VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LONG BÌNH
ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LONG BÌNH
ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Đức Hạnh
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Đức Hạnh. Nội dung
và các kết luận trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
hoàn toàn trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Nguyễn Thị Long Bình
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU ........................................................................................... 7 1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu ........................................ 7 1.2. Pháp luật về định tội danh tội buôn lậu……………………………………22 Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU VÀ THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU TẠI TP HỒ CHÍ MINH
2.2. Thực tiễn định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ năm
2.1. Khái quát về tình hình tội phạm buôn lậu trên địa bàn TP.HCM .................. 38
2014 – 2018……………………………………………………………………..42
Chương 3:CÁC GIẢI GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu............................... 63 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu….. ................ 67 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
: Bộ Công an
BCA
: Bộ luật hình sự.
BLHS
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự.
: Cơ quan Điều tra
CQĐT
: Cấu thành tội phạm.
CTTP
TANDTC
: Tòa án Nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự.
VKSNDTC
: Viện Kiểm Sát Nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả phát hiện tội phạm kinh tế của lực lượng Cảnh sát Kinh tế
Công an Tp.Hồ Chí Minh từ 2014 -2018 ....................................................... 41
Bảng 2.2. Tình hình tội phạm về buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ
2014 -2018 ....................................................................................................... 41
Bảng 2.3. Thống kê kết quả phát hiện xử lý phạm pháp buôn lậu của Lực
lượng CSKT Công an Tp.HCM từ năm 2014 -2018 ...................................... 42
Bảng 2.4. Bảng mức độ tăng, giảm của các vụ án về buôn lậu và số bị cáo
phạm tội buôn lậu đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh. ........ 43
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian gần đây, tình trạng buôn lậu ngày càng diễn biến phức tạp với
công nghệ ngày càng hiện đại, kẻ phạm tội đã lợi dụng triệt để để phục vụ cho hành
vi phạm tội của mình với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Đặc biệt, Việt Nam với vị trí
địa lý thuận lợi, địa hình phức tạp, có đường biên giới dài (trên đất liền và biển)
giáp với nhiều nước và với địa hình biên giới hiểm trở nên tình trạng buôn lậu trở
nên phổ biến. Tội phạm buôn lậu đã gây ra những hậu quả, tác hại to lớn, làm suy
yếu các ngành công nghiệp, sản xuất; giảm nguồn thu ngân sách, ảnh hưởng tới
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, gây thiệt hại cho các đơn vị sản
xuất, kinh doanh và cho cả người tiêu dùng. Tội phạm này còn tác động xấu đến
môi trường cạnh tranh và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, làm giảm sút lòng
tin của người tiêu dùng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh. Và điều đó làm cho
các nhà đầu tư trong nước thiếu an tâm khi đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thêm vào đó, do đặc thù về chính sách thuế nhập khẩu của nước ta nên việc
nhập lậu hàng hóa qua biên giới vào nước ta đã đem lại lợi nhuận khổng lồ, càng
kích thích thêm cho hành vi buôn lậu. Đặc biệt, từ khi Luật Doanh nghiệp được ban
hành, việc thành lập doanh nghiệp ngày càng trở nên “thoáng”, tạo điều kiện cho
hàng chục nghìn doanh nghiệp được thành lập thêm cho mỗi năm. Đây là một thuận
lợi góp phần cho sự phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng là gánh năng cho
công tác quản lý nhà nước khi mà số lượng doanh nghiệp quá lớn, việc thành lập
doanh nghiệp quá dễ dàng và nhanh chóng. Lợi dụng vào sự thông thoáng của chính
sách thành lập doanh nghiệp, một số người đã tiến hành thành lập doanh nghiệp
“ma” với mục đích hợp thức hóa cho việc nhập lậu hàng hóa, thiết bị, khiến thực
trạng buôn lậu càng thêm phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.
Từ năm 2018, thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 có
hiệu lực, quan điểm về tôi phạm buôn lậu đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt, luật hình
sự đã bổ sung thêm hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Điều này đã
giúp các cơ quan tố tụng có thêm nhiều hành lang pháp lý để định tội danh tội buôn
1
lậu cũng như phòng, chống tội phạm buôn lậu hiệu quả hơn. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy công tác đấu tranh đối với tội phạm buôn lậu không hề dễ dàng hơn khi mà các
thủ đoạn thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi hơn. Theo Bộ luật Hình sự, tội phạm
buôn lậu phải được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau như: Mua hoặc bán hàng
hóa qua biên giới không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép
xuất, nhập khẩu và các quy định khác của hải quan; mua bán hàng hóa đúng với
giấy phép nhưng kê khai không đúng số lượng; giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng,
tiền… hoặc đi qua đường mòn, lối mởi, đi vòng đường biển vào đất liên không qua
cảng, cửa khẩu để tránh sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên, trên thực tế, để xác định một hành vi là tội phạm buôn lậu phân
biệt với các tội phạm khác, ví dụ như: Tội vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên
giới, Tội trốn thuế, Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm cũng là một vấn đề vẫn còn
gây tranh cãi. Trên thực tế xét xử vẫn còn có sự chưa thống nhất về việc định tội
danh đối với tội phạm này, mà điển hình là vụ án Nguyễn Minh Hùng – Tổng Giám
đốc Công VN Pharma và đồng phạm nhập thuốc ung thư giả mà thời gian qua
TAND TP.HCM đã đưa ra xét xử. Việc định tội danh đúng đối với tội phạm buôn
lậu sẽ có nghĩa rất lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và nâng cao hơn nữa việc đấu
tranh, phòng chống với loại hình tội phạm này hiệu quả. Ngược lại nếu việc định
danh tội phạm này không đúng cũng sẽ gây ra những tiền lệ xấu cho công tác điều
tra, truy tố, xét xử, gây ra sự bất nhất giữa quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng dẫn đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cũng sẽ không đạt được
những kết quả như mong đợi. Qua nghiên cứu cho thấy hoạt động định tội danh tội
buôn lậu có những khó khăn, hạn chế nhất định. Bên cạnh đó một số quy định của
pháp luật vẫn còn chưa hoàn chỉnh, đi kịp với sự phát triển đã tạo kẽ hở cho tội
phạm lợi dụng, các tội phạm hoạt động rất tinh vi, phức tạp, mặt khác cũng có một
số nguyên nhân xuất phát từ ý chí chủ quan của Người định tội.
Thành phố Hồ Chí Minh đã được Trung ương xác định là đầu tàu kinh tế của
cả nước với tỷ trọng đóng góp ngân sách cho cả nước lớn nhất. Cùng với thị trường
kinh tế vô cùng năng động, thành phố Hồ Chí Minh cũng là nơi tập trung nhiều vụ
2
án về kinh tế, trong đó có tội phạm về buôn lậu, buôn bán hàng giả nhiều nhất và
phức tạp nhất nước.
Xuất phát từ thực tế và từ những yêu cầu nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài:
"Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn thạc sỹ Luật học. Đề tài sẽ góp phần làm rõ về
hoạt động định tội danh tội Buôn lậu theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Từ việc tổng hợp, phân tích về thực tiễn
điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh để đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả,
chất lượng định tội danh tội buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng
như cả nước nói chung. Từ việc nâng cao hiệu quả, chất lượng định tội danh tội
buôn lậu cũng góp phần nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội buôn lậu trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Định tội danh là một đề tài không mới trong hệ thống nghiên cứu pháp lý về
hình sự, tuy nhiên, do sự phát triển không ngừng của xã hội, của khoa học kỹ thuật
nên phương thức phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp và luôn biến đổi, chính vì
vậy, định tội danh đặc biệt là các tội danh về kinh tế luôn là một đề tài thời sự. Theo
tìm hiểu của tác giả, kể từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực, đã có nhiều
công trình nghiên cứu của nhiều tác giả tiếp cận đề tài tội buôn lậu dưới nhiều góc
độ khác nhau. Nhưng hầu hết các công trình nghiên cứu đó chỉ tiếp cận ở góc độ
nghiên cứu chung về tội phạm buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam; về đấu
tranh phòng chống tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất buôn bán hàng
giả chứ chưa đi chuyên sâu về vấn đề định tội danh. Điển hình là các công trình
nghiên cứu của các tác giả sau:
- PTS Lê Thanh Bình, “Chống buôn lậu và gian lận thương mại”, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia năm 1998.
- Trần Đình Hòa, luận án tiến sĩ “Tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng
cảnh sát nhân dân đối với vụ án buôn lậu”, Học viện Cảnh sát nhân dân năm 2001.
3
- Hoàng Anh Tuấn, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn
lậu ở nước ta – Thực trạng và giải pháp “, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2003.
- Nguyễn Thị Vui, luận văn thạc sĩ “Tội buôn lậu trong luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang), Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2014.
- Dương Xuân Sinh, luận văn thạc sĩ “Điều tra các vụ án buôn lậu của cơ
quan Hải quan”, Học viện Khoa học xã hội năm 2016;
- Ngô Thị Thùy Trang, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng chống tội phạm
buôn lậu trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh”, Trường Đại học Cảnh sát TP.Hồ Chí Minh
năm 2019;
Ngoài ra, còn có một số bài viết về tội phạm buôn lậu đăng trên các báo, tạp
chí; một số luận văn khác nghiên cứu về định tội danh của các tội phạm như giết
người; các tội phạm về ma túy; về tội hủy hoại tài sản… Tuy nhiên, nghiên cứu
riêng về định tội danh tội buôn lậu vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
sâu.
Như vậy, tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về một số nội dung có liên quan
đến đề tài nhưng hầu hết chỉ tiếp cận ở góc độ chung về tội phạm buôn lậu, về gian
lận thương mại hoặc nếu có đi sâu về định tội danh thì cũng chưa đi vào định tội
danh tội buôn lậu.
Hiện chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về đề tài định
tội danh tội buôn lậu vì vậy Tác giả đã thực hiện đề tài trên tinh thần có sự tiếp thu,
kế thừa những điểm phù hợp từ các công trình nghiên cứu trước đó để phát triển,
làm sáng tỏ thêm cho mục đích nghiên cứu của đề tài định tội danh tội buôn lậu từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh và đề tài này không trùng với đề tài nghiên cứu
nào về tội buôn lậu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu việc định danh tội phạm buôn lậu theo Bộ luật Hình sự hiện
hành thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đối với
4
loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2014-2018.
Đồng thời, đề tài sẽ phân tích nhằm làm rõ nhữn vấn đề còn khó khăn, hạn chế,
trong pháp luật cũng như trong thực tiễn việc định tội danh đối với tội phạm Buôn
lậu tại Tp.Hồ Chí Minh. Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp
luật định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh tội
buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về cấu thành của tội buôn
lậu, đặc điểm của tội buôn lậu và phương thức định danh về tội buôn lậu theo pháp
luật Hình sự nước Việt Nam.
Khảo sát, đánh giá và những khó khăn của pháp luật Việt Nam liên quan đến
hoạt động định danh tội phạm buôn lậu, thông qua việc định tội danh tội phạm buôn
lậu trong một số vụ án điển hình đã điều tra, truy tố, xét xử tại địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh những năm gần đây.
Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về tội buôn lậu
cũng như định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh
tội buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu, khảo sát trong phạm vi quy định của Bộ luật Hình
sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 về định tội danh tội Buôn lậu trong phạm vi địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2014 đến năm 2018. Các số liệu sử dụng trong đề tài dựa trên số liệu về thụ
lý điều tra, truy tố, xét xử về tội buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
trong khoảng thời gian 05 năm (từ 2014 đến 2018) của Công an Thành phố Hồ Chí
Minh và Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các số liệu đã được công bố
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, luận văn này sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích, so sánh, hệ
5
thống, phương pháp phân tích lịch sử cụ thể kết hợp với lý luận thực tiễn… để giải
quyết những vấn đề đặt ra từ nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt khoa học:
Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng
pháp luật trong việc định tội danh tội buôn lậu theo quy định của pháp luật Việt
Nam; phân tích những khó khăn, hạn chế trong hệ thống pháp luật Việt Nam và
trong áp dụng thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, từ đó rút ra những kinh nghiệm và
có hướng hoàn thiện, bổ sung pháp luật Việt Nam.
Về mặt thực tiễn:
Góp phần bổ sung, hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong các quy định về tội
phạm buôn lậu, về việc định tội danh buôn lậu trong thực tiễn. Đây có thể sẽ là một
tài liệu tham khảo đối với cơ quan hữu quan khi nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp
luật, trong việc áp dụng vào thực tiễn việc định danh tội buôn lậu của các cơ quan
tiến hành tố tụng, góp phần vào đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội
buôn lậu nói riêng.
Đây cũng có thể được xem là tài liệu tham khảo đối với hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy, đào tạo.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về định tội danh tội buôn lậu
Chương 2: Thực tiễn tình hình định tội danh và định tội danh tội buôn lậu tại
Tp.Hồ Chí Minh.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn
lậu.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI
DANH TỘI BUÔN LẬU
1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu
1.1.1 Khái niệm định tội danh tội buôn lậu
Định tội danh là một trong những hoạt động của việc áp dụng pháp luật hình
sự. Pháp luật hình sự bao gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về tội
phạm và hình phạt. Quá trình áp dụng pháp luật hình sự là quá trình xem xét hành vi
của một người, một pháp nhân có phải là tội phạm không, nếu có thì là tội phạm gì,
được quy định tại điều, khoản nào của BLHS, có căn cứ để miễn trách nhiệm hình
sự hay miễn hình phạt không, nếu không thì phải chịu hình phạt như thế nào. Trong
quá trình đó, việc xem xét để xác định hành vi của một người, một pháp nhân phạm
tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS là hoạt động định tội danh, hoạt động này
diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định được gọi là quá trình định tội danh.
Có thể nói hiện nay, trong Khoa học hình sự Việt Nam có nhiều quan điểm
về khái niệm định tội danh nói chung, điển hình như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về
mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy
phạm pháp luật hình sự” [39, tr 9,10].
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Định tội danh là một quá trình logic nhất định,
là hoạt động của cán bộ có thẩm quyền trong việc xác nhận sự phù hợp giữa trường
hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
được quy định trong quy phạm pháp luật thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự”
[9, tr 90-91]
Quan điểm thứ ba cho rằng: “định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt
động đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các
dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả quy định trong Bộ Luật Hình
sự để xác định tội phạm đã xảy ra và người phạm tội, cũng như xác định không có
7
tội phạm xảy ra hoặc không có người phạm tội hoặc người bị tình nghi không phải
là người thực hiện tội phạm (tức họ không phạm tội) bằng việc ra kết luận bằng văn
bản áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự”. [15, tr 8]
Và nhiều quan điểm khác, tuy nhiên về cơ bản được hiểu định tội danh là
một quá trình logic, là quá trình so sánh, đối chiếu, tìm sự phù hợp giữa hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của một tội phạm cụ thể
được quy định trong BLHS. BLHS quy định các yếu tố cấu thành của các tội phạm
cụ thể mà dựa vào đó người áp dụng pháp luật, người bào chữa so sánh với hành vi
nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã thực hiện, tìm ra sự phù hợp giữa chúng để xác định
hành vi đã thực hiện phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS.
Vì định tội danh là quá trình tư duy logic, nên nó bao gồm các bước (các giai
đoạn) có mối quan hệ chặt chẽ, được thực hiện đồng thời và xen kẽ nhau.
Cụ thể là:
- Xác định đầy đủ, chính xác các tình tiết thực tế của vụ án, phản ánh đúng
thực tế khách quan.
- Nhận thức chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự, các dấu
hiệu pháp lý của từng cấu thành tội phạm cụ thể.
- So sánh, đối chiếu các tình tiết của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực
hiện với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cụ thể, tìm ra sự phù hợp giữa
chúng.
- Rút ra kết luận về sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực
hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS và ra văn
bản áp dụng pháp luật.
Quá trình định tội có thể do các chủ thể khác nhau tiến hành, trong đó việc
định tội của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, TA) có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt. Kết quả của việc định tội do các cơ quan này thực hiện được thể hiện ở các
quyết định tố tụng, như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị
can, đình chỉ điều tra miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can, kết luận điều tra đề
8
nghị truy tố của CQĐT; quyết định đình chỉ vụ án miễn trách nhiệm hình sự, quyết
định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện Kiểm sát, bản án kết tội của Toà án... Định
tội của người bào chữa có ý nghĩa trong việc tranh tụng với đại điện Viện kiểm sát
và là cơ sở để Tòa án xem xét, kết tội bị cáo.
Với những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về định tội danh như
sau: Định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự do
các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng thực hiện, được thể hiện trên cơ sở xác
định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được
thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành
tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành
tội phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm trong các giai đoạn tố
tụng do pháp luật quy định góp phần giải quyết vụ án hình sự.
Từ các phân tích khái niệm chung về định tội danh như trên thì có thể hiểu
đối với hoạt động Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động nhận thức, áp dụng pháp
luật hình sự trên cơ sở xác định đầy đủ các hành vi khách quan, chủ thể, khách thể
theo cấu thành chung của tội phạm cũng như cấu thành riêng biệt của tội buôn lậu
để xác định hành vi nguy hiểm của các chủ thể đó có phải là tội buôn lậu hay
không, hậu quả đến đâu, trách nhiệm hình sự tới đâu…
Từ cơ sở khái niệm chung về định tội danh thì chúng ta có thể khái quát về
định tội danh tội buôn lậu như sau: " Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động của cơ
quan, người có thẩm quyền hoặc do những người bào chữa, người bảo vệ quyền vì
lợi ích của đương sự.. đối chiếu hành vi mà bị can, bị cáo đã thực hiện trên thực tế
với hành vi được mô tả trong cấu thành tội buôn lậu được quy định trong Bộ luật
hình sự để khẳng định hành vi của bị can, bị cáo đã thực hiện có phạm tội buôn lậu
hay không nhằm thực hiện các chức năng tố tụng hình sự của chủ thể định tội, thực
hiện quyền và nghĩa vụ của họ"
1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội buôn lậu
Từ khái niệm chung về định tội danh và định tội danh tội buôn lậu nói riêng,
chúng ta có thể thấy các đặc điểm như sau: Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp
9
luật hình sự bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình:
Thứ nhất: Xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế đã xảy ra đối với
vụ án buôn lậu;
Thứ hai: Nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS về tội buôn
lậu;
Thứ ba: Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác,
đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các
tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế.
Như vậy quá trình định tội danh cũng như định tội danh tội buôn lậu bao
- Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi, cụ thể ở đây
gồm 3 giai đoạn cơ bản:
- Làm sáng tỏ hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào và được quy định
là buôn lậu
- Chỉ rõ cấu thành tội phạm về tội cụ thể nào được áp dụng về mặt khách thể,
ở chương nào, điều nào của Bộ luật hình sự
chủ quan, mặt khách quan và chủ quan của tội phạm. [9,tr. 92,93,102-105]
Như vậy, từ việc phân tích các đặc điểm chung về với định tội danh thì hoạt
động định tội danh tội buôn lậu nói riêng thì có thể rút ra các đặc điểm như sau: đó
là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để xác định hành vi khách quan đã xảy ra đó
có là hành vi nguy hiểm cho xã hội và có đủ các yếu tố cấu thành tội buôn lậu hay
không, bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình:
Thứ nhất: xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế vụ án buôn lậu;
Thứ hai: nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS bao gồm
phần chung và phần quy định về tội buôn lậu;
Thứ ba: lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác,
đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các
tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế:
Xem xét về thời điểm xảy ra hành vi buôn lậu: điều này quan trọng trong
thời điểm chuyển giao giữa BLHS năm 1999, sửa đổi 2009 và BLHS năm 2015, sửa
10
đổi 2017. Áp dụng nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành
BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với nhiều quy định có lợi cho người
phạm tội;
So sánh, đối chiếu với các quy phạm pháp luật cũ, mới để lựa chọn định tội
danh đúng, nếu hành vi khách quan, khách thể… đó đã được hủy bỏ, thay đổi, có
dấu hiệu của một tội phạm khác thì phải thực hiện việc đình chỉ hoặc đổi tội danh
cho bị can bị cáo.
Ví dụ: tội buôn lậu trong BLHS 2015 quy định tại điều 188 đã bỏ hoàn toàn
hàng cấm ra khỏi điều luật mà hành vi khách quan chỉ là buôn bán trái phép hàng
hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật. Còn hàng cấm
được quy định riêng ở điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm). Tại BLHS 1999
quy định tội buôn lậu tại điều 153, tại điểm c khoản 1 nêu là hàng cấm, quy định
này trùng lặp với điều 155 (Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm).
Do vậy, nếu vụ án đã được khởi tố trước ngày luật này có hiệu lực nhưng chưa giải
quyết xong thì có thể xem xét đổi tội danh cho bị can bị cáo theo đúng quy định của
BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Như vậy quá trình định tội danh tội buôn lậu cần chú ý các yếu tố:
- Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi buôn lậu:
- Làm sáng tỏ hành vi nguy hiểm cho xã hội đó thuộc tội buôn lậu quy định
ở điều nào, khoản nào của BLHS, ngoài ra có những quy phạm pháp luật
nào hướng dẫn áp dụng cụ thể;
- Chỉ rõ các dấu hiệu đặc trưng của cấu thành tội phạm buôn lậu (dấu hiệu
định tội và dấu hiệu định khung)
[9, tr. 112-114], [14, tr. 31-33].
1.1.3 Nội dung của định tội danh tội buôn lậu
Định tội danh là một quá trình gồm nhiều bước, là quá trình trình xác định sự
đồng nhất của các tình tiết cơ bản, điển hình nhất của một hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm nào đó được quy
định trong pháp luật hình sự, bao gồm các nội dung:
11
Thứ nhất: Xác định quan hệ xã hội nào đã bị tác động bởi hành vi vi phạm
pháp luật được quy định tại phần các tội phạm của BLHS. Nói cách khác là xác
định khách thể của tội phạm được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.
Trong các loại khách thể của tội phạm (khách thể chung, khách thể loại, khách thể
trực tiếp) thì xác định khách thể trực tiếp của tội phạm có ý nghĩa để xác định tội
phạm cụ thể vì khách thể trực tiếp của tội phạm chính là dấu hiệu của cấu thành tội
phạm cụ thể. Một tội phạm cụ thể có thể có một khách thể trực tiếp, nhưng cũng
có thể có nhiều khách thể trực tiếp. Trong nhiều trường hợp, việc xác định khách
thể của tội phạm được thực hiện thông qua việc xác định đối tượng tác động của
tội phạm. Do vậy, xác định đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa trong việc
định tội. Ví dụ, tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia
(Điều 303 BLHS), tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS),
tội huỷ hoại rừng (Điều 243 BLHS), tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện
kỹ thuật quân sự (Điều 413 BLHS).
