intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đổi mới kiểm tra đánh giá học phần Đạo đức và phương pháp giáo dục đạo đức theo hướng tiếp cận năng lực trong đào tạo sinh viên ngành giáo dục tiểu học

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

6
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đổi mới kiểm tra đánh giá học phần Đạo đức và phương pháp giáo dục đạo đức theo hướng tiếp cận năng lực trong đào tạo sinh viên ngành giáo dục tiểu học" đi sâu tìm hiểu đánh giá học phần Đạo đức và Phương pháp giáo dục đạo đức ở Tiểu học cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác kiểm tra đánh giá học phần này theo hướng tiếp cận năng lực, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đổi mới kiểm tra đánh giá học phần Đạo đức và phương pháp giáo dục đạo đức theo hướng tiếp cận năng lực trong đào tạo sinh viên ngành giáo dục tiểu học

  1. Trường Đại học Mỏ - Địa chất ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ HỌC PHẦN ĐẠO ĐỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THEO HƯỚNG TIẾP CẬN NĂNG LỰC TRONG ĐÀO TẠO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC Nguyễn Đức Khiêm*, Trần Tuyết Nhung* Nguyễn Thành Công* Tóm tắt: Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đổi mới giáo dục, song song với việc nâng cao chất lượng dạy và học, công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên ngành sư phạm ở trường Cao đẳng Vĩnh Phúc cần được đổi mới cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bài viết, đi sâu tìm hiểu đánh giá học phần Đạo đức và Phương pháp giáo dục đạo đức ở Tiểu học cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác kiểm tra đánh giá học phần này theo hướng tiếp cận năng lực, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Từ khóa: Năng lực, tiếp cận năng lực, đổi mới kiểm tra đánh giá. 1. MỞ ĐẦU Đánh giá kết quả học tập của sinh viên không chỉ thuần túy đánh giá kiến thức mà quan trọng là đánh giá các mức năng lực của sinh viên đạt được sau quá trình đào tạo, học tập và nghiên cứu khoa học. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 chỉ rõ: “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực người học; Kết hợp đánh giá cả quá trình với đánh giá cuối học kỳ, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát triển”1. Vậy, thế nào là đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh; Công tác kiểm định chất lượng giáo dục nói chung, kiểm tra đánh giá nói riêng cần có những đổi mới như thế nào để đạt được mục tiêu đổi mới căn bản theo hướng đó… là vấn đề đòi hỏi cần được giải quyết thỏa đáng cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. 2. NỘI DUNG 2.1. Năng lực và đánh giá năng lực qua học phần Đạo đức và Phương pháp giáo dục đạo đức ở Tiểu học đối với sinh viên ngành Giáo dục tiểu học Trong khoa học giáo dục, chương trình dạy học mang tính “hàn lâm, kinh viện” được gọi là giáo dục “định hướng nội dung”. Đặc điểm cơ bản của giáo dục định hướng nội dung là chú trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo các môn học đã được quy định trong chương trình dạy học. Những nội dung của các môn học này dựa trên các khoa học chuyên ngành tương ứng. Dạy học định hướng nội dung chú trọng việc trang bị cho học sinh hệ thống tri thức khoa học, khách quan về nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, chương trình giáo dục định hướng nội dung chưa chú trọng đầy đủ đến chủ thể là người học cũng như đến khả năng ứng dụng tri thức đã học vào những tình huống thực * ThS. Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc. 1 Nguồn: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/thuong-mai/Nghi-quyet-29-NQ-TW-nam-2013-doi-moi-can-ban-toan-dien- giao-duc-dao-tao-hoi-nhap-quoc-te-212441.aspx, cập nhật ngày 12/9/2020. 350
