JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-0054<br />
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 10, pp. 30-36<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN NAM ĐỊNH<br />
THỜI THUỘC ĐỊA (1884 – 1945)<br />
<br />
Dương Văn Khoa<br />
Khoa Lí luận chính trị và Giáo dục công dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
<br />
Tóm tắt. Đời sống của người dân, điển hình là nông dân Nam Định có sự thay đổi lớn dưới<br />
công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nhất là sau Chiến tranh thế giới lần thứ<br />
nhất. Thực dân Pháp đầu tư ngày càng nhiều tư bản và không ngừng tìm kiếm các giải pháp<br />
về kĩ thuật để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Diện tích gieo trồng, sản lượng, năng<br />
suất trong nông nghiệp không ngừng được cải thiện, nhưng đời sống của người nông dân<br />
Nam Định không ngừng đi xuống, biểu hiện rõ ở thu nhập, ăn, mặc, ở, đời sống tinh thần<br />
của họ. Cuộc sống khốn khổ, bế tắc của những người nông dân đã làm bùng nổ các cuộc<br />
đấu tranh và phát triển ngày càng mạnh mẽ, hòa vào phong trào đấu tranh của dân tộc kể<br />
từ khi Đảng ta ra đời lãnh đạo.<br />
Từ khóa: Nông dân Nam Định, thời thuộc địa (1884 – 1945), thực dân Pháp, đời sống.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Nam Định thời Pháp thuộc là đối tượng được đông đảo giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu.<br />
Tiêu biểu có thể kể đến: M.Le Gallen, Chapoulart Camille với cuốn“La province et la ville de Nam<br />
Dinh”, xuất bản năm 1933 [6], Nguyễn Ôn Ngọc với Nam Định dư địa chí, xuất bản năm 1885,<br />
Nguyễn Tường Phượng với “Khoa thi hương năm Tân Mão (1891)” và cuốn “Địa chí Nam Định”<br />
của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, xuất bản năm 2003... Các công<br />
trình của các học giả nêu trên đã ít nhiều đề cập đến một số nét về đời sống của người nông dân<br />
Nam Định và điểm khái quát nội dung tình hình sản xuất nông nghiệp của tỉnh thời kì ấy. Tất cả<br />
đều có giá trị tham khảo tốt. Trên cơ sở kế thừa một số kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước,<br />
chúng tôi đi sâu nghiên cứu toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân Nam Định<br />
thời kì thực dân Pháp đô hộ (1884 – 1945).<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Chính sách khai thác nông nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam<br />
Năm 1887, khối Đông Pháp ra đời bao gồm thuộc địa Nam Kì và hai xứ bảo hộ Việt Nam<br />
và Cao Miên (sau thêm Ai Lao). Chính sách ưu tiên trong khai thác nông nghiệp của chính quyền<br />
thực dân thời kì này là vơ vét lúa gạo để xuất khẩu, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền. Chiến<br />
<br />
Ngày nhận bài: 15/7/2015 Ngày nhận đăng: 10/11/2015<br />
Liên hệ: Dương Văn Khoa, e-mail: duongkhoagdct@icluod.com<br />
<br />
<br />
<br />
30<br />
Đời sống của người nông dân Nam Định thời thuộc địa (1884 – 1945)<br />
<br />
<br />
tranh đã làm cho nông dân bỏ ruộng đồng phiêu bạt khắp nơi. Thực dân Pháp đã lợi dụng nguyên<br />
tắc thuế khóa của nhà Nguyễn (tư điền sẽ bị sung công nếu chủ đất bỏ hoang và không đóng thuế),<br />