Trong trường hợp có sự nhận thức sai lầm của một người về khách thể của
tội phạm thì việc định tội phải tùy từng trường hợp cụ thể. Nếu người thực hiện
hành vi không có ý định xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
nhưng thực tế đã xâm hại đến khách thể của tội phạm thì về nguyên tắc, người thực
hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với lỗi vô ý.
Nếu người thực hiện hành vi cho rằng mình xâm hại đến khách thể của tội phạm
nhưng thực tế không gây thiệt hại được vì không có đối tượng hoặc đối tượng
không có những đặc tính mà người thực hiện hành vi tưởng là có thì việc định tội
phải căn cứ vào đặc điểm các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm cụ thể (có thể
người thực hiện hành vi phạm tội hoặc không phạm tội).
Vậy, với tội buôn lậu để xác định quan hệ bị tác động thì người định tội cũng
đi theo trình tự đầu tiên là xác định quan hệ xã hội bị tác động hay là khách thể bị
tác động là hoạt động quản lý kinh tế nhà nước về ngoại thương, xuất nhập khẩu;
đối tượng tác động trực tiếp được quy định rõ trong quy định của BLHS về tội buôn
lậu.
12
Thứ hai: Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là hành vi
gì, mức độ tác động, bằng phương thức, thủ đoạn nào…hành vi đó được quy định
trong BLHS hay không, hậu quả của hành vi đó đến đâu, chủ thể thực hiện là cá
nhân hay pháp nhân thương mại, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Hành
vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi khách quan của tội phạm) là dấu hiệu bắt buộc
trong tất cả các cấu thành tội phạm. Để xác định hành vi thực tế do một người hoặc
một pháp nhân thực hiện phạm tội gì, người định tội phải đối chiếu hành vi đã thực
hiện của người đó hoặc của pháp nhân đó với dấu hiệu hành vi khách quan của cấu
thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, xác định xem hành vi đã thực
hiện có phù hợp với dấu hiệu hành vi được quy định trong điều luật cụ thể của
BLHS không. Trên cơ sở đó rút ra kết luận về việc người hoặc pháp nhân thực hiện
hành vi phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Trong trường hợp một điều
luật trong Phần các tội phạm của BLHS quy định về tội phạm có nhiều hành vi, khi
định tội cần chú ý một số vấn đề sau:
- Trường hợp một người hoặc một pháp nhân chỉ thực hiện một trong các
hành vi phạm tội được quy định tại điều luật đó thì định tội với tên tội danh về hành
vi phạm tội đã thực hiện theo điều luật tương ứng.
Ví dụ: Một người chỉ mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy thì chỉ định tội về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy theo Điều 253 BLHS mà không định tội là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.
- Nếu một người hoặc một pháp nhân thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà
các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để
thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia), thì định tội với tên tội
đầy đủ đối với tất cả các hành vi đã được thực hiện theo điều luật tương ứng.
Ví dụ: Một người mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma
túy rồi vận chuyển đến một địa điểm mới và tàng trữ tiền chất đó, thì định tội với
tên tội danh là mua bán, vận chuyển, tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái
phép chất ma túy theo Điều 253 BLHS.
13
-Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà các hành vi đó
độc lập với nhau, thì phải định tội về tất cả các tội mà người ấy đã thực hiện.
Ví dụ: Một người mua bán trái phép hêrôin bị bắt, khi khám nhà phát hiện
người đó còn có hành vi sản xuất thuốc phiện. Trong trường hợp này người phạm
tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều
251BLHS và tội sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 248 BLHS.
- Trên thực tế, một hành vi có thể cấu thành nhiều tội khác nhau. Đây là
những trường hợp hành vi cụ thể cấu thành nhiều tội. Về nguyên tắc, khi hành vi
cấu thành nhiều tội thì phải định tội về nhiều tội. Nếu một hành vi thỏa mãn dấu
hiệu cấu thành hai tội phạm cụ thể độc lập. Ví dụ: Hành vi giết người để lấy tài sản.
Phải định tội người thực hiện hành vi phạm hai tội là giết người (Điều 123 BLHS)
và cướp tài sản (Điều 168 BLHS). Nếu một hành vi vừa thoả mãn một cấu thành tội
phạm cụ thể, vừa thoả mãn cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm khác. Ví dụ:
Nhân viên hải quan nhận hối lộ để cho người khác mang hàng qua biên giới trái
phép. Phải định tội hành vi của nhân viên hải quan về hai tội: Nhận hối lộ và đồng
phạm tội buôn lậu. Nếu một hành vi đồng thời thoả mãn hai cấu thành tội phạm của
hai hành vi đồng phạm khác nhau. Ví dụ: Cho người khác mượn vũ khí để giết
người và chiếm đoạt tài sản. Phải định về hai tội với vai trò là người giúp sức giết
người và giúp sức cướp tài sản.
Với tội phạm buôn lậu là xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là xuất
nhập khẩu thì người định tội cần xác định rõ hành vi nào của người phạm tội, pháp
nhân thương mại phạm tội là nguy hiểm cho xã hội là trái pháp luật, hành vi được
thực hiện ra sao, phương thức thủ đoạn như thế nào phải phù hợp với quy định của
BLHS, trình tự, thủ tục phải đảm bảo theo quy định của BLTTHS, đặc biệt là trong
quá trình thu thập chứng cứ chứng minh hành vi nguy hiểm cho xã hội đó là phạm
tội buôn lậu, ví dụ hành vi giả mạo hợp đồng, giả mạo giấy phép để nhập khẩu, hay
hành vi khai báo gian dối (tăng, bớt, khai sai về tên hàng hóa…) để nhập
khẩu…phải được cụ thể, rõ ràng…
Thứ ba: Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi được coi là dấu hiệu cơ
14
bản, quan trọng nhất, sau đó sẽ xem xét đến các dấu hiệu như: tính có lỗi (lỗi cố ý,
lỗi vô ý), tính trái pháp luật hình sự, tính phải chịu trách nhiệm hình sự (chịu hình
phạt). Xác định lỗi cố ý hoặc vô ý là điều kiện bắt buộc để có thể truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với một người. Khi xác định lỗi của người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội làm căn cứ để định tội cần chú ý: Lỗi là dấu hiệu thuộc mặt
chủ quan của tội phạm. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thường có xu
hướng chối tội, không thừa nhận lỗi của mình khi các cơ quan có thẩm quyền chưa
chứng minh được lỗi của người đó.
Xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chủ yếu phải
thông qua xác định các tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm như công cụ,
phương tiện thực hiện hành vi, vị trí tác động của công cụ, phương tiện; thời gian,
địa điểm, hoàn cảnh nơi xảy ra vụ việc; đồng thời, phải thông qua đánh giá thái độ
tâm lý của người thực hiện hành vi trước, trong và sau khi có hậu quả nguy hiểm
cho xã hội xảy ra; trình độ, kiến thức mà người đó được đào tạo; mối quan hệ của
người thực hiện hành vi với nạn nhân (nếu có) và những người xung quanh, những
yếu tố khác thuộc về nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ...
Đối với tội buôn lậu, lỗi của chủ thể phạm tội buôn lậu được xác định là lỗi
cố ý trực, chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được xác định là buôn lậu
nhận thức được hành vi sai trái, biết trước hậu quả và mong muốn hậu quả xảy ra
đối với hành vi hay chuỗi hành vi mà mình thực hiện. Như vậy nếu xác định chủ thể
thực hiện hành vi với lỗi vô ý thì không thể định tội danh tội buôn lậu mà phải xem
xét đủ các yếu tố cấu thành một tội khác không hay phải tuyên bố họ không phạm
tội. Từ việc xác định lỗi này của chủ thể tội phạm tội buôn lậu căn cứ vào quy định
pháp luật về tội buôn lậu và xác định trách nhiệm pháp lý hình sự của chủ thể.
Thứ tư:. Xác định hậu quả của tội phạm khi định tội trong trường hợp dấu
hiệu hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc, trường hợp này cần chú ý nếu tội
phạm có cấu thành vật chất (có dấu hiệu hậu quả) và thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,
nếu hậu quả của tội phạm không xảy ra thì người thực hiện hành vi vẫn có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
15
Nếu tội phạm thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý thì nói chung, người thực
hiện hành vi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có hậu quả của tội phạm xảy ra.
Xác định dấu hiệu công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian,
địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm khi định tội trong một số trượng hợp tội
phạm có dấu hiệu công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm làdấu hiệu bắt buộc. Trong những trường hợp
đó, việc xác định có các dấu hiệu này trên thực tế mới có thể xác định tội danh của
người thực hiện hành vi.
Đối với tội buôn lậu có cấu thành hình thức cho nên không cần phải có hậu
quả xảy ra, không cần đạt được mục đích phạm tội, chỉ cần có hành vi, chuẩn bị
công cụ, phương tiện... hướng tới việc nhập hàng hóa qua biên giới trái phép đã đủ
yếu tố cấu thành tội phạm buôn lậu theo luật. Giá trị hàng hóa phạm tội là căn cứ
định khung, xác định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Ví dụ: Một người đã buôn bán trái phép hàng hóa, trốn thuế với số tiền 150
triệu đồng. Nếu chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên
giới thì định tội là “tội buôn lậu” theo Điều 188 BLHS. Nếu không chứng minh
được hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên giới (tức là chỉ trong nội địa),
thì định tội là “tội trốn thuế” theo Điều 200 BLHS.
Trong trường hợp có sự sai lầm về công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ
đoạn thực hiện tội phạm, người thực hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự về trường hợp phạm tội chưa đạt.
Thứ năm. Xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi định tội theo quy định
tại Điều 12 BLHS, đảm bảo người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm.
Thứ sáu: Xác định năng lực trách nhiệm hình sự khi định tội
Một trong những dấu hiệu bắt buộc của chủ thể của tội phạm là dấu hiệu
người thực hiện hành vi có năng lực trách nhiệm hình sự. BLHS không quy định
trực tiếp thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà quy định về tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự. Để xác định một người có năng lực trách
16
nhiệm hình sự phải loại trừ khả năng đó là người không có năng lực trách nhiệm
hình sự.
Điều 21 BLHS quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này,
phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Khi xác định tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự của người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội làm căn cứ để định tội cần chú ý: Thông thường, khi
đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người thực hiện hành vi nguy hiểm đã có
khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng
điều khiển được hành vi ấy. Do vậy, nếu không có sự nghi ngờ người đó ở trong
tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo quy định tại Điều 21BLHS)
thì mặc nhiên coi người đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Chỉ khi có sự
nghi ngờ người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể ở trong tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự thì mới cần yêu cầu trưng cầu giám định.
Trong yêu cầu trưng cầu giám định phải yêu cầu Hội đồng giám định xem xét kết
luận vấn đề: Người đó thực hiện hành vi có phải trong trạng thái mắc bệnh tâm thần
hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
hay không. Chỉ trên cơ sở kết luận của Hội động giám định về những vấn đề nêu
trên mới có thể kết luận người đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự hay
không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ bảy : Lựa chọn quy phạm pháp luật cấu thành tội phạm cụ thể là tội
buôn lậu căn cứ theo dấu hiệu cấu thành tương ứng của điều luật (mặt khách thể,
mặt khách quan, mặt chủ thể, mặt chủ quan).
Thứ tám : So sánh, đối chiếu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực
hiện với dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của một điều luật tại phần
các tội phạm của Bộ luật hình sự tương thích. Chú ý mỗi tội do BLHS ngoài những
dấu hiệu phạm tội chung còn có một số đặc trưng riêng trong cấu thành tội phạm
17
(đặc trưng về chủ thể, về lỗi, về động cơ, mục đích của hành vi nguy hiểm) căn cứ
vào các đặc trưng này giúp quá trình định tội danh có thể phân biệt với các tội khác
nhau, ví dụ: tội cố ý gây thương tích với tội giết người; tội buôn lậu với tội vận
chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, tội trốn thuế...[14, tr.31-33].
1.1.4. Chủ thể thực hiện việc định tội danh tội buôn lậu
Về mặt lý luận và thực tiễn chúng ta thấy định tội danh nói chung hay định
tội danh tội buôn lậu nói riêng thường là các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra,Viện Kiểm Sát, Tòa án) và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thuộc các cơ quan này (quy định tại điều 34 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015
thông qua các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Ngoài ra hoạt động định
tội danh còn do Cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra được quy định tại điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 gồm có 07 cơ
quan (Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan
của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển;Các cơ quan của Kiểm
ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm quyền được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra thuộc 07 cơ quan trên. Hoạt động định tội danh
của các cơ quan, cá nhân được Bộ luật tố tụng hình sự quy định này gọi là định tội
danh chính thức và dẫn hậu quả pháp lý là liên quan đến việc khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử người hay pháp nhân thương mại phạm tội...dẫn đến họ phải chịu trách
nhiệm hình sự đến đâu thông qua chế tài là hình phạt...[9, tr. 11,12,15-18]
- Ngoài các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì các chủ thể tham gia
tố tụng cũng định tội danh, như người bào chữa định tội danh trong Bản bào chữa
và đối đáp với đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Chính bị cáo cũng định tội danh
khi tự bào chữa và tranh luận, người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại định
tội danh khi phát biểu và tranh luận tại Tòa.
Bên cạnh đó, các Nhà luật học, nhà báo, nhà nghiên cứu, chuyên gia, giảng
viên luật hoặc những người quan tâm ... có thể thực hiện việc định tội danh đối với
18
một hành vi cụ thể nào đó mà họ nói tới, phân tích, bàn bạc tuy nhiên đối với nhóm
chủ thể không chính thức này thì đó chỉ là ý kiến pháp lý, ý kiến cá nhân để phục vụ
việc nghiên cứu,học tập... đây được coi là hoạt động định tội danh không chính
thức, chỉ phục vụ công tác nghiên cứu, học tập, tuyên truyền pháp luật chứ không
dẫn đến hậu quả pháp lý là trách nhiệm hình sự. [11Tr. 21, 22],
1.1.5. Ý nghĩa của định tội danh tội buôn lậu
Như đã trình bày ở trên, định tội danh là một giai đoạn cơ bản và tối quan
trọng của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc định tội danh đúng thể hiện ý nghĩa
về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý rất lớn. Pháp luật hình sự do Nhà nước
ban hành, qua đó thể hiện ý chí của Nhà nước đối với việc đấu tranh, phòng ngừa
tội phạm. Do vậy, khi áp dụng pháp luật để định tội danh cần nghiêm chỉnh tuân thủ
các quy định của PLHS là điều kiện cần thiết và quan trọng trong việc thực hiện
chính sách phòng chống tội phạm qua đó bảo vệ tốt nhất lợi ích của Nhà nước, của
xã hội và của mọi công dân.
Hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh tội buôn lậu nói riêng
của các chủ thể có thể theo 2 xu hướng: Định tội danh đúng hoặc định tội danh sai.
Định tội đúng có nghĩa là xác định chính xác một hành vi cụ thể đã thực hiện
thoả mãn các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định
trong BLHS, trong đó không những xác định được điều luật mà còn cả điểm, khoản
tương ứng của điều luật cụ thể áp dụng đối với người, pháp nhân thực hiện hành vi
đó. Ngược lại định tội danh không đúng là xác định một hành vi không đúng với
hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm.
- Khi định tội danh đúng sẽ có ý nghĩa như sau:
+ Là sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự duy nhất đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã thực hiện và đang được xem xét.
+ Định tội đúng giúp phân biệt được giữa hành vi vi phạm pháp luật hình sự
bị coi là tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác không phải là tội phạm để
từ đó giúp các cơ quan tố tụng phân loại chính xác tố giác tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố là tiền đề để xác định trình tự tố tụng giải quyết chính xác, nhanh
19
chóng, kịp thời.
+ Định tội đúng bảo đảm cho truy cứu trách nhiệm hình sự và kết tội một
người đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghĩa là bảo đảm thực hiện tốt nhiệm
vụ thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự hoặc bào chữa cho một người đạt
kết quả tốt
+ Định tội đúng góp phần giúp các chủ thể thực hiện tốt chức năng trong tố
tụng hình sự, phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp
để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan tố tụng và cá nhân này, bảo
đảm thực hiện tốt các quy định của luật hình sự và luật tố tụng hình sự.
+ Định tội đúng cũng là cơ sở để áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự, áp dụng các biện pháp điều tra, cưỡng chế, ngăn chặn đúng quy định, thực hiện
thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử...
+ Định tội đúng của cơ quan điều tra, truy tố và người bào chữa là tiền đề để
giúp Tòa án quyết định hình phạt một cách có căn cứ và đúng pháp luật.
+ Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá
thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật.
+ Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên
tắc tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế,
trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên
tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm.
Như vậy, định tội danh đúng có ý nghĩa quan trọng trong tố tụng hình sự,
làm cơ sở cho việc kết thúc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Định tội
danh đúng là cơ sở cho việc quyết định đúng các biện pháp cưỡng chế, áp dụng các
thời hạn tố tụng và quan trọng hơn là quyết định đúng hình phạt chính hay bổ sung
đối với người hay pháp nhân thương mại phạm tội.
Với các phân tích trên ta có thể thấy: “ Định tội danh đúng là biểu hiện của
việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí
của nhân dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã
20
hội, của Nhà nước và của con người, của công dân” [39, tr29]
- Khi định tội danh sai:
+ Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm
bảo được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình
sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm
các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận
trong Nhà nước, ngoài danh dự, nhân phẩm, quyền tự do dân chủ, quyền con người
bị xâm hại thì người bị định tội danh sai còn mất đi rất nhiều quyền lợi về tài sản,
việc làm và ảnh hưởng rất lớn đến hạnh phúc gia đình một số trường hợp còn liên
quan đến danh dự của của một dòng họ, cả một thế hệ con cháu bị ảnh hưởng, xã
hội coi thường, kỳ thị…
+ Định tội danh sai làm giảm uy tín của các Cơ quan tố tụng, vi phạm pháp
chế XHCN, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, cơ quan, tổ chức và quan trọng
là ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm. [28, tr. 4,5,6].
Từ các phân tích trên ta thấy được,định tội danh tội buôn lậu là chúng ta xác
định các hành vi nguy hiểm của một người nào đó, một pháp nhân thương mại nào
đó có thỏa mãn cấu thành tội buôn lậu hay không? định tội danh là một giai đoạn cơ
bản và tối quan trọng của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc định tội danh đúng
sẽ quyết định hình phạt đúng thể hiện ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và
pháp lý rất lớn với việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Đối với tội Buôn lậu, gian lận thương mại hay buôn bán hàng nhái, hàng giả
ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế trong nước về lâu về dài, tuy nhiên nó ảnh hưởng
trực tiếp nhất là đến người tiêu dùng vì nếu hàng hóa nhập khẩu không tuân thủ các
quy định thì Nhà nước sẽ không kiểm soát, không bảo đảm được chất lượng hàng
hóa ở nước ngoài nhập vào Việt Nam, cũng như nếu hàng hóa Việt Nam Xuất khẩu
ra nước ngoài nếu không đảm bảo về chất lượng sản phẩm thì sẽ làm mất uy tín, ảnh
hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến nguồn thu
cho doanh nghiệp cũng như ngân sách Nhà nước. Do vậy, việc định tội danh đúng
đối với tội buôn lậu dẫn xử lý đúng người đúng tội, áp dụng đúng biện pháp chế tài
21
đối với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội, bảo vệ được nền sản xuất công
nghiệp trong nước, chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước, chống thất thoát thuế
xuất nhập khẩu và bảo vệ được sức khỏe của người tiêu dùng trong nước. Ngoài ra
nó cũng giúp trừng trị, răn đe những cán bộ Nhà nước thực thi công vụ trong lĩnh
vực xuất, nhập khẩu hàng hóa phải luôn tuân thủ pháp luật trong quá trình thực thi
nhiệm vụ. [15]
1.2. Pháp luật về định tội danh tội buôn lậu
1.2.1. Cấu thành tội phạm tội buôn lậu theo BLHS năm 2015
Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật hình sự khác là cơ
sở pháp lý cao nhất quy định Tội phạm và hình phạt .
Với nguyên tắc, cơ sở thống nhất “chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự; chỉ pháp nhân thương mại
nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định tại điều 76 của Bộ luật này mới
phải chịu trách nhiệm hình sự (điều 2 BLHS năm 2015)”. Quy định này đảm bảo
thống nhất trong việc định tội danh, loại trừ khả năng cho phép bất kỳ một cơ quan,
tổ chức hay cá nhân nào được phép mở rộng, thu hẹp hay có bất cứ hành vi nào sửa
đổi theo ý chí, mục đích riêng của mình.
Cấu thành tội phạm của mỗi tội phạm cụ thể được quy định trong một quy
phạm pháp luật hình sự, quy phạm đó được thể hiện cơ bản trong một điều luật của
phần các tội phạm của BLHS, tuy nhiên phần các tội phạm cụ thể (tội buôn lậu)
không thể hiện đầy đủ của dấu hiệu của CTTP, để nhận thức đầy đủ, chính xác một
CTTP cụ thể thì ngoài các quy định của phần các tội phạm, các chủ thể định tội phải
nhận thức các dấu hiệu khác của CTTP được thể hiện trong các quy định của phần
chung BLHS (ví dụ dấu hiệu về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, dấu hiệu về
lỗi…), đây là điều kiện bắt buộc để định tội danh. [11, tr 57]
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý duy
nhất của việc định tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy
cứu TNHS” [39, tr 68]
Vì xác định Cấu thành tội phạm như được hiểu là cơ sở duy nhất của việc định
22
tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu TNHS. Do vậy,
từ góc độ lập pháp, người làm luật cần quy định chính xác, cụ thể, xác định rõ ràng
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để có thể chứng minh được trong thực tế và
phân biệt với các cấu thành khác; từ góc độ áp dụng pháp luật, người định tội cần
nhận thức chính xác, đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm [29,tr 9]
Do đó, Trong hoạt động áp dụng pháp luật để định tội danh buôn lậu thì bắt
buộc phải dựa vào cấu thành tội buôn lậu. Vì tính chất bảo vệ trật tự quản lý kinh tế
trong nước về xuất khẩu, nhập khẩu, bảo vệ, khuyến khích nền sản xuất công
nghiệp trong nước, bảo vệ người tiêu dùng trong nước, chống lại việc trốn thuế xuất
khẩu, nhập khẩu…do đó Nhà nước xây dựng quy định về tội buôn lậu với Cấu
thành hình thức, chỉ cần có hành vi trái quy định pháp luật để nhằm mục đích nhập
hàng hóa qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại là đã
cấu thành tội buôn lậu chứ không cần đến hậu quả xảy ra. Tội phạm buôn lậu là một
thể thống nhất gồm 04 yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan.