  2. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững tiễn. Mục tiêu dạy học trong chương trình định hướng nội dung đưa ra một cách chung chung, không chi tiết và không nhất thiết phải quan sát, đánh giá được một cách cụ thể nên không đảm bảo rõ ràng về việc đạt được chất lượng dạy học theo mục tiêu đã đề ra. Việc quản lý chất lượng giáo dục tập trung vào “điều khiển đầu vào” là nội dung dạy học. Ưu điểm của dạy học định hướng nội dung là việc truyền thụ cho học sinh tri thức một cách khoa hoc và hệ thống. Mặc dù vậy, trước yêu cầu đào tạo công dân toàn cầu hiện nay, chương trình dạy học định hướng nội dung không còn thích hợp, vì: (1). Ngày nay, tri thức thay đổi và bị lạc hậu nhanh chóng, việc quy định cứng nhắc những nội dung chi tiết trong chương trình dạy học dẫn đến nội dung chương trình nhanh bị lạc hậu so với tri thức hiện đại. Ngoài ra, những tri thức tiếp thu trong nhà trường cũng nhanh bị lạc hậu so với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở xã hội hiện đại. Vì thế, việc rèn luyện phương pháp học tập ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho người học có khả năng học tập suốt đời; (2). Chương trình dạy học định hướng nội dung dẫn đến xu hướng kiểm tra đánh giá chủ yếu dựa trên việc tái hiện tri thức mà không định hướng vào khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn; (3). Phương pháp dạy học mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng ứng dụng nên sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng động. Do đó, chương trình giáo dục này không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và thị trường lao động. Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực là tên gọi khác của chương trình định hướng kết quả đầu ra, một công cụ để thực hiện giáo dục định hướng điều khiển đầu ra và mục tiêu dạy học của chương trình được mô tả thông qua các nhóm năng lực. Khoa học tâm lý học và giáo dục học quan niệm: “Năng lực là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm”1. Trong đào tạo nghề dạy học, năng lực của người giáo viên được hiểu là: khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề ở những tình huống khác nhau trong quá trình dạy học và giáo dục trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động. Năng lực của sinh viên sư phạm chính là khả năng làm chủ những kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận dụng chúng một cách hợp lí vào dạy học và làm các công tác giáo dục ở các cơ sở giáo dục. Tổng kết lý thuyết về các tiếp cận đào tạo dựa trên năng lực, các nhà giáo dục học đã chỉ ra năm đặc tính cơ bản: (1) Tiếp cận năng lực dựa trên triết lý người học là trung tâm; (2) Tiếp cận năng lực đáp ứng các đòi hỏi của hoạt động nghề nghiệp; (3) Tiếp cận năng lực là định hướng cuộc sống thật, hoạt động nghề nghiệp thật; (4) Tiếp cận năng lực là rất linh hoạt và năng động; (5) Năng lực được hình thành ở người học một cách rõ ràng. Các năng lực là nội dung của tiêu chuẩn nghề2. Đào tạo theo hướng tiếp cận dựa trên năng lực cho phép cá nhân hóa việc học trên cơ sở mô hình năng lực, người học sẽ bổ sung những thiếu hụt của cá nhân để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể của mình và chú trọng vào kết quả đầu ra; Tạo ra sự linh hoạt trong việc đạt tới những kết quả đầu ra, theo những cách thức riêng phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh của cá nhân. Việc chú trọng vào kết quả đầu ra và những tiêu chuẩn đo lường khách quan của những năng lực cần thiết để tạo ra các kết quả này là điều được các nhà hoạch định chính sách giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt quan tâm. 1 Nguyễn Văn Tuấn (2010), Tài liệu học tập về phương pháp dạy học tích hợp, Trường Đại học sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.8. 2 Nguyễn Văn Tuấn (2010), Tài liệu học tập về phương pháp dạy học tích hợp, Trường Đại học sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.13. 351
