VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LONG BÌNH

ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LONG BÌNH

ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. Nguyễn Đức Hạnh

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,

được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Đức Hạnh. Nội dung

và các kết luận trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này

hoàn toàn trung thực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Học viên

Nguyễn Thị Long Bình

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU ........................................................................................... 7 1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu ........................................ 7 1.2. Pháp luật về định tội danh tội buôn lậu……………………………………22 Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU VÀ THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU TẠI TP HỒ CHÍ MINH

2.2. Thực tiễn định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ năm

2.1. Khái quát về tình hình tội phạm buôn lậu trên địa bàn TP.HCM .................. 38

2014 – 2018……………………………………………………………………..42

Chương 3:CÁC GIẢI GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu............................... 63 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu….. ................ 67 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

: Bộ Công an

BCA

: Bộ luật hình sự.

BLHS

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự.

: Cơ quan Điều tra

CQĐT

: Cấu thành tội phạm.

CTTP

TANDTC

: Tòa án Nhân dân tối cao

TNHS

: Trách nhiệm hình sự.

VKSNDTC

: Viện Kiểm Sát Nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Kết quả phát hiện tội phạm kinh tế của lực lượng Cảnh sát Kinh tế

Công an Tp.Hồ Chí Minh từ 2014 -2018 ....................................................... 41

Bảng 2.2. Tình hình tội phạm về buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ

2014 -2018 ....................................................................................................... 41

Bảng 2.3. Thống kê kết quả phát hiện xử lý phạm pháp buôn lậu của Lực

lượng CSKT Công an Tp.HCM từ năm 2014 -2018 ...................................... 42

Bảng 2.4. Bảng mức độ tăng, giảm của các vụ án về buôn lậu và số bị cáo

phạm tội buôn lậu đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh. ........ 43

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thời gian gần đây, tình trạng buôn lậu ngày càng diễn biến phức tạp với

công nghệ ngày càng hiện đại, kẻ phạm tội đã lợi dụng triệt để để phục vụ cho hành

vi phạm tội của mình với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Đặc biệt, Việt Nam với vị trí

địa lý thuận lợi, địa hình phức tạp, có đường biên giới dài (trên đất liền và biển)

giáp với nhiều nước và với địa hình biên giới hiểm trở nên tình trạng buôn lậu trở

nên phổ biến. Tội phạm buôn lậu đã gây ra những hậu quả, tác hại to lớn, làm suy

yếu các ngành công nghiệp, sản xuất; giảm nguồn thu ngân sách, ảnh hưởng tới

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, gây thiệt hại cho các đơn vị sản

xuất, kinh doanh và cho cả người tiêu dùng. Tội phạm này còn tác động xấu đến

môi trường cạnh tranh và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, làm giảm sút lòng

tin của người tiêu dùng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh. Và điều đó làm cho

các nhà đầu tư trong nước thiếu an tâm khi đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh.

Thêm vào đó, do đặc thù về chính sách thuế nhập khẩu của nước ta nên việc

nhập lậu hàng hóa qua biên giới vào nước ta đã đem lại lợi nhuận khổng lồ, càng

kích thích thêm cho hành vi buôn lậu. Đặc biệt, từ khi Luật Doanh nghiệp được ban

hành, việc thành lập doanh nghiệp ngày càng trở nên “thoáng”, tạo điều kiện cho

hàng chục nghìn doanh nghiệp được thành lập thêm cho mỗi năm. Đây là một thuận

lợi góp phần cho sự phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng là gánh năng cho

công tác quản lý nhà nước khi mà số lượng doanh nghiệp quá lớn, việc thành lập

doanh nghiệp quá dễ dàng và nhanh chóng. Lợi dụng vào sự thông thoáng của chính

sách thành lập doanh nghiệp, một số người đã tiến hành thành lập doanh nghiệp

“ma” với mục đích hợp thức hóa cho việc nhập lậu hàng hóa, thiết bị, khiến thực

trạng buôn lậu càng thêm phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.

Từ năm 2018, thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 có

hiệu lực, quan điểm về tôi phạm buôn lậu đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt, luật hình

sự đã bổ sung thêm hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Điều này đã

giúp các cơ quan tố tụng có thêm nhiều hành lang pháp lý để định tội danh tội buôn

1

lậu cũng như phòng, chống tội phạm buôn lậu hiệu quả hơn. Tuy nhiên, thực tế cho

thấy công tác đấu tranh đối với tội phạm buôn lậu không hề dễ dàng hơn khi mà các

thủ đoạn thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi hơn. Theo Bộ luật Hình sự, tội phạm

buôn lậu phải được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau như: Mua hoặc bán hàng

hóa qua biên giới không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép

xuất, nhập khẩu và các quy định khác của hải quan; mua bán hàng hóa đúng với

giấy phép nhưng kê khai không đúng số lượng; giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng,

tiền… hoặc đi qua đường mòn, lối mởi, đi vòng đường biển vào đất liên không qua

cảng, cửa khẩu để tránh sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền.

Tuy nhiên, trên thực tế, để xác định một hành vi là tội phạm buôn lậu phân

biệt với các tội phạm khác, ví dụ như: Tội vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên

giới, Tội trốn thuế, Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm cũng là một vấn đề vẫn còn

gây tranh cãi. Trên thực tế xét xử vẫn còn có sự chưa thống nhất về việc định tội

danh đối với tội phạm này, mà điển hình là vụ án Nguyễn Minh Hùng – Tổng Giám

đốc Công VN Pharma và đồng phạm nhập thuốc ung thư giả mà thời gian qua

TAND TP.HCM đã đưa ra xét xử. Việc định tội danh đúng đối với tội phạm buôn

lậu sẽ có nghĩa rất lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và nâng cao hơn nữa việc đấu

tranh, phòng chống với loại hình tội phạm này hiệu quả. Ngược lại nếu việc định

danh tội phạm này không đúng cũng sẽ gây ra những tiền lệ xấu cho công tác điều

tra, truy tố, xét xử, gây ra sự bất nhất giữa quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng dẫn đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cũng sẽ không đạt được

những kết quả như mong đợi. Qua nghiên cứu cho thấy hoạt động định tội danh tội

buôn lậu có những khó khăn, hạn chế nhất định. Bên cạnh đó một số quy định của

pháp luật vẫn còn chưa hoàn chỉnh, đi kịp với sự phát triển đã tạo kẽ hở cho tội

phạm lợi dụng, các tội phạm hoạt động rất tinh vi, phức tạp, mặt khác cũng có một

số nguyên nhân xuất phát từ ý chí chủ quan của Người định tội.

Thành phố Hồ Chí Minh đã được Trung ương xác định là đầu tàu kinh tế của

cả nước với tỷ trọng đóng góp ngân sách cho cả nước lớn nhất. Cùng với thị trường

kinh tế vô cùng năng động, thành phố Hồ Chí Minh cũng là nơi tập trung nhiều vụ

2

án về kinh tế, trong đó có tội phạm về buôn lậu, buôn bán hàng giả nhiều nhất và

phức tạp nhất nước.

Xuất phát từ thực tế và từ những yêu cầu nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài:

"Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành

phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn thạc sỹ Luật học. Đề tài sẽ góp phần làm rõ về

hoạt động định tội danh tội Buôn lậu theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam

từ thực tiễn tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Từ việc tổng hợp, phân tích về thực tiễn

điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh để đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả,

chất lượng định tội danh tội buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng

như cả nước nói chung. Từ việc nâng cao hiệu quả, chất lượng định tội danh tội

buôn lậu cũng góp phần nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội buôn lậu trên

địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Định tội danh là một đề tài không mới trong hệ thống nghiên cứu pháp lý về

hình sự, tuy nhiên, do sự phát triển không ngừng của xã hội, của khoa học kỹ thuật

nên phương thức phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp và luôn biến đổi, chính vì

vậy, định tội danh đặc biệt là các tội danh về kinh tế luôn là một đề tài thời sự. Theo

tìm hiểu của tác giả, kể từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực, đã có nhiều

công trình nghiên cứu của nhiều tác giả tiếp cận đề tài tội buôn lậu dưới nhiều góc

độ khác nhau. Nhưng hầu hết các công trình nghiên cứu đó chỉ tiếp cận ở góc độ

nghiên cứu chung về tội phạm buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam; về đấu

tranh phòng chống tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất buôn bán hàng

giả chứ chưa đi chuyên sâu về vấn đề định tội danh. Điển hình là các công trình

nghiên cứu của các tác giả sau:

- PTS Lê Thanh Bình, “Chống buôn lậu và gian lận thương mại”, Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia năm 1998.

- Trần Đình Hòa, luận án tiến sĩ “Tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng

cảnh sát nhân dân đối với vụ án buôn lậu”, Học viện Cảnh sát nhân dân năm 2001.

3

- Hoàng Anh Tuấn, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn

lậu ở nước ta – Thực trạng và giải pháp “, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2003.

- Nguyễn Thị Vui, luận văn thạc sĩ “Tội buôn lậu trong luật hình sự Việt

Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang), Đại học Quốc gia Hà

Nội năm 2014.

- Dương Xuân Sinh, luận văn thạc sĩ “Điều tra các vụ án buôn lậu của cơ

quan Hải quan”, Học viện Khoa học xã hội năm 2016;

- Ngô Thị Thùy Trang, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng chống tội phạm

buôn lậu trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh”, Trường Đại học Cảnh sát TP.Hồ Chí Minh

năm 2019;

Ngoài ra, còn có một số bài viết về tội phạm buôn lậu đăng trên các báo, tạp

chí; một số luận văn khác nghiên cứu về định tội danh của các tội phạm như giết

người; các tội phạm về ma túy; về tội hủy hoại tài sản… Tuy nhiên, nghiên cứu

riêng về định tội danh tội buôn lậu vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên

sâu.

Như vậy, tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về một số nội dung có liên quan

đến đề tài nhưng hầu hết chỉ tiếp cận ở góc độ chung về tội phạm buôn lậu, về gian

lận thương mại hoặc nếu có đi sâu về định tội danh thì cũng chưa đi vào định tội

danh tội buôn lậu.

Hiện chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về đề tài định

tội danh tội buôn lậu vì vậy Tác giả đã thực hiện đề tài trên tinh thần có sự tiếp thu,

kế thừa những điểm phù hợp từ các công trình nghiên cứu trước đó để phát triển,

làm sáng tỏ thêm cho mục đích nghiên cứu của đề tài định tội danh tội buôn lậu từ

thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh và đề tài này không trùng với đề tài nghiên cứu

nào về tội buôn lậu trước đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Nghiên cứu việc định danh tội phạm buôn lậu theo Bộ luật Hình sự hiện

hành thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đối với

4

loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2014-2018.

Đồng thời, đề tài sẽ phân tích nhằm làm rõ nhữn vấn đề còn khó khăn, hạn chế,

trong pháp luật cũng như trong thực tiễn việc định tội danh đối với tội phạm Buôn

lậu tại Tp.Hồ Chí Minh. Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp

luật định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh tội

buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Làm rõ cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về cấu thành của tội buôn

lậu, đặc điểm của tội buôn lậu và phương thức định danh về tội buôn lậu theo pháp

luật Hình sự nước Việt Nam.

Khảo sát, đánh giá và những khó khăn của pháp luật Việt Nam liên quan đến

hoạt động định danh tội phạm buôn lậu, thông qua việc định tội danh tội phạm buôn

lậu trong một số vụ án điển hình đã điều tra, truy tố, xét xử tại địa bàn thành phố Hồ

Chí Minh những năm gần đây.

Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về tội buôn lậu

cũng như định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh

tội buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu, khảo sát trong phạm vi quy định của Bộ luật Hình

sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm

2017 về định tội danh tội Buôn lậu trong phạm vi địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

từ năm 2014 đến năm 2018. Các số liệu sử dụng trong đề tài dựa trên số liệu về thụ

lý điều tra, truy tố, xét xử về tội buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

trong khoảng thời gian 05 năm (từ 2014 đến 2018) của Công an Thành phố Hồ Chí

Minh và Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các số liệu đã được công bố

trên các phương tiện thông tin đại chúng.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy

vật lịch sử, luận văn này sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích, so sánh, hệ

5

thống, phương pháp phân tích lịch sử cụ thể kết hợp với lý luận thực tiễn… để giải

quyết những vấn đề đặt ra từ nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn này.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Về mặt khoa học:

Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng

pháp luật trong việc định tội danh tội buôn lậu theo quy định của pháp luật Việt

Nam; phân tích những khó khăn, hạn chế trong hệ thống pháp luật Việt Nam và

trong áp dụng thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, từ đó rút ra những kinh nghiệm và

có hướng hoàn thiện, bổ sung pháp luật Việt Nam.

Về mặt thực tiễn:

Góp phần bổ sung, hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong các quy định về tội

phạm buôn lậu, về việc định tội danh buôn lậu trong thực tiễn. Đây có thể sẽ là một

tài liệu tham khảo đối với cơ quan hữu quan khi nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp

luật, trong việc áp dụng vào thực tiễn việc định danh tội buôn lậu của các cơ quan

tiến hành tố tụng, góp phần vào đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội

buôn lậu nói riêng.

Đây cũng có thể được xem là tài liệu tham khảo đối với hoạt động nghiên

cứu, giảng dạy, đào tạo.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về định tội danh tội buôn lậu

Chương 2: Thực tiễn tình hình định tội danh và định tội danh tội buôn lậu tại

Tp.Hồ Chí Minh.

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn

lậu.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI

DANH TỘI BUÔN LẬU

1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu

1.1.1 Khái niệm định tội danh tội buôn lậu

Định tội danh là một trong những hoạt động của việc áp dụng pháp luật hình

sự. Pháp luật hình sự bao gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về tội

phạm và hình phạt. Quá trình áp dụng pháp luật hình sự là quá trình xem xét hành vi

của một người, một pháp nhân có phải là tội phạm không, nếu có thì là tội phạm gì,

được quy định tại điều, khoản nào của BLHS, có căn cứ để miễn trách nhiệm hình

sự hay miễn hình phạt không, nếu không thì phải chịu hình phạt như thế nào. Trong

quá trình đó, việc xem xét để xác định hành vi của một người, một pháp nhân phạm

tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS là hoạt động định tội danh, hoạt động này

diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định được gọi là quá trình định tội danh.

Có thể nói hiện nay, trong Khoa học hình sự Việt Nam có nhiều quan điểm

về khái niệm định tội danh nói chung, điển hình như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về

mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã

được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy

phạm pháp luật hình sự” [39, tr 9,10].

Quan điểm thứ hai cho rằng: “Định tội danh là một quá trình logic nhất định,

là hoạt động của cán bộ có thẩm quyền trong việc xác nhận sự phù hợp giữa trường

hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm

được quy định trong quy phạm pháp luật thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự”

[9, tr 90-91]

Quan điểm thứ ba cho rằng: “định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt

động đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các

dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả quy định trong Bộ Luật Hình

sự để xác định tội phạm đã xảy ra và người phạm tội, cũng như xác định không có

7

tội phạm xảy ra hoặc không có người phạm tội hoặc người bị tình nghi không phải

là người thực hiện tội phạm (tức họ không phạm tội) bằng việc ra kết luận bằng văn

bản áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của Cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự”. [15, tr 8]

Và nhiều quan điểm khác, tuy nhiên về cơ bản được hiểu định tội danh là

một quá trình logic, là quá trình so sánh, đối chiếu, tìm sự phù hợp giữa hành vi

nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của một tội phạm cụ thể

được quy định trong BLHS. BLHS quy định các yếu tố cấu thành của các tội phạm

cụ thể mà dựa vào đó người áp dụng pháp luật, người bào chữa so sánh với hành vi

nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã thực hiện, tìm ra sự phù hợp giữa chúng để xác định

hành vi đã thực hiện phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS.

Vì định tội danh là quá trình tư duy logic, nên nó bao gồm các bước (các giai

đoạn) có mối quan hệ chặt chẽ, được thực hiện đồng thời và xen kẽ nhau.

Cụ thể là:

- Xác định đầy đủ, chính xác các tình tiết thực tế của vụ án, phản ánh đúng

thực tế khách quan.

- Nhận thức chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự, các dấu

hiệu pháp lý của từng cấu thành tội phạm cụ thể.

- So sánh, đối chiếu các tình tiết của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực

hiện với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cụ thể, tìm ra sự phù hợp giữa

chúng.

- Rút ra kết luận về sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực

hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS và ra văn

bản áp dụng pháp luật.

Quá trình định tội có thể do các chủ thể khác nhau tiến hành, trong đó việc

định tội của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, TA) có ý nghĩa quan trọng

đặc biệt. Kết quả của việc định tội do các cơ quan này thực hiện được thể hiện ở các

quyết định tố tụng, như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị

can, đình chỉ điều tra miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can, kết luận điều tra đề

8

nghị truy tố của CQĐT; quyết định đình chỉ vụ án miễn trách nhiệm hình sự, quyết

định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện Kiểm sát, bản án kết tội của Toà án... Định

tội của người bào chữa có ý nghĩa trong việc tranh tụng với đại điện Viện kiểm sát

và là cơ sở để Tòa án xem xét, kết tội bị cáo.

Với những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về định tội danh như

sau: Định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự do

các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng thực hiện, được thể hiện trên cơ sở xác

định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được

thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành

tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành

tội phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm trong các giai đoạn tố

tụng do pháp luật quy định góp phần giải quyết vụ án hình sự.

Từ các phân tích khái niệm chung về định tội danh như trên thì có thể hiểu

đối với hoạt động Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động nhận thức, áp dụng pháp

luật hình sự trên cơ sở xác định đầy đủ các hành vi khách quan, chủ thể, khách thể

theo cấu thành chung của tội phạm cũng như cấu thành riêng biệt của tội buôn lậu

để xác định hành vi nguy hiểm của các chủ thể đó có phải là tội buôn lậu hay

không, hậu quả đến đâu, trách nhiệm hình sự tới đâu…

Từ cơ sở khái niệm chung về định tội danh thì chúng ta có thể khái quát về

định tội danh tội buôn lậu như sau: " Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động của cơ

quan, người có thẩm quyền hoặc do những người bào chữa, người bảo vệ quyền vì

lợi ích của đương sự.. đối chiếu hành vi mà bị can, bị cáo đã thực hiện trên thực tế

với hành vi được mô tả trong cấu thành tội buôn lậu được quy định trong Bộ luật

hình sự để khẳng định hành vi của bị can, bị cáo đã thực hiện có phạm tội buôn lậu

hay không nhằm thực hiện các chức năng tố tụng hình sự của chủ thể định tội, thực

hiện quyền và nghĩa vụ của họ"

1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội buôn lậu

Từ khái niệm chung về định tội danh và định tội danh tội buôn lậu nói riêng,

chúng ta có thể thấy các đặc điểm như sau: Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp

9

luật hình sự bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình:

Thứ nhất: Xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế đã xảy ra đối với

vụ án buôn lậu;

Thứ hai: Nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS về tội buôn

lậu;

Thứ ba: Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác,

đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các

tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế.

Như vậy quá trình định tội danh cũng như định tội danh tội buôn lậu bao

- Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi, cụ thể ở đây

gồm 3 giai đoạn cơ bản:

- Làm sáng tỏ hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào và được quy định

là buôn lậu

- Chỉ rõ cấu thành tội phạm về tội cụ thể nào được áp dụng về mặt khách thể,

ở chương nào, điều nào của Bộ luật hình sự

chủ quan, mặt khách quan và chủ quan của tội phạm. [9,tr. 92,93,102-105]

Như vậy, từ việc phân tích các đặc điểm chung về với định tội danh thì hoạt

động định tội danh tội buôn lậu nói riêng thì có thể rút ra các đặc điểm như sau: đó

là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để xác định hành vi khách quan đã xảy ra đó

có là hành vi nguy hiểm cho xã hội và có đủ các yếu tố cấu thành tội buôn lậu hay

không, bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình:

Thứ nhất: xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế vụ án buôn lậu;

Thứ hai: nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS bao gồm

phần chung và phần quy định về tội buôn lậu;

Thứ ba: lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác,

đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các

tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế:

Xem xét về thời điểm xảy ra hành vi buôn lậu: điều này quan trọng trong

thời điểm chuyển giao giữa BLHS năm 1999, sửa đổi 2009 và BLHS năm 2015, sửa

10

đổi 2017. Áp dụng nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành

BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với nhiều quy định có lợi cho người

phạm tội;

So sánh, đối chiếu với các quy phạm pháp luật cũ, mới để lựa chọn định tội

danh đúng, nếu hành vi khách quan, khách thể… đó đã được hủy bỏ, thay đổi, có

dấu hiệu của một tội phạm khác thì phải thực hiện việc đình chỉ hoặc đổi tội danh

cho bị can bị cáo.

Ví dụ: tội buôn lậu trong BLHS 2015 quy định tại điều 188 đã bỏ hoàn toàn

hàng cấm ra khỏi điều luật mà hành vi khách quan chỉ là buôn bán trái phép hàng

hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật. Còn hàng cấm

được quy định riêng ở điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm). Tại BLHS 1999

quy định tội buôn lậu tại điều 153, tại điểm c khoản 1 nêu là hàng cấm, quy định

này trùng lặp với điều 155 (Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm).

Do vậy, nếu vụ án đã được khởi tố trước ngày luật này có hiệu lực nhưng chưa giải

quyết xong thì có thể xem xét đổi tội danh cho bị can bị cáo theo đúng quy định của

BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Như vậy quá trình định tội danh tội buôn lậu cần chú ý các yếu tố:

- Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi buôn lậu:

- Làm sáng tỏ hành vi nguy hiểm cho xã hội đó thuộc tội buôn lậu quy định

ở điều nào, khoản nào của BLHS, ngoài ra có những quy phạm pháp luật

nào hướng dẫn áp dụng cụ thể;

- Chỉ rõ các dấu hiệu đặc trưng của cấu thành tội phạm buôn lậu (dấu hiệu

định tội và dấu hiệu định khung)

[9, tr. 112-114], [14, tr. 31-33].

1.1.3 Nội dung của định tội danh tội buôn lậu

Định tội danh là một quá trình gồm nhiều bước, là quá trình trình xác định sự

đồng nhất của các tình tiết cơ bản, điển hình nhất của một hành vi nguy hiểm cho

xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm nào đó được quy

định trong pháp luật hình sự, bao gồm các nội dung:

11

Thứ nhất: Xác định quan hệ xã hội nào đã bị tác động bởi hành vi vi phạm

pháp luật được quy định tại phần các tội phạm của BLHS. Nói cách khác là xác

định khách thể của tội phạm được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.