Các yếu tố này quan hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên mỗi yếu tố cũng có tính riêng
độc lập tương đối với các yếu tố còn lại.
Các yếu tố của CTTP tội buôn lậu thể hiện như sau: [14,tr.169,170]
1.2.1.1. Mặt Khách thể của tội buôn lậu:
Hành vi phạm tội buôn lậu xâm phạm đến hoạt động quản lý kinh tế nhà
nước về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, di vật, cổ vật, vật
phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa. Chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa của Nhà
nước luôn thay đổi theo từng thời kỳ để phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của
đất nước cũng như thế giới.
Đối tượng tác động: Hàng hoá; tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ (như USD,
Yên…); Kim khí quý, đá quý (vàng, bạc, kim cương…); Vật phẩm thuộc di tích lịch
sử, văn hoá; Hàng cấm (bị Nhà nước cấm lưu thông).
Từ BLHS năm 2015 đã bỏ đối tượng là “hàng cấm” ra khỏi tội buôn lậu mà
chuyển hẳn sang tội buôn bán hàng cấm tại điều 190
1.2.1.2. Mặt khách quan của tội buôn lậu:
23
Về hành vi: có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế
quan vào nội địa hoặc ngược lại.
Việc buôn bán trái phép được thể hiện ở chỗ mua hoặc bán không có giấy
phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép xuất, nhập khẩu và các quy định
khác của Nhà nước về hải quan (ví dụ: Giấy phép nhập khẩu là máy móc, thiết bị
dùng cho sản xuất nông nghiệp nhưng thực tế lại mua bán máy móc sử dụng cho
tiêu dùng như tủ lạnh, xe gắn máy, tivi…), các trường hợp cấp các giấy phép con
này thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử chúng ta phải viện dẫn đến quy định
chuyên nghành để xem xét quy trình, thủ tục và thẩm quyền cấp đó đúng không?
Tại thời điểm cấp phép và thời điểm bị truy tố, xét xử có thay đổi, bổ sung, thay thế
hay hủy bỏ không? Nếu có những điểm có lợi cho người phạm tội thì cần phải vận
dụng, áp dụng cho người phạm tội.
Trường hợp kinh doanh xuất nhập khẩu đúng giấy phép nhưng khai không
đúng số lượng (khai ít hơn số lượng thực nhập) hoặc nhập vượt quá mức mà giấy
phép xuất, nhập khẩu cho phép thì cũng bị coi là buôn lậu nhưng chỉ truy cứu trách
nhiệm đối với phần chưa khai hoặc xuất nhập khẩu vượt mức cho phép.
Thủ đoạn rất đa dạng, một số được thể hiện qua việc khai báo gian dối (nhiều
hay ít, mặt hàng này lại khai là mặt hàng khác..), giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng,
tiền… hoặc đi vòng tránh khỏi khu vực cửa khẩu để trôn tránh sự kiểm soát của cơ
quan có thẩm quyền. Cũng có trường hợp các đối tượng buôn lậu móc nối với cán
bộ hải quan, cửa khẩu để nhập hàng không đúng giấy phép hoặc khai tăng, giảm số
lượng hàng nhập hoặc một số trường hợp nhập hàng lậu dưới hình thức tạm nhập,
tái xuất, khi nhập hàng về không xuất đi mà tiêu thụ ngay trong nước.
Thời điểm hoàn thành tội phạm này tính từ thời điểm đưa hàng, tiền qua biên
giới một cách trái phép vào Việt Nam.
Vậy, Biên giới ở đây không chỉ hiểu là biên giới theo địa lý trên đất liền, trên
không, trên biển mà là các cửa khẩu kiểm soát việc xuất cảnh, nhập cảnh, xuất nhập
khẩu hàng hóa (cảng sân bay, cảng biển…).Tuy nhiên nếu là đưa hàng, tiền từ Việt
Nam ra nước ngoài thì không nhất thiết tính từ thời điểm qua biên giới Việt Nam.
24
(Chẳng hạn hàng hoá được tập kết gần biên giới chuẩn bị đưa trái phép qua biên
giới thì bị phát hiện.
Về giá trị hàng phạm pháp làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, định
khung:
Đối với hàng hoá, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý phải có giá
trị từ một trăm triệu đồng trở lên. Trường hợp dưới một trăm triệu đồng thì phải
thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều
này hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của
Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 248,
249, 250, 251, 252, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của BLHS năm 2015;
Đồng thời cho đến thời điểm có hành vi buôn lậu bị phát hiện thì vẫn chưa
được xoá án tích đối với việc phạm các tội nêu trên mà còn vi phạm về hành vi
buôn lậu và không phải thuộc các trường hợp quy định tại các điều sau đây: Tội sản
xuất trái phép chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán
các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma
tuý; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vũ khí vận dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; Tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ
trợ; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất phóng xạ; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép
chất cháy, chất độc.
Đối với di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì điều luật không
quy định cụ thể mức tối thiểu giá trị vật phạm pháp, vì những vật phẩm loại này
chứa đựng những giá trị tinh thần (vô giá) mà không thể tính được bằng tiền. Tuy
nhiên cầu lưu ý: Di tích lịch sử, văn hoá phải là những di tích đã được cơ quan nhà
25
nước có thẩm quyền có quyết định công nhận và xếp hạng.
Như vậy, ngoài hành vi khách quan của tội buôn lậu thì tội buôn lậu còn có
dấu hiệu bắt buộc đó là: Giá trị hàng hóa vi phạm, địa điểm phạm tội (qua biên giới
hay khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại). Hành vi nguy hiểm cho xã hội
và hậu quả gây ra có mối quan hệ trực tiếp đó là Nhà nước thất thoát tiền thuế xuất
nhập khẩu hàng hóa, không kiểm soát được hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên
trong thực tế thì quá trình điều tra, truy tố, xét xử các Cơ quan tố tụng không căn cứ
vào hậu quả của hành vi buôn lậu gây ra vì buôn lậu thuộc cấu thành hình thức nên
chỉ cần có hành vi xuất nhập khẩu hàng hóa trái quy định pháp luật là đã đủ cơ sở
định tội buôn lậu. Còn giá trị hàng hóa, tiền việt Nam, Kim khí quý, Đá quý, di vật,
cổ vật quy định trong điều luật chỉ là giá trị của vật phạm pháp chứ không xác định
nó là hậu quả.
Như vậy, để xét về mặt khách quan của tội phạm buôn lậu cần làm rõ các dấu
hiệu như sau:
Dấu hiệu về mặt chứng cứ: cũng giống như các vụ án hình sự khác thì định
tội danh tội buôn lậu cũng phải thu thập các chứng cứ theo đúng các quy định tại
điều 86,87,88 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Các nguồn chứng cứ theo khoản 1
điều 87 gồm có (07 loại): 1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn: a) Vật
chứng; b) Lời khai, lời trình bày; c) Dữ liệu điện tử; d) Kết luận giám định, định
giá tài sản; đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án; e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; g) Các tài liệu,
đồ vật khác.
Với đặc thù của tội buôn lậu là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, vàng,
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử văn
hóa…thực hiện thông qua cửa khẩu hải quan, cửa khẩu. Nên phải xác minh, điều tra
rõ các vấn đề sau:
Về đối tượng mua bán: là hàng hóa gì? trước thời điểm BLHS 2015 có hiệu lực
có phải là hàng cấm không? Các thủ tục nhập hàng hóa thường có trong buôn lậu
thường phải làm rõ gồm có: Bản lược khai hàng hóa trước khi hàng nhập khẩu về
26
đến cảng, hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương, tờ khai hải quan, packing list,
tờ khai hải quan, biên bản đóng thuế xuất nhập khẩu, GTGT, Tiêu thụ đặc biệt, Hồ
sơ vận chuyển của hãng tàu biển, máy bay, các biên bản kiểm tra, kiểm hóa hàng
hóa, biên bản, quyết định xử lý vi phạm của hải quan, các biên bản xử phạt hành
chính mà người phạm tội đã bị phạt (chưa hết án tích), các bản án bị tuyên chưa
được xóa án tích theo quy định tại khoản 1 điều 188 BLHS.
Thông qua lấy lời khai bị can bị cáo, những cá nhân, cơ quan và tổ chức liên
quan và bằng các biện pháp tố tụng làm rõ có thêm những hành vi khác ngoài hành
vi buôn lậu không ví dụ như: hành vi hối lộ, hành vi lạm dụng chức vụ quyền
hạn…) nếu có cơ sở thì khởi tố và điều tra xét xử.
Xác định địa điểm xảy ra hành vi được coi là buôn lậu? hàng hóa đã được di
chuyển qua biên giới hay chưa?đang nằm ở đâu (tập kết ở cảng, kho ngoại quan…).
Để định tội danh tội buôn lậu phải thì phải thu thập tất cả những chứng cứ
trong nguồn chứng cứ một cách trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định.
1.2.1.3. Mặt chủ quan của tội buôn lậu:
Dấu hiệu cơ bản về mặt chủ thể là dấu hiệu về lỗi, đó là thái độ về mặt tâm lý
bên trong của người phạm tội. Lỗi gồm có: lỗi cố ý (trực tiếp và gián tiếp), lỗi vô ý
(vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin)
Đối với tội phạm buôn lậu thì người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý
trực tiếp vì người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là buôn bán trái phép qua
biên giới, thấy trước được hậu quả của hành vi trái phép là nguy hiểm cho xã hội, bị
pháp luật cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Mục đích của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới là thu lời bất chính.
Biểu hiện của mục đích thu lời bất chính là trốn thuế nhập khẩu, xuất khẩu.
Trong quá trình định tội danh buôn lậu phải phân biệt về mục đích của đối
tượng nếu trong trường hợp vận chuyển với mục đích buôn bán kiếm lời thì phải
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu, còn người vận chuyển không phải là
27
chủ hàng, chỉ với mục đích là vận chuyển để lấy tiền công (chở thuê) thì truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới.
1.2.1.4. Chủ thể của tội buôn lậu:
Chủ thể của tội buôn lậu không có gì khác biệt so với chủ thể các tội phạm
khác (chủ thể thường) là bất kỳ người, pháp nhân thương mại nào có năng lực trách
nhiệm hình sự tức là nếu là cá nhân thì có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi
và đủ 16 tuổi trở lên (BLHS năm 2015 quy định tại điều 12); nếu là pháp nhân thì
phải là pháp nhân thương mại theo quy định tại điều 75 của Bộ luật hình sự năm
2015. [34].
Như vậy, BLHS là nguồn trực tiếp của việc định tội danh tội buôn lậu nói
riêng cũng như các tội phạm khác, khi định tội danh thì người có thẩm quyền định
tội phải căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý của các cấu thành tội phạm để xem xét.
Các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm được quy định ở cả Phần chung và Phần
các tội phạm của BLHS. Tuy nhiên, cần lưu ý là khi nói đến cấu thành tội phạm với
tính cách là khuôn mẫu pháp lý của tội phạm thì không chỉ là các cấu thành tội
phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ của
những tội phạm hoàn thành do người thực hành tội phạm thực hiện mà còn bao gồm
cả những cấu thành tội phạm của hành vi chuẩn bị phạm và cấu thành tội phạm của
những hành vi đồng phạm (cấu thành tội phạm của hành vi xúi giục, hành vi tổ chức
và hành vi giúp sức). Trong quá trình định tội, thông thường các quy định ở Phần
chung của BLHS không cần viện dẫn, trừ các trường hợp như các trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm
Các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng có thể là cơ sở pháp lý của việc
định tội:
- Có nhiều quy phạm pháp luật như Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết...
có chứa đựng quy phạm pháp luật mang tính viện dẫn luật hình sự thì ngoài việc
phải căn cứ vào BLHS còn phải căn cứ vào các quy định trong các văn bản pháp
luật có liên quan để định tội. Ví dụ, để xác định hành vi của một người phạm tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thì phải căn cứ vào
28
Luật giao thông đường bộ để xác định người điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ vi phạm điều, khoản nào của Luật này.
- Để thi hành BLHS, Quốc hội giao cho Cơ quan của quốc hội, TAND tối
cao, VKSND tối cao, Chính phủ trong phạm vi chức năng của mình có trách nhiệm
hướng dẫn thi hành BLHS. Các văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS do các cơ quan
này ban hành là các văn bản giải thích luật, như: Nghị quyết của Ủy ban thường vụ
quốc hội, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Thông tư liên tịch
của các cơ quan liên ngành. Những văn bản này cũng phải được xem xét, áp dụng
khi định tội. Tuy nhiên, cần lưu ý là các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp
luật như đã nêu trên cũng phải tuân thủ đúng nội dung trong các quy định của
BLHS mới là căn cứ để định tội.
Cụ thể trong định tội danh tội buôn lậu liên quan đến hoạt động kinh tế,
ngoại thương, xuất nhập khẩu do đó có thể bằng nhiều phương thức xử lý tùy hành
vi vi phạ ( xử lý hành chính, xử lý hình sự) thì chúng ta xem xét, viện dẫn đến
những quy định của luật chuyên nghành đối với những mặt hàng vi phạm ví dụ như
Luật an toàn thực phẩm và các nghị định hướng dẫn đối với hàng hóa nhập khẩu là
lương thực thực phẩm, các văn bản hướng dẫn về hải quan, xuất nhập khẩu, các
nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản
xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (nghị định
185/2013/NĐ-CP ) tại điều 3 có phần mô tả, giải thích thế nào là hàng nhập lậu,
hàng giả, về các hành vi vi phạm …khi thực hiện hoạt động định tội danh đối với
tội buôn lậu thì cũng nên xem xét vận dụng, áp dụng.
Tóm lại, với những phân tích các yếu tố của CTTP tội buôn lậu nói trên thì
chúng ta có thể khái quát CTTP tội buôn lậu là hệ thống các dấu hiệu cần và đủ đặc
trưng cho tội buôn lậu theo quy định của BLHS.
1.2.2. Định tội danh tội buôn lậu trong các trường hợp đặc biệt
1.2.2.1. Định tội tội buôn lậu trong trường hợp phạm tội chưa đạt
- Luật hình sự Việt Nam không chỉ xem hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản là tội phạm, mà còn xem cả hành vi chuẩn bị
29
cho việc thực hiện tội phạm cố ý cũng như hành vi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm của một tội cố ý vì nguyên nhân khách quan là tội phạm. Và
để có cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự, thì hành vi chuẩn bị phạm tội
cũng như hành vi phạm tội chưa đạt cũng có những đặc điểm cấu thành riêng biệt:
đó là cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm của phạm
tội chưa đạt.
- Cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt không
được phản ánh trực tiếp tại từng tội danh cụ thể mà thể hiện trong phần chung của
BLHS. Đó là các dấu hiệu có tính chất chung cho tất cả các tội danh nhưng chưa
phải là cấu thành của chuẩn bị phạm tội và cấu thành của phạm tội chưa đạt của
riêng một tội phạm cụ thể nào cả. Cấu thành tội phạm chỉ được hình thành trên cơ
sở kết hợp cấu thành tội phạm của một tội phạm cụ thể với quy định chung về
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Vì thế, nếu đối chiếu hành vi chuẩn bị
phạm tội hay phạm tội chưa đạt với riêng cấu thành cơ bản của một tội cụ thể thì
hành vi này hoặc không thỏa mãn, hoặc chưa thỏa mãn hết những dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cơ bản. Nhưng nếu đặt cấu thành cơ bản trong mối liên hệ với điều
luật quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm thì hành vi chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt đều hoàn toàn thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm
cơ bản và của các quy định về giai đoạn thực hiện tội phạm.
- Hành vi chuẩn bị phạm tội, với tính chất là một giai đoạn thực hiện tội
phạm, được hiểu là hành vi tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm
nhưng bị chấm dứt do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người
thực hiện hành vi. Theo quy định tại Điều 14 BLHS, người chuẩn bị phạm một
trong một số trường hợp cụ thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp
nếu thấy có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng một người chuẩn bị thực hiện một tội
phạm nhưng chưa có đủ căn cứ để xác định được tội phạm mà họ định thực hiện là
tội gì thì phải làm rõ đó có phải là một trong các tội được quy định tại điều 14
BLHS hay không, như vậy mới có cơ sở để định tội đối với hành vi do người đó
thực hiện. Ví dụ, A sửa soạn công cụ, phương tiện để phạm tội. Nếu chỉ chứng minh
30
được A sửa soạn công cụ, phương tiện để trộm cắp tài sản thì A không phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội của tội trộm cắp tài sản theo Điều
173 BLHS, không được khởi tố bị can đối với A. Nếu đã khởi tố bị can thì phải định
chỉ. Khi định tội đối với hành vi chuẩn bị phạm một tội phạm cụ thể, ngoài việc
viện dẫn điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm của BLHS còn phải viện dẫn
Điều 14 BLHS. Ví dụ, khi định tội đối với hành vi chuẩn bị giết người phải viện
dẫn Điều 123 và Điều 14 BLHS.
- Theo quy định tại Điều 15 BLHS, phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội
phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn
của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm chưa đạt. Như vậy, về nguyên tắc, khi đã xác định được một người thực hiện
hành vi có đủ dấu hiệu của trường hợp phạm tội chưa đạt thì phải định tội đối với
hành vi đó giống như đối với tội phạm hoàn thành tương ứng, đồng thời viện dẫn
Điều 15 BLHS. Ví dụ, khi định tội đối với hành vi trộm cắp tài sản chưa đạt thì phải
viện dẫn Điều 173 và Điều 15 BLHS.
- Định tội đối với hành vi phạm tội chưa đạt, chỉ khi có đầy đủ căn cứ xác
định rằng tội phạm mà người phạm tội không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của họ thuộc khoản nào của điều luật tương ứng quy
định về tội phạm đó thì mới định tội theo khoản, điều luật tương ứng đó. Trong tr-
ường hợp xác định được hành vi chưa đạt mà người đó thực hiện không có đầy đủ
các dấu hiệu cấu thành tội phạm hoặc trong trường hợp không thể xác định được
hành vi vi phạm mà họ thực hiện đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hay
chưa thì phải quy kết là người đó không phạm tội.
Ví dụ: A chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc đã từng bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
nhưng đã được xoá án tích. A vào nhà của người khác với ý thức có tài sản gì thì lấy
trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy được tài sản gì thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong
trường hợp này, không thể xác định được hành vi vi phạm của A đã có đủ các dấu
hiệu cấu thành tội phạm hay chưa (không thể xác định được giá trị tài sản bị chiếm
31
đoạt); do đó, phải quy kết A không phạm tội "trộm cắp tài sản".
- Trong trường hợp đã xác định được hành vi của một người là hành vi phạm
tội nhưng không xác định được tội phạm mà họ thực hiện chưa đạt thuộc khoản cụ
thể nào của điều luật tương ứng quy định về tội phạm đó, thì phải định tội theo
khoản nhẹ nhất của điều luật tương ứng đó.Ví dụ: A đã bị kết án và bị xử phạt 1
năm tù về tội "cướp giật tài sản" chưa được xoá án tích, vào nhà của người khác với
ý thức có tài sản gì thì lấy trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy được tài sản gì thì bị phát
hiện và bị bắt giữ. Trong trường hợp này, nếu không xác định được mục đích của A
chiếm đoạt tài sản trị giá theo các khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài
sản (Khoản 2, 3 hoặc 4 của Điều 173 BLHS) thì chỉ có thể kết luận A phạm tội trộm
cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 BLHS. [18]
Vậy đối với tội buôn lậu được xây dựng trên CTTP hình thức cho nên sẽ
trường hợp tội phạm đã hoàn thành về luật mà chưa đạt về mục đích (chưa đưa
được hàng hóa...qua biên giới, chưa tiêu thụ trót lọt...) do những nguyên nhân ngoài
ý muốn của người phạm tội như điều 15 BLHS, do đó trong quá trình định tội danh
phải xem xét, phân loại các hành vi của người phạm tội một cách khách quan, toàn
diện.
1.2.2.2. Định tội danh tội buôn lậu trong trường hợp đồng phạm
Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội
phạm (khoản 1 điều 17 BLHS). Đồng phạm quy định ở phần chung của BLHS,
không quy định riêng cho từng tội phạm, kể cả tội buôn lậu.
Về mặt cấu thành tội phạm trong trường hợp đồng phạm là về chủ thể có 02
người trở lên, lỗi cùng cố ý…và cùng thực hiện hành vi của một tội phạm. Trong
một vụ án nói chung và vụ án buôn lậu nói riêng nếu có nhiều bị can bị cáo nhưng
họ thực hiện riêng rẻ, không cùng một tội phạm thì phải xem xét khởi tố tội riêng
hoặc nếu không có căn cứ là đồng phạm hoặc thực hiện một tội phạm khác thì phải
đình chỉ điều tra, truy tố hoặc tuyên không có tội. Ví dụ: một nhóm nhiều người rủ
nhau đi cướp, đang đi thì gặp A, A ham vui nên đi dù không được biết nhóm kia đi
cướp mà chỉ đứng bên ngoài khi nhóm kia vô trong nhà thực hiện cướp tài sản, sau
32
khi A về nhà thì mới biết nhưng lại không nói. Như vậy, trong trường hợp này
không thể định tội A là đồng phạm giúp sức tội cướp tài sản được vì ngay khi nhóm
kia thực hiện tội phạm thì A hoàn toàn không biết, nhưng sau khi biết A không trình
báo Công an thì có thể khởi tố A tội không tố giác tội phạm và xét xử trong cùng vụ
án.
Theo quy định tại khoản 3 điều 17 thì đồng phạm gồm có: người tổ chức,
người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
- Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
- Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
- Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện
tội phạm.
- Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực
hiện tội phạm.
Qua thực tế thì những vụ án hình sự xảy ra thì có rất nhiều đồng phạm cùng
thực hiện một tội phạm, do đó quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì việc định tội
danh chính xác tội là bước quan trọng, qua đó xác định các vai trò đồng phạm của
các bị can, bị cáo trong cùng một tội cũng quan trọng không kém trong quá trình xét
xử nếu Toà án đã xác định sai vai trò đồng phạm, cụ thể xác định người thực hành
thành người giúp sức, dẫn đến đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội
không chính xác và quyết định hình phạt cũng không chính xác.
Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: Toà án có thể quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt
buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm
tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trò không đáng
kể.
Quy định này cho thấy quan điểm của nhà làm luật là nói chung trong vụ án
đồng phạm, đồng phạm giúp sức thường có vai trò hạn chế nhất, do đó, họ có thể
được xét xử với mức án thấp hơn nhiều so với các loại người đồng phạm khác. Tuy
nhiên, khái niệm đồng phạm giúp sức phải được hiểu theo đúng tinh thần khoa học
33
luật hình sự, chứ không phải theo nhận thức cảm tính, không đồng nhất mỗi nơi áp
dụng một kiểu. [13]
1.2.2.3. Định tội danh buôn lậu đối với trường hợp tranh chấp nhiều cấu
thành tội phạm
Qua thực tế điều tra, xét xử án hình sự thì thường có một đến nhiều hành vi
nguy hiểm cho xã hội tội phạm. Các hành vi này có thể là chỉ thõa mãn, phù hợp
với một CTTP nhưng trong những chuỗi hành vi đó có trường hợp lại thỏa mãn với
nhiều CTTP. Do đó trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì cần cân nhắc định tội
danh một tội hay nhiều tội. Như vậy, đặt ra vấn đề định tội danh như thế nào, định
một tội danh hay nhiều tội danh vì việc này ảnh hưởng đến việc quyết định hình
phạt của Tòa án. [14, tr. 115-117]
Do vậy, căn cứ vào mối quan hệ giữa các CTTP mà hành vi phạm tội thỏa
mãn dấu hiệu, chúng ta chia hành vi làm 02 nhóm:
+ Nhóm thứ nhất: nhóm CTTP có mối quan hệ giữa CTTP chung và CTTP
riêng: CTTP chung là cấu thành thể hiện những dấu hiệu có đặc tính chung của tội
phạm, cấu thành chung là một phần của CTTP riêng, còn CTTP riêng không thể
hiện được hết trong CTTP chung, ví dụ tội giết người có cấu thành thanh chung so
với các tội giết con mới đẻ, giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng…
Vậy cơ sở lý luận để định tội danh ở trường hợp này phải dựa vào lý luận của
triết học Mác – Lê Nin về phạm trù cái chung – Cái riêng. Cái riêng lúc nào cũng là
một phần của cái chung và còn chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng khác của nó. Do
vậy, trường hợp này ta phải định tội danh căn cứ vào CTTP riêng.
+ Trường hợp CTTP không có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu
thành riêng: Trường hợp này trong quá trình định tội danh phải xem xét ở nhiều góc
độ khác nhau, đó là một quá trình phức tạp cần phải xem xét một cách khách quan,
tỉ mỉ. [36, tr.209-214].
Thực tiễn các vụ án buôn lậu xảy ra, thì các hành vi của bị can bị cáo ngoài
thỏa mãn cấu thành tội buôn lậu, có nhiều trường hợp còn thỏa mãn cấu thành tội
đưa, nhận hối lộ, tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Do đó, khi định
34
tội danh thì CQĐT, VKS, Tòa án sẽ xem xét để định nhiều tội danh nếu thỏa mãn
yếu tố cấu thành tội phạm của tội danh tương ứng.
1.2.3 Các quy định của BLTTHS liên quan đến định tội danh tội Buôn
lậu.
Như đã phân tích thì BLHS là cơ sở pháp lý duy nhất quy định về tội phạm và
hình phạt. Khi định tội danh bắt buộc phải căn cứ vào cấu thành tội phạm tương
ứng. Tuy nhiên, trong hoạt động định tội danh nhất thiết phải tuân thủ theo đúng
trình tự, thủ tục về tiếp nhận, giải quyết nguồn báo, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
theo quy định tại BLTTHS. Căn cứ vào điều 2 BLTTHS nêu rõ về nhiệm vụ của
BLTTHS là bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Khi định tội danh không riêng gì tội buôn lậu thì phải đảm bảo các nguyên
tắc cơ bản của BLTTHS, ngoài quy định về thẩm quyền của Các cơ quan tiến hành
tố tụng, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, bị
can, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ...người có thẩm quyền định tội
phải chú ý đến các quy định của BLTTHS về thu thập, bảo quản, đánh giá chứng
cứ, xác định sự thật vụ án để định tội và ra văn bản áp dụng pháp luật, như các quy
định: Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự (Điều 85); chứng cứ
(Điều 86); Nguồn chứng cứ (Điều 87)thu thập chứng cứ (Điều 88); vật chứng (Điều
89); các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án ( từ Điều 91đến Điều 104); đánh giá chứng
cứ (Điều 108); căn cứ khởi tố vụ án hình sự (Điều 143); Trách nhiệm giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 145); khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại (Điều 155); những căn cứ không được khởi tố vụ án hình
sự (Điều 157). [10 tr.22,23]; [22]
BLTTHS năm 2015 với nhiều điểm tiến bộ lớn, loại bỏ những hạn chế của
35
BLTTHS năm 2013, đặc biệt BLTTHS 2015 bỏ sung một số nguyên tắc mới quan
trọng ví dụ như Nguyên tắc suy đoán vô tội (điều 13), nguyên tắc không ai bị kết án
02 lần một tội phạm (điều 14), nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều
tra (điều 19), nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (điều 26).
Trong đó nguyên tắc tiến bộ và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động định tội
danh nói chung và định tội danh buôn lậu nói riêng là nguyên tắc suy đoán vô tội:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Với quy định thể hiện rõ
ràng nguyên tắc chứng minh tội phạm thuộc về Các cơ quan tố tụng, nguyên tắc nếu
không đủ căn cứ chứng minh được một người nào đó là phạm tội thì phải tuyên bố
họ không có tội và hủy bỏ mọi biện pháp ngăn chặn, khôi phục các quyền lợi cho
họ…đây là nguyên tắc tiến bộ đã được áp dụng từ lâu ở các nước có nền tư pháp
pháp triển, tuy nhiên Việt Nam mới được luật hóa, tuy nhiên việc áp dụng còn nhiều
hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Như vậy, trong hoạt động định tội danh nói chung và tội buôn lậu nói riêng
phải đảm bảo tuân thủ đẩy đủ, chính xác các quy định của BLTTHS về trình tự, thủ
tục nhằm đảm bảo công bằng, chính xác và khách quan trong việc Điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự.
Kết luận Chương 1
Với các quy định tại Chương 1 thì đã phân tích khái niệm của pháp luật hình
sự về định tội danh đối với tội phạm hình sự nói chung và định tội danh đối với tội
buôn lậu nói riêng thông qua cơ sở quan trọng nhất đó là BLHS và các CTTP được
các nhà làm luật xây dựng nên từ các quy định PLHS.
Qua phân tích các quy định pháp luật, chúng ta thấy được tậm quan trọng, ý
nghĩa của hoạt động định tội danh trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Hoạt
động định tội danh đúng có tác dụng lớn trong việc bảo đảm sự nghiêm minh của
36
pháp luật, nâng cao chất lượng phòng, chống tội phạm, ngược lại hoạt động định tội
danh sai, dù chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số án các CQTT phải giải quyết hàng
năm nhưng nó gây ra tác hại vô cùng, lớn trước hết là tổn hại đến danh dự,uy tín,
nhân phẩm, quyền con người của người bị làm oan sai…lớn hơn nửa là gây mất
niềm tin của người dân đối với CQTT, Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng rất lớn đến
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Từ các quy định pháp luật về định tội danh nói chung và quy định pháp luật
về tội Buôn lậu nói trên chúng ta có căn cứ để đi sâu vào phân tích tình hình cụ thể
về định tội danh buôn lậu tại Tp.Hồ Chí Minh như đề tài mà tác giả đã lựa chọn.
37
Chương 2
TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU VÀ THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI
BUÔN LẬU TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát về tình hình tội phạm buôn lậu trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh
2.1.1. Khái quát về đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội của Thành phố
Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh (tên thường gọi là Sài Gòn) là thành phố lớn nhất
Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa và giáo dục lớn, quan trọng nhất của Việt Nam. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí
Minh là thành phố trực thuộc trung ương được xếp loại đô thị đặc biệt của Việt
Nam, cùng với thủ đô Hà Nội.
Về địa lý: Tp.Hồ Chí Minh nằm Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông
Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và
5 huyện, tổng diện tích 2.095,06 km². Tp.HCM là nơi có nhiều kênh rạch, có sông,
có biển, khí hậu thuận lợi, làm nằm ở vị trí trung tâm kết nối với các tỉnh thành
khác, như vậy nhờ điều kiện tự nhiên, địa lý thuận lợi Tp.HCM trở thành đầu mối,
trung tâm giao thông quan trọng của Việt Nam cũng như của các nước khu vực về
đường bộ, đường thủy, đường hàng không. Tp.Hồ Chí Minh hiện có Cảng sân Bay
Quốc tế Tân Sơn Nhất là đầu mối giao thông quan trọng của cá miền nam cũng như
cả nước. Theo thống kê, năm 2016, sân bay này đã phục vụ 32,6 triệu lượt khách,
tăng 22,8% so với năm 2015. và 38,5 triệu lượt khách năm 2018 cũng là trụ sở hoạt
động chính của tất cả các hãng hàng không Việt Nam, là nơi đóng trụ sở của Tổng
công ty cảng hàng không Việt Nam quản lý toàn bộ các sân bay dân dụng ở Việt
Nam. nhờ vậy thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa. Ngoài ra,
Tp.Hồ Chí Minh còn có hệ thống cảng biển lớn, hiện đại phục vụ cho hoạt động
xuất nhập khẩu trong nước và các nước khu vực (Cảng Sài Gòn, Cảng Tân Hiệp
Phước, Cảng Cát Lái…) với lưu lượng hàng hóa xuất nhập rất lớn, đưa tới nguồn
thu rất lớn cho Nhà Nước cũng như doanh nghiệp, cá nhân. Hệ Thống Cảng biển tại
38
Tp.HCM lại kết nối mạnh mẽ, đồng bộ với Cảng ở Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu và
các tỉnh có cảng biển trong khu vực.
Về dân số: Theo thống kê của Tổng cục Thống kê dân số thì đến 01/04/2019
dân số Việt Nam là 96.208.984 người, trong đó dân số nam là 47.881.061 người
(chiếm 49,8%) và dân số nữ là 48.327.923 người (chiếm 50,2%.). Riêng thành phố
Hồ Chí Minh là 8.993.082 người [32]. Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú
không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố này năm 2018 là gần 14 triệu người,
giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm
21,3% tổng sản phẩm(GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả nước [6]. Với đặc
điểm là Thành phố đông dân nhất cả nước, nơi tập trung rất nguồn lao động dồi dào
nhất cả về lao động phổ thông lẫn lao động chất lượng cao cho nên thuận lợi cho
phát triển các nghành công nghiệp cũng như nông nghiệp trên địa bàn. Tuy nhiên
việc tập trung lao động đông, dân từ các địa phương khác di cư và ồ ạt kéo vào
Tp.HCM gây mất cân bằng nguồn lao động cho các địa phương khác, các vấn đề về
việc làm, an ninh trật tự, nhà ờ, y tế, giáo dục, môi trường…khiến Tp.Hồ Chí Minh
cũng đang phải đưa ra nhiều giải pháp để giải quyết.
Những năm gần đây Đảng, Nhà nước nói chung và Chính quyền Tp.Hồ Chí
Minh nói riêng đã đưa ra nhiều chính sách để phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục, cải
tạo cơ sở hạ tầng, thượng tầng với nhiều công trình nổi bất như (về giao thông có
Cao tốc Long Thành – Dầu Giây, Hầm chui thủ thiêm, Cải tạo hệ thống kênh rạch
Thị Nghè, các tuyến đại lộ Võ Văn Kiệt, Phạm Văn Đồng khánh thành…); Chỉnh
trang, xây dựng mới nhiều tuyến đô thị khang trang; tham gia nhiều công ước, hiệp
định quốc tế nên đã ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định về pháp luật ở tất cả
các lĩnh vực nên khuyến khích kinh tế thì phát triển hơn, khuyến khích cả nhà đầu
tư trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực; nâng cao được quyền tự do dân chủ,
quyền con người…trong các lĩnh vực của đời sống.
Với đặc điểm về địa lý và xã hội như vậy Tp.Hồ Chí Minh có nhiều điều
kiện thuận lợi để phát triển về mọi mặt xứng đáng là trung tâm kinh tế, chính trị, xã
hội của cả nước và là đầu mối về giao thương kinh tế của các nước trong khu vực
39
Đông Nam Á. Tuy nhiên, có thuận lợi thì cũng có nhiều khó khăn mà Tp.HCM phải
đương đầu trong quá trình phát triển. Vấn đề khó khăn của Thành phố Hồ Chí Minh
ngoài những vấn đề phải giải quyết về ô nhiễm môi trường, giải quyết việc làm,
giao thông, nhà ở…thì vấn đề trật tự xã hội, tội phạm cũng rất nhiều. Đặc biệt như
đã nói ở trên vì điều kiện tự nhiên xã hội nhiều sông suối, kênh rạch lại vừa có sông
vừa có biển nên Tp.Hồ Chí Minh là nơi giao lưu, đầu mối xuất nhập khẩu hàng hóa
nhiều nhất nhì Việt Nam. Hiện nay, Cục Hải quan Tp.Hồ Chí Minh bao gồm có 13
chi cục Hải quan (Chi cục Hải quan Cửa khẩu KV1, Chi cục Hải quan Cửa khẩu
KV2, Chi cục Hải quan Cửa khẩu KV3, Chi cục Hải quan Cửa khẩu KV4, Chi Cục
Hải quan Cửa khẩu Cảng Hiệp phước, Chi cục Hải quan Cửa khẩu khu công nghệ
cao, Chi cục Hải quan CK Sân bay Tân Sơn Nhất, Chi Cục Hải quan Chuyển phát
nhanh, Chi Cục Hải quan quản lý hàng đầu tư, Chi cục hải quan quản lý hàng gia
công, Chi cục Hải quan KCX Linh Trung, Chi cục Hải quan KCX Tân Thuận, Chi
cục KT sau Thông quan) …nơi đây hàng ngày xuất nhập rất nhiều hàng hóa, cũng
như nhiều người xuất nhập cảnh cho nên cũng là nơi nhạy cảm và xảy ra nhiều loại
hình tội phạm nhất, đặc biệt đó là tội buôn lậu hay vận chuyển hàng hóa trái phép
qua biên giới. [8]
Xuất phát từ tình hình tự nhiên, kinh tế, xã hội như đã nêu ở trên thì tội phạm
buôn lậu ở Thành Phố Hồ Chí Minh có thể nói là cao nhất và là điểm nóng của cả
nước, do đó hoạt động định tội danh tội buôn lậu được quan tâm và chú ý hơn cả thể
hiện qua rất nhiều vụ án buôn lậu lớn, gây chú ý tại Thành phố Hồ Chí Minh thời
gian qua.
Đảng, Nhà nước đã ban hành các quy định pháp luật để thuận tiện hơn, hội
nhập với các nước và khu vực về vấn đề xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu hàng hóa
Bên cảnh đó vấn đề đặt ra cũng rất nặng nề, khó khăn là làm sao vừa đảm bảo được
thủ tục xuất nhập khẩu nhanh chóng, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp…thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nhưng cũng nhưng cũng phải đảm bảo kiểm tra, kiểm soát
hoạt động xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu hàng hóa đúng pháp luật. Trong hoàn
cảnh nền kinh tế phát triển, hội nhập quốc tế thì các thủ đoạn, phương thức buôn
40
lậu, trốn thuế ngày càng tinh vi, phức tạp…gây thất thu về thuế rất lớn, hơn nữa ảnh
hưởng rất nhiều đến nền sản xuất trong nước.
2.1.2. Khái quát tình hình tội buôn lậu ở Thành phố Hồ Chí Minh
Từ năm 2014 đến năm 2018 tình hình tội phạm về kinh tế bị phát hiện tại
Thành phố Hồ Chí Minh được thể hiện dưới đây:
Bảng 2.1. Kết quả phát hiện tội phạm kinh tế của lực lượng Cảnh sát
Kinh tế Công an Tp.Hồ Chí Minh từ 2014 -2018
Diễn biến Số Giá trị tài Giá trị tài Giá trị Thu nộp Số vụ tội phạm
Năm đối tượng sản thiệt hại (tỷ sản trốn thuế (tỷ hàng tạm giữ (tỷ ngân sách nhà Nước phát hiện tỷ lệ so với năm đồng) đồng) đồng) (tỷ đồng) 2014
2014 1.952 100% 1759 678.44 848.271 137,52 63
2015 2.429 124,4% 2.110 1.187 842 145 42
2016 2.181 111,7% 1.914 488 906 106 39
2017 1.786 91,5% 1.635 180.3 548 15,5 22,8
2018 1.642 84,1% 1.578 118 320 29 23.1
TC 9.990 8.996 2.651,74 3.464,271 443.02 189,9
Nguồn: Báo cáo công tác năm phòng Cảnh sát kinh tế Công an Tp.HCM [7]
Qua bảng số liệu trên ta thậy, án kinh tế nói chung, so với năm 2014 thì năm
2015 tăng 24,4% , 2016 tăng 11,7% so với 2014 và 2017, 2018 đã giảm xuống
nhiều. Chứng tỏ công tác đấu tranh phòng và chống án kinh tế trên địa bàn Tp.HCM
có hiệu quả nên lượng vụ việc bị phát hiện giảm xuống rõ rệt.
Bảng 2.2. Tình hình tội phạm về buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh
từ 2014 -2018
Đã điều tra, khám phá
Tình hình tội phạm buôn lậu Năm Số vụ Số đối tượng
Số vụ Số đối tượng SL Tỷ lệ (%) SL Tỷ lệ (%)
2014 331 343 49 100 52 100
2015 188 204 16 32,653 22 42,3
41
2016 342 355 4 8,16 6 11,54
2017 410 405 6 12,244 11 21
2018 448 501 18 36,73 29 55,77
Tổng Cộng 1719 1808 93 120
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của lực lượng Cảnh Sát kinh tế Công
an Tp.Hồ Chí Minh năm 2014 -2018. [7]
Theo bảng thống kê trên thì số vụ buôn lậu bị Công an Tp.HCM phát hiện
trong năm 2015 đã giảm so với 2014 rất nhiều (giảm 188 vụ), tuy nhiên đến 2016,
2017, 2018 đều tăng trở lại cả về số vụ và đối tượng vi phạm. Số vụ điều tra, khám
phá lại rất ít so với số lượng vụ được phát hiện. Chứng tỏ, án buôn lậu ở Tp.HCM
rất nhiều và phức tạp, tuy nhiên lượng vụ việc được giải quyết lại ít đặc biệt là số
vụ việc xử lý hình sự so với vụ việc buôn lậu được phát hiện tại Thành Phố Hồ Chí
Minh được phát hiện. Việc phát hiện nhiều vụ việc buôn lậu tuy nhiên xử lý được ít
như vậy ảnh hưởng lớn đến công tác định tội danh tội buôn lậu, dễ để lọt các tội
phạm buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, ảnh hưởng đến hoạt động
quản lý xuất nhập khẩu, thất thu nguồn thuế lớn cho Nhà nước và cũng như công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trên địa bàn.
2.2. Thực tiễn định tội danh tội buôn lậu tại Tp. Hồ Chí Minh từ năm
2014-2018
2.2.1 Kết quả định tội danh tội buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Kết quả thực hiện định tội danh tội buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh thể
hiện cụ thể trong các con số thống kê sau đây
Bảng 2.3. Thống kê kết quả phát hiện xử lý phạm pháp buôn lậu của
Phát hiện
Xử lý hình sự
Xử lý hành chính
Chuyển cơ quan khác xử lý
Đang xác minh
Số vụ
Số vụ
Năm
Số vụ
Số vụ
Số đối tượng
Số vụ
Số đối tượng
Số đối tượng
Số đối tượng
Số đối tượng
2014
331
343
49
52
198
205
52
53
32
33
Lực lượng CSKT Công an Tp.HCM từ năm 2014 -2018
42
2015
188
204
16
22
135
139
22
26
15
17
2016
342
355
4
6
259
267
36
41
43
41
2017
410
405
6
11
344
345
29
25
31
24
2018
448
501
18
29
368
390
35
46
27
36
TC
1.719 1.808 93
120
1.304 1.346 174
191
148
151
Tỷ lệ
100
5,4
75,9
10,1
8.6
Nguồn: Báo cáo công tác năm phòng Cảnh sát kinh tế Công an Tp.HCM [7]
Từ kết quả 2.3 trên nhận thấy các vụ việc về buôn lậu được phát hiện tại
Thành Phố Hồ Chí Minh đều tăng cao cả về vụ việc và các đối tượng. Việc xử lý
bao gồm các biện pháp hình sự, biện pháp hành chính hoặc chuyển các cơ quan
chuyên môn khác xử lý. Tuy nhiên việc khởi tố, xử lý hình sự các vụ buôn lậu chưa
cao, ví dụ như năm 2014 phát hiện 331 vụ nhưng chỉ xử lý hình sự 49 vụ; năm 2018
phát hiện 448 vụ nhưng chỉ xứ lý hình sự được 18 vụ còn lại là xử lý hành chính,
đang xác minh hoặc các biện pháp khác. Số lượng vụ việc xử lý hình sự ít cũng một
phần ảnh hưởng đến chất lượng định tội danh tội buôn lậu ở giai đoạn điều tra, truy
tố tội phạm buôn lậu và cũng ảnh hưởng đến công tác phòng, chống loại hình tội
phạm này đang diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp hơn.
Bảng 2.4. Bảng mức độ tăng, giảm của các vụ án về buôn lậu và số bị
cáo phạm tội buôn lậu đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh [7]
Mức độ tăng/giảm (so Mức độ tăng/giảm (so Năm Số vụ Số bị cáo với 2014), tỷ lệ 100% với 2014), tỷ lệ %
2014 02 100 05 100
2015 07 350 18 360
2016 06 300 12 249
2017 07 350 26 520
2018 09 450 21 420
TC 31
Nguồn: Tòa án nhân dân Tp.HCM
Tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến 2018 có 31
vụ án buôn lậu được đưa ra xét xử sơ thẩm, không thống kê ở Tòa án cấp quận,
43
huyện. Số vụ án buôn lậu xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
theo thẩm quyền tại khoản 2 điểu 268 BLTTHS năm 2015.