  3. Trường Đại học Mỏ - Địa chất Điều này, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu kiểm định chất lượng giáo dục hiện nay bởi những đặc tính và ưu điểm của tiếp cận dựa trên năng lực, các mô hình năng lực và những tiêu chuẩn năng lực nghề được xác định và sử dụng như những công cụ cho việc phát triển nhiều chương trình giáo dục, đào tạo khác nhau trên toàn thế giới. Đánh giá người học theo định hướng năng lực là đánh giá theo chuẩn về sản phẩm đầu ra, sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng mà là năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập theo mục tiêu đã đề ra. Theo quan điểm tiếp cận năng lực, việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong các tình huống khác nhau. Bởi vậy, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái đô của sinh viên sau một quá trình học tập. Có thể nói, đánh giá năng lực là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kỹ năng. Để chứng minh người học có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho người học được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó, người học vừa phải vận dụng kiến thức, kỹ năng đã được học, vừa phải dùng những kinh nghiệm của bản thân để giải quyết các tình huống trong thực tế. Qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trên thực tế, có thể đồng thời đánh giá được: kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. 2.2. Năng lực cần đánh giá đối với giáo viên ngành tiểu học qua học phần Đạo đức và Phương pháp giảng dạy đạo đức ở Tiểu học Học phần Đạo đức và Phương pháp giáo dục đạo đức trong chương trình đào tạo giáo viên ngành Giáo dục Tiểu học vừa là một môn khoa học, vừa là môn học nghiệp vụ, có vị trí quan trọng trong trường sư phạm nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản mang tính nhân văn, hiện đại, nâng cao năng lực giao tiếp, ứng xử, tạo được năng lực sư phạm của người giáo viên tiểu học; Củng cố hệ thống và mở rộng những kiến thức về lòng nhân ái, chủ nghĩa nhân văn của dân tộc, những nội dung liên quan trực diện đến nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh ở tiểu học. Môn học giúp sinh viên có khả năng thực hiện tốt chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục đạo đức cho học sinh. Đồng thời, trang bị cho sinh viên cách thức tổ chức các hoạt động và phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng. Xuất phát từ mục tiêu của môn học, có rất nhiều năng lực cần được đánh giá ở sinh viên ngành Giáo dục tiểu học qua học phần Đạo đức và Phương pháp giáo dục đạo đức ở Tiểu học, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến: Thứ nhất, năng lực thiết kế bài học theo hướng tiếp cận năng lực. Đây là công việc vô cùng quan trọng của người giáo viên trước khi thực hiện việc giảng giải, tổ chức các hoạt động nhận thức, học tập của học sinh trên lớp. Bất kỳ giáo viên nào khi tiến hành thiết kế bài dạy học (Soạn giáo án) đều phải tính toán, suy nghĩ, cân nhắc cụ thể, chi tiết các vấn đề: Giáo viên phải dạy cái gì?; Dạy như thế nào?; Hướng dẫn học sinh tự học như thế nào?; Học xong bài học này học sinh cần biết được gì và làm được gì?; Học sinh cần học nội dung kiến thức nào và đọc thêm tài liệu nào? Thứ hai, năng lực hiểu và thích ứng với học sinh. Theo chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, hầu hết học sinh tiểu học đều học hai buổi/ngày, tức là phần lớn thời gian thực hiện các hoạt động học tập, vui chơi của học sinh là ở cùng giáo viên. Do đó, người giáo viên phải hiểu được đặc điểm tâm sinh - lý cũng như cá tính của từng học sinh, biết chấp nhận và thích ứng với đối tượng mình đang 352
  4. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững giáo dục. Nếu không thích ứng được với những hành vi lệch chuẩn, chưa phù hợp của học sinh, giáo viên rất dễ sốc và rơi vào trạng thái bất lực, buông xuôi hoặc nóng giận trong xử lý tình huống. Thứ ba, năng lực ứng phó và xử lý các tình huống giáo dục một cách hiệu quả. Trong giảng dạy và giáo dục, các tình huống thực tế luôn nảy sinh, đôi khi có các tình huống bất ngờ xẩy ra ngoài dự kiến của giáo viên với mức độ, tính chất ngày càng phức tạp, căng thẳng và khó xử. Bất cứ người giáo viên nào đứng trên bục giảng đều rất mệt mỏi và