Trong các loại khách thể của tội phạm (khách thể chung, khách thể loại, khách thể

trực tiếp) thì xác định khách thể trực tiếp của tội phạm có ý nghĩa để xác định tội

phạm cụ thể vì khách thể trực tiếp của tội phạm chính là dấu hiệu của cấu thành tội

phạm cụ thể. Một tội phạm cụ thể có thể có một khách thể trực tiếp, nhưng cũng

có thể có nhiều khách thể trực tiếp. Trong nhiều trường hợp, việc xác định khách

thể của tội phạm được thực hiện thông qua việc xác định đối tượng tác động của

tội phạm. Do vậy, xác định đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa trong việc

định tội. Ví dụ, tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia

(Điều 303 BLHS), tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS),

tội huỷ hoại rừng (Điều 243 BLHS), tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện

kỹ thuật quân sự (Điều 413 BLHS).

Trong trường hợp có sự nhận thức sai lầm của một người về khách thể của

tội phạm thì việc định tội phải tùy từng trường hợp cụ thể. Nếu người thực hiện

hành vi không có ý định xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ

nhưng thực tế đã xâm hại đến khách thể của tội phạm thì về nguyên tắc, người thực

hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với lỗi vô ý.

Nếu người thực hiện hành vi cho rằng mình xâm hại đến khách thể của tội phạm

nhưng thực tế không gây thiệt hại được vì không có đối tượng hoặc đối tượng

không có những đặc tính mà người thực hiện hành vi tưởng là có thì việc định tội

phải căn cứ vào đặc điểm các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm cụ thể (có thể

người thực hiện hành vi phạm tội hoặc không phạm tội).

Vậy, với tội buôn lậu để xác định quan hệ bị tác động thì người định tội cũng

đi theo trình tự đầu tiên là xác định quan hệ xã hội bị tác động hay là khách thể bị

tác động là hoạt động quản lý kinh tế nhà nước về ngoại thương, xuất nhập khẩu;

đối tượng tác động trực tiếp được quy định rõ trong quy định của BLHS về tội buôn

lậu.

12

Thứ hai: Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là hành vi

gì, mức độ tác động, bằng phương thức, thủ đoạn nào…hành vi đó được quy định

trong BLHS hay không, hậu quả của hành vi đó đến đâu, chủ thể thực hiện là cá

nhân hay pháp nhân thương mại, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Hành

vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi khách quan của tội phạm) là dấu hiệu bắt buộc

trong tất cả các cấu thành tội phạm. Để xác định hành vi thực tế do một người hoặc

một pháp nhân thực hiện phạm tội gì, người định tội phải đối chiếu hành vi đã thực

hiện của người đó hoặc của pháp nhân đó với dấu hiệu hành vi khách quan của cấu

thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, xác định xem hành vi đã thực

hiện có phù hợp với dấu hiệu hành vi được quy định trong điều luật cụ thể của

BLHS không. Trên cơ sở đó rút ra kết luận về việc người hoặc pháp nhân thực hiện

hành vi phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Trong trường hợp một điều

luật trong Phần các tội phạm của BLHS quy định về tội phạm có nhiều hành vi, khi

định tội cần chú ý một số vấn đề sau:

- Trường hợp một người hoặc một pháp nhân chỉ thực hiện một trong các

hành vi phạm tội được quy định tại điều luật đó thì định tội với tên tội danh về hành

vi phạm tội đã thực hiện theo điều luật tương ứng.

Ví dụ: Một người chỉ mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất

ma túy thì chỉ định tội về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất

ma túy theo Điều 253 BLHS mà không định tội là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán

hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.

- Nếu một người hoặc một pháp nhân thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà

các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để

thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia), thì định tội với tên tội

đầy đủ đối với tất cả các hành vi đã được thực hiện theo điều luật tương ứng.

Ví dụ: Một người mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma

túy rồi vận chuyển đến một địa điểm mới và tàng trữ tiền chất đó, thì định tội với

tên tội danh là mua bán, vận chuyển, tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái

phép chất ma túy theo Điều 253 BLHS.

13

-Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà các hành vi đó

độc lập với nhau, thì phải định tội về tất cả các tội mà người ấy đã thực hiện.

Ví dụ: Một người mua bán trái phép hêrôin bị bắt, khi khám nhà phát hiện

người đó còn có hành vi sản xuất thuốc phiện. Trong trường hợp này người phạm

tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều

251BLHS và tội sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 248 BLHS.

- Trên thực tế, một hành vi có thể cấu thành nhiều tội khác nhau. Đây là

những trường hợp hành vi cụ thể cấu thành nhiều tội. Về nguyên tắc, khi hành vi

cấu thành nhiều tội thì phải định tội về nhiều tội. Nếu một hành vi thỏa mãn dấu

hiệu cấu thành hai tội phạm cụ thể độc lập. Ví dụ: Hành vi giết người để lấy tài sản.

Phải định tội người thực hiện hành vi phạm hai tội là giết người (Điều 123 BLHS)

và cướp tài sản (Điều 168 BLHS). Nếu một hành vi vừa thoả mãn một cấu thành tội

phạm cụ thể, vừa thoả mãn cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm khác. Ví dụ:

Nhân viên hải quan nhận hối lộ để cho người khác mang hàng qua biên giới trái

phép. Phải định tội hành vi của nhân viên hải quan về hai tội: Nhận hối lộ và đồng

phạm tội buôn lậu. Nếu một hành vi đồng thời thoả mãn hai cấu thành tội phạm của

hai hành vi đồng phạm khác nhau. Ví dụ: Cho người khác mượn vũ khí để giết

người và chiếm đoạt tài sản. Phải định về hai tội với vai trò là người giúp sức giết

người và giúp sức cướp tài sản.

Với tội phạm buôn lậu là xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là xuất

nhập khẩu thì người định tội cần xác định rõ hành vi nào của người phạm tội, pháp

nhân thương mại phạm tội là nguy hiểm cho xã hội là trái pháp luật, hành vi được

thực hiện ra sao, phương thức thủ đoạn như thế nào phải phù hợp với quy định của

BLHS, trình tự, thủ tục phải đảm bảo theo quy định của BLTTHS, đặc biệt là trong

quá trình thu thập chứng cứ chứng minh hành vi nguy hiểm cho xã hội đó là phạm

tội buôn lậu, ví dụ hành vi giả mạo hợp đồng, giả mạo giấy phép để nhập khẩu, hay

hành vi khai báo gian dối (tăng, bớt, khai sai về tên hàng hóa…) để nhập

khẩu…phải được cụ thể, rõ ràng…

Thứ ba: Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi được coi là dấu hiệu cơ

14

bản, quan trọng nhất, sau đó sẽ xem xét đến các dấu hiệu như: tính có lỗi (lỗi cố ý,

lỗi vô ý), tính trái pháp luật hình sự, tính phải chịu trách nhiệm hình sự (chịu hình

phạt). Xác định lỗi cố ý hoặc vô ý là điều kiện bắt buộc để có thể truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với một người. Khi xác định lỗi của người thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội làm căn cứ để định tội cần chú ý: Lỗi là dấu hiệu thuộc mặt

chủ quan của tội phạm. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thường có xu

hướng chối tội, không thừa nhận lỗi của mình khi các cơ quan có thẩm quyền chưa

chứng minh được lỗi của người đó.

Xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chủ yếu phải

thông qua xác định các tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm như công cụ,

phương tiện thực hiện hành vi, vị trí tác động của công cụ, phương tiện; thời gian,

địa điểm, hoàn cảnh nơi xảy ra vụ việc; đồng thời, phải thông qua đánh giá thái độ

tâm lý của người thực hiện hành vi trước, trong và sau khi có hậu quả nguy hiểm

cho xã hội xảy ra; trình độ, kiến thức mà người đó được đào tạo; mối quan hệ của

người thực hiện hành vi với nạn nhân (nếu có) và những người xung quanh, những

yếu tố khác thuộc về nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ...

Đối với tội buôn lậu, lỗi của chủ thể phạm tội buôn lậu được xác định là lỗi

cố ý trực, chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được xác định là buôn lậu

nhận thức được hành vi sai trái, biết trước hậu quả và mong muốn hậu quả xảy ra

đối với hành vi hay chuỗi hành vi mà mình thực hiện. Như vậy nếu xác định chủ thể

thực hiện hành vi với lỗi vô ý thì không thể định tội danh tội buôn lậu mà phải xem

xét đủ các yếu tố cấu thành một tội khác không hay phải tuyên bố họ không phạm

tội. Từ việc xác định lỗi này của chủ thể tội phạm tội buôn lậu căn cứ vào quy định

pháp luật về tội buôn lậu và xác định trách nhiệm pháp lý hình sự của chủ thể.

Thứ tư:. Xác định hậu quả của tội phạm khi định tội trong trường hợp dấu

hiệu hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc, trường hợp này cần chú ý nếu tội

phạm có cấu thành vật chất (có dấu hiệu hậu quả) và thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,

nếu hậu quả của tội phạm không xảy ra thì người thực hiện hành vi vẫn có thể phải

chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.

15

Nếu tội phạm thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý thì nói chung, người thực

hiện hành vi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có hậu quả của tội phạm xảy ra.

Xác định dấu hiệu công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian,

địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm khi định tội trong một số trượng hợp tội

phạm có dấu hiệu công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa

điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm làdấu hiệu bắt buộc. Trong những trường hợp

đó, việc xác định có các dấu hiệu này trên thực tế mới có thể xác định tội danh của

người thực hiện hành vi.

Đối với tội buôn lậu có cấu thành hình thức cho nên không cần phải có hậu

quả xảy ra, không cần đạt được mục đích phạm tội, chỉ cần có hành vi, chuẩn bị

công cụ, phương tiện... hướng tới việc nhập hàng hóa qua biên giới trái phép đã đủ

yếu tố cấu thành tội phạm buôn lậu theo luật. Giá trị hàng hóa phạm tội là căn cứ

định khung, xác định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Ví dụ: Một người đã buôn bán trái phép hàng hóa, trốn thuế với số tiền 150

triệu đồng. Nếu chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên

giới thì định tội là “tội buôn lậu” theo Điều 188 BLHS. Nếu không chứng minh

được hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên giới (tức là chỉ trong nội địa),

thì định tội là “tội trốn thuế” theo Điều 200 BLHS.

Trong trường hợp có sự sai lầm về công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ

đoạn thực hiện tội phạm, người thực hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm

hình sự về trường hợp phạm tội chưa đạt.

Thứ năm. Xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi định tội theo quy định

tại Điều 12 BLHS, đảm bảo người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình

sự về mọi tội phạm.

Thứ sáu: Xác định năng lực trách nhiệm hình sự khi định tội

Một trong những dấu hiệu bắt buộc của chủ thể của tội phạm là dấu hiệu

người thực hiện hành vi có năng lực trách nhiệm hình sự. BLHS không quy định

trực tiếp thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà quy định về tình trạng

không có năng lực trách nhiệm hình sự. Để xác định một người có năng lực trách

16

nhiệm hình sự phải loại trừ khả năng đó là người không có năng lực trách nhiệm

hình sự.

Điều 21 BLHS quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.

Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh

tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều

khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này,

phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Khi xác định tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự của người thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội làm căn cứ để định tội cần chú ý: Thông thường, khi

đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người thực hiện hành vi nguy hiểm đã có

khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng

điều khiển được hành vi ấy. Do vậy, nếu không có sự nghi ngờ người đó ở trong

tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo quy định tại Điều 21BLHS)

thì mặc nhiên coi người đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Chỉ khi có sự

nghi ngờ người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể ở trong tình trạng

không có năng lực trách nhiệm hình sự thì mới cần yêu cầu trưng cầu giám định.

Trong yêu cầu trưng cầu giám định phải yêu cầu Hội đồng giám định xem xét kết

luận vấn đề: Người đó thực hiện hành vi có phải trong trạng thái mắc bệnh tâm thần

hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi

hay không. Chỉ trên cơ sở kết luận của Hội động giám định về những vấn đề nêu

trên mới có thể kết luận người đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự hay

không có năng lực trách nhiệm hình sự.

Thứ bảy : Lựa chọn quy phạm pháp luật cấu thành tội phạm cụ thể là tội

buôn lậu căn cứ theo dấu hiệu cấu thành tương ứng của điều luật (mặt khách thể,

mặt khách quan, mặt chủ thể, mặt chủ quan).

Thứ tám : So sánh, đối chiếu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực

hiện với dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của một điều luật tại phần

các tội phạm của Bộ luật hình sự tương thích. Chú ý mỗi tội do BLHS ngoài những

dấu hiệu phạm tội chung còn có một số đặc trưng riêng trong cấu thành tội phạm

17

(đặc trưng về chủ thể, về lỗi, về động cơ, mục đích của hành vi nguy hiểm) căn cứ

vào các đặc trưng này giúp quá trình định tội danh có thể phân biệt với các tội khác

nhau, ví dụ: tội cố ý gây thương tích với tội giết người; tội buôn lậu với tội vận

chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, tội trốn thuế...[14, tr.31-33].

1.1.4. Chủ thể thực hiện việc định tội danh tội buôn lậu

Về mặt lý luận và thực tiễn chúng ta thấy định tội danh nói chung hay định

tội danh tội buôn lậu nói riêng thường là các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan

điều tra,Viện Kiểm Sát, Tòa án) và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

thuộc các cơ quan này (quy định tại điều 34 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015

thông qua các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Ngoài ra hoạt động định

tội danh còn do Cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra được quy định tại điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 gồm có 07 cơ

quan (Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan

của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển;Các cơ quan của Kiểm

ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm quyền được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra thuộc 07 cơ quan trên. Hoạt động định tội danh

của các cơ quan, cá nhân được Bộ luật tố tụng hình sự quy định này gọi là định tội

danh chính thức và dẫn hậu quả pháp lý là liên quan đến việc khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử người hay pháp nhân thương mại phạm tội...dẫn đến họ phải chịu trách

nhiệm hình sự đến đâu thông qua chế tài là hình phạt...[9, tr. 11,12,15-18]

- Ngoài các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì các chủ thể tham gia

tố tụng cũng định tội danh, như người bào chữa định tội danh trong Bản bào chữa

và đối đáp với đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Chính bị cáo cũng định tội danh

khi tự bào chữa và tranh luận, người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại định

tội danh khi phát biểu và tranh luận tại Tòa.

Bên cạnh đó, các Nhà luật học, nhà báo, nhà nghiên cứu, chuyên gia, giảng

viên luật hoặc những người quan tâm ... có thể thực hiện việc định tội danh đối với

18

một hành vi cụ thể nào đó mà họ nói tới, phân tích, bàn bạc tuy nhiên đối với nhóm

chủ thể không chính thức này thì đó chỉ là ý kiến pháp lý, ý kiến cá nhân để phục vụ

việc nghiên cứu,học tập... đây được coi là hoạt động định tội danh không chính

thức, chỉ phục vụ công tác nghiên cứu, học tập, tuyên truyền pháp luật chứ không

dẫn đến hậu quả pháp lý là trách nhiệm hình sự. [11Tr. 21, 22],

1.1.5. Ý nghĩa của định tội danh tội buôn lậu

Như đã trình bày ở trên, định tội danh là một giai đoạn cơ bản và tối quan

trọng của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc định tội danh đúng thể hiện ý nghĩa

về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý rất lớn. Pháp luật hình sự do Nhà nước

ban hành, qua đó thể hiện ý chí của Nhà nước đối với việc đấu tranh, phòng ngừa

tội phạm. Do vậy, khi áp dụng pháp luật để định tội danh cần nghiêm chỉnh tuân thủ

các quy định của PLHS là điều kiện cần thiết và quan trọng trong việc thực hiện

chính sách phòng chống tội phạm qua đó bảo vệ tốt nhất lợi ích của Nhà nước, của

xã hội và của mọi công dân.

Hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh tội buôn lậu nói riêng

của các chủ thể có thể theo 2 xu hướng: Định tội danh đúng hoặc định tội danh sai.

Định tội đúng có nghĩa là xác định chính xác một hành vi cụ thể đã thực hiện

thoả mãn các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định

trong BLHS, trong đó không những xác định được điều luật mà còn cả điểm, khoản

tương ứng của điều luật cụ thể áp dụng đối với người, pháp nhân thực hiện hành vi

đó. Ngược lại định tội danh không đúng là xác định một hành vi không đúng với

hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm.

- Khi định tội danh đúng sẽ có ý nghĩa như sau:

+ Là sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự duy nhất đối với hành vi nguy hiểm

cho xã hội đã thực hiện và đang được xem xét.

+ Định tội đúng giúp phân biệt được giữa hành vi vi phạm pháp luật hình sự

bị coi là tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác không phải là tội phạm để

từ đó giúp các cơ quan tố tụng phân loại chính xác tố giác tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố là tiền đề để xác định trình tự tố tụng giải quyết chính xác, nhanh

19

chóng, kịp thời.

+ Định tội đúng bảo đảm cho truy cứu trách nhiệm hình sự và kết tội một

người đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghĩa là bảo đảm thực hiện tốt nhiệm

vụ thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự hoặc bào chữa cho một người đạt

kết quả tốt

+ Định tội đúng góp phần giúp các chủ thể thực hiện tốt chức năng trong tố

tụng hình sự, phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp

để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan tố tụng và cá nhân này, bảo

đảm thực hiện tốt các quy định của luật hình sự và luật tố tụng hình sự.

+ Định tội đúng cũng là cơ sở để áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình

sự, áp dụng các biện pháp điều tra, cưỡng chế, ngăn chặn đúng quy định, thực hiện

thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử...

+ Định tội đúng của cơ quan điều tra, truy tố và người bào chữa là tiền đề để

giúp Tòa án quyết định hình phạt một cách có căn cứ và đúng pháp luật.

+ Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá

thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật.

+ Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên

tắc tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế,

trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên

tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm.

Như vậy, định tội danh đúng có ý nghĩa quan trọng trong tố tụng hình sự,

làm cơ sở cho việc kết thúc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Định tội

danh đúng là cơ sở cho việc quyết định đúng các biện pháp cưỡng chế, áp dụng các

thời hạn tố tụng và quan trọng hơn là quyết định đúng hình phạt chính hay bổ sung

đối với người hay pháp nhân thương mại phạm tội.

Với các phân tích trên ta có thể thấy: “ Định tội danh đúng là biểu hiện của

việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí

của nhân dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã

20

hội, của Nhà nước và của con người, của công dân” [39, tr29]

- Khi định tội danh sai:

+ Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm

bảo được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình

sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm

các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận

trong Nhà nước, ngoài danh dự, nhân phẩm, quyền tự do dân chủ, quyền con người

bị xâm hại thì người bị định tội danh sai còn mất đi rất nhiều quyền lợi về tài sản,

việc làm và ảnh hưởng rất lớn đến hạnh phúc gia đình một số trường hợp còn liên

quan đến danh dự của của một dòng họ, cả một thế hệ con cháu bị ảnh hưởng, xã

hội coi thường, kỳ thị…

+ Định tội danh sai làm giảm uy tín của các Cơ quan tố tụng, vi phạm pháp

chế XHCN, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, cơ quan, tổ chức và quan trọng

là ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm. [28, tr. 4,5,6].

Từ các phân tích trên ta thấy được,định tội danh tội buôn lậu là chúng ta xác

định các hành vi nguy hiểm của một người nào đó, một pháp nhân thương mại nào

đó có thỏa mãn cấu thành tội buôn lậu hay không? định tội danh là một giai đoạn cơ

bản và tối quan trọng của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc định tội danh đúng

sẽ quyết định hình phạt đúng thể hiện ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và

pháp lý rất lớn với việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Đối với tội Buôn lậu, gian lận thương mại hay buôn bán hàng nhái, hàng giả

ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế trong nước về lâu về dài, tuy nhiên nó ảnh hưởng

trực tiếp nhất là đến người tiêu dùng vì nếu hàng hóa nhập khẩu không tuân thủ các

quy định thì Nhà nước sẽ không kiểm soát, không bảo đảm được chất lượng hàng

hóa ở nước ngoài nhập vào Việt Nam, cũng như nếu hàng hóa Việt Nam Xuất khẩu

ra nước ngoài nếu không đảm bảo về chất lượng sản phẩm thì sẽ làm mất uy tín, ảnh

hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến nguồn thu

cho doanh nghiệp cũng như ngân sách Nhà nước. Do vậy, việc định tội danh đúng

đối với tội buôn lậu dẫn xử lý đúng người đúng tội, áp dụng đúng biện pháp chế tài

21

đối với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội, bảo vệ được nền sản xuất công

nghiệp trong nước, chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước, chống thất thoát thuế

xuất nhập khẩu và bảo vệ được sức khỏe của người tiêu dùng trong nước. Ngoài ra

nó cũng giúp trừng trị, răn đe những cán bộ Nhà nước thực thi công vụ trong lĩnh

vực xuất, nhập khẩu hàng hóa phải luôn tuân thủ pháp luật trong quá trình thực thi

nhiệm vụ. [15]

1.2. Pháp luật về định tội danh tội buôn lậu

1.2.1. Cấu thành tội phạm tội buôn lậu theo BLHS năm 2015

Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật hình sự khác là cơ

sở pháp lý cao nhất quy định Tội phạm và hình phạt .

Với nguyên tắc, cơ sở thống nhất “chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật

hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự; chỉ pháp nhân thương mại

nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định tại điều 76 của Bộ luật này mới

phải chịu trách nhiệm hình sự (điều 2 BLHS năm 2015)”. Quy định này đảm bảo

thống nhất trong việc định tội danh, loại trừ khả năng cho phép bất kỳ một cơ quan,

tổ chức hay cá nhân nào được phép mở rộng, thu hẹp hay có bất cứ hành vi nào sửa

đổi theo ý chí, mục đích riêng của mình.

Cấu thành tội phạm của mỗi tội phạm cụ thể được quy định trong một quy

phạm pháp luật hình sự, quy phạm đó được thể hiện cơ bản trong một điều luật của

phần các tội phạm của BLHS, tuy nhiên phần các tội phạm cụ thể (tội buôn lậu)

không thể hiện đầy đủ của dấu hiệu của CTTP, để nhận thức đầy đủ, chính xác một

CTTP cụ thể thì ngoài các quy định của phần các tội phạm, các chủ thể định tội phải

nhận thức các dấu hiệu khác của CTTP được thể hiện trong các quy định của phần

chung BLHS (ví dụ dấu hiệu về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, dấu hiệu về

lỗi…), đây là điều kiện bắt buộc để định tội danh. [11, tr 57]

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý duy

nhất của việc định tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy

cứu TNHS” [39, tr 68]

Vì xác định Cấu thành tội phạm như được hiểu là cơ sở duy nhất của việc định

22

tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu TNHS. Do vậy,

từ góc độ lập pháp, người làm luật cần quy định chính xác, cụ thể, xác định rõ ràng

các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để có thể chứng minh được trong thực tế và

phân biệt với các cấu thành khác; từ góc độ áp dụng pháp luật, người định tội cần

nhận thức chính xác, đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm [29,tr 9]

Do đó, Trong hoạt động áp dụng pháp luật để định tội danh buôn lậu thì bắt

buộc phải dựa vào cấu thành tội buôn lậu. Vì tính chất bảo vệ trật tự quản lý kinh tế

trong nước về xuất khẩu, nhập khẩu, bảo vệ, khuyến khích nền sản xuất công

nghiệp trong nước, bảo vệ người tiêu dùng trong nước, chống lại việc trốn thuế xuất

khẩu, nhập khẩu…do đó Nhà nước xây dựng quy định về tội buôn lậu với Cấu

thành hình thức, chỉ cần có hành vi trái quy định pháp luật để nhằm mục đích nhập

hàng hóa qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại là đã

cấu thành tội buôn lậu chứ không cần đến hậu quả xảy ra. Tội phạm buôn lậu là một

thể thống nhất gồm 04 yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan.