Theo như trình bày ở bảng 2.3 nói trên thì những vụ việc buôn lậu phát hiện
nhiều, giá trị tài sản thiệt hại cao nhưng số lượng vụ việc, số lượng bị xử lý hình sự
chưa cao, cụ thể ở số lượng án buôn lậu đưa ra xét xử sơ thẩm hàng năm tại Tòa án
Thành phố Hồ Chí Minh cũng không cao. Ví dụ năm 2014 có 02 vụ, có 05 bị cáo;
năm 2018 có 09 vụ, có 21 bị cáo. Như vậy, số vụ buôn lậu bị xử lý hình sự chưa cao
cụ thể là việc khởi tố, xét xử ít, một phần ảnh hưởng đến hoạt động định tội danh tội
buôn lâu cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội buôn lậu ở Thành phố Hồ
Chí Minh thời gian qua.
2.2.2 Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân đối với hoạt động định
tội danh tội buôn lậu
2.2.2.1 Những khó khăn, hạn chế trong hoạt động định tội danh tội buôn lậu
tại địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh.
Qua việc khảo sát, xem xét các số liệu về tình hình phát hiện và xử lý các vụ
án buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thời gian từ năm 2014 - 2018, đặc
biệt là qua 31 bản án xét xử sơ thẩm các vụ án buôn lậu tại Tòa án Tp.Hồ Chí Minh,
thấy rằng hoạt động định tội danh từ các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử diễn ra
đúng theo quy định pháp luật, đúng người đúng tội và đúng tại BLHS, BLTTHS
quy định. Tuy nhiên, tội buôn lậu là tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, những hành vi
nguy hiểm cho xã hội của loại hình tội phạm này rất phức tạp và liên quan đến
nhiều lĩnh vực như hải quan xuất nhập khẩu, thuế quan cũng như những ngành nghề
xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện. Mặt khác tội phạm trong các vụ án kinh tế cụ thể
là tội buôn lậu là những người có học thức, hiểu biết trong lĩnh vực kinh tế, pháp
luật nên các hành vi phạm tội luôn diễn biến, biến đổi và biết tận dụng các điểm còn
thiếu sót, kẻ hở của pháp luật để phạm tội. Do đó, trong hoạt động định tội danh tội
buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua vẫn có một số khó khăn, hạn chế
nhất định. Cụ thể như sau
Thứ nhất, định tội danh sai.
44
Thực tiễn cho thấy có một số trường hợp định tội danh tội buôn lậu sai.
Người không thực hiện hành vi phạm tội, không đủ các yếu tố cấu thành tội phạm
buôn lậu nhưng quá trình điều tra, truy tố, xét xử vẫn tuyên bản án buộc người đó
vào tội buôn lậu, trường hợp này đã dẫn đến việc oan sai, sai tố tụng nghiêm trọng,
xúc phạm lớn đến danh dự, nhân phẩm của con người. Hậu quả xảy ra là bản án bị
Tòa án cấp trên hủy phải điều tra, xét xử lại và Tòa án tuyên bản án oan đó phải bồi
thường oan sai, tốn kém cho ngân sách Nhà nước những khoản tiền rất lớn và lớn
hơn nữa là uy tín, và niềm tin của người dân, cơ quan Tổ chức vào các Cơ quan Tố
tụng bị giảm sút nghiêm trọng.
Người có hành vi phạm tội có đủ căn cứ cấu thành một tội khác, đủ căn cứ
định tội danh là vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, nhưng giai đoạn điều
tra, truy tố, xét xử lại cứ định tội danh buôn lậu, dẫn đến quyết định hình phạt hoàn
toàn sai vì mức án của tội vận chuyển trái phép cao nhất chỉ có 10 năm nhưng đối
với tội buôn lậu là 20 năm.
Ví dụ: Bản án số 454/2015/HSST ngày 31/12/2015. [32]
ND: Nguyễn Quang Vinh và Đồng phạm Lợi dụng chính sách của Nhà nước
đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép hồi hương và được nhập
một xe ô tô cá nhân đang sử dụng quy định tại Thông tư số 118/2009/TT-BTC ngày
09/06/2009, Thông tư số 194/2010/TT – BTC ngày 6/12/2010, Thông tư số
06/2012/TT – BTC của Bộ Tài Chính; Thông tư số 20/2011 ngày 12/5/2011 của Bộ
Công Thương. Buôn lậu số lượng 54 siêu xe tại Sài Gòn, mục đích trốn thuế và lấy
tiền công làm dịch vụ nhập khẩu. Cụ thể thông qua việc nhập lậu 54 xe ô tô dưới
dạng Việt kiều hồi hương, Nguyễn Quang Vinh đã nhận là 108.000USD tiền công
làm dịch vụ, tương đương 2.160.000.000đ.
Ngoài số tiền trên ra, đối với 18 Việt kiều do Vinh và Thạnh trực tiếp thuê,
sau khi trả tiền thuê Việt kiều còn dư, Thạnh, Vinh và Nguyên chia nhau, trong đó
Trần Phước Thạnh, Nguyễn Quang Vinh được chia mỗi người số tiền 14.300USD (
tương đương 286.000.000đ ), Trần Thái Nguyên được chia số tiền 10.400USD (
tương đương 208.000.000đ ).
45
Tổng cộng Nguyễn Quang Vinh, Trần Phước Thạnh hưởng lợi bất chính từ
việc thuê việt kiều còn dư và tiền công làm dịch vụ cho 54 việt kiều là
556.000.000đ/người. Riêng Trần Thái Nguyên hưởng lợi 478.000.000đ
Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh: Căn cứ vào hồ sơ nhập khẩu xác định 54
Việt kiều được thuê nhập khẩu xe ô tô các loại Rolls Royce, Land Rover, Bentley,
Lexus, Audi, BMW, Porsche, Toyota, Jaguar, Honda không đúng quy định có tổng
trị giá 5.178.019USD và 12 xe mô tô có tổng trị giá 157.405USD. Tổng số thuế tiêu
thụ đặc biệt đã nộp là 64.234.160.339đ và tổng số tiền thuế phải nộp bao gồm thuế
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng nếu không được miễn là
218.890.258.246đ. Trong đó, Nguyễn Quang Vinh được ủy quyền đứng tên xin cấp
phép và làm thủ tục nhập khẩu xe cho 17 Việt kiều, Trần Thái Nguyên được ủy
quyền đứng tên xin cấp phép và làm thủ tục nhập khẩu xe cho 18 Việt kiều, Trần
Phước Thạnh được ủy quyền đứng tên xin cấp phép và làm thủ tục nhập khẩu xe
cho 01 Việt kiều, Dương Quốc Huy đứng tên cho 01 Việt kiều. Ngoài ra còn các
Việt kiều khác trực tiếp xin cấp phép và làm thủ tục nhập khẩu xe.
Bản án tuyên: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Vinh: 16 (mười sáu) năm tù; bị
cáo Trần Phước Thạnh: 12 (mời hai) năm tù; bị cáo Trần Thái Nguyên: 09 (chín)
năm tù; bị cáo Nguyễn Giang Lam: 16 (mười sáu) năm tù.
Đặc biệt tài sản phạm tội là 38 chiếc xe cho các chủ sở hữu tiếp tục quản lý,
sử dụng.
Đây là vụ án được báo chí và các chuyên gia pháp luật coi là “kỳ quặc án”
kéo dài từ năm 2015 đến nay, với nhiều tranh cãi trong hoạt động xác định chủ thể
tội buôn lậu, định tội danh, xác minh chứng cứ, xử lý tang vật và có dấu hiệu bỏ lọt
tội phạm trong các lần xét xử.
Vụ án được đưa ra xét xử lần 1 ngày 31/12/2015, xét xử phúc thẩm ngày
25/10/2016, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại.
Sau gần 02 năm điều tra, khởi tố lại thì Phiên tòa sơ thẩm lần 2 ngày
7/9/2018, bản án tuyên như sau: Bị cáo Nguyễn Quang Vinh, bị cáo Nguyễn Giang
Lam 14 năm tù; bị cáo Trần Phước Thạnh 12 năm tù, bị cáo Trần Thaí Nguyên 08
46
năm tù về tội buôn lậu. Bùi khắc Hà 5 năm tù về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn
trong khi thi hành công vụ.
Đây là vụ án buôn lậu được điều tra từ 2012, xét xử sơ thẩm lần đầu từ 2015
và sau nhiều lần điều tra, xét xử nhưng vẫn có nhiều vấn đề chưa được làm rõ, khiến
những người trong cuộc, các cơ quan tố tụng, chuyên gia pháp lý và dư luận xã hội
còn tranh cãi nhiều vấn đề cụ thể:
- Về cấu thành tội phạm, việc xác định chủ thể tội buôn lậu là ai, chủ hàng là
ai?chưa làm rõ, trong khi Nguyễn Quang Vinh và các đồng bọn không phải là chủ
hàng mà chỉ là trung gian trong việc nhập các xe này. Và việc CQTT cho rằng họ
lợi dụng chính sách miễn giảm tiền thuế nhập khẩu của diện Việt Kiều hồi
hương…đấy có phải là gian dối trong buôn lậu hay là gian dối để trốn thuế?...Vậy,
qua vụ án này nổi lên vấn đề cơ bản là việc định tội danh: Đấy có phải là tội buôn
lậu hay chỉ là tội Vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới hay tội trốn thuế?
- Trong quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm: có nhiều sai sót trong tố tụng: Bỏ
lọt tội phạm, tội danh, xử lý không đúng tang vật và nhiều vấn đề khác…đấy là lỗi
khách quan hay chủ quan của các cơ quan tố tụng? đó cũng là vấn đề lớn mà thực
tiễn xảy ra thường xuyên cần khắc phục về năng lực cán bộ cũng như về đạo đức
trong thực hiện nhiệm vụ.
Vấn đề định tội danh sai cũng có thể nói đến trong vụ án VN Pharma:
Bản án số: 306/2017/HSST, ngày 25/8/2017. Vụ án Nguyễn Minh Hùng và
đồng bọn Công ty VN Pharma buôn lậu thuốc chữa bệnh. [31]
Theo cáo trạng và kết luận điều tra nêu: Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân
dân tối cao truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Công ty Cổ phần VN Pharma, được thành lập ngày 25/10/2011, có trụ sở tại:
666/10/3 đường 3/2, phường 14, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, do Nguyễn
Minh Hùng làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc; Đến năm 2013,
Nguyễn Minh Hùng tiếp tục đặt Võ Mạnh Cường mua thuốc tân dược có nhãn mác
do Công ty Helix Pharmaceuticals Canada (Công ty Helix Canada) sản xuất để bán
và đấu thầu cung cấp cho các Bệnh viện ở Việt Nam; trong đó có thuốc H-Capita
47
500 mg Caplet (Capicitabine 500 mg) chữa bệnh ung thư. Khi Công ty Cổ phần VN
Pharma nhập 9.300 hộp thuốc H-Capita 500 mg Caplet về kho, do nghi ngờ về
nguồn gốc thuốc nhập khẩu Cục Quản lý Dược đã yêu cầu Nguyễn Minh Hùng và
Võ Mạnh Cường giải trình và tiến hành thanh tra, kiểm tra Công ty Cổ phần VN
Pharma kịp thời niêm phong lô thuốc không cho bán ra thị trường. Ngày 01/8/2014,
Cục Quản lý Dược có Công văn 13134/QLD-KD yêu cầu Công ty Cổ phần Pharma
tạm ngừng nhập khẩu và lưu hành đối với các thuốc của nhà sản xuất Helix
Pharmaceuticals Inc Canada. Ngày 08/8/2014, Cục Quản lý Dược có Công văn
13499/QLD-KD gửi Cục An ninh chính trị nội bộ, Bộ Công an đề nghị xác minh
thông tin liên quan đến lô thuốc trên. Sau đó, Cục An ninh chính trị nội bộ đã
chuyển hồ sơ, tài liệu liên quan sang Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an để điều
tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
Kết quả điều tra xác định được: Nguyễn Minh Hùng đặt mua thuốc H-
Capita với giá 0,8 USD/1 viên, quá trình thương lượng, Nguyễn Minh Hùng và Võ
Mạnh Cường thống nhất giá mua thuốc H-Capita là 0,9 USD/viên tương đương 27
USD/1hộp. Sau khi thống nhất được giá, Võ Mạnh Cường liên hệ mua lại thuốc trên
của người có tên là Raymundo ở Philippines (hiện không xác định được nhân thân,
lai lịch) với giá 0,6 USD/1 viên (18 USD/1 hộp). Raymundo đã gửi các giấy chứng
nhận từ Philippines về cho Cường, để Cường cung cấp cho Công ty Cổ phần VN
Pharma gồm các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận bán hàng tự do (FSC) tại Canada của
thuốc H-Capita 500 mg Caplet và Giấy chứng nhận thực hành tốt sản xuất thuốc
(GMP) do Bộ Y tế Canada cấp cho Công ty Công ty Helix Canada, được đóng dấu
hợp pháp hóa Lãnh sự của Đại sứ quán Việt Nam tại Canada và ký tên Tham tán
Nguyễn Văn Quyền. Kết quả xác minh, Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao cho biết: Đại
sứ quán Việt Nam tại Canada chỉ có Tham tán Nguyễn Văn Quyến, không có Tham
tán tên là Nguyễn Văn Quyền; ông Nguyễn Văn Quyến nguyên Tham tán Đại sứ
quán Việt Nam tại Canada khẳng định không ký hợp pháp hóa lãnh sự tài liệu nào
cho Công ty Helix Canada. Kết quả Giám định số: 795/C54-P5 ngày 27/02/2015
của Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an kết luận: Dấu hợp pháp hóa Lãnh sự và
48
chữ ký của Tham tán Đại sứ quán Việt Nam tại Giấy chứng nhận thực hành tốt sản
xuất thuốc và Giấy chứng nhận bán hàng tự do đều là giấy tờ giả.
Do không có Hồ sơ kỹ thuật thuốc cũng như: “Tiêu chuẩn và phương pháp
kiểm nghiệm thuốc” để nộp cho Cục Quản lý Dược thẩm định theo quy định của Bộ
Y tế, nên Nguyễn Minh Hùng đã chỉ đạo Bùi Ngọc Duy Trưởng phòng và Hoàng
Trúc Vy nhân viên Phòng nghiên cứu phát triển Công ty Cổ phần VN Pharma thuê
Dược sỹ Phạm Văn Thông viết hồ sơ kỹ thuật thuốc H-Capita 500mg Caplet; trong
đó có phần “Tiêu chuẩn và phương pháp kiểm nghiệm thuốc” với giá thoả thuận là
2.000 USD, để hợp thức hồ sơ nộp cho Cục Quản lý Dược cấp giấy phép nhập khẩu
và đăng ký lưu hành thuốc. Phạm Văn Thông dựa vào thành phần, công thức ghi
trên FSC và tham khảo dược điển của Mỹ và hồ sơ kỹ thuật của loại thuốc có hoạt
chất tương tự đã sản xuất tại Việt Nam để viết: Hồ sơ kỹ thuật; Hướng dẫn sử dụng
(HDSD) và “Tiêu chuẩn, phương pháp kiểm nghiệm” thuốc H-Capita 500mg
Caplet. Khi viết xong Phạm Văn Thông chuyển cho Bùi Ngọc Duy và Hoàng Trúc
Vy - nhân viên của Phòng nghiên cứu phát triển Công ty Cổ phần VN Pharma đóng
dấu Công ty Helix Canada trên Hồ sơ để đăng ký xin (Visa) và chuyển phần “Tiêu
chuẩn, phương pháp kiểm nghiệm” cho Phan Cẩm Loan nộp cho Cục Quản lý Dược
thẩm định cấp giấy phép nhập khẩu (khi khởi tố vụ án, Bùi Ngọc Duy đã vứt bỏ con
dấu Công ty Helix cùng nhiều con dấu nước ngoài khác, Cơ quan điều tra đã thu giữ
được các biên bản bàn giao các con dấu nước ngoài của Phòng nghiên cứu phát
triển Công ty Cổ phần VN Pharma). Trong hồ sơ nộp Cục Quản lý Dược có một số
nội dung không thống nhất giữa FSC, Tiêu chuẩn chất lượng và HDSD về thành
phần tá dược, hạn dùng, nhiệt độ bảo quản… Do lúc đầu Bùi Ngọc Duy và Hoàng
Trúc Vy cung cấp cho Phạm Văn Thông FSC ghi sai tên hoạt chất chính, Thông đã
viết hồ sơ kỹ thuật theo FSC này, sau đó Thông phát hiện lỗi của FSC và yêu cầu
Bùi Ngọc Duy cung cấp lại FSC mới, vì vậy có tài liệu trong Hồ sơ kỹ thuật viết
theo FSC mới và có tài liệu trong hồ sơ kỹ thuật viết theo FSC cũ, nên trong hồ sơ
nộp cho Cục Quản lý Dược có một số nội dung không thống nhất.
49
Sau khi hoàn thiện hồ sơ kỹ thuật thuốc H-Capita 500mg Caplet, Nguyễn
Minh Hùng chỉ đạo Nguyễn Trí Nhật - Phó tổng Giám đốc và Phan Cẩm Loan - Phó
trưởng phòng Xuất nhập khẩu Công ty Cổ phần VN Pharma lập Đơn hàng số:
225/HĐ/VNP-NK ngày 16/10/2013, đề nghị Cục Quản Dược Bộ Y tế cấp phép
nhập khẩu 200.000 hộp thuốc H-Capita 500mg Caplet do Công ty Helix Canada sản
xuất; thông qua nhà cung cấp là Công ty Austin Specialities Co. có địa chỉ tại: Unit
R2, R2U, G/F, Valiant IND CTR, 2-12 Au Pai Wan Str, Fo Tan Shai, NT, Hồng
Kông (Công ty Austin-Hồng Kông) do ông Luk Heung Tung làm Giám đốc, đây là
công ty nước ngoài kinh doanh dược phẩm đó được Bộ Y tế cấp Giấy phép hoạt
động về thuốc tại Việt Nam); kèm theo hồ sơ pháp lý, gồm: Giấy chứng nhận FSC,
GMP (giả); hộp thuốc và toa thuốc mẫu do Võ Mạnh Cường cung cấp; tiêu chuẩn,
phương pháp kiểm nghiệm thuốc và Tờ HDSD bằng tiếng Việt do Phạm Văn
Thông viết; nhãn mác lưu hành tại Việt Nam do Phòng nghiên cứu phát triển Công
ty Cổ phần VN Pharma tự thiết kế.
Tại bản án sơ thẩm số 306/2017/HSST ngày 25/8/2017 Tòa án nhân dân
Tp.HCM tuyên phạt như sau:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh Hùng, Võ Mạnh Cường, Nguyễn Trí
Nhật, Ngô Anh Quốc, Phan Cẩm Loan, Lê Thị Vũ Phương phạm tội “Buôn lậu”;
các bị cáo khác phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Bản án phúc thẩm 567/2017/HSPT ngày 30/10/2017 tại Tòa cấp cao tại
TpHCM đã hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 306/2017/HSST, ngày 25/8/2017 để
chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm Sát Tp.HCM điều tra lại.
Qua vụ án này chúng ta thấy rằng tại bản án sơ thẩm lần thứ 1 thì Cơ quan
Điều tra, VKS và Tòa án đã định tội danh buôn lậu là không phù hợp với hành vi
khách quan vụ án, Tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan Nhà Nước thì Cơ quan
điều tra, VKS không chứng minh đó là con dấu giả…dẫn đến bản án đã bị Tòa án
cấp trên hủy bỏ toàn bộ để điều tra, xét xử lại. Như vậy,trong vụ án hình sự, quá
trình định tội danh sai là một trong những sai tố tụng cơ bản và nặng nhất không thể
khắc phục nên việc Tòa cấp trên trả hồ sơ điều tra lại là hợp lý.
50
Viện Kiểm Sát Nhân dân Tối cao đã có cáo trạng truy tố toàn bộ bị cáo về tội
buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh theo điều 157 BLHS năm 1999, hủy bỏ tội
danh buôn lậu và tội làm giả con dấu, tài liệu cơ quan nhà nước. Vụ án đã được xét
xử sơ thẩm lần 2 vào ngày 24/10 -30/9/2019 vừa qua, bản án số 368/2019/HD-ST
ngày 01/10/2019, tuyên tất cả 12 bị cáo phạm tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa
bệnh theo khoản 4 điều 157 BLHS 1999, với hình phạt từ 20 năm tù giam đến 3
năm tù treo.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi trong việc định tội danh, thay đổi
tội danh một số đối tượng do chứng cứ bên CQĐT, VKS còn thiếu và yếu nhưng vụ
án lại có sự quan tâm lớn từ dư luận và từ nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế…nên
tạo nhiều áp lực cho việc xử lý vụ án
Thứ hai, bỏ lọt tội phạm
Trái với việc làm oan người vô tội là việc bỏ lọt tội phạm. Đó là trường hợp
hành vi của một người có đầy đủ yếu tố để cấu thành tội buôn lậu nhưng lại không
khởi tố hoặc xử lý bằng biện pháp hành chính. Hoặc trường hợp người phạm tội đã
thực hiện nhiều hành vi nguy hiểm, có đủ cơ sở để khởi tố nhiều tội nhưng lại
không khởi tố mà chỉ khởi tố một tội. Ví dụ: trong vụ án buôn lậu, thì các đối tượng
thường dùng các thủ đoạn gian dối trong kê khai hàng hóa, cấp các giấy chứng
nhận… thông qua việc mắc ngoặc, hối lộ các Cán bộ hải quan, cơ quan kiểm định…
nếu có căn cứ đưa tiền hay dùng các tài sản vật chất khác cho cán bộ thì phải khởi
tố thêm tội đưa, nhận hối lộ hoặc tội thiếu trách nhiệm.
Chúng ta thấy qua báo cáo của Phòng cảnh sát Kinh Tế Tp.HCM thì số vụ
việc buôn lậu bị phát hiện rất nhiều, có dấu hiệu hình sự tuy nhiên việc xử lý hình
sự chỉ rất ít, ví dụ như: năm 2018 phát hiện 448 vụ, 501 đối tượng nhưng xử lý hình
sự 18 vụ, với 29 đối tượng còn lại là xử lý hành chính hoặc các biện pháp khác.