chịu nhiều áp lực trước những hành vi do học sinh chưa ngoan gây ra. Điều này, đặc biệt quan trọng với giáo viên tiểu học vì đối tượng học sinh là các em từ 6 đến 10 tuổi, các em chưa đủ lớn để có nhận thức đầy đủ về các hành vi, hành động của bản thân. Vì vậy, giáo viên phải biết ứng phó kịp thời và xử lý một cách nghiêm khắc nhưng cần mềm dẻo, linh hoạt có tính sư phạm, tránh căng thẳng không cần thiết hoặc gây tổn thương cho cả giáo viên và học sinh. Thứ tư, năng lực tổ chức các hoạt động dạy học. Giáo viên cần trình bày rõ ràng, triển khai các hoạt động dạy học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ tên hoạt động, mục tiêu của hoạt động đó, cách thức tiến hành hoạt động dạy học ấy ra sao, thời gian để thực hiện các hoạt động đã thiết kế như thế nào. Cùng với đó, giáo viên cần rút ra kết luận sư phạm về kiến thức, kỹ năng, thái độ của học sinh cần hình thành sau các hoạt động và chỉ ra được những tình huống thực tiễn mà học sinh có thể vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ đã học vào để giải quyết vấn đề. Ngoài ra, giáo viên cũng phải chỉ ra được cho học sinh thấy những sai sót thường gặp, những hậu quả có thể xẩy ra nếu không có cách giải quyết phù hợp. Thứ năm, năng lực kiềm chế cảm xúc trước những hành vi lệch chuẩn của học sinh. Trong thực tiễn đã có nhiều thầy/cô do không kiềm chế được cảm xúc đã quát mắng, lăng mạ hoặc đánh đập thô bạo học trò, gây nên những hậu quả đáng tiếc và vi phạm qui định đạo đức nhà giáo. Bởi vậy, trước những hành vi lệch chuẩn, chưa phù hợp, vô tổ chức, vô kỉ luật của một số học sinh, giáo viên cần biết kiềm chế cảm xúc, nén sự nóng giận của mình để tìm cách xử lý hài hòa mang tính giáo dục. Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng của giáo viên trong giáo dục học sinh. Thứ sáu, năng lực sử dụng phương pháp và kỹ thuật dạy học. Để bài giảng của giáo viên thành công phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó cốt lõi là ba yếu tố: Trình độ nhận thức của học sinh, nội dung bài giảng và phương pháp/cách dạy mà giáo viên sử dụng trong bài học. Quá trình chuẩn bị bài giảng và trình độ nhận thức của học sinh tốt là yếu tố cần để bài giảng thành công. Để có bài giảng đạt hiệu quả cao thì phương pháp và kỹ thuật dạy học phù hợp, tích cực là nhân tố rất quan trọng giúp giáo viên truyền tải kiến thức đến học sinh một cách hiệu quả. Năng lực này đòi hỏi giáo viên phải nắm vững phương pháp và kỹ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh chủ động, tích cực và là trung tâm của quá trình lĩnh hội tri thức, luôn biết cách đưa học sinh vào các tình huống có vấn đề trong quá trình dạy học; truyền đạt tri thức rõ ràng, dễ hiểu, vừa sức với học sinh. Đây là vấn đề không dễ dàng, giáo viên chưa thể có năng lực này ngay trong thời gian ngắn mà cần có quá trình học tập nghiêm túc, rèn luyện tay nghề công phu, bền bỉ. Thứ bảy, năng lực giáo dục ý thức trách nhiệm công dân cho học sinh qua môn học. Để đánh giá được năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục, năng lực dạy học môn đạo đức, năng lực tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, năng lực phát triển cá nhân... cho giáo sinh thì chương trình khung của ngành đào tạo, đề cương chi tiết học phần cần được xây dựng theo chuẩn đầu ra; Thiết kế được nội dung các bài kiểm tra, thi kết thúc học phần; Xây dựng các tiêu chí để đánh giá một cách 353