Các yếu tố này quan hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên mỗi yếu tố cũng có tính riêng

độc lập tương đối với các yếu tố còn lại.

Các yếu tố của CTTP tội buôn lậu thể hiện như sau: [14,tr.169,170]

1.2.1.1. Mặt Khách thể của tội buôn lậu:

Hành vi phạm tội buôn lậu xâm phạm đến hoạt động quản lý kinh tế nhà

nước về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, di vật, cổ vật, vật

phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa. Chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa của Nhà

nước luôn thay đổi theo từng thời kỳ để phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của

đất nước cũng như thế giới.

Đối tượng tác động: Hàng hoá; tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ (như USD,

Yên…); Kim khí quý, đá quý (vàng, bạc, kim cương…); Vật phẩm thuộc di tích lịch

sử, văn hoá; Hàng cấm (bị Nhà nước cấm lưu thông).

Từ BLHS năm 2015 đã bỏ đối tượng là “hàng cấm” ra khỏi tội buôn lậu mà

chuyển hẳn sang tội buôn bán hàng cấm tại điều 190

1.2.1.2. Mặt khách quan của tội buôn lậu:

23

Về hành vi: có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế

quan vào nội địa hoặc ngược lại.

Việc buôn bán trái phép được thể hiện ở chỗ mua hoặc bán không có giấy

phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép xuất, nhập khẩu và các quy định

khác của Nhà nước về hải quan (ví dụ: Giấy phép nhập khẩu là máy móc, thiết bị

dùng cho sản xuất nông nghiệp nhưng thực tế lại mua bán máy móc sử dụng cho

tiêu dùng như tủ lạnh, xe gắn máy, tivi…), các trường hợp cấp các giấy phép con

này thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử chúng ta phải viện dẫn đến quy định

chuyên nghành để xem xét quy trình, thủ tục và thẩm quyền cấp đó đúng không?

Tại thời điểm cấp phép và thời điểm bị truy tố, xét xử có thay đổi, bổ sung, thay thế

hay hủy bỏ không? Nếu có những điểm có lợi cho người phạm tội thì cần phải vận

dụng, áp dụng cho người phạm tội.

Trường hợp kinh doanh xuất nhập khẩu đúng giấy phép nhưng khai không

đúng số lượng (khai ít hơn số lượng thực nhập) hoặc nhập vượt quá mức mà giấy

phép xuất, nhập khẩu cho phép thì cũng bị coi là buôn lậu nhưng chỉ truy cứu trách

nhiệm đối với phần chưa khai hoặc xuất nhập khẩu vượt mức cho phép.

Thủ đoạn rất đa dạng, một số được thể hiện qua việc khai báo gian dối (nhiều

hay ít, mặt hàng này lại khai là mặt hàng khác..), giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng,

tiền… hoặc đi vòng tránh khỏi khu vực cửa khẩu để trôn tránh sự kiểm soát của cơ

quan có thẩm quyền. Cũng có trường hợp các đối tượng buôn lậu móc nối với cán

bộ hải quan, cửa khẩu để nhập hàng không đúng giấy phép hoặc khai tăng, giảm số

lượng hàng nhập hoặc một số trường hợp nhập hàng lậu dưới hình thức tạm nhập,

tái xuất, khi nhập hàng về không xuất đi mà tiêu thụ ngay trong nước.

Thời điểm hoàn thành tội phạm này tính từ thời điểm đưa hàng, tiền qua biên

giới một cách trái phép vào Việt Nam.

Vậy, Biên giới ở đây không chỉ hiểu là biên giới theo địa lý trên đất liền, trên

không, trên biển mà là các cửa khẩu kiểm soát việc xuất cảnh, nhập cảnh, xuất nhập

khẩu hàng hóa (cảng sân bay, cảng biển…).Tuy nhiên nếu là đưa hàng, tiền từ Việt

Nam ra nước ngoài thì không nhất thiết tính từ thời điểm qua biên giới Việt Nam.

24

(Chẳng hạn hàng hoá được tập kết gần biên giới chuẩn bị đưa trái phép qua biên

giới thì bị phát hiện.

Về giá trị hàng phạm pháp làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, định

khung:

Đối với hàng hoá, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý phải có giá

trị từ một trăm triệu đồng trở lên. Trường hợp dưới một trăm triệu đồng thì phải

thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều

này hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của

Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa

án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 248,

249, 250, 251, 252, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của BLHS năm 2015;

Đồng thời cho đến thời điểm có hành vi buôn lậu bị phát hiện thì vẫn chưa

được xoá án tích đối với việc phạm các tội nêu trên mà còn vi phạm về hành vi

buôn lậu và không phải thuộc các trường hợp quy định tại các điều sau đây: Tội sản

xuất trái phép chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm

đoạt chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng

vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán

các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma

tuý; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt

vũ khí vận dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,

sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; Tội chế tạo, tàng trữ, vận

chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ

trợ; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt

chất phóng xạ; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép

chất cháy, chất độc.

Đối với di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì điều luật không

quy định cụ thể mức tối thiểu giá trị vật phạm pháp, vì những vật phẩm loại này

chứa đựng những giá trị tinh thần (vô giá) mà không thể tính được bằng tiền. Tuy

nhiên cầu lưu ý: Di tích lịch sử, văn hoá phải là những di tích đã được cơ quan nhà

25

nước có thẩm quyền có quyết định công nhận và xếp hạng.

Như vậy, ngoài hành vi khách quan của tội buôn lậu thì tội buôn lậu còn có

dấu hiệu bắt buộc đó là: Giá trị hàng hóa vi phạm, địa điểm phạm tội (qua biên giới

hay khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại). Hành vi nguy hiểm cho xã hội

và hậu quả gây ra có mối quan hệ trực tiếp đó là Nhà nước thất thoát tiền thuế xuất

nhập khẩu hàng hóa, không kiểm soát được hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên

trong thực tế thì quá trình điều tra, truy tố, xét xử các Cơ quan tố tụng không căn cứ

vào hậu quả của hành vi buôn lậu gây ra vì buôn lậu thuộc cấu thành hình thức nên

chỉ cần có hành vi xuất nhập khẩu hàng hóa trái quy định pháp luật là đã đủ cơ sở

định tội buôn lậu. Còn giá trị hàng hóa, tiền việt Nam, Kim khí quý, Đá quý, di vật,

cổ vật quy định trong điều luật chỉ là giá trị của vật phạm pháp chứ không xác định

nó là hậu quả.

Như vậy, để xét về mặt khách quan của tội phạm buôn lậu cần làm rõ các dấu

hiệu như sau:

Dấu hiệu về mặt chứng cứ: cũng giống như các vụ án hình sự khác thì định

tội danh tội buôn lậu cũng phải thu thập các chứng cứ theo đúng các quy định tại

điều 86,87,88 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Các nguồn chứng cứ theo khoản 1

điều 87 gồm có (07 loại): 1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn: a) Vật

chứng; b) Lời khai, lời trình bày; c) Dữ liệu điện tử; d) Kết luận giám định, định

giá tài sản; đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành

án; e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; g) Các tài liệu,

đồ vật khác.

Với đặc thù của tội buôn lậu là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, vàng,

ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử văn

hóa…thực hiện thông qua cửa khẩu hải quan, cửa khẩu. Nên phải xác minh, điều tra

rõ các vấn đề sau:

Về đối tượng mua bán: là hàng hóa gì? trước thời điểm BLHS 2015 có hiệu lực

có phải là hàng cấm không? Các thủ tục nhập hàng hóa thường có trong buôn lậu

thường phải làm rõ gồm có: Bản lược khai hàng hóa trước khi hàng nhập khẩu về

26

đến cảng, hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương, tờ khai hải quan, packing list,

tờ khai hải quan, biên bản đóng thuế xuất nhập khẩu, GTGT, Tiêu thụ đặc biệt, Hồ

sơ vận chuyển của hãng tàu biển, máy bay, các biên bản kiểm tra, kiểm hóa hàng

hóa, biên bản, quyết định xử lý vi phạm của hải quan, các biên bản xử phạt hành

chính mà người phạm tội đã bị phạt (chưa hết án tích), các bản án bị tuyên chưa

được xóa án tích theo quy định tại khoản 1 điều 188 BLHS.

Thông qua lấy lời khai bị can bị cáo, những cá nhân, cơ quan và tổ chức liên

quan và bằng các biện pháp tố tụng làm rõ có thêm những hành vi khác ngoài hành

vi buôn lậu không ví dụ như: hành vi hối lộ, hành vi lạm dụng chức vụ quyền

hạn…) nếu có cơ sở thì khởi tố và điều tra xét xử.

Xác định địa điểm xảy ra hành vi được coi là buôn lậu? hàng hóa đã được di

chuyển qua biên giới hay chưa?đang nằm ở đâu (tập kết ở cảng, kho ngoại quan…).

Để định tội danh tội buôn lậu phải thì phải thu thập tất cả những chứng cứ

trong nguồn chứng cứ một cách trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy

định.

1.2.1.3. Mặt chủ quan của tội buôn lậu:

Dấu hiệu cơ bản về mặt chủ thể là dấu hiệu về lỗi, đó là thái độ về mặt tâm lý

bên trong của người phạm tội. Lỗi gồm có: lỗi cố ý (trực tiếp và gián tiếp), lỗi vô ý

(vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin)

Đối với tội phạm buôn lậu thì người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý

trực tiếp vì người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là buôn bán trái phép qua

biên giới, thấy trước được hậu quả của hành vi trái phép là nguy hiểm cho xã hội, bị

pháp luật cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra.

Mục đích của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới là thu lời bất chính.

Biểu hiện của mục đích thu lời bất chính là trốn thuế nhập khẩu, xuất khẩu.

Trong quá trình định tội danh buôn lậu phải phân biệt về mục đích của đối

tượng nếu trong trường hợp vận chuyển với mục đích buôn bán kiếm lời thì phải

truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu, còn người vận chuyển không phải là

27

chủ hàng, chỉ với mục đích là vận chuyển để lấy tiền công (chở thuê) thì truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới.

1.2.1.4. Chủ thể của tội buôn lậu:

Chủ thể của tội buôn lậu không có gì khác biệt so với chủ thể các tội phạm

khác (chủ thể thường) là bất kỳ người, pháp nhân thương mại nào có năng lực trách

nhiệm hình sự tức là nếu là cá nhân thì có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi

và đủ 16 tuổi trở lên (BLHS năm 2015 quy định tại điều 12); nếu là pháp nhân thì

phải là pháp nhân thương mại theo quy định tại điều 75 của Bộ luật hình sự năm

2015. [34].

Như vậy, BLHS là nguồn trực tiếp của việc định tội danh tội buôn lậu nói

riêng cũng như các tội phạm khác, khi định tội danh thì người có thẩm quyền định

tội phải căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý của các cấu thành tội phạm để xem xét.

Các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm được quy định ở cả Phần chung và Phần

các tội phạm của BLHS. Tuy nhiên, cần lưu ý là khi nói đến cấu thành tội phạm với

tính cách là khuôn mẫu pháp lý của tội phạm thì không chỉ là các cấu thành tội

phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ của

những tội phạm hoàn thành do người thực hành tội phạm thực hiện mà còn bao gồm

cả những cấu thành tội phạm của hành vi chuẩn bị phạm và cấu thành tội phạm của

những hành vi đồng phạm (cấu thành tội phạm của hành vi xúi giục, hành vi tổ chức

và hành vi giúp sức). Trong quá trình định tội, thông thường các quy định ở Phần

chung của BLHS không cần viện dẫn, trừ các trường hợp như các trường hợp chuẩn

bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm

Các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng có thể là cơ sở pháp lý của việc

định tội:

- Có nhiều quy phạm pháp luật như Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết...

có chứa đựng quy phạm pháp luật mang tính viện dẫn luật hình sự thì ngoài việc

phải căn cứ vào BLHS còn phải căn cứ vào các quy định trong các văn bản pháp

luật có liên quan để định tội. Ví dụ, để xác định hành vi của một người phạm tội vi

phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thì phải căn cứ vào

28

Luật giao thông đường bộ để xác định người điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ vi phạm điều, khoản nào của Luật này.

- Để thi hành BLHS, Quốc hội giao cho Cơ quan của quốc hội, TAND tối

cao, VKSND tối cao, Chính phủ trong phạm vi chức năng của mình có trách nhiệm

hướng dẫn thi hành BLHS. Các văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS do các cơ quan

này ban hành là các văn bản giải thích luật, như: Nghị quyết của Ủy ban thường vụ

quốc hội, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Thông tư liên tịch

của các cơ quan liên ngành. Những văn bản này cũng phải được xem xét, áp dụng

khi định tội. Tuy nhiên, cần lưu ý là các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp

luật như đã nêu trên cũng phải tuân thủ đúng nội dung trong các quy định của

BLHS mới là căn cứ để định tội.

Cụ thể trong định tội danh tội buôn lậu liên quan đến hoạt động kinh tế,

ngoại thương, xuất nhập khẩu do đó có thể bằng nhiều phương thức xử lý tùy hành

vi vi phạ ( xử lý hành chính, xử lý hình sự) thì chúng ta xem xét, viện dẫn đến

những quy định của luật chuyên nghành đối với những mặt hàng vi phạm ví dụ như

Luật an toàn thực phẩm và các nghị định hướng dẫn đối với hàng hóa nhập khẩu là

lương thực thực phẩm, các văn bản hướng dẫn về hải quan, xuất nhập khẩu, các

nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản

xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (nghị định

185/2013/NĐ-CP ) tại điều 3 có phần mô tả, giải thích thế nào là hàng nhập lậu,

hàng giả, về các hành vi vi phạm …khi thực hiện hoạt động định tội danh đối với

tội buôn lậu thì cũng nên xem xét vận dụng, áp dụng.

Tóm lại, với những phân tích các yếu tố của CTTP tội buôn lậu nói trên thì

chúng ta có thể khái quát CTTP tội buôn lậu là hệ thống các dấu hiệu cần và đủ đặc

trưng cho tội buôn lậu theo quy định của BLHS.

1.2.2. Định tội danh tội buôn lậu trong các trường hợp đặc biệt

1.2.2.1. Định tội tội buôn lậu trong trường hợp phạm tội chưa đạt

- Luật hình sự Việt Nam không chỉ xem hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu

hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản là tội phạm, mà còn xem cả hành vi chuẩn bị

29

cho việc thực hiện tội phạm cố ý cũng như hành vi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu

của cấu thành tội phạm của một tội cố ý vì nguyên nhân khách quan là tội phạm. Và

để có cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự, thì hành vi chuẩn bị phạm tội

cũng như hành vi phạm tội chưa đạt cũng có những đặc điểm cấu thành riêng biệt:

đó là cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm của phạm

tội chưa đạt.

- Cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt không

được phản ánh trực tiếp tại từng tội danh cụ thể mà thể hiện trong phần chung của

BLHS. Đó là các dấu hiệu có tính chất chung cho tất cả các tội danh nhưng chưa

phải là cấu thành của chuẩn bị phạm tội và cấu thành của phạm tội chưa đạt của

riêng một tội phạm cụ thể nào cả. Cấu thành tội phạm chỉ được hình thành trên cơ

sở kết hợp cấu thành tội phạm của một tội phạm cụ thể với quy định chung về

chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Vì thế, nếu đối chiếu hành vi chuẩn bị

phạm tội hay phạm tội chưa đạt với riêng cấu thành cơ bản của một tội cụ thể thì

hành vi này hoặc không thỏa mãn, hoặc chưa thỏa mãn hết những dấu hiệu của cấu

thành tội phạm cơ bản. Nhưng nếu đặt cấu thành cơ bản trong mối liên hệ với điều

luật quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm thì hành vi chuẩn bị phạm tội và

phạm tội chưa đạt đều hoàn toàn thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm

cơ bản và của các quy định về giai đoạn thực hiện tội phạm.

- Hành vi chuẩn bị phạm tội, với tính chất là một giai đoạn thực hiện tội

phạm, được hiểu là hành vi tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm

nhưng bị chấm dứt do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người

thực hiện hành vi. Theo quy định tại Điều 14 BLHS, người chuẩn bị phạm một

trong một số trường hợp cụ thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp

nếu thấy có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng một người chuẩn bị thực hiện một tội

phạm nhưng chưa có đủ căn cứ để xác định được tội phạm mà họ định thực hiện là

tội gì thì phải làm rõ đó có phải là một trong các tội được quy định tại điều 14

BLHS hay không, như vậy mới có cơ sở để định tội đối với hành vi do người đó

thực hiện. Ví dụ, A sửa soạn công cụ, phương tiện để phạm tội. Nếu chỉ chứng minh

30

được A sửa soạn công cụ, phương tiện để trộm cắp tài sản thì A không phải chịu

trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội của tội trộm cắp tài sản theo Điều

173 BLHS, không được khởi tố bị can đối với A. Nếu đã khởi tố bị can thì phải định

chỉ. Khi định tội đối với hành vi chuẩn bị phạm một tội phạm cụ thể, ngoài việc

viện dẫn điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm của BLHS còn phải viện dẫn

Điều 14 BLHS. Ví dụ, khi định tội đối với hành vi chuẩn bị giết người phải viện

dẫn Điều 123 và Điều 14 BLHS.

- Theo quy định tại Điều 15 BLHS, phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội

phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn

của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội

phạm chưa đạt. Như vậy, về nguyên tắc, khi đã xác định được một người thực hiện

hành vi có đủ dấu hiệu của trường hợp phạm tội chưa đạt thì phải định tội đối với

hành vi đó giống như đối với tội phạm hoàn thành tương ứng, đồng thời viện dẫn

Điều 15 BLHS. Ví dụ, khi định tội đối với hành vi trộm cắp tài sản chưa đạt thì phải

viện dẫn Điều 173 và Điều 15 BLHS.

- Định tội đối với hành vi phạm tội chưa đạt, chỉ khi có đầy đủ căn cứ xác

định rằng tội phạm mà người phạm tội không thực hiện được đến cùng vì những

nguyên nhân ngoài ý muốn của họ thuộc khoản nào của điều luật tương ứng quy

định về tội phạm đó thì mới định tội theo khoản, điều luật tương ứng đó. Trong tr-

ường hợp xác định được hành vi chưa đạt mà người đó thực hiện không có đầy đủ

các dấu hiệu cấu thành tội phạm hoặc trong trường hợp không thể xác định được

hành vi vi phạm mà họ thực hiện đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hay

chưa thì phải quy kết là người đó không phạm tội.

Ví dụ: A chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa bị

kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc đã từng bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,

nhưng đã được xoá án tích. A vào nhà của người khác với ý thức có tài sản gì thì lấy

trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy được tài sản gì thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong

trường hợp này, không thể xác định được hành vi vi phạm của A đã có đủ các dấu

hiệu cấu thành tội phạm hay chưa (không thể xác định được giá trị tài sản bị chiếm

31

đoạt); do đó, phải quy kết A không phạm tội "trộm cắp tài sản".

- Trong trường hợp đã xác định được hành vi của một người là hành vi phạm

tội nhưng không xác định được tội phạm mà họ thực hiện chưa đạt thuộc khoản cụ

thể nào của điều luật tương ứng quy định về tội phạm đó, thì phải định tội theo

khoản nhẹ nhất của điều luật tương ứng đó.Ví dụ: A đã bị kết án và bị xử phạt 1

năm tù về tội "cướp giật tài sản" chưa được xoá án tích, vào nhà của người khác với

ý thức có tài sản gì thì lấy trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy được tài sản gì thì bị phát

hiện và bị bắt giữ. Trong trường hợp này, nếu không xác định được mục đích của A

chiếm đoạt tài sản trị giá theo các khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài

sản (Khoản 2, 3 hoặc 4 của Điều 173 BLHS) thì chỉ có thể kết luận A phạm tội trộm

cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 BLHS. [18]

Vậy đối với tội buôn lậu được xây dựng trên CTTP hình thức cho nên sẽ

trường hợp tội phạm đã hoàn thành về luật mà chưa đạt về mục đích (chưa đưa

được hàng hóa...qua biên giới, chưa tiêu thụ trót lọt...) do những nguyên nhân ngoài

ý muốn của người phạm tội như điều 15 BLHS, do đó trong quá trình định tội danh

phải xem xét, phân loại các hành vi của người phạm tội một cách khách quan, toàn

diện.

1.2.2.2. Định tội danh tội buôn lậu trong trường hợp đồng phạm

Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội

phạm (khoản 1 điều 17 BLHS). Đồng phạm quy định ở phần chung của BLHS,

không quy định riêng cho từng tội phạm, kể cả tội buôn lậu.

Về mặt cấu thành tội phạm trong trường hợp đồng phạm là về chủ thể có 02

người trở lên, lỗi cùng cố ý…và cùng thực hiện hành vi của một tội phạm. Trong

một vụ án nói chung và vụ án buôn lậu nói riêng nếu có nhiều bị can bị cáo nhưng

họ thực hiện riêng rẻ, không cùng một tội phạm thì phải xem xét khởi tố tội riêng

hoặc nếu không có căn cứ là đồng phạm hoặc thực hiện một tội phạm khác thì phải

đình chỉ điều tra, truy tố hoặc tuyên không có tội. Ví dụ: một nhóm nhiều người rủ

nhau đi cướp, đang đi thì gặp A, A ham vui nên đi dù không được biết nhóm kia đi

cướp mà chỉ đứng bên ngoài khi nhóm kia vô trong nhà thực hiện cướp tài sản, sau

32

khi A về nhà thì mới biết nhưng lại không nói. Như vậy, trong trường hợp này

không thể định tội A là đồng phạm giúp sức tội cướp tài sản được vì ngay khi nhóm

kia thực hiện tội phạm thì A hoàn toàn không biết, nhưng sau khi biết A không trình

báo Công an thì có thể khởi tố A tội không tố giác tội phạm và xét xử trong cùng vụ

án.

Theo quy định tại khoản 3 điều 17 thì đồng phạm gồm có: người tổ chức,

người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

- Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

- Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

- Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện

tội phạm.

- Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực

hiện tội phạm.

Qua thực tế thì những vụ án hình sự xảy ra thì có rất nhiều đồng phạm cùng

thực hiện một tội phạm, do đó quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì việc định tội

danh chính xác tội là bước quan trọng, qua đó xác định các vai trò đồng phạm của

các bị can, bị cáo trong cùng một tội cũng quan trọng không kém trong quá trình xét

xử nếu Toà án đã xác định sai vai trò đồng phạm, cụ thể xác định người thực hành

thành người giúp sức, dẫn đến đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội

không chính xác và quyết định hình phạt cũng không chính xác.

Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: Toà án có thể quyết định một

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt

buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm

tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trò không đáng

kể.

Quy định này cho thấy quan điểm của nhà làm luật là nói chung trong vụ án

đồng phạm, đồng phạm giúp sức thường có vai trò hạn chế nhất, do đó, họ có thể

được xét xử với mức án thấp hơn nhiều so với các loại người đồng phạm khác. Tuy

nhiên, khái niệm đồng phạm giúp sức phải được hiểu theo đúng tinh thần khoa học

33

luật hình sự, chứ không phải theo nhận thức cảm tính, không đồng nhất mỗi nơi áp

dụng một kiểu. [13]

1.2.2.3. Định tội danh buôn lậu đối với trường hợp tranh chấp nhiều cấu

thành tội phạm

Qua thực tế điều tra, xét xử án hình sự thì thường có một đến nhiều hành vi

nguy hiểm cho xã hội tội phạm. Các hành vi này có thể là chỉ thõa mãn, phù hợp

với một CTTP nhưng trong những chuỗi hành vi đó có trường hợp lại thỏa mãn với

nhiều CTTP. Do đó trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì cần cân nhắc định tội

danh một tội hay nhiều tội. Như vậy, đặt ra vấn đề định tội danh như thế nào, định

một tội danh hay nhiều tội danh vì việc này ảnh hưởng đến việc quyết định hình

phạt của Tòa án. [14, tr. 115-117]

Do vậy, căn cứ vào mối quan hệ giữa các CTTP mà hành vi phạm tội thỏa

mãn dấu hiệu, chúng ta chia hành vi làm 02 nhóm:

+ Nhóm thứ nhất: nhóm CTTP có mối quan hệ giữa CTTP chung và CTTP

riêng: CTTP chung là cấu thành thể hiện những dấu hiệu có đặc tính chung của tội

phạm, cấu thành chung là một phần của CTTP riêng, còn CTTP riêng không thể

hiện được hết trong CTTP chung, ví dụ tội giết người có cấu thành thanh chung so

với các tội giết con mới đẻ, giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng…

Vậy cơ sở lý luận để định tội danh ở trường hợp này phải dựa vào lý luận của

triết học Mác – Lê Nin về phạm trù cái chung – Cái riêng. Cái riêng lúc nào cũng là

một phần của cái chung và còn chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng khác của nó. Do

vậy, trường hợp này ta phải định tội danh căn cứ vào CTTP riêng.

+ Trường hợp CTTP không có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu

thành riêng: Trường hợp này trong quá trình định tội danh phải xem xét ở nhiều góc

độ khác nhau, đó là một quá trình phức tạp cần phải xem xét một cách khách quan,

tỉ mỉ. [36, tr.209-214].

Thực tiễn các vụ án buôn lậu xảy ra, thì các hành vi của bị can bị cáo ngoài

thỏa mãn cấu thành tội buôn lậu, có nhiều trường hợp còn thỏa mãn cấu thành tội

đưa, nhận hối lộ, tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Do đó, khi định

34

tội danh thì CQĐT, VKS, Tòa án sẽ xem xét để định nhiều tội danh nếu thỏa mãn

yếu tố cấu thành tội phạm của tội danh tương ứng.

1.2.3 Các quy định của BLTTHS liên quan đến định tội danh tội Buôn

lậu.

Như đã phân tích thì BLHS là cơ sở pháp lý duy nhất quy định về tội phạm và

hình phạt. Khi định tội danh bắt buộc phải căn cứ vào cấu thành tội phạm tương

ứng. Tuy nhiên, trong hoạt động định tội danh nhất thiết phải tuân thủ theo đúng

trình tự, thủ tục về tiếp nhận, giải quyết nguồn báo, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

theo quy định tại BLTTHS. Căn cứ vào điều 2 BLTTHS nêu rõ về nhiệm vụ của

BLTTHS là bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi

hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm,

không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi

người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Khi định tội danh không riêng gì tội buôn lậu thì phải đảm bảo các nguyên

tắc cơ bản của BLTTHS, ngoài quy định về thẩm quyền của Các cơ quan tiến hành

tố tụng, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, bị

can, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ...người có thẩm quyền định tội

phải chú ý đến các quy định của BLTTHS về thu thập, bảo quản, đánh giá chứng

cứ, xác định sự thật vụ án để định tội và ra văn bản áp dụng pháp luật, như các quy

định: Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự (Điều 85); chứng cứ

(Điều 86); Nguồn chứng cứ (Điều 87)thu thập chứng cứ (Điều 88); vật chứng (Điều

89); các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án ( từ Điều 91đến Điều 104); đánh giá chứng

cứ (Điều 108); căn cứ khởi tố vụ án hình sự (Điều 143); Trách nhiệm giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 145); khởi tố vụ án hình sự theo

yêu cầu của người bị hại (Điều 155); những căn cứ không được khởi tố vụ án hình

sự (Điều 157). [10 tr.22,23]; [22]

BLTTHS năm 2015 với nhiều điểm tiến bộ lớn, loại bỏ những hạn chế của

35

BLTTHS năm 2013, đặc biệt BLTTHS 2015 bỏ sung một số nguyên tắc mới quan

trọng ví dụ như Nguyên tắc suy đoán vô tội (điều 13), nguyên tắc không ai bị kết án

02 lần một tội phạm (điều 14), nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều

tra (điều 19), nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (điều 26).

Trong đó nguyên tắc tiến bộ và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động định tội

danh nói chung và định tội danh buôn lậu nói riêng là nguyên tắc suy đoán vô tội:

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo

trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội

theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Với quy định thể hiện rõ

ràng nguyên tắc chứng minh tội phạm thuộc về Các cơ quan tố tụng, nguyên tắc nếu

không đủ căn cứ chứng minh được một người nào đó là phạm tội thì phải tuyên bố

họ không có tội và hủy bỏ mọi biện pháp ngăn chặn, khôi phục các quyền lợi cho

họ…đây là nguyên tắc tiến bộ đã được áp dụng từ lâu ở các nước có nền tư pháp

pháp triển, tuy nhiên Việt Nam mới được luật hóa, tuy nhiên việc áp dụng còn nhiều

hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.

Như vậy, trong hoạt động định tội danh nói chung và tội buôn lậu nói riêng

phải đảm bảo tuân thủ đẩy đủ, chính xác các quy định của BLTTHS về trình tự, thủ

tục nhằm đảm bảo công bằng, chính xác và khách quan trong việc Điều tra, truy tố,

xét xử vụ án hình sự.

Kết luận Chương 1

Với các quy định tại Chương 1 thì đã phân tích khái niệm của pháp luật hình

sự về định tội danh đối với tội phạm hình sự nói chung và định tội danh đối với tội

buôn lậu nói riêng thông qua cơ sở quan trọng nhất đó là BLHS và các CTTP được

các nhà làm luật xây dựng nên từ các quy định PLHS.

Qua phân tích các quy định pháp luật, chúng ta thấy được tậm quan trọng, ý

nghĩa của hoạt động định tội danh trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Hoạt

động định tội danh đúng có tác dụng lớn trong việc bảo đảm sự nghiêm minh của

36

pháp luật, nâng cao chất lượng phòng, chống tội phạm, ngược lại hoạt động định tội

danh sai, dù chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số án các CQTT phải giải quyết hàng

năm nhưng nó gây ra tác hại vô cùng, lớn trước hết là tổn hại đến danh dự,uy tín,

nhân phẩm, quyền con người của người bị làm oan sai…lớn hơn nửa là gây mất

niềm tin của người dân đối với CQTT, Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng rất lớn đến

công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Từ các quy định pháp luật về định tội danh nói chung và quy định pháp luật

về tội Buôn lậu nói trên chúng ta có căn cứ để đi sâu vào phân tích tình hình cụ thể

về định tội danh buôn lậu tại Tp.Hồ Chí Minh như đề tài mà tác giả đã lựa chọn.

37

Chương 2

TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU VÀ THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI

BUÔN LẬU TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Khái quát về tình hình tội phạm buôn lậu trên địa bàn Thành phố

Hồ Chí Minh

2.1.1. Khái quát về đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội của Thành phố

Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh (tên thường gọi là Sài Gòn) là thành phố lớn nhất

Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn

hóa và giáo dục lớn, quan trọng nhất của Việt Nam. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí

Minh là thành phố trực thuộc trung ương được xếp loại đô thị đặc biệt của Việt

Nam, cùng với thủ đô Hà Nội.

Về địa lý: Tp.Hồ Chí Minh nằm Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông

Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và

5 huyện, tổng diện tích 2.095,06 km². Tp.HCM là nơi có nhiều kênh rạch, có sông,

có biển, khí hậu thuận lợi, làm nằm ở vị trí trung tâm kết nối với các tỉnh thành

khác, như vậy nhờ điều kiện tự nhiên, địa lý thuận lợi Tp.HCM trở thành đầu mối,

trung tâm giao thông quan trọng của Việt Nam cũng như của các nước khu vực về

đường bộ, đường thủy, đường hàng không. Tp.Hồ Chí Minh hiện có Cảng sân Bay

Quốc tế Tân Sơn Nhất là đầu mối giao thông quan trọng của cá miền nam cũng như

cả nước. Theo thống kê, năm 2016, sân bay này đã phục vụ 32,6 triệu lượt khách,

tăng 22,8% so với năm 2015. và 38,5 triệu lượt khách năm 2018 cũng là trụ sở hoạt

động chính của tất cả các hãng hàng không Việt Nam, là nơi đóng trụ sở của Tổng

công ty cảng hàng không Việt Nam quản lý toàn bộ các sân bay dân dụng ở Việt

Nam. nhờ vậy thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa. Ngoài ra,

Tp.Hồ Chí Minh còn có hệ thống cảng biển lớn, hiện đại phục vụ cho hoạt động

xuất nhập khẩu trong nước và các nước khu vực (Cảng Sài Gòn, Cảng Tân Hiệp

Phước, Cảng Cát Lái…) với lưu lượng hàng hóa xuất nhập rất lớn, đưa tới nguồn

thu rất lớn cho Nhà Nước cũng như doanh nghiệp, cá nhân. Hệ Thống Cảng biển tại

38

Tp.HCM lại kết nối mạnh mẽ, đồng bộ với Cảng ở Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu và

các tỉnh có cảng biển trong khu vực.

Về dân số: Theo thống kê của Tổng cục Thống kê dân số thì đến 01/04/2019

dân số Việt Nam là 96.208.984 người, trong đó dân số nam là 47.881.061 người

(chiếm 49,8%) và dân số nữ là 48.327.923 người (chiếm 50,2%.). Riêng thành phố

Hồ Chí Minh là 8.993.082 người [32]. Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú

không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố này năm 2018 là gần 14 triệu người,

giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm

21,3% tổng sản phẩm(GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả nước [6]. Với đặc

điểm là Thành phố đông dân nhất cả nước, nơi tập trung rất nguồn lao động dồi dào

nhất cả về lao động phổ thông lẫn lao động chất lượng cao cho nên thuận lợi cho

phát triển các nghành công nghiệp cũng như nông nghiệp trên địa bàn. Tuy nhiên

việc tập trung lao động đông, dân từ các địa phương khác di cư và ồ ạt kéo vào

Tp.HCM gây mất cân bằng nguồn lao động cho các địa phương khác, các vấn đề về

việc làm, an ninh trật tự, nhà ờ, y tế, giáo dục, môi trường…khiến Tp.Hồ Chí Minh

cũng đang phải đưa ra nhiều giải pháp để giải quyết.

Những năm gần đây Đảng, Nhà nước nói chung và Chính quyền Tp.Hồ Chí

Minh nói riêng đã đưa ra nhiều chính sách để phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục, cải

tạo cơ sở hạ tầng, thượng tầng với nhiều công trình nổi bất như (về giao thông có

Cao tốc Long Thành – Dầu Giây, Hầm chui thủ thiêm, Cải tạo hệ thống kênh rạch

Thị Nghè, các tuyến đại lộ Võ Văn Kiệt, Phạm Văn Đồng khánh thành…); Chỉnh

trang, xây dựng mới nhiều tuyến đô thị khang trang; tham gia nhiều công ước, hiệp

định quốc tế nên đã ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định về pháp luật ở tất cả

các lĩnh vực nên khuyến khích kinh tế thì phát triển hơn, khuyến khích cả nhà đầu

tư trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực; nâng cao được quyền tự do dân chủ,

quyền con người…trong các lĩnh vực của đời sống.

Với đặc điểm về địa lý và xã hội như vậy Tp.Hồ Chí Minh có nhiều điều

kiện thuận lợi để phát triển về mọi mặt xứng đáng là trung tâm kinh tế, chính trị, xã

hội của cả nước và là đầu mối về giao thương kinh tế của các nước trong khu vực

39

Đông Nam Á. Tuy nhiên, có thuận lợi thì cũng có nhiều khó khăn mà Tp.HCM phải

đương đầu trong quá trình phát triển. Vấn đề khó khăn của Thành phố Hồ Chí Minh

ngoài những vấn đề phải giải quyết về ô nhiễm môi trường, giải quyết việc làm,

giao thông, nhà ở…thì vấn đề trật tự xã hội, tội phạm cũng rất nhiều. Đặc biệt như

đã nói ở trên vì điều kiện tự nhiên xã hội nhiều sông suối, kênh rạch lại vừa có sông

vừa có biển nên Tp.Hồ Chí Minh là nơi giao lưu, đầu mối xuất nhập khẩu hàng hóa

nhiều nhất nhì Việt Nam. Hiện nay, Cục Hải quan Tp.Hồ Chí Minh bao gồm có 13

chi cục Hải quan (Chi cục Hải quan Cửa khẩu KV1, Chi cục Hải quan Cửa khẩu

KV2, Chi cục Hải quan Cửa khẩu KV3, Chi cục Hải quan Cửa khẩu KV4, Chi Cục

Hải quan Cửa khẩu Cảng Hiệp phước, Chi cục Hải quan Cửa khẩu khu công nghệ

cao, Chi cục Hải quan CK Sân bay Tân Sơn Nhất, Chi Cục Hải quan Chuyển phát

nhanh, Chi Cục Hải quan quản lý hàng đầu tư, Chi cục hải quan quản lý hàng gia

công, Chi cục Hải quan KCX Linh Trung, Chi cục Hải quan KCX Tân Thuận, Chi

cục KT sau Thông quan) …nơi đây hàng ngày xuất nhập rất nhiều hàng hóa, cũng

như nhiều người xuất nhập cảnh cho nên cũng là nơi nhạy cảm và xảy ra nhiều loại

hình tội phạm nhất, đặc biệt đó là tội buôn lậu hay vận chuyển hàng hóa trái phép

qua biên giới. [8]

Xuất phát từ tình hình tự nhiên, kinh tế, xã hội như đã nêu ở trên thì tội phạm

buôn lậu ở Thành Phố Hồ Chí Minh có thể nói là cao nhất và là điểm nóng của cả

nước, do đó hoạt động định tội danh tội buôn lậu được quan tâm và chú ý hơn cả thể

hiện qua rất nhiều vụ án buôn lậu lớn, gây chú ý tại Thành phố Hồ Chí Minh thời

gian qua.

Đảng, Nhà nước đã ban hành các quy định pháp luật để thuận tiện hơn, hội

nhập với các nước và khu vực về vấn đề xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu hàng hóa

Bên cảnh đó vấn đề đặt ra cũng rất nặng nề, khó khăn là làm sao vừa đảm bảo được

thủ tục xuất nhập khẩu nhanh chóng, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp…thúc

đẩy nền kinh tế phát triển nhưng cũng nhưng cũng phải đảm bảo kiểm tra, kiểm soát

hoạt động xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu hàng hóa đúng pháp luật. Trong hoàn

cảnh nền kinh tế phát triển, hội nhập quốc tế thì các thủ đoạn, phương thức buôn

40

lậu, trốn thuế ngày càng tinh vi, phức tạp…gây thất thu về thuế rất lớn, hơn nữa ảnh

hưởng rất nhiều đến nền sản xuất trong nước.

2.1.2. Khái quát tình hình tội buôn lậu ở Thành phố Hồ Chí Minh

Từ năm 2014 đến năm 2018 tình hình tội phạm về kinh tế bị phát hiện tại

Thành phố Hồ Chí Minh được thể hiện dưới đây:

Bảng 2.1. Kết quả phát hiện tội phạm kinh tế của lực lượng Cảnh sát

Kinh tế Công an Tp.Hồ Chí Minh từ 2014 -2018

Diễn biến Số Giá trị tài Giá trị tài Giá trị Thu nộp Số vụ tội phạm

Năm đối tượng sản thiệt hại (tỷ sản trốn thuế (tỷ hàng tạm giữ (tỷ ngân sách nhà Nước phát hiện tỷ lệ so với năm đồng) đồng) đồng) (tỷ đồng) 2014

2014 1.952 100% 1759 678.44 848.271 137,52 63

2015 2.429 124,4% 2.110 1.187 842 145 42

2016 2.181 111,7% 1.914 488 906 106 39

2017 1.786 91,5% 1.635 180.3 548 15,5 22,8

2018 1.642 84,1% 1.578 118 320 29 23.1

TC 9.990 8.996 2.651,74 3.464,271 443.02 189,9

Nguồn: Báo cáo công tác năm phòng Cảnh sát kinh tế Công an Tp.HCM [7]

Qua bảng số liệu trên ta thậy, án kinh tế nói chung, so với năm 2014 thì năm

2015 tăng 24,4% , 2016 tăng 11,7% so với 2014 và 2017, 2018 đã giảm xuống

nhiều. Chứng tỏ công tác đấu tranh phòng và chống án kinh tế trên địa bàn Tp.HCM

có hiệu quả nên lượng vụ việc bị phát hiện giảm xuống rõ rệt.

Bảng 2.2. Tình hình tội phạm về buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh

từ 2014 -2018

Đã điều tra, khám phá

Tình hình tội phạm buôn lậu Năm Số vụ Số đối tượng

Số vụ Số đối tượng SL Tỷ lệ (%) SL Tỷ lệ (%)

2014 331 343 49 100 52 100

2015 188 204 16 32,653 22 42,3

41

2016 342 355 4 8,16 6 11,54

2017 410 405 6 12,244 11 21

2018 448 501 18 36,73 29 55,77

Tổng Cộng 1719 1808 93 120

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của lực lượng Cảnh Sát kinh tế Công

an Tp.Hồ Chí Minh năm 2014 -2018. [7]

Theo bảng thống kê trên thì số vụ buôn lậu bị Công an Tp.HCM phát hiện

trong năm 2015 đã giảm so với 2014 rất nhiều (giảm 188 vụ), tuy nhiên đến 2016,

2017, 2018 đều tăng trở lại cả về số vụ và đối tượng vi phạm. Số vụ điều tra, khám

phá lại rất ít so với số lượng vụ được phát hiện. Chứng tỏ, án buôn lậu ở Tp.HCM

rất nhiều và phức tạp, tuy nhiên lượng vụ việc được giải quyết lại ít đặc biệt là số

vụ việc xử lý hình sự so với vụ việc buôn lậu được phát hiện tại Thành Phố Hồ Chí

Minh được phát hiện. Việc phát hiện nhiều vụ việc buôn lậu tuy nhiên xử lý được ít

như vậy ảnh hưởng lớn đến công tác định tội danh tội buôn lậu, dễ để lọt các tội

phạm buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, ảnh hưởng đến hoạt động

quản lý xuất nhập khẩu, thất thu nguồn thuế lớn cho Nhà nước và cũng như công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trên địa bàn.

2.2. Thực tiễn định tội danh tội buôn lậu tại Tp. Hồ Chí Minh từ năm

2014-2018

2.2.1 Kết quả định tội danh tội buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh

Kết quả thực hiện định tội danh tội buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh thể

hiện cụ thể trong các con số thống kê sau đây

Bảng 2.3. Thống kê kết quả phát hiện xử lý phạm pháp buôn lậu của

Phát hiện

Xử lý hình sự

Xử lý hành chính

Chuyển cơ quan khác xử lý

Đang xác minh

Số vụ

Số vụ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số đối tượng

Số vụ

Số đối tượng

Số đối tượng

Số đối tượng

Số đối tượng

2014

331

343

49

52

198

205

52

53

32

33

Lực lượng CSKT Công an Tp.HCM từ năm 2014 -2018

42

2015

188

204

16

22

135

139

22

26

15

17

2016

342

355

4

6

259

267

36

41

43

41

2017

410

405

6

11

344

345

29

25

31

24

2018

448

501

18

29

368

390

35

46

27

36

TC

1.719 1.808 93

120

1.304 1.346 174

191

148

151

Tỷ lệ

100

5,4

75,9

10,1

8.6

Nguồn: Báo cáo công tác năm phòng Cảnh sát kinh tế Công an Tp.HCM [7]

Từ kết quả 2.3 trên nhận thấy các vụ việc về buôn lậu được phát hiện tại

Thành Phố Hồ Chí Minh đều tăng cao cả về vụ việc và các đối tượng. Việc xử lý

bao gồm các biện pháp hình sự, biện pháp hành chính hoặc chuyển các cơ quan

chuyên môn khác xử lý. Tuy nhiên việc khởi tố, xử lý hình sự các vụ buôn lậu chưa

cao, ví dụ như năm 2014 phát hiện 331 vụ nhưng chỉ xử lý hình sự 49 vụ; năm 2018

phát hiện 448 vụ nhưng chỉ xứ lý hình sự được 18 vụ còn lại là xử lý hành chính,

đang xác minh hoặc các biện pháp khác. Số lượng vụ việc xử lý hình sự ít cũng một

phần ảnh hưởng đến chất lượng định tội danh tội buôn lậu ở giai đoạn điều tra, truy

tố tội phạm buôn lậu và cũng ảnh hưởng đến công tác phòng, chống loại hình tội

phạm này đang diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp hơn.

Bảng 2.4. Bảng mức độ tăng, giảm của các vụ án về buôn lậu và số bị

cáo phạm tội buôn lậu đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh [7]

Mức độ tăng/giảm (so Mức độ tăng/giảm (so Năm Số vụ Số bị cáo với 2014), tỷ lệ 100% với 2014), tỷ lệ %

2014 02 100 05 100

2015 07 350 18 360

2016 06 300 12 249

2017 07 350 26 520

2018 09 450 21 420

TC 31

Nguồn: Tòa án nhân dân Tp.HCM

Tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến 2018 có 31

vụ án buôn lậu được đưa ra xét xử sơ thẩm, không thống kê ở Tòa án cấp quận,

43

huyện. Số vụ án buôn lậu xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí

theo thẩm quyền tại khoản 2 điểu 268 BLTTHS năm 2015.

