý<br /> nghĩa của câu thơ.<br /> Cũng có trường hợp các tác giả xưa dùng tên<br /> riêng của một địa điểm xảy ra một sự kiện nổi<br /> bật được nhiều người biết đến, chỉ cần nói đến<br /> tên địa điểm đó đã đủ gợi cho mọi người nghĩ<br /> đến sự kiện gắn liền với nó. Trong bài 雪 調<br /> 17<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Ngô Thị Thu Trang<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Tuyết điệu (Điệu tuyết) Vũ Phạm Hàm đã<br /> dùng điển theo cách này :<br /> 花裡樓臺警寂寥<br /> 聲聲洌亮碎瓊瑤<br /> 從來不入巴人耳<br /> 慣引詩心上灞橋<br /> Hoa lý lâu đài cảnh tịch liêu,<br /> Thanh thanh liệt lượng toái quỳnh dao.<br /> Tòng lai bất nhập ba nhân nhĩ,<br /> Quán dẫn thi tâm thưởng Bá Kiều.<br /> (Trong hoa lầu gác cảnh tịch liêu,<br /> Trong veo từng tiếng ngọc quỳnh dao vỡ vụn<br /> sáng loà.<br /> Từ xưa đến nay chẳng lọt tai người,<br /> Quen dẫn hồn thơ đến Bá Kiều.)<br /> Bá Kiều là tên một cây cầu bắc qua sông Bá<br /> Thuỷ ở phía đông huyện Tràng An tỉnh<br /> Thiểm Tây – Trung Quốc. Theo Tam phụ<br /> hoàng đồ, người đời Hán thường tiễn biệt<br /> nhau ở đây, bẻ cành liễu tặng biệt khách, cho<br /> nên cầu này còn được gọi là Tiêu Hồn kiều cầu Mất Hồn. Trong thơ cổ còn có cách nói Bá<br /> Kiều chiết liễu (Bẻ cành liễu tặng biệt nhau nơi<br /> Bá Kiều) cũng xuất xứ từ sự việc này. Dẫn<br /> điển Bá Kiều ở đây tác giả muốn nói tới sự tiễn<br /> biệt, sự chia ly. Vũ Phạm Hàm viết tới 5 bài<br /> bài thơ vịnh tuyết, chủ yếu làm nổi bật sự trong<br /> sạch, cao quý của tuyết. Tuy không tránh khỏi<br /> yếu tố ước lệ tượng trưng nhưng đằng sau đó<br /> người đọc vẫn cảm nhận được sự cô đơn và<br /> nỗi buồn thầm kín của ông.<br /> Khi sử dụng điển cố, ngoài việc mượn tên<br /> người, tên địa danh,... tác giả còn mượn tên<br /> triều đại. Ví như trong bài 書 窗 排 熱 Thư<br /> song bài nhiệt (Bên cửa phòng sách giải<br /> nóng) có câu :<br /> 一望長天四散雲,<br /> 閉門避熱似逃秦<br /> Nhất vọng trường thiên tứ tán vân<br /> Bế môn tị nhiệt tự đào Tần<br /> (Ngưỡng trông ngày dài mây tan bốn phía<br /> Đóng cửa tránh nóng như tránh giặc Tần)<br /> <br /> 109(09): 15 - 19<br /> <br /> Vua Tần hung bạo, thích dùng hình phạt,<br /> chém giết mà không dùng nhân đức. Thời đó<br /> nhân dân vô cùng khổ sở. Từ Tần ở đây ý<br /> muốn nói đến sự ghê gớm, đáng sợ. Cách so<br /> sánh tị nhiệt tự đào Tần (tránh nóng như<br /> tránh giặc Tần) đã khiến ta hình dung ra cái<br /> nóng gay gắt, dữ dội, khủng khiếp khiến mọi<br /> người phải sợ hãi mà tìm cách trốn tránh.<br /> Như vậy, chỉ gói gọn trong một từ mà điển<br /> cố có thể biểu đạt được một nội dung phong<br /> phú, sâu sắc.<br /> Tóm lại, trong Thư Trì thi tập, Vũ Phạm Hàm<br /> có sử dụng đến các điển cố để làm tăng thêm<br /> hiệu quả biểu đạt và tăng sức biểu cảm cho<br /> câu thơ. Điển cố ông sử dụng có thể là từ hay<br /> nhóm từ được rút ra từ những câu chuyện<br /> trong thư tịch cổ hay mượn ý, lời từ câu thơ<br /> hoặc bài thơ của người xưa. Điển cố trong<br /> Thư Trì thi tập gồm hai loại: điển cố câu<br /> chuyện và điển cố từ ngữ. Hình thức thể hiện<br /> của các điển cố cũng rất đa dạng, linh hoạt.<br /> Điển cố có thể là một từ hay một cụm từ, một<br /> điển cố được thể hiện qua nhiều hình thức từ<br /> ngữ khác nhau. Với những điển cố ngắn gọn,<br /> tác giả đã thể hiện được trọn vẹn, súc tích<br /> những quan niệm và ý tưởng của mình. Nhìn<br /> chung Vũ Phạm Hàm không dùng nhiều điển<br /> cố và ông thường dùng loại điển cố dễ hiểu,<br /> quen thuộc. Điều này khiến cho thơ ông luôn<br /> tự nhiên và gần gũi, không rơi vào tình trạng<br /> cầu kỳ, khó hiểu. Việc vận dụng điển cố một<br /> cách phù hợp đã giúp cho thơ ông thêm sâu<br /> sắc, tinh tế, trang nhã, sinh động. Như vậy,<br /> nghệ thuật dụng điển là một trong các yếu tố<br /> góp phần đem lại thành công cho tập thơ và<br /> thể hiện sự uyên bác cũng như tài năng của<br /> Vũ Phạm Hàm.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học<br /> sử yếu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.<br /> 2. Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật<br /> sử dụng điển cố, Nxb ĐH Quốc gia, TP. HCM.<br /> 3. Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (1998), Từ<br /> điển điển cố văn học trong nhà trường, Nxb Giáo<br /> dục, Hà Nội.<br /> <br /> 18<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Ngô Thị Thu Trang<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 109(09): 15 - 19<br /> <br /> SUMMARY<br /> THE LITERARY ALLUSION IN THU TRI THI TAP<br /> WRITTEN BY VU PHAM HAM<br /> Ngo Thi Thu Trang*<br /> College of Education - TNU<br /> <br /> A literary allusion is a story about the old ancient shortened or maybe just a few words drawn from<br /> ancient writings. In the anthology of Thu Tri, Vu Pham Ham used some literary allusions to make<br /> the verses brief, concise, beautiful and lively. The allusions that he used primarily were drawn<br /> from legends and ancient Chinese poetry. He did not use so many literary allusions; however,<br /> these allusions of his poetry are quite understandable. It may be a few words to remind people of<br /> lessons about the moral values of human being, probably the name of a character borrowed in<br /> ancient books or a few words taken from the Book of Poetry... With typical ingenious and subtle<br /> usages, Vu Pham Ham have increased expressiveness and deep understanding to verses and<br /> demonstrate his wide knowledge .<br /> Key words: literary allusion, Thu Tri thi tap, Vu Pham Ham, short, wide knowledge<br /> <br /> Ngày nhận bài: 21/5/2013; Ngày phản biện: 13/6/2013; Ngày duyệt đăng: 02/10/2013<br /> Phản biện khoa học: TS. Ngô Thị Thanh Nga – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br /> *<br /> <br /> Tel: 0915176762<br /> <br /> 19<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2