Ví dụ trong vụ án Trần Minh Luận và đồng bọn phạm tội buôn lậu đang
được Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao truy tố bằng bản Cáo trạng số 59/Ct-VKS-V1
ngày 31/7/2019 sau nhiều lần trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Trong vụ án này xuyên suốt trong các hành vi phạm tội như: nhập sữa
51
Ensure có dòng chữ “not tobe sold in VietNam and Mexico”, nhập máy móc điện
lạnh cũ, nhập mỹ phẩm, thực phẩm, phù gia và hóa chất tẩy rửa…thì Trần Minh
Luận và các nhân viên đều khai báo giống nhau là đều thông qua Phạm Viết Đoàn
là cán bộ hải quan giúp đỡ để làm thủ tục nhập khẩu rất nhiều lần, thậm chí có cơ sở
nói hàng hóa là của Đoàn Nhưng qua quá trình điều tra, lấy lời khai, đối
chất…Đoàn đều không nhận…và CQĐT,VKS không khởi tố Đoàn. Mặc dù với
hành vi tương tự, Đoàn đã có liên quan đến nhiều vụ việc buôn lậu, ngoài vụ án này
chuẩn bị xét xử thì trong bản án số 68/2019/HS-ST ngày: 20-3-2019 tại Tòa án nhân
dân Tp.HCM xét xử bị cáo Đoàn Thị Kiều Oanh về tội buôn lậu, nhưng Viện Kiểm
Sát, Tòa án vẫn không truy tố, xét xử được Phạm Viết Đoàn, khiến cho những
người trong cuộc rất bức xúc. Vụ án này sau nhiều lần hoãn điều tra bổ sung đã đưa
ra xét xử sơ thẩm vào ngày 8/10/2019 vừa qua với các tội danh Buôn lậu,tội đưa,
nhận hối lộ và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ.
Như vậy, với nhiều vụ việc liên quan thì có cơ sở để nhận định việc không
khởi tố, xét xử Phạm Việt Đoàn là có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm. [38].
Trường hợp bỏ lọt tội phạm còn có thể hiện ở vụ án buôn lậu Đoàn Thị Kiều
Oanh, bản án số 68/2019/HS-ST ngày 20/3/2019 tại Tòa án nhân dâ Thành phố Hồ
Chí Minh. Trong vụ án buôn lậu này cũng giống như vụ án buôn lậu của Trần Minh
Luận nêu trên thì Công chức Hải quan Phạm Việt Đoàn cũng nhờ các doanh nghiệp
đứng tên các công ty hoặc lô hàng nhập khẩu để nhập lậu, khi bị bắt thì tất cả đều
khai nhân chủ hàng thực tế là ông Đ tuy nhiên ông Đ đều không công nhận, và việc
điều tra đối với trường hợp này chưa thật sự gắt gao dẫn đến nhiều khả năng là bỏ
lọt tội phạm buôn lậu đối với trường hợp này.
- Thứ ba, Định tội danh đúng nhưng sai về khung hình phạt:
Thực tiễn xảy ra rất nhiều các trường hợp như vậy không chỉ riêng ở tội buôn
lậu mà ở rất nhiều tội khác vì ở một số điều luật việc giải thích các từ ngữ mang tính
định tính, định lượng không rõ ràng, khiến việc định tội danh thì đúng nhưng xác
định khung, khoản của điều luật lại không đúng, dẫn đến việc quyết định hình phạt
sai. Hiện nay chỉ có thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA
52
quy định (mục 3.4 thông tư) giải thích thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng, hậu quả
rất nghiêm trọng, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng…
Ngoài quy định cụ thể thì thông tư liên tịch 02 nêu trên còn có quy định mở
như sau: “Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho
thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự,
an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để
đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng”. Theo tác giả, quy định này không rõ ràng, mang nặng
tính chủ quan vì không nói rõ “hậu quả phi vật chất là gì?và ảnh hưởng đến đường
lối của Đảng, chính sách của Nhà nước ra sao?sẽ dễ dẫn đến tùy tiện trong việc áp
dụng, việc xét xử của Tòa án khó có sự độc lập, và vi phạm nguyên tắc chỉ tuân
theo pháp luật.
Ví dụ như vụ VN Pharma nêu trên, khi hủy bản án sơ thẩm và điều tra lại.
Tội buôn lậu và tội làm giả con dấu bị đình chỉ mà đổi tất cả bị can sang tội danh
“buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh”, CQANĐT thuộc BCA kết luận là thuộc
khoản 2 điều 157 nhưng khi Cáo trạng của VKSNDTC thì truy tố toàn bộ ở khoản 4
điều 157 thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khung hình phạt 20 năm, chung
thân hoặc tử hình. Trường hợp này VKSNDTC đã viện dẫn điều khoản mở trên của
TTLT 02/2001/TANDTC-VKSNDTC-BCA vì thực tế vụ VN Pharma chưa gây ra
hậu quả cho sức khỏe, toàn bộ thuốc còn ở trong kho chưa xuất ra ngoài và cũng
chưa có thu lợi nhuận.
Như vậy theo quan điểm cá nhân của tác giả thì việc viện dẫn điều khoản này
và áp dụng như vậy là đã vi phạm nguyên tắc có lợi cho bị can bị cáo theo Nghị
quyết 41/2017/QH14 về việc thi hành BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
Hiện nay tuy đã có xét xử sơ thẩm tuy nhiên vẫn có nhiều ý kiến tranh cãi về khung
hình phạt, thế nào là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng? vụ án đang tiếp tục mở
rộng điều tra làm rõ nhiều vấn đề, các bị cáo, luật sư và những người liên quan
khiếu nại, kháng cáo về bản án sơ thẩm.
53
2.2.3. Những nguyên nhân gây ra các khó khăn, hạn chế trong hoạt động
định tội danh tội buôn lậu tại TP.HCM.
Từ những khó khăn , hạn chế trong hoạt động định tội danh tội buôn lậu đã
nêu tại mục 2.2.2 nêu trên thì tác giả rút ra các nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, quy định pháp luật về tội buôn lậu ở BLHS năm 1999, sửa đổi bổ
sung năm 2009 về tội buôn lậu có nhiều điểm chưa rõ ràng, khiến cho việc định tội
danh, định khung hình phạt còn nhiều khó khăn, dẫn nhiều khi mỗi nơi áp dụng một
kiểu không thống nhất.
Ví dụ như quy định về tội buôn lậu tại BLHS năm 1999 có nhiều các tình tiết
mang tính định tính rất nhiều nhưng chưa lượng hóa ra được cụ thể (thu lời bất
chính lớn/rất lớn/đặc biệt lớn; số lượng lớn/số lượng đặc biệt lớn; gây hậu quả
nghiêm trọng/gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng) tuy BLHS năm 2015, sửa đổi
2017 đã có lượng hóa và sửa đổi tuy nhiên BLHS 2015 mới có hiệu lực thi hành,
còn các vụ án áp dụng bằng BLHS năm 1999, sửa đổi 2009 có nhiều vướng mắc
trong xử lý.
Về giá trị tài sản phạm pháp (vật phạm pháp): Theo BLHS năm 1999 là thấp
nhất từ 100 triệu đồng (khoản 1) và cao nhất là từ 01 tỷ đồng trở lên (khoản 4) và tại
BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 vẫn quy định mức khởi điểm từ 100 triệu đồng
và cao nhất là 01 tỷ đồng, cá nhân tác giả thấy không còn phù hợp và lạc hậu. Vì
nếu so với giá trị 100tr đồng, 01 tỷ đồng từ 1999 đến nay 2019 là khác nhau, so với
tỷ lệ lạm phát cũng như sự mất giá trị của đồng tiền hàng năm. Do đó, hy vọng rằng
khi sửa đổi, bổ sung BLHS thì các nhà làm luật, Quốc hội nên xem xét lại vấn đề
này.
Hay như quy định tội phạm buôn lậu hoàn thành từ khi nào? Khi BLHS 1999
quy định “ người nào buôn bán trái phép qua biên giới…”; BLHS 2015 quy định
“Người nào buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc
ngược lại trái quy định của pháp luật”. thời điểm hoàn thành tội buôn lậu vẫn có hai
quan điểm là “khi hàng hóa phải được đưa qua biên giới” mới được coi là tội phạm
hoàn thành; còn quan điểm “chỉ cần người phạm tội chuẩn bị (giả giấy tờ, khai gian
54
hàng…) để hướng đến việc đưa hàng hóa qua biên giới là tội buôn lậu đã hoàn
thành, không cần phải qua biên giới. Do quy định này mà trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử vẫn còn nhiều quan điểm vướng mắc, cần phải được tháo gỡ, quy
định sớm.
Cấu thành về tội trốn thuế và tội buôn lậu vẫn có nhiều điểm tranh cãi, có
nhiều vụ án gây ra tranh cãi ở tội trốn thuế hay tội buôn lậu vì mục đích của hai tội
này cũng hướng đến việc trốn thuế.
Ví dụ: vụ án của Liu Kuo Chu, sơ thẩm lần thứ 1 TAND Tp.Hồ Chí Minh
tuyên phạt Chu 19 năm tù về tội buôn lậu, tại phiên phúc thẩm Tòa phúc thẩm
TAND tối cao đã hủy án và đề nghị cấp sơ thẩm định lại tội danh về về hành vi
không nộp thuế, tuy nhiên tại Phiên tòa sơ thẩm lần 2, Tòa án vẫn quyết định truy
cứu Chu về tội buôn lậu. Như vậy, do quy định pháp luật không rõ ràng, lại không
được giải thích việc áp dụng cụ thể cho nên việc định tội danh giữa tội Buôn lậu hay
tội trốn thuế vẫn có nhiều bất cập, dẫn đến mỗi nơi, mỗi Tòa hiểu một kiểu không
thống nhất quan điểm định tội.
Ở những tội phạm khác ví dụ như các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, tội
phạm xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm…ngoài BLHS quy
định thì còn có rất nhiều các văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể, ngoài ra còn Hội
đồng thẩm phán TANDTC còn ban hành các án lệ, tổng kết kinh nghiệm điều tra,
truy tố, xét xử…tuy nhiên đối với tội buôn lậu thì hiện nay vẫn không có các văn
bản quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng, vẫn chưa có các án lệ cụ thể nào về xét
xử, định tội danh tội buôn lậu được ban hành…đây cũng là một trong những nguyên
nhân lớn gây khó khăn cho hoạt động định tội danh tội buôn lậu ở các giai đoạn của
tố tụng hình sự ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng như cả nước nói chung.
Thứ hai, năng lực của ĐTV, KSV, TP trong điều tra, truy tố, xét xử án buôn
lậu nói riêng và kinh tế nói chung không đồng đều, đa phần các ĐTV, KSV, TP và
cán bộ được giao một số hoạt động điều tra về tội buôn lậu (Hải quan) đều luôn cố
gắng, tích cực để nâng cao khả năng chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó vẫn có có
một số nhỏ cán bộ về năng lực chưa đáp ứng được, nắm các quy định thủ tục về
55
xuất nhập khẩu hàng hóa hay các yếu tố về cấu thành tội phạm buôn lậu chưa vững,
không cập nhật các quy định pháp luật mới hay vận dụng cách thức xử lý sai…hoặc
có một số cán bộ thì bảo thủ, dẫn đến việc xử lý các vụ việc về buôn lậu, hay định
tội danh buôn lậu không đúng, một số trường hợp thì khởi tố sai đình chỉ ngay giai
đoạn điều tra nhưng có trường hợp có bản án, dẫn đến phải bồi thường oan sai.
Cũng có trường hợp vì nôn nóng muốn điểu tra xong mà dùng nhiều biện pháp để
ép, dụ dỗ bị can nhận tội… khi ra Tòa bị can, bị cáo phản cung dẫn đến vụ án phải
điều tra bổ sung…
Ví dụ: Vụ án buôn lậu 54 xe siêu sang của Việt Kiều, tại bản án sơ thẩm số
454/2015/HSST ngày 31/12/2015, sau đó bị Tòa phúc thẩm hủy toàn bộ bản án để
điều tra, xét xử lại. Ở vụ án này có nhiều vấn đề tranh cải, về định tội danh, bỏ lọt
tội phạm tuy nhiên vấn đề bàn tới đây là việc điều tra, truy tố, xét xử có nhiều điểm
chủ quan cả về tố tụng và nội dung, dẫn đến án sơ thẩm bị hủy để điều tra, truy tố,
xét xử lại tốn nhiều thời gian, công sức của Nhà nước. Hoặc ví dụ như trong vụ án
buôn lậu Trần Mình Luận như nêu ở trên, trong quá trình hỏi cung, có ĐTV không
hiểu về thủ tục Logistic, thủ tục khai trình hải quan nhập khẩu dẫn đến khi hỏi cung
thì bị can trả lời và giải thích nhiều nhưng ĐTV này không nắm rõ, dẫn đến phải hỏi
đi hỏi lại nhiều.
Thứ ba, vì tội buôn lậu thuộc lĩnh vực kinh tế, xuất nhập khẩu hàng hóa nên
việc điều tra, thu thập các chứng cứ sẽ khác với những loại tội phạm khác.
Cụ thể, tội buôn lậu là tội mua bán hàng hóa trái phép qua biên giới hoặc từ
khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại do đó khi điều tra, truy tố, xét xử nhất
thiết không thể không vận dụng Luật hải quan và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi
hành Luật Hải quan, các Luật chuyên nghành liên quan đến hàng hóa nhập lậu, luật
thuế xuất nhập khẩu, các thủ tục hành chính về đăng ký, kiểm soát hải quan…tại
điểm b khoản 2 điều 35 BLTTHS thì quy định cho Cơ quan hải quan cụ thể Cục
điều tra chống buôn lậu, Cục kiểm tra sau thông quan, Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh ,
Tp Trực thuộc Trung Ương, Chi Cục Hải quan cửa khảu và các cá nhân có thẩm
quyền có quyền tiến hành một số hoạt động điều tra tội phạm buôn lậu. Do đó, nhất
56
thiết khi điều tra, truy tố, xét xử các vụ án này thì ĐTV, KSV, TP phải có sự liên
kết, phối hợp để đảm bảo giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng pháp luật.
Thực tế, vẫn có nhiều ĐTV,KSV,TP không nắm rõ các quy định pháp luật về
thủ tục Hải quan,xuất nhập khẩu…khi thu thập tài liệu, chứng cứ không đúng theo
trình tự thủ tục tố tụng...dẫn đến chứng cứ thiếu, yếu thì định tội danh buôn lậu.
Vì điều 87 Bộ Luật Tố Tụng Hình sự năm 2015 quy định về nguồn chứng
cứ, tuy nhiên các nguồn chứng cứ này muốn trở thành chứng cứ buộc tội hay gỡ tội
thì phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định nếu không
không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.
Thứ tư, các vụ án buôn lậu ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng phức tạp,
tinh vi mà các quy định pháp luật một số còn chưa dự liệu hết được do đó hoạt động
định tội danh tội buôn lậu cũng như đấu tranh phòng, chống buôn lậu cũng gặp rất
nhiều khó khăn, phức tạp.
Các vụ án buôn lậu xảy ra tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng nhiều vì
Nhà nước đã có nhiều chính sách mở cửa, thông thoáng hơn trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới
để phù hợp với xu thế hội nhập chung. Tuy nhiên, ngoài mặt lợi là nền kinh tế ngày
càng phát triển, đời sống người dân ngày càng tăng cao thì các tội phạm liên quan
về kinh tế, buôn lậu, công nghệ cao…ngày càng gia tăng về số lượng, các tội phạm
buôn lậu sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn,
luôn thay đổi… Mà ngay tức thì pháp luật về tội buôn lậu cũng như định tội danh
tội buôn lậu chưa thể dự liệu và quy định hết, việc thay đổi, bổ sung không thể nói
là làm liền được mà phải qua đánh giá thực tiễn cũng như trãi nhiều trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định.
Ví dụ: Như việc lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất hàng cấm để buôn lậu
rất nhiều trong thời gian qua là điển hình là việc lợi dụng các kẻ hở, chính sách để
buôn lậu nhằm mục đích trốn thuế, vụ lợi bất hợp pháp.
Bản án số: 119/2017/HSST Ngày 30/3/2017 tại TAND Tp.Hồ Chí Minh.
[30]
57
Nội dụng: Xét xử bị cáo Nguyễn Thị Mộng Tuyền và các đồng phạm về “tội
buôn lậu” và “tội che dấu tội phạm”xảy ra trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh. Với hình
thức tạm nhập tái xuất hàng cấm.
Nội dung căn cứ cáo trạng là những người phạm tội đã lợi dụng chính sách
tạm nhập, tái xuất hàng cấm để nhập lậu hàng hóa lốp ô tô đã qua sử dụng từ nước
ngoài về Việt Nam để bán kiếm lời. Để thực hiện việc nhập khẩu lốp xe tô tô đã qua
sử dụng (là hàng hóa cấm nhập khẩu) từ Mỹ về Việt Nam bán cho thì các bị cáo đã
sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, móc ngoặc với nhiều đối tượng khác
nhau kể cả các đối tượng làm trong các Cơ quan Nhà Nước và đã nhập trot lọt rất
nhiều hàng hóa là lốp ô tô đã qua sử dụng với giá trị hàng hóa vi phạm pháp luật rất
lớn, trốn tránh số tiền thuế nhập khẩu cao và đã tiêu thụ ra thị trường trong nước
trótnhiều lô hàng cấm do các bị cáo nhập về mà theo quy định phải tái xuất khẩu.
Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành thu giữ toàn bộ số lốp xe ô tô hiện còn
của hai doanh nghiệp Đại Tuấn Nguyễn, Đại Tuấn Lâm, cụ thể:
- Lô hàng 23 container lốp xe ô tô đã qua sử dụng đã làm thủ tục tái xuất
sang Campuchia qua cửa khẩu Mộc Bài, Tây Ninh, hiện đang gửi tại Công ty
XLPLR Việt Nam, có trọng lượng 413.136 kg;
- 16 container lốp xe ô tô đã qua sử dụng của Doanh nghiệp Đại Tuấn
Nguyễn, đã mở tờ khai tại Chi cục HQ KV1, có trọng lượng 256.000 tấn;
- 33 container lốp xe ô tô đã qua sử dụng của Doanh nghiệp Đại Tuấn
Nguyễn, Đại Tuấn Lâm tại Cảng ICD Phước Long, Thành phố Hồ Chí Minh, có
trọng lượng 834.613 kg (chưa mở tờ khai) thì bị phát hiện, thu giữ;
- 14.214 chiếc lốp xe ô tô đã qua sử dụng, tương đương 156,354 tấn là số
lượng lốp tồn của Công ty XLPLR Việt Nam đã mua.
Tại Kết luận định giá tài sản số 8128 ngày 17/10/2016 của Hội đồng định giá
tài sản trong tố tụng hình sự Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Trị giá 01 kg lốp xe
ô tô đã qua sử dụng là 2.879 đồng. Tổng trị giá số lốp xe ô tô đã qua sử dụng hiện
đang tạm giữ gồm: lô hàng 16 container, trọng lượng 256.000 kg; lô hàng 33
58
container, trọng lượng 834.613 kg và lô hàng 23 container trọng lượng 413.136 kg
là 4.329.292.544 đồng.
Đối với Nguyễn Hữu Thành, hiện Thành đã xuất cảnh, không có mặt tại địa
phương, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra Lệnh truy nã đối với Nguyễn Hữu Thành
và ra quyết định tách vụ án hình sự đối với Nguyễn Hữu Thành về tội “Buôn lậu”,
khi nào bắt được sẽ tiếp tục đề nghị xử lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
Quá trình xét xử Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh đã tuyên như sau: Tuyên
bố Nguyễn Thị Mộng Tuyền, Ngô Đức Huy phạm tội “Buôn lậu”; Nguyễn Văn
Trang và Lý Ngọc Quyết phạm tội “Che giấu tội phạm”.
Bị cáo Nguyễn Thị Mộng Tuyền: 07 năm tù; Bị cáo Ngô Đức Huy: 03 năm
tù; bị cáo Nguyễn Văn Trang 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian
thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án.; bị cáo Lý Ngọc Quyết 01 năm tù
nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.
Vậy, với vụ án cụ thể như trên, thấy được thời gian vừa qua các đối tượng buôn lậu
lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất, quá cảnh các mặt hàng cấm, các chính sách
về miễn giảm thuế xuất nhập khẩu đối với các loại hàng hóa này để buôn lậu đã tìm
cách nhập các mặt hàng cấm vào Việt Nam theo diện tạm nhập, nhưng khi vào Việt
Nam thì lại bán lại, tiêu thụ trong nước mà không tái xuất như quy định (điển hình
như vụ án tạm nhập lốp xe ô tô cũ nêu trên). Các hành vi phạm tội này diễn ra một
cách rất tinh vi nhưng cũng rất rầm rộ, nhiều trong thời gian qua làm cho hoạt động
định tội danh tội buôn lậu với các hành vi, thủ đoạn như trên cũng như công tác đấu
tranh, phòng chống khó khăn. Một phần do quy định pháp luật chồng chéo, nhất là
tranh nhiệm giám sát các hàng hóa tạm nhập vào Việt Nam cho đến khi tái xuất,
mỗi văn bản quy định một cơ quan do đó khi xảy ra vấn đề thì lại đùn đẩy trách
nhiệm, khó xử lý. Cụ thể theo quy định tại khoản 2 điều 15 thông tư 05/2014/TT-
BTC về thẩm quyền giải tỏa hàng hóa tạm nhập tái xuất ách tắc tại các cảng, cửa
khẩu theo yêu cầu của Bộ Công Thương trong trường hợp có ách tắc. Tuy nhiên
quy định về chính sách quản lý hàng tạm nhập tái xuất và thủ tục hải quan thì Cơ
quan Hải quan lại có trách nhiệm giám sát hàng hóa từ khi tạm nhập đến khi tái xuất
59
khỏi lãnh thổ Việt Nam do đó, dẫn đến chồng chéo trách nhiệm, Cơ quan Hải quan
bị động trong công tác giám sát Hải quan đặc biệt trong trường hợp kho bãi của
doanh nghiệp nhập khẩu thuộc địa bàn khác với địa bàn quản lý của Cơ quan Hải
quan. Bên cạnh đó thực hiện nghị định số08/2015/NĐ-CP về quy định chi tiết và
biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát
hải quan thì các Cục Hải quan, Chi Cục Hải quan đã có các văn bản phối hợp với
các doanh nghiệp kiểm định, các doanh nghiệp kinh doanh kho bãi tại khu vực
cảng, các doanh nghiệp về Logistic để thuận lợi hơn cho công tác kiểm tra, giám sát
Hải quan nhất là với những hàng hóa được lưu giữ tại các kho ngoại quan. Căn cứ
vào các văn bản phối hợp này thì các doanh nghiệp kho bãi, các công ty kiểm định,
giám định này sẽ có trách nhiệm giám sát đối với hàng hóa được lưu tại kho bãi hay
thực hiện việc giám định tại doanh nghiệp mình. Đây là một quy định mở hơn, giảm
bớt gánh áp lực giám sát cho lực lượng Hải quan vì số lượng hàng nhập khẩu,
doanh nghiệp nhập khẩu ngày càng nhiều mà lực lượng giám sát Hải quan sẽ khó
lòng kiểm tra, giám sát hết do vậy việc giao cho các công ty kho bãi, công ty giám
định kiểm định, logistic trong lĩnh vực xuất nhập khẩu giám sát sẽ là hợp lý. Tuy
nhiên, thực tế việc giám sát hàng nhập khẩu cho ở lưu giữ tại các kho ngoại quan
của các doanh nghiệp nay nhiều trường hợp chưa thật chặt chẽ, khiến việc hàng
chưa được thông quan vẫn bị đưa đi bán tiêu thụ mà doanh nghiệp giám sát không
biết. Cụ thể như trường hợp vụ án buôn lậu của Trần Minh Luận như nêu ở trên, thì
Trung Tâm Kiểm định, Đo lường Chất lượng 3 (gọi tắt là Trung tâm 3) có trách
nhiệm giám sát với 09 Container sữa Ensure được lưu giữ tại kho ngoại quan, đang
kiểm định chất lượng tại Trung tâm 3 nhưng doanh nghiệp bán hết sữa khi chưa
được thông quan thì Trung tâm 3 cũng không biết, chỉ khi CQĐT thông báo thì
Trung tâm 3 mới biết.