Theo như trình bày ở bảng 2.3 nói trên thì những vụ việc buôn lậu phát hiện

nhiều, giá trị tài sản thiệt hại cao nhưng số lượng vụ việc, số lượng bị xử lý hình sự

chưa cao, cụ thể ở số lượng án buôn lậu đưa ra xét xử sơ thẩm hàng năm tại Tòa án

Thành phố Hồ Chí Minh cũng không cao. Ví dụ năm 2014 có 02 vụ, có 05 bị cáo;

năm 2018 có 09 vụ, có 21 bị cáo. Như vậy, số vụ buôn lậu bị xử lý hình sự chưa cao

cụ thể là việc khởi tố, xét xử ít, một phần ảnh hưởng đến hoạt động định tội danh tội

buôn lâu cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội buôn lậu ở Thành phố Hồ

Chí Minh thời gian qua.

2.2.2 Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân đối với hoạt động định

tội danh tội buôn lậu

2.2.2.1 Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động định tội danh tội buôn lậu

tại địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh.

Qua việc khảo sát, xem xét các số liệu về tình hình phát hiện và xử lý các vụ

án buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thời gian từ năm 2014 - 2018, đặc

biệt là qua 31 bản án xét xử sơ thẩm các vụ án buôn lậu tại Tòa án Tp.Hồ Chí Minh,

thấy rằng hoạt động định tội danh từ các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử diễn ra

đúng theo quy định pháp luật, đúng người đúng tội và đúng tại BLHS, BLTTHS

quy định. Tuy nhiên, tội buôn lậu là tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, những hành vi

nguy hiểm cho xã hội của loại hình tội phạm này rất phức tạp và liên quan đến

nhiều lĩnh vực như hải quan xuất nhập khẩu, thuế quan cũng như những ngành nghề

xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện. Mặt khác tội phạm trong các vụ án kinh tế cụ thể

là tội buôn lậu là những người có học thức, hiểu biết trong lĩnh vực kinh tế, pháp

luật nên các hành vi phạm tội luôn diễn biến, biến đổi và biết tận dụng các điểm còn

thiếu sót, kẻ hở của pháp luật để phạm tội. Do đó, trong hoạt động định tội danh tội

buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua vẫn có một số khó khăn, hạn chế

nhất định. Cụ thể như sau

Thứ nhất, định tội danh sai.

44

Thực tiễn cho thấy có một số trường hợp định tội danh tội buôn lậu sai.

Người không thực hiện hành vi phạm tội, không đủ các yếu tố cấu thành tội phạm

buôn lậu nhưng quá trình điều tra, truy tố, xét xử vẫn tuyên bản án buộc người đó

vào tội buôn lậu, trường hợp này đã dẫn đến việc oan sai, sai tố tụng nghiêm trọng,

xúc phạm lớn đến danh dự, nhân phẩm của con người. Hậu quả xảy ra là bản án bị

Tòa án cấp trên hủy phải điều tra, xét xử lại và Tòa án tuyên bản án oan đó phải bồi

thường oan sai, tốn kém cho ngân sách Nhà nước những khoản tiền rất lớn và lớn

hơn nữa là uy tín, và niềm tin của người dân, cơ quan Tổ chức vào các Cơ quan Tố

tụng bị giảm sút nghiêm trọng.

Người có hành vi phạm tội có đủ căn cứ cấu thành một tội khác, đủ căn cứ

định tội danh là vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, nhưng giai đoạn điều

tra, truy tố, xét xử lại cứ định tội danh buôn lậu, dẫn đến quyết định hình phạt hoàn

toàn sai vì mức án của tội vận chuyển trái phép cao nhất chỉ có 10 năm nhưng đối

với tội buôn lậu là 20 năm.

Ví dụ: Bản án số 454/2015/HSST ngày 31/12/2015. [32]

ND: Nguyễn Quang Vinh và Đồng phạm Lợi dụng chính sách của Nhà nước

đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép hồi hương và được nhập

một xe ô tô cá nhân đang sử dụng quy định tại Thông tư số 118/2009/TT-BTC ngày

09/06/2009, Thông tư số 194/2010/TT – BTC ngày 6/12/2010, Thông tư số

06/2012/TT – BTC của Bộ Tài Chính; Thông tư số 20/2011 ngày 12/5/2011 của Bộ

Công Thương. Buôn lậu số lượng 54 siêu xe tại Sài Gòn, mục đích trốn thuế và lấy

tiền công làm dịch vụ nhập khẩu. Cụ thể thông qua việc nhập lậu 54 xe ô tô dưới

dạng Việt kiều hồi hương, Nguyễn Quang Vinh đã nhận là 108.000USD tiền công

làm dịch vụ, tương đương 2.160.000.000đ.

Ngoài số tiền trên ra, đối với 18 Việt kiều do Vinh và Thạnh trực tiếp thuê,

sau khi trả tiền thuê Việt kiều còn dư, Thạnh, Vinh và Nguyên chia nhau, trong đó

Trần Phước Thạnh, Nguyễn Quang Vinh được chia mỗi người số tiền 14.300USD (

tương đương 286.000.000đ ), Trần Thái Nguyên được chia số tiền 10.400USD (

tương đương 208.000.000đ ).

45

Tổng cộng Nguyễn Quang Vinh, Trần Phước Thạnh hưởng lợi bất chính từ

việc thuê việt kiều còn dư và tiền công làm dịch vụ cho 54 việt kiều là

556.000.000đ/người. Riêng Trần Thái Nguyên hưởng lợi 478.000.000đ

Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh: Căn cứ vào hồ sơ nhập khẩu xác định 54

Việt kiều được thuê nhập khẩu xe ô tô các loại Rolls Royce, Land Rover, Bentley,

Lexus, Audi, BMW, Porsche, Toyota, Jaguar, Honda không đúng quy định có tổng

trị giá 5.178.019USD và 12 xe mô tô có tổng trị giá 157.405USD. Tổng số thuế tiêu

thụ đặc biệt đã nộp là 64.234.160.339đ và tổng số tiền thuế phải nộp bao gồm thuế

nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng nếu không được miễn là

218.890.258.246đ. Trong đó, Nguyễn Quang Vinh được ủy quyền đứng tên xin cấp

phép và làm thủ tục nhập khẩu xe cho 17 Việt kiều, Trần Thái Nguyên được ủy

quyền đứng tên xin cấp phép và làm thủ tục nhập khẩu xe cho 18 Việt kiều, Trần

Phước Thạnh được ủy quyền đứng tên xin cấp phép và làm thủ tục nhập khẩu xe

cho 01 Việt kiều, Dương Quốc Huy đứng tên cho 01 Việt kiều. Ngoài ra còn các

Việt kiều khác trực tiếp xin cấp phép và làm thủ tục nhập khẩu xe.

Bản án tuyên: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Vinh: 16 (mười sáu) năm tù; bị

cáo Trần Phước Thạnh: 12 (mời hai) năm tù; bị cáo Trần Thái Nguyên: 09 (chín)

năm tù; bị cáo Nguyễn Giang Lam: 16 (mười sáu) năm tù.

Đặc biệt tài sản phạm tội là 38 chiếc xe cho các chủ sở hữu tiếp tục quản lý,

sử dụng.

Đây là vụ án được báo chí và các chuyên gia pháp luật coi là “kỳ quặc án”

kéo dài từ năm 2015 đến nay, với nhiều tranh cãi trong hoạt động xác định chủ thể

tội buôn lậu, định tội danh, xác minh chứng cứ, xử lý tang vật và có dấu hiệu bỏ lọt

tội phạm trong các lần xét xử.

Vụ án được đưa ra xét xử lần 1 ngày 31/12/2015, xét xử phúc thẩm ngày

25/10/2016, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại.

Sau gần 02 năm điều tra, khởi tố lại thì Phiên tòa sơ thẩm lần 2 ngày

7/9/2018, bản án tuyên như sau: Bị cáo Nguyễn Quang Vinh, bị cáo Nguyễn Giang

Lam 14 năm tù; bị cáo Trần Phước Thạnh 12 năm tù, bị cáo Trần Thaí Nguyên 08

46

năm tù về tội buôn lậu. Bùi khắc Hà 5 năm tù về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn

trong khi thi hành công vụ.

Đây là vụ án buôn lậu được điều tra từ 2012, xét xử sơ thẩm lần đầu từ 2015

và sau nhiều lần điều tra, xét xử nhưng vẫn có nhiều vấn đề chưa được làm rõ, khiến

những người trong cuộc, các cơ quan tố tụng, chuyên gia pháp lý và dư luận xã hội

còn tranh cãi nhiều vấn đề cụ thể:

- Về cấu thành tội phạm, việc xác định chủ thể tội buôn lậu là ai, chủ hàng là

ai?chưa làm rõ, trong khi Nguyễn Quang Vinh và các đồng bọn không phải là chủ

hàng mà chỉ là trung gian trong việc nhập các xe này. Và việc CQTT cho rằng họ

lợi dụng chính sách miễn giảm tiền thuế nhập khẩu của diện Việt Kiều hồi

hương…đấy có phải là gian dối trong buôn lậu hay là gian dối để trốn thuế?...Vậy,

qua vụ án này nổi lên vấn đề cơ bản là việc định tội danh: Đấy có phải là tội buôn

lậu hay chỉ là tội Vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới hay tội trốn thuế?

- Trong quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm: có nhiều sai sót trong tố tụng: Bỏ

lọt tội phạm, tội danh, xử lý không đúng tang vật và nhiều vấn đề khác…đấy là lỗi

khách quan hay chủ quan của các cơ quan tố tụng? đó cũng là vấn đề lớn mà thực

tiễn xảy ra thường xuyên cần khắc phục về năng lực cán bộ cũng như về đạo đức

trong thực hiện nhiệm vụ.

Vấn đề định tội danh sai cũng có thể nói đến trong vụ án VN Pharma:

Bản án số: 306/2017/HSST, ngày 25/8/2017. Vụ án Nguyễn Minh Hùng và

đồng bọn Công ty VN Pharma buôn lậu thuốc chữa bệnh. [31]

Theo cáo trạng và kết luận điều tra nêu: Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân

dân tối cao truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Công ty Cổ phần VN Pharma, được thành lập ngày 25/10/2011, có trụ sở tại:

666/10/3 đường 3/2, phường 14, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, do Nguyễn

Minh Hùng làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc; Đến năm 2013,

Nguyễn Minh Hùng tiếp tục đặt Võ Mạnh Cường mua thuốc tân dược có nhãn mác

do Công ty Helix Pharmaceuticals Canada (Công ty Helix Canada) sản xuất để bán

và đấu thầu cung cấp cho các Bệnh viện ở Việt Nam; trong đó có thuốc H-Capita

47

500 mg Caplet (Capicitabine 500 mg) chữa bệnh ung thư. Khi Công ty Cổ phần VN

Pharma nhập 9.300 hộp thuốc H-Capita 500 mg Caplet về kho, do nghi ngờ về

nguồn gốc thuốc nhập khẩu Cục Quản lý Dược đã yêu cầu Nguyễn Minh Hùng và

Võ Mạnh Cường giải trình và tiến hành thanh tra, kiểm tra Công ty Cổ phần VN

Pharma kịp thời niêm phong lô thuốc không cho bán ra thị trường. Ngày 01/8/2014,

Cục Quản lý Dược có Công văn 13134/QLD-KD yêu cầu Công ty Cổ phần Pharma

tạm ngừng nhập khẩu và lưu hành đối với các thuốc của nhà sản xuất Helix

Pharmaceuticals Inc Canada. Ngày 08/8/2014, Cục Quản lý Dược có Công văn

13499/QLD-KD gửi Cục An ninh chính trị nội bộ, Bộ Công an đề nghị xác minh

thông tin liên quan đến lô thuốc trên. Sau đó, Cục An ninh chính trị nội bộ đã

chuyển hồ sơ, tài liệu liên quan sang Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an để điều

tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Kết quả điều tra xác định được: Nguyễn Minh Hùng đặt mua thuốc H-

Capita với giá 0,8 USD/1 viên, quá trình thương lượng, Nguyễn Minh Hùng và Võ

Mạnh Cường thống nhất giá mua thuốc H-Capita là 0,9 USD/viên tương đương 27

USD/1hộp. Sau khi thống nhất được giá, Võ Mạnh Cường liên hệ mua lại thuốc trên

của người có tên là Raymundo ở Philippines (hiện không xác định được nhân thân,

lai lịch) với giá 0,6 USD/1 viên (18 USD/1 hộp). Raymundo đã gửi các giấy chứng

nhận từ Philippines về cho Cường, để Cường cung cấp cho Công ty Cổ phần VN

Pharma gồm các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận bán hàng tự do (FSC) tại Canada của

thuốc H-Capita 500 mg Caplet và Giấy chứng nhận thực hành tốt sản xuất thuốc

(GMP) do Bộ Y tế Canada cấp cho Công ty Công ty Helix Canada, được đóng dấu

hợp pháp hóa Lãnh sự của Đại sứ quán Việt Nam tại Canada và ký tên Tham tán

Nguyễn Văn Quyền. Kết quả xác minh, Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao cho biết: Đại

sứ quán Việt Nam tại Canada chỉ có Tham tán Nguyễn Văn Quyến, không có Tham

tán tên là Nguyễn Văn Quyền; ông Nguyễn Văn Quyến nguyên Tham tán Đại sứ

quán Việt Nam tại Canada khẳng định không ký hợp pháp hóa lãnh sự tài liệu nào

cho Công ty Helix Canada. Kết quả Giám định số: 795/C54-P5 ngày 27/02/2015

của Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an kết luận: Dấu hợp pháp hóa Lãnh sự và

48

chữ ký của Tham tán Đại sứ quán Việt Nam tại Giấy chứng nhận thực hành tốt sản

xuất thuốc và Giấy chứng nhận bán hàng tự do đều là giấy tờ giả.

Do không có Hồ sơ kỹ thuật thuốc cũng như: “Tiêu chuẩn và phương pháp

kiểm nghiệm thuốc” để nộp cho Cục Quản lý Dược thẩm định theo quy định của Bộ

Y tế, nên Nguyễn Minh Hùng đã chỉ đạo Bùi Ngọc Duy Trưởng phòng và Hoàng

Trúc Vy nhân viên Phòng nghiên cứu phát triển Công ty Cổ phần VN Pharma thuê

Dược sỹ Phạm Văn Thông viết hồ sơ kỹ thuật thuốc H-Capita 500mg Caplet; trong

đó có phần “Tiêu chuẩn và phương pháp kiểm nghiệm thuốc” với giá thoả thuận là

2.000 USD, để hợp thức hồ sơ nộp cho Cục Quản lý Dược cấp giấy phép nhập khẩu

và đăng ký lưu hành thuốc. Phạm Văn Thông dựa vào thành phần, công thức ghi

trên FSC và tham khảo dược điển của Mỹ và hồ sơ kỹ thuật của loại thuốc có hoạt

chất tương tự đã sản xuất tại Việt Nam để viết: Hồ sơ kỹ thuật; Hướng dẫn sử dụng

(HDSD) và “Tiêu chuẩn, phương pháp kiểm nghiệm” thuốc H-Capita 500mg

Caplet. Khi viết xong Phạm Văn Thông chuyển cho Bùi Ngọc Duy và Hoàng Trúc

Vy - nhân viên của Phòng nghiên cứu phát triển Công ty Cổ phần VN Pharma đóng

dấu Công ty Helix Canada trên Hồ sơ để đăng ký xin (Visa) và chuyển phần “Tiêu

chuẩn, phương pháp kiểm nghiệm” cho Phan Cẩm Loan nộp cho Cục Quản lý Dược

thẩm định cấp giấy phép nhập khẩu (khi khởi tố vụ án, Bùi Ngọc Duy đã vứt bỏ con

dấu Công ty Helix cùng nhiều con dấu nước ngoài khác, Cơ quan điều tra đã thu giữ

được các biên bản bàn giao các con dấu nước ngoài của Phòng nghiên cứu phát

triển Công ty Cổ phần VN Pharma). Trong hồ sơ nộp Cục Quản lý Dược có một số

nội dung không thống nhất giữa FSC, Tiêu chuẩn chất lượng và HDSD về thành

phần tá dược, hạn dùng, nhiệt độ bảo quản… Do lúc đầu Bùi Ngọc Duy và Hoàng

Trúc Vy cung cấp cho Phạm Văn Thông FSC ghi sai tên hoạt chất chính, Thông đã

viết hồ sơ kỹ thuật theo FSC này, sau đó Thông phát hiện lỗi của FSC và yêu cầu

Bùi Ngọc Duy cung cấp lại FSC mới, vì vậy có tài liệu trong Hồ sơ kỹ thuật viết

theo FSC mới và có tài liệu trong hồ sơ kỹ thuật viết theo FSC cũ, nên trong hồ sơ

nộp cho Cục Quản lý Dược có một số nội dung không thống nhất.

49

Sau khi hoàn thiện hồ sơ kỹ thuật thuốc H-Capita 500mg Caplet, Nguyễn

Minh Hùng chỉ đạo Nguyễn Trí Nhật - Phó tổng Giám đốc và Phan Cẩm Loan - Phó

trưởng phòng Xuất nhập khẩu Công ty Cổ phần VN Pharma lập Đơn hàng số:

225/HĐ/VNP-NK ngày 16/10/2013, đề nghị Cục Quản Dược Bộ Y tế cấp phép

nhập khẩu 200.000 hộp thuốc H-Capita 500mg Caplet do Công ty Helix Canada sản

xuất; thông qua nhà cung cấp là Công ty Austin Specialities Co. có địa chỉ tại: Unit

R2, R2U, G/F, Valiant IND CTR, 2-12 Au Pai Wan Str, Fo Tan Shai, NT, Hồng

Kông (Công ty Austin-Hồng Kông) do ông Luk Heung Tung làm Giám đốc, đây là

công ty nước ngoài kinh doanh dược phẩm đó được Bộ Y tế cấp Giấy phép hoạt

động về thuốc tại Việt Nam); kèm theo hồ sơ pháp lý, gồm: Giấy chứng nhận FSC,

GMP (giả); hộp thuốc và toa thuốc mẫu do Võ Mạnh Cường cung cấp; tiêu chuẩn,

phương pháp kiểm nghiệm thuốc và Tờ HDSD bằng tiếng Việt do Phạm Văn

Thông viết; nhãn mác lưu hành tại Việt Nam do Phòng nghiên cứu phát triển Công

ty Cổ phần VN Pharma tự thiết kế.

Tại bản án sơ thẩm số 306/2017/HSST ngày 25/8/2017 Tòa án nhân dân

Tp.HCM tuyên phạt như sau:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh Hùng, Võ Mạnh Cường, Nguyễn Trí

Nhật, Ngô Anh Quốc, Phan Cẩm Loan, Lê Thị Vũ Phương phạm tội “Buôn lậu”;

các bị cáo khác phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Bản án phúc thẩm 567/2017/HSPT ngày 30/10/2017 tại Tòa cấp cao tại

TpHCM đã hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 306/2017/HSST, ngày 25/8/2017 để

chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm Sát Tp.HCM điều tra lại.

Qua vụ án này chúng ta thấy rằng tại bản án sơ thẩm lần thứ 1 thì Cơ quan

Điều tra, VKS và Tòa án đã định tội danh buôn lậu là không phù hợp với hành vi

khách quan vụ án, Tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan Nhà Nước thì Cơ quan

điều tra, VKS không chứng minh đó là con dấu giả…dẫn đến bản án đã bị Tòa án

cấp trên hủy bỏ toàn bộ để điều tra, xét xử lại. Như vậy,trong vụ án hình sự, quá

trình định tội danh sai là một trong những sai tố tụng cơ bản và nặng nhất không thể

khắc phục nên việc Tòa cấp trên trả hồ sơ điều tra lại là hợp lý.

50

Viện Kiểm Sát Nhân dân Tối cao đã có cáo trạng truy tố toàn bộ bị cáo về tội

buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh theo điều 157 BLHS năm 1999, hủy bỏ tội

danh buôn lậu và tội làm giả con dấu, tài liệu cơ quan nhà nước. Vụ án đã được xét

xử sơ thẩm lần 2 vào ngày 24/10 -30/9/2019 vừa qua, bản án số 368/2019/HD-ST

ngày 01/10/2019, tuyên tất cả 12 bị cáo phạm tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa

bệnh theo khoản 4 điều 157 BLHS 1999, với hình phạt từ 20 năm tù giam đến 3

năm tù treo.

Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi trong việc định tội danh, thay đổi

tội danh một số đối tượng do chứng cứ bên CQĐT, VKS còn thiếu và yếu nhưng vụ

án lại có sự quan tâm lớn từ dư luận và từ nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế…nên

tạo nhiều áp lực cho việc xử lý vụ án

Thứ hai, bỏ lọt tội phạm

Trái với việc làm oan người vô tội là việc bỏ lọt tội phạm. Đó là trường hợp

hành vi của một người có đầy đủ yếu tố để cấu thành tội buôn lậu nhưng lại không

khởi tố hoặc xử lý bằng biện pháp hành chính. Hoặc trường hợp người phạm tội đã

thực hiện nhiều hành vi nguy hiểm, có đủ cơ sở để khởi tố nhiều tội nhưng lại

không khởi tố mà chỉ khởi tố một tội. Ví dụ: trong vụ án buôn lậu, thì các đối tượng

thường dùng các thủ đoạn gian dối trong kê khai hàng hóa, cấp các giấy chứng

nhận… thông qua việc mắc ngoặc, hối lộ các Cán bộ hải quan, cơ quan kiểm định…

nếu có căn cứ đưa tiền hay dùng các tài sản vật chất khác cho cán bộ thì phải khởi

tố thêm tội đưa, nhận hối lộ hoặc tội thiếu trách nhiệm.

Chúng ta thấy qua báo cáo của Phòng cảnh sát Kinh Tế Tp.HCM thì số vụ

việc buôn lậu bị phát hiện rất nhiều, có dấu hiệu hình sự tuy nhiên việc xử lý hình

sự chỉ rất ít, ví dụ như: năm 2018 phát hiện 448 vụ, 501 đối tượng nhưng xử lý hình

sự 18 vụ, với 29 đối tượng còn lại là xử lý hành chính hoặc các biện pháp khác.