  5. Trường Đại học Mỏ - Địa chất hệ thống, toàn diện, khách quan; Xây dựng hệ thống ngân hàng câu hỏi phong phú, toàn diện tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kiểm tra đánh giá trong cả quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên. Thứ tám, năng lực sử dụng phương tiện dạy học hiện đại. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, đòi hỏi người giáo viên hiện nay phải biết sử dụng công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ hiện đại vào quá trình dạy học. Mặc dù vậy, khi sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại vào bài dạy đạo đức ở tiểu học cần lưu ý: Phương tiện trực quan và công nghệ thông tin phải phù hợp với nội dung bài học, đặc điểm tâm - sinh lý học sinh tiểu học, trình độ nhận thức và khả năng hiểu biết của học sinh, tránh tình trạng sử dụng video clip, tranh, ảnh minh họa hoặc giáo án điện tử thay cho lời nói của giáo viên. Bill Gates đã chỉ rõ: “Công nghệ chỉ là công cụ. Còn trong việc giúp những đứa trẻ làm việc với nhau và động viên chúng, giáo viên là quan trọng nhất”1. Thứ chín, năng lực biết chia sẻ và yêu thương. Hầu hết, thời gian lao động sư phạm của người giáo viên tiểu học đều gắn liền với học sinh lớp mình chủ nhiệm, giáo viên giảng dạy môn đạo đức ở bậc tiểu học thường là giáo viên dạy hai môn văn hóa: Toán học và Tiếng việt. Do đó, ngày nào giáo viên cũng gặp gỡ, tiếp xúc với học sinh. Điều này đặt ra yêu cầu giáo viên cần biết chia sẻ với học trò cả những buồn, vui của học sinh một cách kịp thời; Người giáo viên tiểu học đóng nhiều vai diễn với học sinh: là thầy/cô, là người cha/mẹ và là người bạn luôn gần gũi với học sinh để các em cảm nhận được sự yêu thương chân thành. Bên cạnh đó, do tính chất công việc và môi trường hoạt động nghề đòi hỏi giáo viên tiểu học luôn có cách ứng xử, giao tiếp tế nhị với phụ huynh học sinh và cần biết cách nói lời xin lỗi học sinh và gia đình học sinh nếu việc làm, hành động, lời nói chưa phù hợp. Lời xin lỗi phù hợp, đúng mực sẽ làm tăng uy tín của người thầy/cô trong mắt trẻ thơ; Yêu thương và bao dung, nghiêm khắc và khoan dung, dùng lời nói và tình thương để tác động đến tâm hồn non nớt của trẻ. Nhà giáo dục lỗi lạc Makarenko đã nói: “Trong giáo dục mà loại bỏ các hình phạt là thể hiện chủ nghĩa nhân đạo giả dối. Nhân đạo không phải là sẵn sàng bỏ qua những cái sai, cái xấu xa của học sinh mà phải đấu tranh để loại bỏ nó đến cùng với niềm tin nhất định học sinh sẽ tiến bộ”2. 2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập đối với sinh viên ngành Giáo dục tiểu học qua học phần Đạo đức và Phương pháp giáo dục đạo đức ở Tiểu học hiện nay Để công tác đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập đối với sinh viên ngành Giáo dục tiểu học qua học phần Đạo đức và Phương pháp giảng dạy đạo đức ở Tiểu học theo hướng tiếp cận năng lực đạt hiệu quả cao, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp: Trước hết cần tổ chức các hoạt động tuyên truyền, tập huấn, hội thảo, tọa đàm... nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao nhận thức cho giảng viên, sinh viên của nhà trường về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực nghề nhằm đáp ứng yêu cầu công tác kiểm định chất lượng giáo dục, đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết số: 29-NQ/TW. Đồng thời, các trường sư phạm cần chỉ đạo các bộ phận chuyên môn, nhất là khoa Sư phạm, chuyên ngành Giáo dục Tiểu học ở các trường cao đẳng Sư phạm; khoa 1 Nguồn: https://dean2020.edu.vn/nhung-cau-noi-hay-ve-thay-co/. Cập nhật ngày 12/9/2020. 2 Phạm Thị Kim Anh (2014), Đạo đức học sinh đang thách thức năng lực giáo dục của người thầy. Tạp chí Giáo dục và xã hội, số 38 (99). Truy cập tại: http://vncsp.hnue.edu.vn/ban-tron-giao-duc/article/172.aspx, ngày 12/9/2020. 354
  6. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững Giáo dục Tiểu học ở các trường Đại học Sư phạm, Phòng đào tạo, Phòng Kiểm định chất lượng giáo dục xây dựng kế hoạch đổi mới đồng bộ tất cả các khâu trong đào tạo sinh viên ngành Giáo dục tiểu học như: Xây dựng chuẩn đầu ra của ngành Giáo dục tiểu học; Xây dựng bộ chuẩn năng lực nghề nghiệp của sinh viên... Trong đó, xác định hệ thống năng lực và chuẩn năng lực của ngành Giáo dục tiểu học như: Năng lực khoa học và năng lực nghề; Xác định các thành tố tạo nên năng lực: năng lực riêng và năng lực chung; Xây dựng và xác định các chỉ số để đo lường chuẩn năng lực; Xây dựng nội dung, chương trình đào tạo ngành Giáo dục tiểu học, gồm: Lập kế hoạch dạy - học các học phần; Xây dựng chương trình chi