Như vậy có thể nói một số quy định về giám sát hàng nhập khẩu chưa thật
sự rõ ràng, còn chồng chèo dẫn đến phối hợp xử lý án buôn lậu về định tội danh
cũng như phòng chống tội phạm buôn lậu còn chưa thật hiệu quả.
Đối với hoạt động định tội danh các hành vi lợi dụng chính sách tạm nhập tái
60
xuất hàng cấm để nhập lậu hàng nếu áp dụng BLHS 1999 là hành vi buôn lậu vì đối
tượng hàng hóa tạm nhập tái xuất là hàng cấm nhập khẩu, các đối tượng vì mục đích
vụ lợi, trốn thuế mà có thực hiện hành vi tạm nhập, thủ tục ban đầu đều tuân theo
quy định xuất nhập khẩu, tuy nhiên bản chất của tạm nhập tái xuất là hàng hóa tạm
nhập về chỉ được lưu lại ở Việt Nam một thời gian nhất định theo thỏa thuận từ phía
nước ngoài và phía nhập hàng ở Việt Nam, sau đó phải làm thủ tục tái xuất nhưng
các đối tượng này khi tạm nhập về lại bán, tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên, Căn cứ
theo BLHS 2015, sửa đổi 2017 thì Tội buôn lậu theo quy định tại điều 188 đã bỏ
hàng cấm ra khỏi là đối tượng tác động của tội buôn lậu. Vậy từ sau 01/01/2018 thì
các hành vi phạm tội này sẽ được định tội danh là tội buôn lậu, tội sản xuất, mua
bán hàng cấm hay tội trốn thuế? Đó là vấn đề tác giả đặt ra và quan tâm?
[11,tr. 53-55], [34], [33], [39]
Kết luận Chương 2
Nội dung Chương 2 như đã trình bày ở trên đi sâu vào phân tích về mặt lý
luận và thực tiễn tình hình định tội danh buôn lậu trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh.
Qua việc phân tích các điều kiện về địa lý, kinh tế, xã hội đã lý giải vì sao Tp.Hồ
Chí Minh trở thành điểm nóng về buôn lậu nhất trong cả nước hiện nay.
Qua số liệu về tình hình phát hiện và xử lý tội buôn lậu của Công an
Tp.HCM và tình hình xử các vụ án buôn lậu tại TAND Tp.Hồ Chí Minh chúng ta
thấy các hành vi buôn lậu xảy ra rất nhiều và tinh vi tuy nhiên việc xử lý vẫn chưa
được nhiều và quyết liệt một phần do tội phạm ngày càng nhiều, phức tạp, thủ đoạn
tinh vi… một phần cũng do lượng cán bộ hải quan, Công an kinh tế chưa thực sự
đáp ứng được trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm buôn lậu.
Việc phòng chống, xử lý án buôn lậu tại Tp.HCM cũng có nhiều thành tựu
nổi bật thời gian qua (phát hiện, xử lý nhiều vụ án lớn, thu hồi về cho ngân sách
Nhà nước nhiều khoản tiền tiền thất thoát, ngăn chặn nhiều hậu quả nghiêm trọng
xảy ra nếu hành vi buôn lậu xảy ra (Các vụ buôn lậu phế liệu, Hàng điện máy điện
lạnh cũ…). Tuy nhiên thực tiễn một số vụ án nổi cộm hiện nay, cũng thấy được
61
những bất cập, khó khăn trong quá trình định tội danh buôn lậu tại Tp.Hồ Chí Minh
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Từ đó, tác giả cũng chỉ ra được những
nguyên nhân gây ra những khó khăn, hạn chế và hướng giải quyết, khắc phục trong
thời gian tới. Hy vọng rằng những ý kiến của tác giả sẽ được quan tâm và áp dụng.
62
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH
TỘI BUÔN LẬU
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu
3.1.1. Yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã mở ra định hướng phát triển mới
cho Đất nước, đặc biệt là định hướng Phát triển nền kinh tế mở với nhiều thành
phần định hướng XHCN, cơ chế thị trường được mở ra và phát triển, từ đó đã đưa
đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước phát triển, có nhiều thành tựu
to lớn, tăng cường hội nhập, phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học xã hội…với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, vị thế, uy tín của Việt Nam càng ngày
càng nâng cao trong quan hệ quốc tế…
Với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường Nhà nước không can thiệp sâu vào
hoạt động của doanh nghiệp, thương nhân mà điều tiết hợp lý bằng pháp luật, lợi
nhuận, hiệu quả là quan trọng và là động lực trong hoạt động kinh doanh.
Đổi mới trong các chính sách pháp luật về kinh tế, đặc biệt tội phạm trong
vĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại phải được nghiên cứu, hình sự hóa hay
phi hình sự hóa những hành vi nào được coi là tội phạm, hành vi nào không coi là
tội phạm thật hợp lý để vừa kích thích doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh buôn bán
nhưng mặt khác đảm bảo được an ninh, trật tự và lợi ích của Nhà nước, doanh
nghiệp cũng như các cá nhân, tổ chức có liên quan khác mặt khác cũng phù hợp với
xu thế phát triển kinh tế chung của quốc tế, thế giới. Hình phạt áp dụng đối với các
tội này cũng chủ yếu sẽ đánh chủ yếu vào kinh tế, là hạn chế hoặc tước lợi ích kinh
tế, hạn chế bớt các hình phạt tù, tước quyền tự do đối với cá nhân, pháp nhân
thương mại phạm tội.
Tội buôn lậu từ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 năm 2009
đã bãi bỏ hình phạt tử hình thay bằng hình phạt tù chung thân, BLHS năm 2015
hình phạt cao nhất chỉ còn là 20 năm tù; tăng cường hình phạt tiền; Pháp nhân
63
thương mại cũng bị khởi tố hình sự đối với tội buôn lậu, hình phạt tiền là chính
ngoài ra tùy hành vi vi phạm có thể tạm đình chỉ hoạt động, đình chỉ hoạt động,
tước giấy phép hoạt động có thời hạn hoặc vĩnh viễn. Tuy các quy định vẫn còn các
bàn cải nhưng đây cũng xem là điểm tiến bộ trong quy địnhvề tội buôn lậu.
3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp hình sự
Theo Luật học thì Cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là một hệ thống Tòa
án nhân danh quyền tối cao hoặc Nhà nước thực thi công lý, một cơ chế để giải
quyết các tranh chấp xảy ra.
Ở Việt Nam tại điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: 1. Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt Nam, thực hiện
quyền tư pháp. 2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác
do luật định. 3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Như vậy, Hiến pháp Việt Nam đã quy định Cơ quan tư pháp cụ thể là Tòa án
nhân dân các cấp là cơ quan xét xử, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền con người,
quyền công dân, chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Như vậy, so với trước khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành
thì vẫn còn nhiều ý kiến về thế nào là tư pháp, thế nào là Cơ quan tư pháp nhưng từ
khi Hiếp pháp năm 2013 ban hành và quy định rõ thì cơ bản đã thống nhất được.
Hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử và các cơ quan tư pháp là hệ thống Tòa án
nhân dân các cấp theo luật định. Vậy, Tư pháp hình sự, Cơ quan tư pháp hình sự đó
là hoạt động thực thi quyền tư pháp hình sự, được hiểu đó là hoạt động xét xử các
vụ án hình sự ở Việt Nam theo phạm vi BLHS, BLTTHS quy định.
Như vậy, để đảm bảo việc xét xử các vụ hình sự mục tiêu là hoạt động định
tội danh các tội buôn lậu nói riêng và các tội phạm khác nói chung diễn ra đạt được
chính xác hiệu quả và về yêu cầu cao hơn nữa là đảm bảo quyền con người, quyền
dân chủ, độc lập, chủ quyền, phát triển kinh tế, với mục tiêu xây dựng CNXH, “dân
64
giàu, Nước Mạnh, dân chủ, công bằng, Văn Minh”. Đảng, Nhà nước Việt Nam từ
đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986, và cụ thể là từ năm 2005 với Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 đã đề ra chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, với
phương hướng khẩn trương, đồng bộ, hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân
sự. Để cải cách tư pháp, hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục
tư pháp, sửa đổi, bổ sung hay xây dựng các Bộ luật mới về BLHS, BLTTHS, Luật
tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tạm giữ, tạm giam, Luật Tổ chức cơ quan điều tra
hình sự…, hoàn thiện hệ thống các cơ quan Tư pháp, tăng cường đào tạo nâng cao
năng lực, phẩm chất, đạo đức các cán bộ trong hệ thống các cơ quan tư pháp, bổ trợ
tư pháp..., nâng cao hiệu quả các cơ quan Kiểm sát, công tố…từ Đại hội Đảng XII
đã xác định nhiệm vụ: ”tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư
pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng
bước hiện đại, bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người…tiếp tục xã hội hóa một
số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ điều kiện”
Chủ trương thay đổi, cải cách tư pháp đặc biệt là tư pháp hình sự của Đảng
và Nhà nước ta thể hiện qua các Nghị quyết của Đảng (Nghị quyết 48/NQ-TW của
Bộ Chính Trị, Nghị quyết 49/NQ-TW, Nghị quyết 08/NQ-TW…) thời gian qua là
đúng đắn và đã đạt được nhiều thành tựu lớn, tuy nhiên việc đổi mới, cải cách nền
tư pháp nói chung, tư pháp hình sự nói riêng nhưng phải đảm bảo đáp ứng được các
yêu cầu cơ bản sau: việc tăng cường hiệu quả kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng
hình sự; Cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xác định đúng đắn quyền, nghĩa vụ của
các chủ thể tố tụng hình sự cho phù hợp với chức năng của các cơ quan tố tụng, đề
cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trước nhân dân và Nhà nước; đáp
ứng nhu cầu xây dựng hệ thống tư pháp hình sự công khai, minh bạch, dân chủ; đáp
ứng được yêu cầu đổi mới, yêu cầu hội nhập quốc tế mạnh mẽ.
Có thể thấy, cải cách, đổi mới tư pháp nói chung, tư pháp hình sự nói riêng
không phải là một vấn đề đơn giản mà cần thời gian, lộ trình cụ thể, lâu dài và cũng
có nhiều khó khăn, phức tạp trong quá trình thực hiện. Có rất nhiều vấn để cần giải
quyết, cần xử lý, có ý kiến đồng thuận nhưng cũng có nhiều tranh cải khi thực hiện
65
chính sách cải cách…Do vậy, thực tế muốn cải cách tư pháp hình sự tiến bộ, hiệu
quả đáp ứng được các yêu cầu như nêu ở trên không chỉ là cải cách, đổi mới với các
Cơ quan tư pháp, Cán bộ tư pháp nói riêng mà phải cải cách đồng bộ với các Cơ
quan giám sát, hổ trợ tư pháp hình sự, hệ thống cơ quan Thi hành án Hình sự khác
như vậy mới nâng cao được hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự được chính xác,
đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.
Việc cải cách tư pháp hình sự là nhiệm vụ quan trọng, thời gian lâu dài tuy
nhiên với chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà Nước và sự chung tay
của đông đảo Công dân thì tin rằng, nền tư pháp hình sự Việt Nam ngày càng hoàn
thiện hơn, tiến bộ hơn, công bằng, văn minh hơn.
3.1.3. Yêu cầu bảo đảm quyền tự do kinh doanh
Hiến pháp năm 1992 đã quy định về quyền tự do kinh doanh của Công dân,
Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm (điều 33).
Từ quy định của Hiến pháp thì Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư đã bỏ bớt các
quy định rườm ra trong đăng kinh ký kinh doanh, các lĩnh vực kinh doanh có điều
kiện, giấy phép con, thủ tục hành chính công khai, minh bạch…tạo tâm lý thoải mái
cho những người kinh doanh, doanh nghiệp. Hơn thế nữa các thủ tục đăng ký kinh
doanh, đăng ký đầu tư thông thoáng, không kìm kẹp, không còn nhiều các quy định
rườm rà…thì kích thích người dân, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh để tìm kiếm
lợi nhuận cho bản thân, đồng thời nộp thuế cho ngân sách Nhà nước…nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, dân trí…giảm thiểu rất nhiều tệ nạn xã hội, hay vi phạm
pháp luật. Nhà nước khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh
doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau, hạn chế, bỏ bớt các lĩnh vực kinh doanh có điều
kiện (hiện nay có 243 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, dự thảo sửa đổi luật đầu
tư và luật doanh nghiệp năm 2019 dự kiến bãi bỏ 17 ngành nghề kinh doanh có có
điều kiện) ngành nghề độc quyền Nhà nước, thoái vốn Nhà nước, cổ phần hóa ở các
doanh nghiệp Nhà nước một thành viên 100% vốn Nhà nước trước kia để cho các
66
cá nhân, doanh nghiệp tư nhân góp vốn, mua cổ phần đầu tư làm tăng khả năng sản
xuất, kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Tăng
cường phát triển khoa học, công nghệ thông tin áp dụng vào sản xuất kinh doanh,
thủ tục hành chính. Các chính sách thuế quan, xuất nhập khẩu hàng hóa cũng thay
đổi phù hợp, hạn chế các thủ tục.
Trong lĩnh vực hình sự thì đã bãi bỏ tội kinh doanh trái phép quy định tại
điều 159 BLHS 1999. Trong lĩnh vực hải quan, xuất nhập khẩu cũng ngày càng cải
tiến hơn về thủ tục hành chính, bải bỏ bớt các giấy phép con. Ví dụ: từ nghị định
15/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật an toàn thực phẩm đã cho người
kinh doanh, sản xuất tự công bố sản phẩm đạt chất lượng an toàn thực phẩm và phải
tự chịu trách nhiệm về sự an toàn của sản phẩm đó. Với quy định này trong lĩnh vực
nhập khẩu hàng hóa là thực phẩm thì cá nhân, doanh nghiệp không cần phải qua các
trung tâm kiểm định để xin kiểm định và xin cấp “giấy chứng nhận đạt yêu cầu
nhập khẩu” mà chỉ cần có Giấy tự công bố là đủ điều kiện nhập khẩu.
Quy định về quyền tự do kinh doanh của mọi người trong những nghành
nghề mà pháp luật không cấm, đã tháo gỡ những bất cập, cũng như lo lắng cho
người kinh doanh, đối với những vi phạm trong kinh doanh (ví dụ vụ án café Xin
Chào ở Bình Chánh – Tp.Hồ Chí Minh) BLHS 2015 đã bãi bỏ tội kinh doanh trái
phép (Người nào kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, kinh doanh không đúng
với nội dung đã đăng ký hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường
hợp pháp) luật quy định phải có giấy phép thuộc một trong các trường hợp sau
đây…) những vi phạm này nếu có chỉ là vi phạm về thủ tục hành chính và chỉ bị xử
lý hành chính không được xử hình sự).
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu
3.2.1. Hoàn thiện Bộ luật hình sự về tội buôn lậu
Như chúng ta thấy từ quy định về tội buôn lậu ở BLHS năm 1985, đến BLHS
năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, hiện nay là BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 đã có nhiều tiến bộ vượt bậc về các quy định tội phạm và hình phạt
67
tội buôn lậu. Quy định mới về tội buôn lậu tại BLHS 2015, sửa đổi 2017 đảm bảo
được ác nguyên tắc công bằng, dân chủ, nhân đạo của chính sách pháp luật hình sự
là tôn trọng quyền tự do dân chủ, quyền con người từng bước tăng hình phạt tiền,
giảm hình phạt tù, bỏ hình phạt chung thân, tử hình và nhiều biện pháp tư pháp tiến
bộ khác…phù hợp với các công ước về nhân quyền, dân quyền và dân chủ mà Việt
Nam đã ký kết cũng như tham gia. Tuy nhiên, để từng bước hoàn thiện quy định của
BLHS về tội buôn lậu thì chúng ta cần xem xét sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau:
- Tiếp tục hoàn thiện cấu thành tội phạm tội buôn lậu, phân biệt rõ ràng với
các tội danh khác như tội vận chuyển hàng hóa qua biên giới, tội sản xuất, mua bán
hàng cấm, tội trốn thuế… giúp các cơ quan tố tụng dễ dàng hơn trong việc định tội
danh trong quá trình giải quyết các vụ án buôn lậu. Hiện nay hình phạt tiền tội buôn
lậu chỉ áp dụng từ khoản 1-3 của điều luật từ 50tr -5ty đối với cá nhân phạm tội, còn
khoản 4 thì vẫn chỉ có hình phạt tù là từ 12 năm đến 20 năm tù. Do đó kiến nghị
nên áp dụng hình phạt tiền ở tất cả các khung hình phạt và với mức tiền phạt hợp lý,
đủ sức răn đe.
- Về quy định pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đây được coi là bước tiến mới, phù hợp với tình hình diễn biến của tội phạm buôn
lậu cũng như các nước khác trên thế giới. Vì hầu hết ở các Vụ án buôn lậu đều có sự
tham gia của các pháp nhân thương mại, đứng tên hợp đồng để xuất nhập khẩu hàng
hóa, với sự chỉ đạo của cá nhân trong doanh nghiệp đó;
Quy định về pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự tại điều
75, 76 BLHS và tội buôn lậu còn nhiều điểm chưa phù hợp, cần được hoàn thiện để
có thể áp dụng quy định của pháp luật hình sự trên thực tế. Cụ thể: Về hình phạt đối
pháp nhân thương mại trong tội buôn lậu gồm có: Hình phạt tiền thấp nhất là 300
triệu đồng, cao nhất 15 tỷ đồng. Ngoài ra pháp nhân thương mại còn có thể bị đình
chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn,
cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn
từ 01 năm đến 03 năm.
Có thể thấy, Pháp nhân thương mại phải chịu TNHS là phù hợp với thực tế,
68
tuy nhiên đối với hình phạt đình chỉ hoạt động, cấm kinh doanh, hoạt động trong
một số lĩnh vực thì các nhà làm luật nên xem xét lại, vì thời gian qua cũng có nhiều
ý kiến về vấn đề này. Thực tế hoạt động ở các doanh nghiệp thương mại là để tìm
kiếm lợi nhuận trong quá trình sản xuất, kinh doanh sau khi trừ các khoản chi phí,
thuế…do vậy, ở các Doanh nghiệp này không chỉ có các ông chủ doanh nghiệp hay
đại diện pháp luật mà có thể có nhiều nhân công lao động, mối quan hệ với nhiều cơ
quan, tổ chức…do vậy việc bắt doanh nghiệp phải đình chỉ hoạt động, rút giấy phép
hay cấm hoạt động ở một số nghành nghề nhất định thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống của người lao động của các doanh nghiệp này, gây áp lực lớn cho Nhà
nước về bố trí, cơ cấu lại lao động, vấn nạn thất nghiệp sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy
về giáo dục, trật tự xã hội thậm chí là môi trường…do đó, nên xem xét đối với
PNTM chỉ nên phạt tiền, giá trị tiền phạt phải cao gấp nhiều lần giá trị tài sản phạm
pháp và số lợi bất chính thì phù hợp và đủ sức răn đe hơn.
3.2.2 Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật về tội buôn lậu.
- Hiện nay ngoài BLHS quy định về tội phạm và hình phạt tội buôn lậu thì
chưa có một văn bản dưới luật nào hướng dẫn, giải thích chi tiết về tội buôn lậu
ngoài các bài viết bình luận, so sánh của các chuyên gia, nhà khoa học hay các cán
bộ trong ngành tố tụng, các luật sư nội dung chủ yếu phân tích về cấu thành tội
buôn lậu, so sánh tội Buôn lậu ở BLHS 1999, sửa đổi 2009 với tội buôn lậu tại
BLHS 2015, sửa đổi 2017.
Do vậy, để đáp ứng với tình hình tội buôn lậu ngày càng gia tăng, với
phương thức thủ đoạn ngày càng mới, tinh vi, phức tạp thì các cơ quan tố tụng có
thẩm quyền (TANDTC, VKSNDTC, BCA…) nên thực hiện việc giải thích, hướng
dẫn áp dụng những trường hợp vướng mắc, khó khăn trong giải quyết các vụ án
buôn lậu như đã nêu ở trên.
- Công tác tổng kết thực tiển điều tra, truy tố, xét xử các vụ án buôn lậu trên
địa bàn Tp.Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung để cùng nâng xét xử; rút
kinh nghiệm các thiếu sót, thông qua đó kiến nghị bổ sung kịp thời, đung1 đắn các
quy định mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xu thế phát triển của hoạt
69
động kinh tế đặc biệt là ngoại thường xuất nhập khẩu.