Ví dụ trong vụ án Trần Minh Luận và đồng bọn phạm tội buôn lậu đang

được Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao truy tố bằng bản Cáo trạng số 59/Ct-VKS-V1

ngày 31/7/2019 sau nhiều lần trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Trong vụ án này xuyên suốt trong các hành vi phạm tội như: nhập sữa

51

Ensure có dòng chữ “not tobe sold in VietNam and Mexico”, nhập máy móc điện

lạnh cũ, nhập mỹ phẩm, thực phẩm, phù gia và hóa chất tẩy rửa…thì Trần Minh

Luận và các nhân viên đều khai báo giống nhau là đều thông qua Phạm Viết Đoàn

là cán bộ hải quan giúp đỡ để làm thủ tục nhập khẩu rất nhiều lần, thậm chí có cơ sở

nói hàng hóa là của Đoàn Nhưng qua quá trình điều tra, lấy lời khai, đối

chất…Đoàn đều không nhận…và CQĐT,VKS không khởi tố Đoàn. Mặc dù với

hành vi tương tự, Đoàn đã có liên quan đến nhiều vụ việc buôn lậu, ngoài vụ án này

chuẩn bị xét xử thì trong bản án số 68/2019/HS-ST ngày: 20-3-2019 tại Tòa án nhân

dân Tp.HCM xét xử bị cáo Đoàn Thị Kiều Oanh về tội buôn lậu, nhưng Viện Kiểm

Sát, Tòa án vẫn không truy tố, xét xử được Phạm Viết Đoàn, khiến cho những

người trong cuộc rất bức xúc. Vụ án này sau nhiều lần hoãn điều tra bổ sung đã đưa

ra xét xử sơ thẩm vào ngày 8/10/2019 vừa qua với các tội danh Buôn lậu,tội đưa,

nhận hối lộ và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ.

Như vậy, với nhiều vụ việc liên quan thì có cơ sở để nhận định việc không

khởi tố, xét xử Phạm Việt Đoàn là có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm. [38].

Trường hợp bỏ lọt tội phạm còn có thể hiện ở vụ án buôn lậu Đoàn Thị Kiều

Oanh, bản án số 68/2019/HS-ST ngày 20/3/2019 tại Tòa án nhân dâ Thành phố Hồ

Chí Minh. Trong vụ án buôn lậu này cũng giống như vụ án buôn lậu của Trần Minh

Luận nêu trên thì Công chức Hải quan Phạm Việt Đoàn cũng nhờ các doanh nghiệp

đứng tên các công ty hoặc lô hàng nhập khẩu để nhập lậu, khi bị bắt thì tất cả đều

khai nhân chủ hàng thực tế là ông Đ tuy nhiên ông Đ đều không công nhận, và việc

điều tra đối với trường hợp này chưa thật sự gắt gao dẫn đến nhiều khả năng là bỏ

lọt tội phạm buôn lậu đối với trường hợp này.

- Thứ ba, Định tội danh đúng nhưng sai về khung hình phạt:

Thực tiễn xảy ra rất nhiều các trường hợp như vậy không chỉ riêng ở tội buôn

lậu mà ở rất nhiều tội khác vì ở một số điều luật việc giải thích các từ ngữ mang tính

định tính, định lượng không rõ ràng, khiến việc định tội danh thì đúng nhưng xác

định khung, khoản của điều luật lại không đúng, dẫn đến việc quyết định hình phạt

sai. Hiện nay chỉ có thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA

52

quy định (mục 3.4 thông tư) giải thích thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng, hậu quả

rất nghiêm trọng, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng…

Ngoài quy định cụ thể thì thông tư liên tịch 02 nêu trên còn có quy định mở

như sau: “Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho

thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện

đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự,

an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để

đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng

hoặc đặc biệt nghiêm trọng”. Theo tác giả, quy định này không rõ ràng, mang nặng

tính chủ quan vì không nói rõ “hậu quả phi vật chất là gì?và ảnh hưởng đến đường

lối của Đảng, chính sách của Nhà nước ra sao?sẽ dễ dẫn đến tùy tiện trong việc áp

dụng, việc xét xử của Tòa án khó có sự độc lập, và vi phạm nguyên tắc chỉ tuân

theo pháp luật.

Ví dụ như vụ VN Pharma nêu trên, khi hủy bản án sơ thẩm và điều tra lại.

Tội buôn lậu và tội làm giả con dấu bị đình chỉ mà đổi tất cả bị can sang tội danh

“buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh”, CQANĐT thuộc BCA kết luận là thuộc

khoản 2 điều 157 nhưng khi Cáo trạng của VKSNDTC thì truy tố toàn bộ ở khoản 4

điều 157 thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khung hình phạt 20 năm, chung

thân hoặc tử hình. Trường hợp này VKSNDTC đã viện dẫn điều khoản mở trên của

TTLT 02/2001/TANDTC-VKSNDTC-BCA vì thực tế vụ VN Pharma chưa gây ra

hậu quả cho sức khỏe, toàn bộ thuốc còn ở trong kho chưa xuất ra ngoài và cũng

chưa có thu lợi nhuận.

Như vậy theo quan điểm cá nhân của tác giả thì việc viện dẫn điều khoản này

và áp dụng như vậy là đã vi phạm nguyên tắc có lợi cho bị can bị cáo theo Nghị

quyết 41/2017/QH14 về việc thi hành BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Hiện nay tuy đã có xét xử sơ thẩm tuy nhiên vẫn có nhiều ý kiến tranh cãi về khung

hình phạt, thế nào là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng? vụ án đang tiếp tục mở

rộng điều tra làm rõ nhiều vấn đề, các bị cáo, luật sư và những người liên quan

khiếu nại, kháng cáo về bản án sơ thẩm.

53

2.2.3. Những nguyên nhân gây ra các khó khăn, hạn chế trong hoạt động

định tội danh tội buôn lậu tại TP.HCM.

Từ những khó khăn , hạn chế trong hoạt động định tội danh tội buôn lậu đã

nêu tại mục 2.2.2 nêu trên thì tác giả rút ra các nguyên nhân như sau:

Thứ nhất, quy định pháp luật về tội buôn lậu ở BLHS năm 1999, sửa đổi bổ

sung năm 2009 về tội buôn lậu có nhiều điểm chưa rõ ràng, khiến cho việc định tội

danh, định khung hình phạt còn nhiều khó khăn, dẫn nhiều khi mỗi nơi áp dụng một

kiểu không thống nhất.

Ví dụ như quy định về tội buôn lậu tại BLHS năm 1999 có nhiều các tình tiết

mang tính định tính rất nhiều nhưng chưa lượng hóa ra được cụ thể (thu lời bất

chính lớn/rất lớn/đặc biệt lớn; số lượng lớn/số lượng đặc biệt lớn; gây hậu quả

nghiêm trọng/gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng) tuy BLHS năm 2015, sửa đổi

2017 đã có lượng hóa và sửa đổi tuy nhiên BLHS 2015 mới có hiệu lực thi hành,

còn các vụ án áp dụng bằng BLHS năm 1999, sửa đổi 2009 có nhiều vướng mắc

trong xử lý.

Về giá trị tài sản phạm pháp (vật phạm pháp): Theo BLHS năm 1999 là thấp

nhất từ 100 triệu đồng (khoản 1) và cao nhất là từ 01 tỷ đồng trở lên (khoản 4) và tại

BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 vẫn quy định mức khởi điểm từ 100 triệu đồng

và cao nhất là 01 tỷ đồng, cá nhân tác giả thấy không còn phù hợp và lạc hậu. Vì

nếu so với giá trị 100tr đồng, 01 tỷ đồng từ 1999 đến nay 2019 là khác nhau, so với

tỷ lệ lạm phát cũng như sự mất giá trị của đồng tiền hàng năm. Do đó, hy vọng rằng

khi sửa đổi, bổ sung BLHS thì các nhà làm luật, Quốc hội nên xem xét lại vấn đề

này.

Hay như quy định tội phạm buôn lậu hoàn thành từ khi nào? Khi BLHS 1999

quy định “ người nào buôn bán trái phép qua biên giới…”; BLHS 2015 quy định

“Người nào buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc

ngược lại trái quy định của pháp luật”. thời điểm hoàn thành tội buôn lậu vẫn có hai

quan điểm là “khi hàng hóa phải được đưa qua biên giới” mới được coi là tội phạm

hoàn thành; còn quan điểm “chỉ cần người phạm tội chuẩn bị (giả giấy tờ, khai gian

54

hàng…) để hướng đến việc đưa hàng hóa qua biên giới là tội buôn lậu đã hoàn

thành, không cần phải qua biên giới. Do quy định này mà trong quá trình điều tra,

truy tố, xét xử vẫn còn nhiều quan điểm vướng mắc, cần phải được tháo gỡ, quy

định sớm.

Cấu thành về tội trốn thuế và tội buôn lậu vẫn có nhiều điểm tranh cãi, có

nhiều vụ án gây ra tranh cãi ở tội trốn thuế hay tội buôn lậu vì mục đích của hai tội

này cũng hướng đến việc trốn thuế.

Ví dụ: vụ án của Liu Kuo Chu, sơ thẩm lần thứ 1 TAND Tp.Hồ Chí Minh

tuyên phạt Chu 19 năm tù về tội buôn lậu, tại phiên phúc thẩm Tòa phúc thẩm

TAND tối cao đã hủy án và đề nghị cấp sơ thẩm định lại tội danh về về hành vi

không nộp thuế, tuy nhiên tại Phiên tòa sơ thẩm lần 2, Tòa án vẫn quyết định truy

cứu Chu về tội buôn lậu. Như vậy, do quy định pháp luật không rõ ràng, lại không

được giải thích việc áp dụng cụ thể cho nên việc định tội danh giữa tội Buôn lậu hay

tội trốn thuế vẫn có nhiều bất cập, dẫn đến mỗi nơi, mỗi Tòa hiểu một kiểu không

thống nhất quan điểm định tội.

Ở những tội phạm khác ví dụ như các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, tội

phạm xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm…ngoài BLHS quy

định thì còn có rất nhiều các văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể, ngoài ra còn Hội

đồng thẩm phán TANDTC còn ban hành các án lệ, tổng kết kinh nghiệm điều tra,

truy tố, xét xử…tuy nhiên đối với tội buôn lậu thì hiện nay vẫn không có các văn

bản quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng, vẫn chưa có các án lệ cụ thể nào về xét

xử, định tội danh tội buôn lậu được ban hành…đây cũng là một trong những nguyên

nhân lớn gây khó khăn cho hoạt động định tội danh tội buôn lậu ở các giai đoạn của

tố tụng hình sự ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng như cả nước nói chung.

Thứ hai, năng lực của ĐTV, KSV, TP trong điều tra, truy tố, xét xử án buôn

lậu nói riêng và kinh tế nói chung không đồng đều, đa phần các ĐTV, KSV, TP và

cán bộ được giao một số hoạt động điều tra về tội buôn lậu (Hải quan) đều luôn cố

gắng, tích cực để nâng cao khả năng chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó vẫn có có

một số nhỏ cán bộ về năng lực chưa đáp ứng được, nắm các quy định thủ tục về

55

xuất nhập khẩu hàng hóa hay các yếu tố về cấu thành tội phạm buôn lậu chưa vững,

không cập nhật các quy định pháp luật mới hay vận dụng cách thức xử lý sai…hoặc

có một số cán bộ thì bảo thủ, dẫn đến việc xử lý các vụ việc về buôn lậu, hay định

tội danh buôn lậu không đúng, một số trường hợp thì khởi tố sai đình chỉ ngay giai

đoạn điều tra nhưng có trường hợp có bản án, dẫn đến phải bồi thường oan sai.

Cũng có trường hợp vì nôn nóng muốn điểu tra xong mà dùng nhiều biện pháp để

ép, dụ dỗ bị can nhận tội… khi ra Tòa bị can, bị cáo phản cung dẫn đến vụ án phải

điều tra bổ sung…

Ví dụ: Vụ án buôn lậu 54 xe siêu sang của Việt Kiều, tại bản án sơ thẩm số

454/2015/HSST ngày 31/12/2015, sau đó bị Tòa phúc thẩm hủy toàn bộ bản án để

điều tra, xét xử lại. Ở vụ án này có nhiều vấn đề tranh cải, về định tội danh, bỏ lọt

tội phạm tuy nhiên vấn đề bàn tới đây là việc điều tra, truy tố, xét xử có nhiều điểm

chủ quan cả về tố tụng và nội dung, dẫn đến án sơ thẩm bị hủy để điều tra, truy tố,

xét xử lại tốn nhiều thời gian, công sức của Nhà nước. Hoặc ví dụ như trong vụ án

buôn lậu Trần Mình Luận như nêu ở trên, trong quá trình hỏi cung, có ĐTV không

hiểu về thủ tục Logistic, thủ tục khai trình hải quan nhập khẩu dẫn đến khi hỏi cung

thì bị can trả lời và giải thích nhiều nhưng ĐTV này không nắm rõ, dẫn đến phải hỏi

đi hỏi lại nhiều.

Thứ ba, vì tội buôn lậu thuộc lĩnh vực kinh tế, xuất nhập khẩu hàng hóa nên

việc điều tra, thu thập các chứng cứ sẽ khác với những loại tội phạm khác.

Cụ thể, tội buôn lậu là tội mua bán hàng hóa trái phép qua biên giới hoặc từ

khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại do đó khi điều tra, truy tố, xét xử nhất

thiết không thể không vận dụng Luật hải quan và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi

hành Luật Hải quan, các Luật chuyên nghành liên quan đến hàng hóa nhập lậu, luật

thuế xuất nhập khẩu, các thủ tục hành chính về đăng ký, kiểm soát hải quan…tại

điểm b khoản 2 điều 35 BLTTHS thì quy định cho Cơ quan hải quan cụ thể Cục

điều tra chống buôn lậu, Cục kiểm tra sau thông quan, Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh ,

Tp Trực thuộc Trung Ương, Chi Cục Hải quan cửa khảu và các cá nhân có thẩm

quyền có quyền tiến hành một số hoạt động điều tra tội phạm buôn lậu. Do đó, nhất

56

thiết khi điều tra, truy tố, xét xử các vụ án này thì ĐTV, KSV, TP phải có sự liên

kết, phối hợp để đảm bảo giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng pháp luật.

Thực tế, vẫn có nhiều ĐTV,KSV,TP không nắm rõ các quy định pháp luật về

thủ tục Hải quan,xuất nhập khẩu…khi thu thập tài liệu, chứng cứ không đúng theo

trình tự thủ tục tố tụng...dẫn đến chứng cứ thiếu, yếu thì định tội danh buôn lậu.

Vì điều 87 Bộ Luật Tố Tụng Hình sự năm 2015 quy định về nguồn chứng

cứ, tuy nhiên các nguồn chứng cứ này muốn trở thành chứng cứ buộc tội hay gỡ tội

thì phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định nếu không

không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.

Thứ tư, các vụ án buôn lậu ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng phức tạp,

tinh vi mà các quy định pháp luật một số còn chưa dự liệu hết được do đó hoạt động

định tội danh tội buôn lậu cũng như đấu tranh phòng, chống buôn lậu cũng gặp rất

nhiều khó khăn, phức tạp.

Các vụ án buôn lậu xảy ra tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng nhiều vì

Nhà nước đã có nhiều chính sách mở cửa, thông thoáng hơn trong hoạt động sản

xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới

để phù hợp với xu thế hội nhập chung. Tuy nhiên, ngoài mặt lợi là nền kinh tế ngày

càng phát triển, đời sống người dân ngày càng tăng cao thì các tội phạm liên quan

về kinh tế, buôn lậu, công nghệ cao…ngày càng gia tăng về số lượng, các tội phạm

buôn lậu sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn,

luôn thay đổi… Mà ngay tức thì pháp luật về tội buôn lậu cũng như định tội danh

tội buôn lậu chưa thể dự liệu và quy định hết, việc thay đổi, bổ sung không thể nói

là làm liền được mà phải qua đánh giá thực tiễn cũng như trãi nhiều trình tự, thủ tục

do pháp luật quy định.

Ví dụ: Như việc lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất hàng cấm để buôn lậu

rất nhiều trong thời gian qua là điển hình là việc lợi dụng các kẻ hở, chính sách để

buôn lậu nhằm mục đích trốn thuế, vụ lợi bất hợp pháp.

Bản án số: 119/2017/HSST Ngày 30/3/2017 tại TAND Tp.Hồ Chí Minh.

[30]

57

Nội dụng: Xét xử bị cáo Nguyễn Thị Mộng Tuyền và các đồng phạm về “tội

buôn lậu” và “tội che dấu tội phạm”xảy ra trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh. Với hình

thức tạm nhập tái xuất hàng cấm.

Nội dung căn cứ cáo trạng là những người phạm tội đã lợi dụng chính sách

tạm nhập, tái xuất hàng cấm để nhập lậu hàng hóa lốp ô tô đã qua sử dụng từ nước

ngoài về Việt Nam để bán kiếm lời. Để thực hiện việc nhập khẩu lốp xe tô tô đã qua

sử dụng (là hàng hóa cấm nhập khẩu) từ Mỹ về Việt Nam bán cho thì các bị cáo đã

sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, móc ngoặc với nhiều đối tượng khác

nhau kể cả các đối tượng làm trong các Cơ quan Nhà Nước và đã nhập trot lọt rất

nhiều hàng hóa là lốp ô tô đã qua sử dụng với giá trị hàng hóa vi phạm pháp luật rất

lớn, trốn tránh số tiền thuế nhập khẩu cao và đã tiêu thụ ra thị trường trong nước

trótnhiều lô hàng cấm do các bị cáo nhập về mà theo quy định phải tái xuất khẩu.

Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành thu giữ toàn bộ số lốp xe ô tô hiện còn

của hai doanh nghiệp Đại Tuấn Nguyễn, Đại Tuấn Lâm, cụ thể:

- Lô hàng 23 container lốp xe ô tô đã qua sử dụng đã làm thủ tục tái xuất

sang Campuchia qua cửa khẩu Mộc Bài, Tây Ninh, hiện đang gửi tại Công ty

XLPLR Việt Nam, có trọng lượng 413.136 kg;

- 16 container lốp xe ô tô đã qua sử dụng của Doanh nghiệp Đại Tuấn

Nguyễn, đã mở tờ khai tại Chi cục HQ KV1, có trọng lượng 256.000 tấn;

- 33 container lốp xe ô tô đã qua sử dụng của Doanh nghiệp Đại Tuấn

Nguyễn, Đại Tuấn Lâm tại Cảng ICD Phước Long, Thành phố Hồ Chí Minh, có

trọng lượng 834.613 kg (chưa mở tờ khai) thì bị phát hiện, thu giữ;

- 14.214 chiếc lốp xe ô tô đã qua sử dụng, tương đương 156,354 tấn là số

lượng lốp tồn của Công ty XLPLR Việt Nam đã mua.

Tại Kết luận định giá tài sản số 8128 ngày 17/10/2016 của Hội đồng định giá

tài sản trong tố tụng hình sự Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Trị giá 01 kg lốp xe

ô tô đã qua sử dụng là 2.879 đồng. Tổng trị giá số lốp xe ô tô đã qua sử dụng hiện

đang tạm giữ gồm: lô hàng 16 container, trọng lượng 256.000 kg; lô hàng 33

58

container, trọng lượng 834.613 kg và lô hàng 23 container trọng lượng 413.136 kg

là 4.329.292.544 đồng.

Đối với Nguyễn Hữu Thành, hiện Thành đã xuất cảnh, không có mặt tại địa

phương, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra Lệnh truy nã đối với Nguyễn Hữu Thành

và ra quyết định tách vụ án hình sự đối với Nguyễn Hữu Thành về tội “Buôn lậu”,

khi nào bắt được sẽ tiếp tục đề nghị xử lý giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình xét xử Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh đã tuyên như sau: Tuyên

bố Nguyễn Thị Mộng Tuyền, Ngô Đức Huy phạm tội “Buôn lậu”; Nguyễn Văn

Trang và Lý Ngọc Quyết phạm tội “Che giấu tội phạm”.

Bị cáo Nguyễn Thị Mộng Tuyền: 07 năm tù; Bị cáo Ngô Đức Huy: 03 năm

tù; bị cáo Nguyễn Văn Trang 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian

thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án.; bị cáo Lý Ngọc Quyết 01 năm tù

nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.

Vậy, với vụ án cụ thể như trên, thấy được thời gian vừa qua các đối tượng buôn lậu

lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất, quá cảnh các mặt hàng cấm, các chính sách

về miễn giảm thuế xuất nhập khẩu đối với các loại hàng hóa này để buôn lậu đã tìm

cách nhập các mặt hàng cấm vào Việt Nam theo diện tạm nhập, nhưng khi vào Việt

Nam thì lại bán lại, tiêu thụ trong nước mà không tái xuất như quy định (điển hình

như vụ án tạm nhập lốp xe ô tô cũ nêu trên). Các hành vi phạm tội này diễn ra một

cách rất tinh vi nhưng cũng rất rầm rộ, nhiều trong thời gian qua làm cho hoạt động

định tội danh tội buôn lậu với các hành vi, thủ đoạn như trên cũng như công tác đấu

tranh, phòng chống khó khăn. Một phần do quy định pháp luật chồng chéo, nhất là

tranh nhiệm giám sát các hàng hóa tạm nhập vào Việt Nam cho đến khi tái xuất,

mỗi văn bản quy định một cơ quan do đó khi xảy ra vấn đề thì lại đùn đẩy trách

nhiệm, khó xử lý. Cụ thể theo quy định tại khoản 2 điều 15 thông tư 05/2014/TT-

BTC về thẩm quyền giải tỏa hàng hóa tạm nhập tái xuất ách tắc tại các cảng, cửa

khẩu theo yêu cầu của Bộ Công Thương trong trường hợp có ách tắc. Tuy nhiên

quy định về chính sách quản lý hàng tạm nhập tái xuất và thủ tục hải quan thì Cơ

quan Hải quan lại có trách nhiệm giám sát hàng hóa từ khi tạm nhập đến khi tái xuất

59

khỏi lãnh thổ Việt Nam do đó, dẫn đến chồng chéo trách nhiệm, Cơ quan Hải quan

bị động trong công tác giám sát Hải quan đặc biệt trong trường hợp kho bãi của

doanh nghiệp nhập khẩu thuộc địa bàn khác với địa bàn quản lý của Cơ quan Hải

quan. Bên cạnh đó thực hiện nghị định số08/2015/NĐ-CP về quy định chi tiết và

biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát

hải quan thì các Cục Hải quan, Chi Cục Hải quan đã có các văn bản phối hợp với

các doanh nghiệp kiểm định, các doanh nghiệp kinh doanh kho bãi tại khu vực

cảng, các doanh nghiệp về Logistic để thuận lợi hơn cho công tác kiểm tra, giám sát

Hải quan nhất là với những hàng hóa được lưu giữ tại các kho ngoại quan. Căn cứ

vào các văn bản phối hợp này thì các doanh nghiệp kho bãi, các công ty kiểm định,

giám định này sẽ có trách nhiệm giám sát đối với hàng hóa được lưu tại kho bãi hay

thực hiện việc giám định tại doanh nghiệp mình. Đây là một quy định mở hơn, giảm

bớt gánh áp lực giám sát cho lực lượng Hải quan vì số lượng hàng nhập khẩu,

doanh nghiệp nhập khẩu ngày càng nhiều mà lực lượng giám sát Hải quan sẽ khó

lòng kiểm tra, giám sát hết do vậy việc giao cho các công ty kho bãi, công ty giám

định kiểm định, logistic trong lĩnh vực xuất nhập khẩu giám sát sẽ là hợp lý. Tuy

nhiên, thực tế việc giám sát hàng nhập khẩu cho ở lưu giữ tại các kho ngoại quan

của các doanh nghiệp nay nhiều trường hợp chưa thật chặt chẽ, khiến việc hàng

chưa được thông quan vẫn bị đưa đi bán tiêu thụ mà doanh nghiệp giám sát không

biết. Cụ thể như trường hợp vụ án buôn lậu của Trần Minh Luận như nêu ở trên, thì

Trung Tâm Kiểm định, Đo lường Chất lượng 3 (gọi tắt là Trung tâm 3) có trách

nhiệm giám sát với 09 Container sữa Ensure được lưu giữ tại kho ngoại quan, đang

kiểm định chất lượng tại Trung tâm 3 nhưng doanh nghiệp bán hết sữa khi chưa

được thông quan thì Trung tâm 3 cũng không biết, chỉ khi CQĐT thông báo thì

Trung tâm 3 mới biết.