tiết các học phần; Xây dựng đề cương bài giảng các học phần; Thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy - học; Xây dựng ngân hàng đề thi; Hoạt động thực tế ở trường Tiểu học; Xây dựng các nguyên tắc đánh giá năng lực nghề... Thứ hai, Phòng đào tạo, Phòng thanh tra, Phòng kiểm định chất lượng giáo dục cần có sự phối hợp nhịp nhàng trong việc kiểm tra, giám sát quá trình xây dựng đề thi kết thúc các học phần của tất cả giảng viên tham gia giảng dạy ngành Giáo dục tiểu học. Giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy ngành Giáo dục tiểu học cần đa dạng hóa các hình thức thi, kiểm tra đánh giá khác nhau trong quá trình dạy học: Thi viết, vấn đáp, thực hành, trắc nghiệm khách quan; tăng cường áp dụng hình thức cho sinh viên tự đánh giá cá nhân và tự đánh giá lẫn nhau trong quá trình dạy học. Cùng với đó, nhà trường cần xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp trong việc khuyến khích giảng viên, sinh viên làm đề tài nghiên cứu khoa học, tăng cường giao lưu với các cơ sở giáo dục đã thực hiện có hiệu quả đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực và phải coi nghiên cứu khoa học là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá giảng viên hoàn thành hay không hoàn thành nhiệm vụ. Thứ ba, nhà trường cần xây dựng quy chế khuyến khích, cộng điểm ưu tiên vào học phần Phương pháp giảng dạy, Kiểm tra đánh giá trong giáo dục Tiểu học, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục... cho sinh viên khi thi kết thúc các học phần này nếu sinh viên có đề tài nghiên cứu khoa học được đánh giá từ đạt trở lên. Song song với đó, cần tạo dựng mối liên kết chặt chẽ giữa Khoa Sư phạm, khoa Giáo dục Tiểu học với các trường Tiểu học trên địa bàn để sinh viên có nhiều cơ hội xuống thực hành, thực tập sau mỗi buổi học lý thuyết trên giảng đường được thuận lợi. Đi liền với đó, cần làm tốt công tác thu thập thông tin đánh giá kết quả quá trình đào tạo sinh viên ngành Giáo dục tiểu học của nhà trường bằng nhiều kênh khác nhau: Lấy ý kiến phản hồi của người dạy, người học và cán bộ quản lý giáo dục tại các trường Tiểu học mà sinh viên về thực hành, thực tế, đặc biệt là ý kiến của giáo viên hướng dẫn, học sinh, phụ huynh học sinh... Đây là kênh thông tin sát thực tế, khoa học để việc thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực đạt kết quả cao. 3. KẾT LUẬN Để công tác đào tạo có hiệu quả, hình thành năng lực, phẩm chất của sinh viên sư phạm ngành Giáo dục tiểu học, mỗi cán bộ, giảng viên, trực tiếp là các giảng viên tham gia giảng dạy ở các ngành đào tạo nghề dạy học cần nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác kiểm tra, đánh giá đối với kiểm định chất lượng giáo dục hiện nay. Kiểm tra, đánh giá người học là một trong những khâu quan trọng trong quá trình dạy học. Đổi mới kiểm tra đánh giá học phần Đạo đức và Phương pháp giáo dục đạo đức ở Tiểu học theo hướng tiếp cận năng lực người học là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục Tiểu học và công tác kiểm định chất lượng giáo dục tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hiện nay. 355
  7. Trường Đại học Mỏ - Địa chất TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Thị Kim Anh (2014), Đạo đức học sinh đang thách thức năng lực giáo dục của người thầy, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số tháng 5, Hà Nội. 2. Đào Đức Doãn (Chủ biên) (2019), Dạy học phát triển năng lực môn Đạo đức tiểu học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 3. Nguyễn Văn Tuấn (2010), Tài liệu học tập về phương pháp dạy học tích hợp, Trường Đại học sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Nguồn: https://dean2020.edu.vn/nhung-cau-noi-hay-ve-thay-co/. Cập nhật ngày 12/9/2020. 5. Nguồn:https://thuvienphapluat.vn/van-ban/thuong-mai/Nghi-quyet-29-NQ-TW-nam-2013- doi-moi-can-ban-toan-dien-giao-duc-dao-tao-hoi-nhap-quoc-te-212441.aspx. Cập nhật ngày 12/9/2020. 356
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2