- Ban hành hệ thống án lệ trong đó có những vụ án kết tội về tội buôn lậu:
Án lệ là bản án hoặc quyết định của Tòa án, nó tạo lập quy tắc hoặc căn cứ
pháp lý đáng tin cậy cho việc quyết định các vụ việc tương tự trong tương lai. Về
mặt lý luận thì án lệ có những yếu tố có thể làm cho một bản án trở thành căn cứ
cho các quyết định sau này của tòa án là những tình tiết thực tế, sự kiện giống nhau,
hoặc nếu sự kiện khác nhau thì những nguyên tắc được áp dụng trong vụ án đầu tiên
có thể được áp dụng đối với nhiều sự kiện khác nhau. Bên cạnh luật thành văn, nếu
áp dụng án lệ thì sẽ đảm bảo công bằng cho các bị cáo, với các vụ án có tình tiết,
hoàn cảnh tương tự nhau thì sẽ chịu mức TNHS tương tự nhau, tránh trường hợp
như hiện nay, cùng một vụ án tương tự nhau nhưng mỗi Tòa xử một tội khác nhau
hay mức án khác nhau, có Tòa thì xử quá cao, có Tòa lại xử quá thấp không đảm
bảo tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật hình sự.
Thực hiện chủ trương của Đảng trong việc cải cách tư pháp tại Nghị quyết số
48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005 về “Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, tiếp theo ngày
2/6/2005 nghị quyết số 49-NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính Trị xác định “Tòa án
nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Ngoài
hoàn thiện các Hệ thống pháp luật hình sự thì vấn đề sử dụng án lệ trong quá trình
xét xử được đặt ra. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, tại điều 22 về thẩm
quyền của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã quy định như sau: “c) Lựa chọn quyết
định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết
phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét
xử” [24,tr.20].
Đến ngày 28/10/2015 thì Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng
Thẩm Phán TANDTC về lựa chọn và áp dụng án lệ được ban hành. Đến 18/6/2019
ban hành nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP thay thế Nghị quyết số 03/2015/NQ-
70
HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Cho đến thời điểm hiện nay
đã có 26 Án lệ được công bố, trong đó 21 án lệ về tố tụng dân sự; 01 án lệ về tố
tụng hành chính hành chính và có 04 án lệ hình sự, trong đó (án lệ số 01/2016/AL
về tội giết người; 17/2018/AL về tội giết người có đồng phạm; 18/2018/AL giết
người đang thi hành công vụ, 19/2018/AL xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt
trong vụ án tham ô). Như vậy, cho đến nay Hội ĐồngThẩm Phán TANDTC vẫn
chưa lựa chọn được án lệ nào về tội buôn lậu, trong khi đó hàng năm vẫn có rất
nhiều vụ án buôn lậu lớn được đưa ra xét xử, chiếm tỷ lệ khá cao ở các Tòa án.
Thực tế đã có 26 án lệ được ban hành, tuy nhiên việc áp dụng hiện nay vẫn
còn hạn chế, các thẩm phán khi xét xử vẫn căn cứ vào Văn bản quy phạm pháp luật
chứ không áp dụng án lệ.
Do vậy, với điều kiện, hoàn cảnh thực tế hiện nay, việc áp dụng án lệ trong
xét xử là cần thiết. Do vậy, kiến nghị Hội đồng thẩm phán TANDTC, cũng như các
Cơ quan tố tụng, các nhà làm luật tiếp tục lựa chọn, công bố những án lệ có tính
thực tiễn cao, dễ áp dụng trong các lĩnh vực pháp luật nói chung và trong các vụ án
hình sự về buôn lậu nói riêng để đáp ứng tốt như cầu xét xử cũng như đấu tranh
phòng chống tội phạm buôn lậu hiện nay. Qua đó, cũng có quy định pháp luật
khuyến khích vừa là bắt buộc các thẩm phán phải áp dụng án lệ đối với những vụ án
tương tự mà mình đang xét xử, nhằm đảm bảo công bằng, khách quan trong xét xử.
- Tăng cường hơn nữa các quy định, quy chế phối hợp kiểm tra, giám sát các
hàng hóa nhập khẩu giữa các cơ quan, ban nghành (Cơ quan Hải quan với các
doanh nghiệp, đơn vị liên quan) tránh chồng chéo về trách nhiệm,quyền hạn…để
ngăn chặn, giảm thiểu việc lợi dụng các sơ hở trong quản lý hay chính sách để buôn
lậu. Phát hiện và ngăn chặn xử lý kịp thời các vụ việc buôn lậu từ giai đoạn ban đầu,
từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả định tội danh tội buôn lậu ở tất cả
các giai đoạn của tố tụng hình sự.
3.2.3 Giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn
lậu
3.2.3.1 Nâng cao năng lực của các chủ thể thực hiện việc định tội danh
71
Với chủ trương cải cách, nâng cao hiệu quả của các Cơ quan tư pháp hình sự,
nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ giải quyết án hình sự, đạo đức của cán bộ
tư pháp thì công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một trong những nhiệm vụ rất
quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phục vụ đất nước, đặc biệt là các
Cán bộ trong ngành tố tụng hình sự (ĐTV, KSV, TP) có đủ phẩm chất chính trị, đạo
đức, năng lực, trình độ chuyên môn, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình
đảm bảo các hoạt động tư pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc
tế. Thời gian qua, việc đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kiến thức, năng lực
chuyên môn cho Cán bộ được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, chú trọng, cụ thể:
Xây dựng đội ngũ cán bộ có thẩm quyền về tố tụng hình sự đủ về số lượng,
nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, tinh thông nghiệp
vụ, có phẩm chất đạo đức trong sáng, luôn có quan điểm khách quan, toàn diện
trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Xem xét, điều chuyển biên chế phù hợp cho
các địa phương xảy ra nhiều án, tránh áp lực quá nhiều công việc dẫn đến oan, sai,
bỏ lọt tội phạm. Bố trí sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực, sở trường; kiên quyết
không bố trí số cán bộ chưa qua đào tạo về công tác điều tra, không bảo đảm tiêu
chuẩn, điều kiện để làm công tác điều tra, xử lý tội phạm. Tăng cường lực lượng
cán bộ cấp huyện và các địa phương trọng điểm. Kiên quyết loại khỏi bộ máy
những cán bộ kém về đạo đức, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, xây dựng đội ngũ cán
bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực đáp ứng yêu cầu phục
vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.
Ngoài ra, phát triển đội ngũ Luật sư, hỗ trợ Tư pháp cũng thường xuyên tổ
chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, tọa đàm, trao đổi (theo quy định Luật sư phải
tham gia ít nhất 16 giờ bồi dưỡng kiến thức mỗi năm), ngoài ra cũng tự trao dồi
kiến thức chuyên môn để trang bị, phục vụ cho nhu cầu công việc của mình.
Các ngành tư pháp bố trí lực lượng giải quyết án chuyên trách đối với tội
buôn lậu ở tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự: Giải pháp này được đặt ra không
chỉ đối riêng với vụ án buôn lậu mà mong muốn thực hiện ở tất cả các vụ án khác,
đặc biệt là trong các tội liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, thương mại, tài chính
72
ngân hàng. Nếu Các cơ quan Tố tụng làm được làm điều này thì việc điều tra, truy
tố, xét xử…các tội này sẽ nhanh chóng hơn, tránh một vụ án phải xử đi xử lại nhiều
lần vì sai tố tụng hay sai nội dung, và đặc biệt là cũng tránh được các vụ định tội
danh sai không chỉ trong vụ án buôn lậu mà đối với tất cả các vụ án hình sự khác để
giảm oan sai và cũng tránh bỏ lọt tội phạm.
3.2.3.2 Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động định tội danh tội buôn lậu
Cần tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động định tội danh tội buôn lậu
bằng các hoạt động sau đây:
- Tăng cường hoạt động của Viện kiểm sát các cấp kiểm sát hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử án buôn lậu;
- Tăng cường việc giám đốc xét xử (kiểm tra giám đốc, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm) của Tòa án cấp trên đối với hoạt động định tội danh của Tòa án cấp
dưới…
Ngoài ra, trong công tác cán bộ, hiện nay trong các cơ quan tố tụng đều có
các chế độ khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công nhân viên của mình nhưng hiệu quả
chưa cao, trong khi áp lực làm việc rất lớn mà lương, thưởng, chế độ chưa thật sự
đáp ứng được đời sống…nên xảy ra các vụ việc nhũng nhiễu, tham nhũng, hối lộ,
chạy án nhiều trong thời gian qua. Một số thì không sống nổi với mức thu nhập thấp
phải chuyển ngành nghề, hoặc làm thêm nhiều công việc khác để nuôi bản thân và
gia đình. Do vậy, Nhà nước nên có chính sách cải thiện tiền lương, phù cấp cho các
Cán bộ trong ngành tố tụng để làm sao Cán bộ, Viên chức trong ngành tố tụng yên
tâm làm việc, thu hút được nhiều người tài, người giỏi đến với ngành, nghề.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả định tội danh tội buôn lậu cũng có chính sách
giáo dục, tuyên tuyền để nâng cao hiểu biết của mọi người dân cũng như các Cơ
quan, tổ chức nói chung về sự nguy hiểm, tác hại của tội buôn lậu đối với đời sống
người dân cũng như nền sản xuất trong nước. Qua việc nâng cao chất lượng định tội
danh, xử lý án buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng sẽ nâng cao ý thức đấu
tranh phòng, chống tội buôn lậu trong cả nước.
73
Kết luận Chương 3
Sau khi nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự về định tội danh nói
chung và quy định chi tiết về định tội danh buôn lậu nói riêng, ngoài những điểm
đổi mới, tiến bộ đã nêu, qua những vụ án buôn lậu nổi bất gần đây đã bộc lộ ra
những điểm khó khăn, hạn chế trong quá trình định tội danh buôn lậu trên địa bàn
Tp.Hồ Chí Minh. Những khó khăn, hạn chế đó không chỉ là mang tính chất khách
quan mà nhiều vấn đề cũng xuất phát từ chủ quan của các Cơ quan, Người tiến hành
tố tụng. Xuất phát từ tình hình thực tế hoạt động định tội danh tội buôn lậu tại
Tp.Hồ Chí Minh cũng như kinh nghiệm thực tiễn của tác giả trong quá trình làm
việc thì tác giả đã đề ra những giải pháp để từng bước nâng cao chất lượng định tội
danh tội buôn lậu không chỉ tại Tp.Hồ Chí Minh mà còn trên cả nước.
Đề tài nghiên cứu tuy không lớn, các giải pháp tác giả đưa ra chỉ mang tính
chất cá nhân nhưng tác giả vẫn hy vọng những khó khăn, hạn chế trong quá trình
định tội danh tội buôn lậu trong thời gian qua sẽ ngày càng được khắc phục, tiến tới
một nền tư pháp hình sự tiến bộ, văn minh góp phần xây dựng Nhà nước Pháp
quyền XHCN theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
74
KẾT LUẬN
Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lý cao nhất quy định về tội phạm và hình phạt.
Nguyên tắc chỉ những hành vi mà BLHS quy định là tội phạm thì mới bị coi là tội
phạm và sẽ bị điều tra, truy tố, xét xử theo đúng trình tự tố tụng do pháp luật quy
định và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu những hình phạt
tương ứng. Để đảm bảo được các nguyên tắc và quy định của BLHS đòi hỏi các Cơ
quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng phải tuân thủ đầy đủ,
nghiêm túc các trình tự, thủ tục do BLHS quy định. Trong Định tội danh là bước
đầu tiên, tối quan trọng để xác định một hành vi nguy hiểm của người đó, pháp
nhân thương mại đó có là tội phạm không? Là tội gì và thuộc vào khung hình phạt
nào của điều luật của BLHS phải đúng, chính xác thì quá trình áp dụng các biện
pháp tố tụng (biện pháp ngăn chặn, truy tố, xét xử, thi hành hình phạt…) mới công
bằng, đúng bản chất của pháp luật hình sự.
Qua việc nghiên cứu đề tài định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ
Chí Minh căn cứ theo BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có so sánh, đối
chiếu với quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 1985 tuy chưa thực sự đầy đủ
và hoàn toàn chính xác nhưng trước hết chúng ta thấy được tính chất nguy hiểm, tác
hại rất lớn của tội phạm buôn lậu đối với hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu,
đe dọa, làm trì trệ nền sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trong nước cũng như
không khuyến khích được sự thay đổi, sáng tạo trong khoa học, kỹ thuật, công
nghệ…nước nhà. Đối với pháp luật hình sự thì có sự thay đổi, tiến bộ rất lớn so với
BLHS năm 1985 từ trình tự tố tụng đến các quy định về tội phạm và hình phạt phù
hợp với xu thế tiến bộ trên thế giới vừa phù hợp với đời sống xã hội, tình hình phát
triển kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật. Từ sự thay đổi rất lớn của pháp luật hình
sự cũng như các quy định pháp luật khác (dân sự, kinh doanh thương mại…) đã
thấy được sự thay đổi rất lớn, tiến bộ mạnh mẽ về tư duy, kỹ năng lập pháp, hành
pháp, tư pháp của Đảng, Nhà nước ta. Với những thành tựu đạt được thời gian qua
có thể thấy được việc thực hiện Nghị quyết 48 và 49 của Bộ Chính Trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền
75
XHCN đã đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đề ra. [2], [3], [4]
Với hoạt động định tội danh tội buôn lậu nói riêng, định tội danh tội phạm
nói chung thì các quy định mới, tiến bộ của BLHS 2015, sửa đổi 2017 đã giúp cho
Cơ quan điều tra, Viện Kiểm Sát, Tòa án dễ dàng hơn trong hoạt động định tội
danh, giảm thiểu được tối đa oan sai, lọt tội phạm, qua đó quyết định được hình
phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác chính xác, nâng cao việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Từ việc nghiên cứu đề tài, ngoài những thành tựu cũng như đổi mới, tiến bộ
hơn trong pháp luật hình sự nói chung, trong hoạt động định tội danh nói riêng thì
chúng ta cũng thấy được vẫn bộc lộc nhiều vấn đề yếu kém, cần phải cố gắng thay
đổi nhiều hơn nữa để ngày một hoàn thiện hơn. Một trong các bất cập trong pháp
luật hình sự cũng như định tội danh đó là quy định của về tội buôn lậu ở BLHS vẫn
còn nhiều chỗ chưa rõ ràng, cấu thành tội phạm tội buôn lậu ở một số điểm còn dễ
gây nhầm lẫn, giống với một số tội khác (tội vận chuyển hàng hóa trái phép qua
biên giới, tội trốn thuế) gây khó khăn cho việc định tội danh cho các Cơ quan,
người tiến hành tố tụng; hay một số quy định hay hình phạt ở tội buôn lậu chưa phù
hợp (hình phạt tiền là phù hợp tuy nhiên mức phạt chưa cao, chưa đủ sức răn đe),
hình phạt (tược giấy phép, đình chỉ hoạt động tạm thời, vĩnh viễn hay cấm hoạt
động ở một số nghành nghề nhất định) đối với Pháp nhân thương mại chưa thực sự
phù hợp, cần phải nghiên cứu thêm. Về con người là những tham gia hoạt động định
tội danh (ĐTV, KSV, TP) hoặc Luật sư…tuy Nhà nước quy định chuẩn đầu vào,
tuyển dụng, đào tạo kỷ năng, bồi dưỡng kiến thức thường xuyên nhưng vẫn chưa
thực sự đáp ứng được nhu cầu đổi mới ngày càng cao nhất là công tác Cán bộ ở các
vùng sâu vùng xa. Hoặc một số CB,CNV thì lười học hỏi, tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
quan liêu…nên vẫn xảy ra các vụ án oan, hoặc nhiều vụ án định tội danh sai dẫn
đến bị hủy, sửa điều tra, xét xử lại, thậm chí bồi thường oan sai cho những người bị
kết án sai gây mất niềm tin trong nhân dân, mất uy tín của các Cơ quan tố tụng, lại
tốn nhiều thời gian, ngân sách Nhà nước để giải quyết lại.
Với những chính sách đúng đắn về cải cách tư pháp của Đảng và Nhà Nước
76
ta, cùng với sự phối hợp được các Cơ quan, Người Tố tụng từ TW đến địa phương
và sự giúp sức của Các cơ quan, tổ chức khác trong nước, toàn thể công dân Việt
Nam thì hy vọng không xa Việt Nam sẽ có nền tư pháp tiến bộ, lành mạnh, đặc biệt
pháp luật hình sự vừa đảm bảo được sự nghiêm minh, nhân đạo vừa tôn trọng quyền
con người, quyền dân chủ của mọi công dân…trong mọi hoạt động. Trong việc áp
dụng pháp luật hình sự thì đảm bảo được nguyên tắc: “Mọi hành vi phạm tội do
người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo
đúng pháp luật; ; Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội” [20]. Hoạt
động định tội danh tội buôn lậu nói riêng và các tội phạm khác nói chung sẽ càng
ngày càng hoàn thiện, tiến bộ hơn về chất cũng như về lượng, tiến tới giảm đến mức
thấp nhất định tội danh sai hay làm oan cho người vô tội cũng như bỏ lọt tội phạm.
Do còn những hạn chế nhất định trong quá trình nghiên cứu, dưới góc độ tiếp
cận của một học viên cao học đang trong quá trình học hỏi nên không tránh khỏi
những thiếu sót trong Luận văn này. Tuy nhiên, tác giả cũng mong rằng Luận văn
cũng nêu lên được quy định của pháp luật hiện hành về tội buôn lậu và thực trạng
của hoạt động định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cũng
như góp phần nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu hiện nay.
Từ đó, mạnh dạn đề ra một số yêu cầu và giải pháp để ngày càng hoàn thiện về
pháp luật, nâng cao được công tác định tội danh tội buôn lậu và công tác phòng
chống tội phạm buôn lậu không chỉ ở Tp.Hồ Chí Minh mà trong cả nước Việt
Nam./.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thanh Bình (1998) Chống buôn lậu và gian lận thương mại, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Chính Trị (2002) Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính Trị về nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/1/2002, Hà
Nội.
3. Bộ Chính Trị (2005) Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính Trị về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam năm 2010 định hướng
2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.
4. Bộ Chính Trị (2005) Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính Trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 2/6/2005, Hà Nội.
5. Lê Cảm (2018) Pháp luật Hình sự Việt Nam từ thế kỷ X đến nay, lịch sử
và thực tại, Nxb ĐHQG Hà Nội.
6. Minh Chiến (2019) “Dân số Hà Nội vượt 8 triệu người, TP HCM gần 9
triệu người”, Báo Người lao động, 8-trieu-nguoi-tp-hcm-gan-9-trieu-nguoi-20190711090711359.htm>, (11/7/2019). 7. Công an Tp.HCM (2014-2018) Báo cáo công tác năm phòng CSKT Công an Tp.HCM về tình hình phát hiện và xử lý tội phạm buôn lậu trên địa bàn Tp.HCM từ 2014-2018. 8. Cục hải quan Tp.HCM (2018),“Cơ cấu tổ chức” 9. Lê Văn Đệ (2003) Chế định nhiều tội phạm những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính Trị Quốc Gia 2003. 10. Trần Văn Độ (2018) Một số kỹ năng định tội và quyết định hình phạt, Hà Nội. 11. Trần Văn Độ (2019) giáo trình Định tội danh và áp dụng hình phạt, NXB Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội 12. Võ Minh Hiệp (2018) Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Guộc, Long An, Luận văn thạc sỹ, Học Viện Khoa học Xã Hội. 13. Trần Đình Hòa (2001) Tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân đối với vụ án buôn lậu, luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân dân. 14. Hoàng Quảng Lực (2019) “Bàn về quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015 liên quan đến chế định người giúp sức”, Tạp chí kiểm sát, 6/2019. 15. Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp (2018) Phương pháp định tội danh với 538 tội danh trong Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Lao Động, Hà Nội. 16. Lê Hoài Nam (2015) “Tác động của hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, lau-gian-lan-thuong-mai-doi-voi-su-phat-trien-kinh-te-Viet-Nam>, (21/01/2015). 17. Cao Thị Oanh (2011) “Phân loại cấu thành tội phạm và một số vấn đề về trách nhiệm hình sự”,Trang điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang, 18. Đinh Văn Quế (2018) Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015: phần thứ nhất những quy định chung, Nxb Thông tin và Truyền Thông. 19. Đinh Văn Quế (2018) “Cấu thành tội phạm và các giai đoạn thực hiện tội phạm: những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Luật sư Việt Nam online, 12/2018. 20. Quốc Hội (1999) Bộ Luật hình sự số 15/1999/QH10, Nxb Chính Trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội. 21. Quốc Hội (2015) Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 22. Quốc Hội (2017) Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung số 12/2017/QH14, Nxb Chính Trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội. 23. Quốc Hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự số 35/2015/L-CTN, Nxb Chính trị Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội. 24. Quốc Hội (2013) Hiến Pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 Nxb Chính Trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội. 25. Quốc Hội (2014) Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13, NXB Chính Trị. 26. Quốc Hội (2007) Luật tương trợ tư pháp số 08/2007/QH12, Nxb Chính Trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội. 27. Quốc Hội (2017) Nghị quyết số 41/QH14 ngày 20/6/2017, Nxb Quốc gia - Sự thật. 28. Dương Xuân Sinh (2016) Điều tra các vụ án buôn lậu của cơ quan Hải quan, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội. 29. Hồ Sỹ Sơn (2017) Một số kỹ năng định tội và quyết định hình phạt, Hà Nội. 30. Tòa án nhân dân Tp.HCM (2017) Bản án số 119/2017/HSST ngày 30/3/2017. 31. Tòa án nhân dân Tp.HCM (2017) Bản án số 306/2017/HSST ngày 25/8/2017. 32. Tòa án nhân dân Tp.HCM (2017) Bản án số 454/2015/HSST ngày 31/12/2015. 33. Tổng cục Thống kê (2019), “Công bố kết quả tổng điều tra dân số năm 2019”, (11/7/2019). 34. Ngô Thị Thùy Trang (2019) Đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh, luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Cảnh sát TP.Hồ Chí Minh. 35. Phạm Tài Tuệ (2017) “Những điểm mới trong quy định về tội buôn lậu của Bộ luật hình sự năm 2015 so sánh với Bộ luật hình sự 1999”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 3/2017. 36. Hoàng Anh Tuấn (2003) Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu ở nước ta – Thực trạng và giải pháp, luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. 37. Đào Trí Úc (chủ biên), (1994) Tội phạm học, Luật hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội. 38. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019) Cáo trạng số 59/CT-VKS-V1 ngày 31/7/2019. 39. Võ Khánh Vinh (2013) giáo trình sau đại học lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 40. Nguyễn Thị Vui (2014) Tội buôn lậu trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang), luận văn thạc sĩ , Đại học Quốc gia Hà Nội.