Như vậy có thể nói một số quy định về giám sát hàng nhập khẩu chưa thật

sự rõ ràng, còn chồng chèo dẫn đến phối hợp xử lý án buôn lậu về định tội danh

cũng như phòng chống tội phạm buôn lậu còn chưa thật hiệu quả.

Đối với hoạt động định tội danh các hành vi lợi dụng chính sách tạm nhập tái

60

xuất hàng cấm để nhập lậu hàng nếu áp dụng BLHS 1999 là hành vi buôn lậu vì đối

tượng hàng hóa tạm nhập tái xuất là hàng cấm nhập khẩu, các đối tượng vì mục đích

vụ lợi, trốn thuế mà có thực hiện hành vi tạm nhập, thủ tục ban đầu đều tuân theo

quy định xuất nhập khẩu, tuy nhiên bản chất của tạm nhập tái xuất là hàng hóa tạm

nhập về chỉ được lưu lại ở Việt Nam một thời gian nhất định theo thỏa thuận từ phía

nước ngoài và phía nhập hàng ở Việt Nam, sau đó phải làm thủ tục tái xuất nhưng

các đối tượng này khi tạm nhập về lại bán, tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên, Căn cứ

theo BLHS 2015, sửa đổi 2017 thì Tội buôn lậu theo quy định tại điều 188 đã bỏ

hàng cấm ra khỏi là đối tượng tác động của tội buôn lậu. Vậy từ sau 01/01/2018 thì

các hành vi phạm tội này sẽ được định tội danh là tội buôn lậu, tội sản xuất, mua

bán hàng cấm hay tội trốn thuế? Đó là vấn đề tác giả đặt ra và quan tâm?

[11,tr. 53-55], [34], [33], [39]

Kết luận Chương 2

Nội dung Chương 2 như đã trình bày ở trên đi sâu vào phân tích về mặt lý

luận và thực tiễn tình hình định tội danh buôn lậu trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh.

Qua việc phân tích các điều kiện về địa lý, kinh tế, xã hội đã lý giải vì sao Tp.Hồ

Chí Minh trở thành điểm nóng về buôn lậu nhất trong cả nước hiện nay.

Qua số liệu về tình hình phát hiện và xử lý tội buôn lậu của Công an

Tp.HCM và tình hình xử các vụ án buôn lậu tại TAND Tp.Hồ Chí Minh chúng ta

thấy các hành vi buôn lậu xảy ra rất nhiều và tinh vi tuy nhiên việc xử lý vẫn chưa

được nhiều và quyết liệt một phần do tội phạm ngày càng nhiều, phức tạp, thủ đoạn

tinh vi… một phần cũng do lượng cán bộ hải quan, Công an kinh tế chưa thực sự

đáp ứng được trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm buôn lậu.

Việc phòng chống, xử lý án buôn lậu tại Tp.HCM cũng có nhiều thành tựu

nổi bật thời gian qua (phát hiện, xử lý nhiều vụ án lớn, thu hồi về cho ngân sách

Nhà nước nhiều khoản tiền tiền thất thoát, ngăn chặn nhiều hậu quả nghiêm trọng

xảy ra nếu hành vi buôn lậu xảy ra (Các vụ buôn lậu phế liệu, Hàng điện máy điện

lạnh cũ…). Tuy nhiên thực tiễn một số vụ án nổi cộm hiện nay, cũng thấy được

61

những bất cập, khó khăn trong quá trình định tội danh buôn lậu tại Tp.Hồ Chí Minh

trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Từ đó, tác giả cũng chỉ ra được những

nguyên nhân gây ra những khó khăn, hạn chế và hướng giải quyết, khắc phục trong

thời gian tới. Hy vọng rằng những ý kiến của tác giả sẽ được quan tâm và áp dụng.

62

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH

TỘI BUÔN LẬU

3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu

3.1.1. Yêu cầu phát triển kinh tế thị trường

Từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã mở ra định hướng phát triển mới

cho Đất nước, đặc biệt là định hướng Phát triển nền kinh tế mở với nhiều thành

phần định hướng XHCN, cơ chế thị trường được mở ra và phát triển, từ đó đã đưa

đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước phát triển, có nhiều thành tựu

to lớn, tăng cường hội nhập, phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học xã hội…với các

nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, vị thế, uy tín của Việt Nam càng ngày

càng nâng cao trong quan hệ quốc tế…

Với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường Nhà nước không can thiệp sâu vào

hoạt động của doanh nghiệp, thương nhân mà điều tiết hợp lý bằng pháp luật, lợi

nhuận, hiệu quả là quan trọng và là động lực trong hoạt động kinh doanh.

Đổi mới trong các chính sách pháp luật về kinh tế, đặc biệt tội phạm trong

vĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại phải được nghiên cứu, hình sự hóa hay

phi hình sự hóa những hành vi nào được coi là tội phạm, hành vi nào không coi là

tội phạm thật hợp lý để vừa kích thích doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh buôn bán

nhưng mặt khác đảm bảo được an ninh, trật tự và lợi ích của Nhà nước, doanh

nghiệp cũng như các cá nhân, tổ chức có liên quan khác mặt khác cũng phù hợp với

xu thế phát triển kinh tế chung của quốc tế, thế giới. Hình phạt áp dụng đối với các

tội này cũng chủ yếu sẽ đánh chủ yếu vào kinh tế, là hạn chế hoặc tước lợi ích kinh

tế, hạn chế bớt các hình phạt tù, tước quyền tự do đối với cá nhân, pháp nhân

thương mại phạm tội.

Tội buôn lậu từ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 năm 2009

đã bãi bỏ hình phạt tử hình thay bằng hình phạt tù chung thân, BLHS năm 2015

hình phạt cao nhất chỉ còn là 20 năm tù; tăng cường hình phạt tiền; Pháp nhân

63

thương mại cũng bị khởi tố hình sự đối với tội buôn lậu, hình phạt tiền là chính

ngoài ra tùy hành vi vi phạm có thể tạm đình chỉ hoạt động, đình chỉ hoạt động,

tước giấy phép hoạt động có thời hạn hoặc vĩnh viễn. Tuy các quy định vẫn còn các

bàn cải nhưng đây cũng xem là điểm tiến bộ trong quy địnhvề tội buôn lậu.

3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp hình sự

Theo Luật học thì Cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là một hệ thống Tòa

án nhân danh quyền tối cao hoặc Nhà nước thực thi công lý, một cơ chế để giải

quyết các tranh chấp xảy ra.

Ở Việt Nam tại điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: 1. Tòa án nhân

dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt Nam, thực hiện

quyền tư pháp. 2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác

do luật định. 3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Như vậy, Hiến pháp Việt Nam đã quy định Cơ quan tư pháp cụ thể là Tòa án

nhân dân các cấp là cơ quan xét xử, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền con người,

quyền công dân, chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân. Như vậy, so với trước khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành

thì vẫn còn nhiều ý kiến về thế nào là tư pháp, thế nào là Cơ quan tư pháp nhưng từ

khi Hiếp pháp năm 2013 ban hành và quy định rõ thì cơ bản đã thống nhất được.

Hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử và các cơ quan tư pháp là hệ thống Tòa án

nhân dân các cấp theo luật định. Vậy, Tư pháp hình sự, Cơ quan tư pháp hình sự đó

là hoạt động thực thi quyền tư pháp hình sự, được hiểu đó là hoạt động xét xử các

vụ án hình sự ở Việt Nam theo phạm vi BLHS, BLTTHS quy định.

Như vậy, để đảm bảo việc xét xử các vụ hình sự mục tiêu là hoạt động định

tội danh các tội buôn lậu nói riêng và các tội phạm khác nói chung diễn ra đạt được

chính xác hiệu quả và về yêu cầu cao hơn nữa là đảm bảo quyền con người, quyền

dân chủ, độc lập, chủ quyền, phát triển kinh tế, với mục tiêu xây dựng CNXH, “dân

64

giàu, Nước Mạnh, dân chủ, công bằng, Văn Minh”. Đảng, Nhà nước Việt Nam từ

đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986, và cụ thể là từ năm 2005 với Nghị quyết số

49/NQ-TW ngày 02/6/2005 đã đề ra chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, với

phương hướng khẩn trương, đồng bộ, hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân

sự. Để cải cách tư pháp, hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục

tư pháp, sửa đổi, bổ sung hay xây dựng các Bộ luật mới về BLHS, BLTTHS, Luật

tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tạm giữ, tạm giam, Luật Tổ chức cơ quan điều tra

hình sự…, hoàn thiện hệ thống các cơ quan Tư pháp, tăng cường đào tạo nâng cao

năng lực, phẩm chất, đạo đức các cán bộ trong hệ thống các cơ quan tư pháp, bổ trợ

tư pháp..., nâng cao hiệu quả các cơ quan Kiểm sát, công tố…từ Đại hội Đảng XII

đã xác định nhiệm vụ: ”tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư

pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng

bước hiện đại, bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người…tiếp tục xã hội hóa một

số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ điều kiện”

Chủ trương thay đổi, cải cách tư pháp đặc biệt là tư pháp hình sự của Đảng

và Nhà nước ta thể hiện qua các Nghị quyết của Đảng (Nghị quyết 48/NQ-TW của

Bộ Chính Trị, Nghị quyết 49/NQ-TW, Nghị quyết 08/NQ-TW…) thời gian qua là

đúng đắn và đã đạt được nhiều thành tựu lớn, tuy nhiên việc đổi mới, cải cách nền

tư pháp nói chung, tư pháp hình sự nói riêng nhưng phải đảm bảo đáp ứng được các

yêu cầu cơ bản sau: việc tăng cường hiệu quả kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng

hình sự; Cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xác định đúng đắn quyền, nghĩa vụ của

các chủ thể tố tụng hình sự cho phù hợp với chức năng của các cơ quan tố tụng, đề

cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trước nhân dân và Nhà nước; đáp

ứng nhu cầu xây dựng hệ thống tư pháp hình sự công khai, minh bạch, dân chủ; đáp

ứng được yêu cầu đổi mới, yêu cầu hội nhập quốc tế mạnh mẽ.

Có thể thấy, cải cách, đổi mới tư pháp nói chung, tư pháp hình sự nói riêng

không phải là một vấn đề đơn giản mà cần thời gian, lộ trình cụ thể, lâu dài và cũng

có nhiều khó khăn, phức tạp trong quá trình thực hiện. Có rất nhiều vấn để cần giải

quyết, cần xử lý, có ý kiến đồng thuận nhưng cũng có nhiều tranh cải khi thực hiện

65

chính sách cải cách…Do vậy, thực tế muốn cải cách tư pháp hình sự tiến bộ, hiệu

quả đáp ứng được các yêu cầu như nêu ở trên không chỉ là cải cách, đổi mới với các

Cơ quan tư pháp, Cán bộ tư pháp nói riêng mà phải cải cách đồng bộ với các Cơ

quan giám sát, hổ trợ tư pháp hình sự, hệ thống cơ quan Thi hành án Hình sự khác

như vậy mới nâng cao được hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự được chính xác,

đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.

Việc cải cách tư pháp hình sự là nhiệm vụ quan trọng, thời gian lâu dài tuy

nhiên với chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà Nước và sự chung tay

của đông đảo Công dân thì tin rằng, nền tư pháp hình sự Việt Nam ngày càng hoàn

thiện hơn, tiến bộ hơn, công bằng, văn minh hơn.

3.1.3. Yêu cầu bảo đảm quyền tự do kinh doanh

Hiến pháp năm 1992 đã quy định về quyền tự do kinh doanh của Công dân,

Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những

ngành nghề mà pháp luật không cấm (điều 33).

Từ quy định của Hiến pháp thì Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư đã bỏ bớt các

quy định rườm ra trong đăng kinh ký kinh doanh, các lĩnh vực kinh doanh có điều

kiện, giấy phép con, thủ tục hành chính công khai, minh bạch…tạo tâm lý thoải mái

cho những người kinh doanh, doanh nghiệp. Hơn thế nữa các thủ tục đăng ký kinh

doanh, đăng ký đầu tư thông thoáng, không kìm kẹp, không còn nhiều các quy định

rườm rà…thì kích thích người dân, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh để tìm kiếm

lợi nhuận cho bản thân, đồng thời nộp thuế cho ngân sách Nhà nước…nâng cao đời

sống vật chất, tinh thần, dân trí…giảm thiểu rất nhiều tệ nạn xã hội, hay vi phạm

pháp luật. Nhà nước khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh

doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau, hạn chế, bỏ bớt các lĩnh vực kinh doanh có điều

kiện (hiện nay có 243 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, dự thảo sửa đổi luật đầu

tư và luật doanh nghiệp năm 2019 dự kiến bãi bỏ 17 ngành nghề kinh doanh có có

điều kiện) ngành nghề độc quyền Nhà nước, thoái vốn Nhà nước, cổ phần hóa ở các

doanh nghiệp Nhà nước một thành viên 100% vốn Nhà nước trước kia để cho các

66

cá nhân, doanh nghiệp tư nhân góp vốn, mua cổ phần đầu tư làm tăng khả năng sản

xuất, kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Tăng

cường phát triển khoa học, công nghệ thông tin áp dụng vào sản xuất kinh doanh,

thủ tục hành chính. Các chính sách thuế quan, xuất nhập khẩu hàng hóa cũng thay

đổi phù hợp, hạn chế các thủ tục.

Trong lĩnh vực hình sự thì đã bãi bỏ tội kinh doanh trái phép quy định tại

điều 159 BLHS 1999. Trong lĩnh vực hải quan, xuất nhập khẩu cũng ngày càng cải

tiến hơn về thủ tục hành chính, bải bỏ bớt các giấy phép con. Ví dụ: từ nghị định

15/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật an toàn thực phẩm đã cho người

kinh doanh, sản xuất tự công bố sản phẩm đạt chất lượng an toàn thực phẩm và phải

tự chịu trách nhiệm về sự an toàn của sản phẩm đó. Với quy định này trong lĩnh vực

nhập khẩu hàng hóa là thực phẩm thì cá nhân, doanh nghiệp không cần phải qua các

trung tâm kiểm định để xin kiểm định và xin cấp “giấy chứng nhận đạt yêu cầu

nhập khẩu” mà chỉ cần có Giấy tự công bố là đủ điều kiện nhập khẩu.

Quy định về quyền tự do kinh doanh của mọi người trong những nghành

nghề mà pháp luật không cấm, đã tháo gỡ những bất cập, cũng như lo lắng cho

người kinh doanh, đối với những vi phạm trong kinh doanh (ví dụ vụ án café Xin

Chào ở Bình Chánh – Tp.Hồ Chí Minh) BLHS 2015 đã bãi bỏ tội kinh doanh trái

phép (Người nào kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, kinh doanh không đúng

với nội dung đã đăng ký hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường

hợp pháp) luật quy định phải có giấy phép thuộc một trong các trường hợp sau

đây…) những vi phạm này nếu có chỉ là vi phạm về thủ tục hành chính và chỉ bị xử

lý hành chính không được xử hình sự).

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu

3.2.1. Hoàn thiện Bộ luật hình sự về tội buôn lậu

Như chúng ta thấy từ quy định về tội buôn lậu ở BLHS năm 1985, đến BLHS

năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, hiện nay là BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ

sung năm 2017 đã có nhiều tiến bộ vượt bậc về các quy định tội phạm và hình phạt

67

tội buôn lậu. Quy định mới về tội buôn lậu tại BLHS 2015, sửa đổi 2017 đảm bảo

được ác nguyên tắc công bằng, dân chủ, nhân đạo của chính sách pháp luật hình sự

là tôn trọng quyền tự do dân chủ, quyền con người từng bước tăng hình phạt tiền,

giảm hình phạt tù, bỏ hình phạt chung thân, tử hình và nhiều biện pháp tư pháp tiến

bộ khác…phù hợp với các công ước về nhân quyền, dân quyền và dân chủ mà Việt

Nam đã ký kết cũng như tham gia. Tuy nhiên, để từng bước hoàn thiện quy định của

BLHS về tội buôn lậu thì chúng ta cần xem xét sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau:

- Tiếp tục hoàn thiện cấu thành tội phạm tội buôn lậu, phân biệt rõ ràng với

các tội danh khác như tội vận chuyển hàng hóa qua biên giới, tội sản xuất, mua bán

hàng cấm, tội trốn thuế… giúp các cơ quan tố tụng dễ dàng hơn trong việc định tội

danh trong quá trình giải quyết các vụ án buôn lậu. Hiện nay hình phạt tiền tội buôn

lậu chỉ áp dụng từ khoản 1-3 của điều luật từ 50tr -5ty đối với cá nhân phạm tội, còn

khoản 4 thì vẫn chỉ có hình phạt tù là từ 12 năm đến 20 năm tù. Do đó kiến nghị

nên áp dụng hình phạt tiền ở tất cả các khung hình phạt và với mức tiền phạt hợp lý,

đủ sức răn đe.

- Về quy định pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.

Đây được coi là bước tiến mới, phù hợp với tình hình diễn biến của tội phạm buôn

lậu cũng như các nước khác trên thế giới. Vì hầu hết ở các Vụ án buôn lậu đều có sự

tham gia của các pháp nhân thương mại, đứng tên hợp đồng để xuất nhập khẩu hàng

hóa, với sự chỉ đạo của cá nhân trong doanh nghiệp đó;

Quy định về pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự tại điều

75, 76 BLHS và tội buôn lậu còn nhiều điểm chưa phù hợp, cần được hoàn thiện để

có thể áp dụng quy định của pháp luật hình sự trên thực tế. Cụ thể: Về hình phạt đối

pháp nhân thương mại trong tội buôn lậu gồm có: Hình phạt tiền thấp nhất là 300

triệu đồng, cao nhất 15 tỷ đồng. Ngoài ra pháp nhân thương mại còn có thể bị đình

chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn,

cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn

từ 01 năm đến 03 năm.

Có thể thấy, Pháp nhân thương mại phải chịu TNHS là phù hợp với thực tế,

68

tuy nhiên đối với hình phạt đình chỉ hoạt động, cấm kinh doanh, hoạt động trong

một số lĩnh vực thì các nhà làm luật nên xem xét lại, vì thời gian qua cũng có nhiều

ý kiến về vấn đề này. Thực tế hoạt động ở các doanh nghiệp thương mại là để tìm

kiếm lợi nhuận trong quá trình sản xuất, kinh doanh sau khi trừ các khoản chi phí,

thuế…do vậy, ở các Doanh nghiệp này không chỉ có các ông chủ doanh nghiệp hay

đại diện pháp luật mà có thể có nhiều nhân công lao động, mối quan hệ với nhiều cơ

quan, tổ chức…do vậy việc bắt doanh nghiệp phải đình chỉ hoạt động, rút giấy phép

hay cấm hoạt động ở một số nghành nghề nhất định thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến

đời sống của người lao động của các doanh nghiệp này, gây áp lực lớn cho Nhà

nước về bố trí, cơ cấu lại lao động, vấn nạn thất nghiệp sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy

về giáo dục, trật tự xã hội thậm chí là môi trường…do đó, nên xem xét đối với

PNTM chỉ nên phạt tiền, giá trị tiền phạt phải cao gấp nhiều lần giá trị tài sản phạm

pháp và số lợi bất chính thì phù hợp và đủ sức răn đe hơn.

3.2.2 Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật về tội buôn lậu.

- Hiện nay ngoài BLHS quy định về tội phạm và hình phạt tội buôn lậu thì

chưa có một văn bản dưới luật nào hướng dẫn, giải thích chi tiết về tội buôn lậu

ngoài các bài viết bình luận, so sánh của các chuyên gia, nhà khoa học hay các cán

bộ trong ngành tố tụng, các luật sư nội dung chủ yếu phân tích về cấu thành tội

buôn lậu, so sánh tội Buôn lậu ở BLHS 1999, sửa đổi 2009 với tội buôn lậu tại

BLHS 2015, sửa đổi 2017.

Do vậy, để đáp ứng với tình hình tội buôn lậu ngày càng gia tăng, với

phương thức thủ đoạn ngày càng mới, tinh vi, phức tạp thì các cơ quan tố tụng có

thẩm quyền (TANDTC, VKSNDTC, BCA…) nên thực hiện việc giải thích, hướng

dẫn áp dụng những trường hợp vướng mắc, khó khăn trong giải quyết các vụ án

buôn lậu như đã nêu ở trên.

- Công tác tổng kết thực tiển điều tra, truy tố, xét xử các vụ án buôn lậu trên

địa bàn Tp.Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung để cùng nâng xét xử; rút

kinh nghiệm các thiếu sót, thông qua đó kiến nghị bổ sung kịp thời, đung1 đắn các

quy định mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xu thế phát triển của hoạt

69

động kinh tế đặc biệt là ngoại thường xuất nhập khẩu.

- Ban hành hệ thống án lệ trong đó có những vụ án kết tội về tội buôn lậu:

Án lệ là bản án hoặc quyết định của Tòa án, nó tạo lập quy tắc hoặc căn cứ

pháp lý đáng tin cậy cho việc quyết định các vụ việc tương tự trong tương lai. Về

mặt lý luận thì án lệ có những yếu tố có thể làm cho một bản án trở thành căn cứ

cho các quyết định sau này của tòa án là những tình tiết thực tế, sự kiện giống nhau,

hoặc nếu sự kiện khác nhau thì những nguyên tắc được áp dụng trong vụ án đầu tiên

có thể được áp dụng đối với nhiều sự kiện khác nhau. Bên cạnh luật thành văn, nếu

áp dụng án lệ thì sẽ đảm bảo công bằng cho các bị cáo, với các vụ án có tình tiết,

hoàn cảnh tương tự nhau thì sẽ chịu mức TNHS tương tự nhau, tránh trường hợp

như hiện nay, cùng một vụ án tương tự nhau nhưng mỗi Tòa xử một tội khác nhau

hay mức án khác nhau, có Tòa thì xử quá cao, có Tòa lại xử quá thấp không đảm

bảo tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật hình sự.

Thực hiện chủ trương của Đảng trong việc cải cách tư pháp tại Nghị quyết số

48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005 về “Chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, tiếp theo ngày

2/6/2005 nghị quyết số 49-NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính Trị xác định “Tòa án

nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng

thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Ngoài

hoàn thiện các Hệ thống pháp luật hình sự thì vấn đề sử dụng án lệ trong quá trình

xét xử được đặt ra. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, tại điều 22 về thẩm

quyền của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã quy định như sau: “c) Lựa chọn quyết

định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết

phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét

xử” [24,tr.20].

Đến ngày 28/10/2015 thì Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng

Thẩm Phán TANDTC về lựa chọn và áp dụng án lệ được ban hành. Đến 18/6/2019

ban hành nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP thay thế Nghị quyết số 03/2015/NQ-

70

HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Cho đến thời điểm hiện nay

đã có 26 Án lệ được công bố, trong đó 21 án lệ về tố tụng dân sự; 01 án lệ về tố

tụng hành chính hành chính và có 04 án lệ hình sự, trong đó (án lệ số 01/2016/AL

về tội giết người; 17/2018/AL về tội giết người có đồng phạm; 18/2018/AL giết

người đang thi hành công vụ, 19/2018/AL xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt

trong vụ án tham ô). Như vậy, cho đến nay Hội ĐồngThẩm Phán TANDTC vẫn

chưa lựa chọn được án lệ nào về tội buôn lậu, trong khi đó hàng năm vẫn có rất

nhiều vụ án buôn lậu lớn được đưa ra xét xử, chiếm tỷ lệ khá cao ở các Tòa án.

Thực tế đã có 26 án lệ được ban hành, tuy nhiên việc áp dụng hiện nay vẫn

còn hạn chế, các thẩm phán khi xét xử vẫn căn cứ vào Văn bản quy phạm pháp luật

chứ không áp dụng án lệ.

Do vậy, với điều kiện, hoàn cảnh thực tế hiện nay, việc áp dụng án lệ trong

xét xử là cần thiết. Do vậy, kiến nghị Hội đồng thẩm phán TANDTC, cũng như các

Cơ quan tố tụng, các nhà làm luật tiếp tục lựa chọn, công bố những án lệ có tính

thực tiễn cao, dễ áp dụng trong các lĩnh vực pháp luật nói chung và trong các vụ án

hình sự về buôn lậu nói riêng để đáp ứng tốt như cầu xét xử cũng như đấu tranh

phòng chống tội phạm buôn lậu hiện nay. Qua đó, cũng có quy định pháp luật

khuyến khích vừa là bắt buộc các thẩm phán phải áp dụng án lệ đối với những vụ án

tương tự mà mình đang xét xử, nhằm đảm bảo công bằng, khách quan trong xét xử.

- Tăng cường hơn nữa các quy định, quy chế phối hợp kiểm tra, giám sát các

hàng hóa nhập khẩu giữa các cơ quan, ban nghành (Cơ quan Hải quan với các

doanh nghiệp, đơn vị liên quan) tránh chồng chéo về trách nhiệm,quyền hạn…để

ngăn chặn, giảm thiểu việc lợi dụng các sơ hở trong quản lý hay chính sách để buôn

lậu. Phát hiện và ngăn chặn xử lý kịp thời các vụ việc buôn lậu từ giai đoạn ban đầu,

từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả định tội danh tội buôn lậu ở tất cả

các giai đoạn của tố tụng hình sự.

3.2.3 Giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn

lậu

3.2.3.1 Nâng cao năng lực của các chủ thể thực hiện việc định tội danh

71

Với chủ trương cải cách, nâng cao hiệu quả của các Cơ quan tư pháp hình sự,

nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ giải quyết án hình sự, đạo đức của cán bộ

tư pháp thì công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một trong những nhiệm vụ rất

quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phục vụ đất nước, đặc biệt là các

Cán bộ trong ngành tố tụng hình sự (ĐTV, KSV, TP) có đủ phẩm chất chính trị, đạo

đức, năng lực, trình độ chuyên môn, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình

đảm bảo các hoạt động tư pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc

tế. Thời gian qua, việc đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kiến thức, năng lực

chuyên môn cho Cán bộ được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, chú trọng, cụ thể:

Xây dựng đội ngũ cán bộ có thẩm quyền về tố tụng hình sự đủ về số lượng,

nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, tinh thông nghiệp

vụ, có phẩm chất đạo đức trong sáng, luôn có quan điểm khách quan, toàn diện

trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Xem xét, điều chuyển biên chế phù hợp cho

các địa phương xảy ra nhiều án, tránh áp lực quá nhiều công việc dẫn đến oan, sai,

bỏ lọt tội phạm. Bố trí sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực, sở trường; kiên quyết

không bố trí số cán bộ chưa qua đào tạo về công tác điều tra, không bảo đảm tiêu

chuẩn, điều kiện để làm công tác điều tra, xử lý tội phạm. Tăng cường lực lượng

cán bộ cấp huyện và các địa phương trọng điểm. Kiên quyết loại khỏi bộ máy

những cán bộ kém về đạo đức, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, xây dựng đội ngũ cán

bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực đáp ứng yêu cầu phục

vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.

Ngoài ra, phát triển đội ngũ Luật sư, hỗ trợ Tư pháp cũng thường xuyên tổ

chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, tọa đàm, trao đổi (theo quy định Luật sư phải

tham gia ít nhất 16 giờ bồi dưỡng kiến thức mỗi năm), ngoài ra cũng tự trao dồi

kiến thức chuyên môn để trang bị, phục vụ cho nhu cầu công việc của mình.

Các ngành tư pháp bố trí lực lượng giải quyết án chuyên trách đối với tội

buôn lậu ở tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự: Giải pháp này được đặt ra không

chỉ đối riêng với vụ án buôn lậu mà mong muốn thực hiện ở tất cả các vụ án khác,

đặc biệt là trong các tội liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, thương mại, tài chính

72

ngân hàng. Nếu Các cơ quan Tố tụng làm được làm điều này thì việc điều tra, truy

tố, xét xử…các tội này sẽ nhanh chóng hơn, tránh một vụ án phải xử đi xử lại nhiều

lần vì sai tố tụng hay sai nội dung, và đặc biệt là cũng tránh được các vụ định tội

danh sai không chỉ trong vụ án buôn lậu mà đối với tất cả các vụ án hình sự khác để

giảm oan sai và cũng tránh bỏ lọt tội phạm.

3.2.3.2 Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động định tội danh tội buôn lậu

Cần tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động định tội danh tội buôn lậu

bằng các hoạt động sau đây:

- Tăng cường hoạt động của Viện kiểm sát các cấp kiểm sát hoạt động khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử án buôn lậu;

- Tăng cường việc giám đốc xét xử (kiểm tra giám đốc, phúc thẩm, giám đốc

thẩm, tái thẩm) của Tòa án cấp trên đối với hoạt động định tội danh của Tòa án cấp

dưới…

Ngoài ra, trong công tác cán bộ, hiện nay trong các cơ quan tố tụng đều có

các chế độ khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công nhân viên của mình nhưng hiệu quả

chưa cao, trong khi áp lực làm việc rất lớn mà lương, thưởng, chế độ chưa thật sự

đáp ứng được đời sống…nên xảy ra các vụ việc nhũng nhiễu, tham nhũng, hối lộ,

chạy án nhiều trong thời gian qua. Một số thì không sống nổi với mức thu nhập thấp

phải chuyển ngành nghề, hoặc làm thêm nhiều công việc khác để nuôi bản thân và

gia đình. Do vậy, Nhà nước nên có chính sách cải thiện tiền lương, phù cấp cho các

Cán bộ trong ngành tố tụng để làm sao Cán bộ, Viên chức trong ngành tố tụng yên

tâm làm việc, thu hút được nhiều người tài, người giỏi đến với ngành, nghề.

Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả định tội danh tội buôn lậu cũng có chính sách

giáo dục, tuyên tuyền để nâng cao hiểu biết của mọi người dân cũng như các Cơ

quan, tổ chức nói chung về sự nguy hiểm, tác hại của tội buôn lậu đối với đời sống

người dân cũng như nền sản xuất trong nước. Qua việc nâng cao chất lượng định tội

danh, xử lý án buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng sẽ nâng cao ý thức đấu

tranh phòng, chống tội buôn lậu trong cả nước.

73

Kết luận Chương 3

Sau khi nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự về định tội danh nói

chung và quy định chi tiết về định tội danh buôn lậu nói riêng, ngoài những điểm

đổi mới, tiến bộ đã nêu, qua những vụ án buôn lậu nổi bất gần đây đã bộc lộ ra

những điểm khó khăn, hạn chế trong quá trình định tội danh buôn lậu trên địa bàn

Tp.Hồ Chí Minh. Những khó khăn, hạn chế đó không chỉ là mang tính chất khách

quan mà nhiều vấn đề cũng xuất phát từ chủ quan của các Cơ quan, Người tiến hành

tố tụng. Xuất phát từ tình hình thực tế hoạt động định tội danh tội buôn lậu tại

Tp.Hồ Chí Minh cũng như kinh nghiệm thực tiễn của tác giả trong quá trình làm

việc thì tác giả đã đề ra những giải pháp để từng bước nâng cao chất lượng định tội

danh tội buôn lậu không chỉ tại Tp.Hồ Chí Minh mà còn trên cả nước.

Đề tài nghiên cứu tuy không lớn, các giải pháp tác giả đưa ra chỉ mang tính

chất cá nhân nhưng tác giả vẫn hy vọng những khó khăn, hạn chế trong quá trình

định tội danh tội buôn lậu trong thời gian qua sẽ ngày càng được khắc phục, tiến tới

một nền tư pháp hình sự tiến bộ, văn minh góp phần xây dựng Nhà nước Pháp

quyền XHCN theo định hướng của Đảng và Nhà nước.

74

KẾT LUẬN

Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lý cao nhất quy định về tội phạm và hình phạt.

Nguyên tắc chỉ những hành vi mà BLHS quy định là tội phạm thì mới bị coi là tội

phạm và sẽ bị điều tra, truy tố, xét xử theo đúng trình tự tố tụng do pháp luật quy

định và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu những hình phạt

tương ứng. Để đảm bảo được các nguyên tắc và quy định của BLHS đòi hỏi các Cơ

quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng phải tuân thủ đầy đủ,

nghiêm túc các trình tự, thủ tục do BLHS quy định. Trong Định tội danh là bước

đầu tiên, tối quan trọng để xác định một hành vi nguy hiểm của người đó, pháp

nhân thương mại đó có là tội phạm không? Là tội gì và thuộc vào khung hình phạt

nào của điều luật của BLHS phải đúng, chính xác thì quá trình áp dụng các biện

pháp tố tụng (biện pháp ngăn chặn, truy tố, xét xử, thi hành hình phạt…) mới công

bằng, đúng bản chất của pháp luật hình sự.

Qua việc nghiên cứu đề tài định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ

Chí Minh căn cứ theo BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có so sánh, đối

chiếu với quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 1985 tuy chưa thực sự đầy đủ

và hoàn toàn chính xác nhưng trước hết chúng ta thấy được tính chất nguy hiểm, tác

hại rất lớn của tội phạm buôn lậu đối với hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu,

đe dọa, làm trì trệ nền sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trong nước cũng như

không khuyến khích được sự thay đổi, sáng tạo trong khoa học, kỹ thuật, công

nghệ…nước nhà. Đối với pháp luật hình sự thì có sự thay đổi, tiến bộ rất lớn so với

BLHS năm 1985 từ trình tự tố tụng đến các quy định về tội phạm và hình phạt phù

hợp với xu thế tiến bộ trên thế giới vừa phù hợp với đời sống xã hội, tình hình phát

triển kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật. Từ sự thay đổi rất lớn của pháp luật hình

sự cũng như các quy định pháp luật khác (dân sự, kinh doanh thương mại…) đã

thấy được sự thay đổi rất lớn, tiến bộ mạnh mẽ về tư duy, kỹ năng lập pháp, hành

pháp, tư pháp của Đảng, Nhà nước ta. Với những thành tựu đạt được thời gian qua

có thể thấy được việc thực hiện Nghị quyết 48 và 49 của Bộ Chính Trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền

75

XHCN đã đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đề ra. [2], [3], [4]

Với hoạt động định tội danh tội buôn lậu nói riêng, định tội danh tội phạm

nói chung thì các quy định mới, tiến bộ của BLHS 2015, sửa đổi 2017 đã giúp cho

Cơ quan điều tra, Viện Kiểm Sát, Tòa án dễ dàng hơn trong hoạt động định tội

danh, giảm thiểu được tối đa oan sai, lọt tội phạm, qua đó quyết định được hình

phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác chính xác, nâng cao việc đấu tranh

phòng, chống tội phạm.

Từ việc nghiên cứu đề tài, ngoài những thành tựu cũng như đổi mới, tiến bộ

hơn trong pháp luật hình sự nói chung, trong hoạt động định tội danh nói riêng thì

chúng ta cũng thấy được vẫn bộc lộc nhiều vấn đề yếu kém, cần phải cố gắng thay

đổi nhiều hơn nữa để ngày một hoàn thiện hơn. Một trong các bất cập trong pháp

luật hình sự cũng như định tội danh đó là quy định của về tội buôn lậu ở BLHS vẫn

còn nhiều chỗ chưa rõ ràng, cấu thành tội phạm tội buôn lậu ở một số điểm còn dễ

gây nhầm lẫn, giống với một số tội khác (tội vận chuyển hàng hóa trái phép qua

biên giới, tội trốn thuế) gây khó khăn cho việc định tội danh cho các Cơ quan,

người tiến hành tố tụng; hay một số quy định hay hình phạt ở tội buôn lậu chưa phù

hợp (hình phạt tiền là phù hợp tuy nhiên mức phạt chưa cao, chưa đủ sức răn đe),

hình phạt (tược giấy phép, đình chỉ hoạt động tạm thời, vĩnh viễn hay cấm hoạt

động ở một số nghành nghề nhất định) đối với Pháp nhân thương mại chưa thực sự

phù hợp, cần phải nghiên cứu thêm. Về con người là những tham gia hoạt động định

tội danh (ĐTV, KSV, TP) hoặc Luật sư…tuy Nhà nước quy định chuẩn đầu vào,

tuyển dụng, đào tạo kỷ năng, bồi dưỡng kiến thức thường xuyên nhưng vẫn chưa

thực sự đáp ứng được nhu cầu đổi mới ngày càng cao nhất là công tác Cán bộ ở các

vùng sâu vùng xa. Hoặc một số CB,CNV thì lười học hỏi, tư tưởng bảo thủ, trì trệ,

quan liêu…nên vẫn xảy ra các vụ án oan, hoặc nhiều vụ án định tội danh sai dẫn

đến bị hủy, sửa điều tra, xét xử lại, thậm chí bồi thường oan sai cho những người bị

kết án sai gây mất niềm tin trong nhân dân, mất uy tín của các Cơ quan tố tụng, lại

tốn nhiều thời gian, ngân sách Nhà nước để giải quyết lại.

Với những chính sách đúng đắn về cải cách tư pháp của Đảng và Nhà Nước

76

ta, cùng với sự phối hợp được các Cơ quan, Người Tố tụng từ TW đến địa phương

và sự giúp sức của Các cơ quan, tổ chức khác trong nước, toàn thể công dân Việt

Nam thì hy vọng không xa Việt Nam sẽ có nền tư pháp tiến bộ, lành mạnh, đặc biệt

pháp luật hình sự vừa đảm bảo được sự nghiêm minh, nhân đạo vừa tôn trọng quyền

con người, quyền dân chủ của mọi công dân…trong mọi hoạt động. Trong việc áp

dụng pháp luật hình sự thì đảm bảo được nguyên tắc: “Mọi hành vi phạm tội do

người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo

đúng pháp luật; ; Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân

biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội” [20]. Hoạt

động định tội danh tội buôn lậu nói riêng và các tội phạm khác nói chung sẽ càng

ngày càng hoàn thiện, tiến bộ hơn về chất cũng như về lượng, tiến tới giảm đến mức

thấp nhất định tội danh sai hay làm oan cho người vô tội cũng như bỏ lọt tội phạm.

Do còn những hạn chế nhất định trong quá trình nghiên cứu, dưới góc độ tiếp

cận của một học viên cao học đang trong quá trình học hỏi nên không tránh khỏi

những thiếu sót trong Luận văn này. Tuy nhiên, tác giả cũng mong rằng Luận văn

cũng nêu lên được quy định của pháp luật hiện hành về tội buôn lậu và thực trạng

của hoạt động định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cũng

như góp phần nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu hiện nay.

Từ đó, mạnh dạn đề ra một số yêu cầu và giải pháp để ngày càng hoàn thiện về

pháp luật, nâng cao được công tác định tội danh tội buôn lậu và công tác phòng

chống tội phạm buôn lậu không chỉ ở Tp.Hồ Chí Minh mà trong cả nước Việt

Nam./.

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Thanh Bình (1998) Chống buôn lậu và gian lận thương mại, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ Chính Trị (2002) Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính Trị về nhiệm

vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/1/2002, Hà

Nội.

3. Bộ Chính Trị (2005) Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính Trị về chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam năm 2010 định hướng

2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.

4. Bộ Chính Trị (2005) Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính Trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 2/6/2005, Hà Nội.

5. Lê Cảm (2018) Pháp luật Hình sự Việt Nam từ thế kỷ X đến nay, lịch sử

và thực tại, Nxb ĐHQG Hà Nội.

6. Minh Chiến (2019) “Dân số Hà Nội vượt 8 triệu người, TP HCM gần 9

triệu người”, Báo Người lao động,

8-trieu-nguoi-tp-hcm-gan-9-trieu-nguoi-20190711090711359.htm>, (11/7/2019).

7. Công an Tp.HCM (2014-2018) Báo cáo công tác năm phòng CSKT Công

an Tp.HCM về tình hình phát hiện và xử lý tội phạm buôn lậu trên địa bàn Tp.HCM

từ 2014-2018.

8. Cục hải quan Tp.HCM (2018),“Cơ cấu tổ chức”

, 2018.

9. Lê Văn Đệ (2003) Chế định nhiều tội phạm những vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Chính Trị Quốc Gia 2003.

10. Trần Văn Độ (2018) Một số kỹ năng định tội và quyết định hình phạt, Hà

Nội.

11. Trần Văn Độ (2019) giáo trình Định tội danh và áp dụng hình phạt, NXB

Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội

12. Võ Minh Hiệp (2018) Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Guộc, Long

An, Luận văn thạc sỹ, Học Viện Khoa học Xã Hội.

13. Trần Đình Hòa (2001) Tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng cảnh sát

nhân dân đối với vụ án buôn lậu, luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân dân.

14. Hoàng Quảng Lực (2019) “Bàn về quy định mới của Bộ luật hình sự năm

2015 liên quan đến chế định người giúp sức”, Tạp chí kiểm sát, 6/2019.

15. Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp (2018) Phương pháp định tội danh

với 538 tội danh trong Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb

Lao Động, Hà Nội.

16. Lê Hoài Nam (2015) “Tác động của hoạt động buôn lậu, gian lận thương

mại đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Cảnh sát nhân dân,

lau-gian-lan-thuong-mai-doi-voi-su-phat-trien-kinh-te-Viet-Nam>, (21/01/2015).

17. Cao Thị Oanh (2011) “Phân loại cấu thành tội phạm và một số vấn đề về

trách nhiệm hình sự”,Trang điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang,

, (15/6/2011) .

18. Đinh Văn Quế (2018) Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015: phần thứ nhất

những quy định chung, Nxb Thông tin và Truyền Thông.

19. Đinh Văn Quế (2018) “Cấu thành tội phạm và các giai đoạn thực hiện tội

phạm: những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Luật sư Việt Nam online,

12/2018.

20. Quốc Hội (1999) Bộ Luật hình sự số 15/1999/QH10, Nxb Chính Trị Quốc

gia – Sự Thật, Hà Nội.

21. Quốc Hội (2015) Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Nxb Hồng Đức, Hà

Nội.

22. Quốc Hội (2017) Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung số 12/2017/QH14, Nxb

Chính Trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội.

23. Quốc Hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự số 35/2015/L-CTN, Nxb Chính

trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội.

24. Quốc Hội (2013) Hiến Pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013 Nxb Chính Trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội.

25. Quốc Hội (2014) Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13, NXB

Chính Trị.

26. Quốc Hội (2007) Luật tương trợ tư pháp số 08/2007/QH12, Nxb Chính

Trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội.

27. Quốc Hội (2017) Nghị quyết số 41/QH14 ngày 20/6/2017, Nxb Quốc gia -

Sự thật.

28. Dương Xuân Sinh (2016) Điều tra các vụ án buôn lậu của cơ quan Hải

quan, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.

29. Hồ Sỹ Sơn (2017) Một số kỹ năng định tội và quyết định hình phạt, Hà

Nội.

30. Tòa án nhân dân Tp.HCM (2017) Bản án số 119/2017/HSST ngày

30/3/2017.

31. Tòa án nhân dân Tp.HCM (2017) Bản án số 306/2017/HSST ngày

25/8/2017.

32. Tòa án nhân dân Tp.HCM (2017) Bản án số 454/2015/HSST ngày

31/12/2015.

33. Tổng cục Thống kê (2019), “Công bố kết quả tổng điều tra dân số năm

2019”,,

(11/7/2019).

34. Ngô Thị Thùy Trang (2019) Đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu

trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh, luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Cảnh sát TP.Hồ

Chí Minh.

35. Phạm Tài Tuệ (2017) “Những điểm mới trong quy định về tội buôn lậu

của Bộ luật hình sự năm 2015 so sánh với Bộ luật hình sự 1999”, Tạp chí Tòa án

nhân dân, 3/2017.

36. Hoàng Anh Tuấn (2003) Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu ở

nước ta – Thực trạng và giải pháp, luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

37. Đào Trí Úc (chủ biên), (1994) Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình

sự Việt Nam, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

38. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019) Cáo trạng số 59/CT-VKS-V1 ngày

31/7/2019.

39. Võ Khánh Vinh (2013) giáo trình sau đại học lý luận chung về định tội

danh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

40. Nguyễn Thị Vui (2014) Tội buôn lậu trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ

sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang), luận văn thạc sĩ , Đại học Quốc

gia Hà Nội.