đã tịch thu các khoản đất bỏ hoang và phân chia chúng thành những lô đất trung bình từ 1500 ha<br />
và phát không cho tư nhân (chủ yếu là kiều dân Pháp).<br />
Chính quyền đô hộ đã thành lập các cơ quan chuyên môn, cơ quan nghiên cứu khoa học<br />
nông nghiệp như: các vườn Bách thảo ở Sài Gòn, Hà Nội, phòng Canh nông Bắc Kì, trại cây trồng<br />
và thí nghiệm ở Nam Định... Một số trường đào tạo công chức chuyên môn về nông nghiệp cũng<br />
được xây dựng như: Trường cao đẳng canh nông, cao đẳng thú y, cao đẳng thủy lâm. Đặc biệt là<br />
năm 1938, Pháp mở các trường đào tạo kĩ sư canh nông.<br />
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp đầu tư ồ ạt vào Đông Dương, chủ yếu<br />
là Việt Nam, chính thức tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai tại đây. Lĩnh vực đầu tư chủ<br />
yếu trong đợt khai thác này là nông nghiệp, khai mỏ... Theo tính toán của Jean Pierre Aumiphin,<br />
từ 1924 – 1939 (trong vòng 15 năm), khối lượng vốn đầu tư tư nhân Pháp đạt gần gấp đôi so với<br />
thời gian từ 1888 - 1923 (trên 30 năm) [1;49].<br />
<br />
2.2. Đời sống của nông dân tỉnh Nam Định<br />
Thu nhập của người nông dân: Thời Pháp thuộc, nguồn sống chủ yếu của người nông dân<br />
Nam Định nhờ vào nghề trồng lúa. Để biết được thu nhập của họ, chúng ta tìm hiểu kết quả sản<br />
xuất lúa nơi đây sẽ sáng tỏ nhiều điều. Năm 1893, tổng sản lượng lúa cả năm của tỉnh Nam Định<br />
đạt 110.000 tấn, số dân khoảng gần 600.000 người [2;167]. Từ đó suy ra, số thóc trung bình trên<br />
đầu người dân là 0,18 tấn (1,8 tạ)/năm/người. 1 tạ thời Pháp tính bằng 60 kg [3;65]. Do vậy, một<br />
người dân trung bình cả năm chỉ có 108 kg thóc. Chia đều cho 12 tháng, mỗi tháng có 9 cân thóc.<br />
Số thóc ấy không đảm bảo được cuộc sống tối thiểu cho người dân. Thực trạng này xảy ra ở hầu hết<br />
các địa phương của Việt Nam (đặc biệt là Bắc Kì) thời đó. Đúng như nhận định của Nguyễn Kiến<br />
Giang trong cuốn “Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách mạng Tháng<br />
Tám”: Kết quả trông thấy của sự bóc lột thực dân và phong kiến là thu nhập của quảng đại quần<br />
chúng lao động ngày càng sụt xuống với một tốc độ khá nhanh. Thực dân Pháp đã dùng một chính<br />
sách bóp nghẹt quá sức tưởng tượng đối với nhân dân các nước thuộc địa của chúng. . . Số thu nhập<br />
trung bình của nhân dân thuộc địa quả là số thu nhập chết đói.<br />
Vào đầu thế thế kỉ XX, Ăng-đrê Duy-ma-rext đã tính toán thu nhập của một gia đình nông<br />
dân ở Nam Định bao gồm 4 người: 2 vợ chồng, 2 con, được nhận 1 mẫu ruộng cụ thể như sau:<br />
<br />
Bảng 1. Thu chi của một gia đình nông dân Nam Định thời Pháp thuộc [4]<br />
Nội dung tiền chi bao gồm Nội dung tiền thu hoạch bao gồm<br />
Thức ăn: 1.300 kg thóc và rau Mùa gặt lúa, theo hiện vật: 850 kg<br />
Tiền chi linh tinh: 24 đồng bạc hàng tháng Lương của bố (thu hoạch bằng tiền) : 30 đồng<br />
Thuế điền thổ: 5 đồng bạc Lương của mẹ (thu hoạch bằng tiền): 5 đồng<br />
Tổng cộng : 29 đồng bạc Tổng cộng: 35 đồng<br />
<br />
<br />
Theo đơn giá của thị trường Nam Định lúc ấy, 1 tạ gạo tẻ (picul = 60 kg) có giá là 4$20 [5].<br />
Điều đó có nghĩa là 1.300 kg thóc = 22 picul (tức 92,04$). Như vậy, tổng chi phí quy ra tiền của<br />
gia đình nêu trên là 121,04$. Tổng thu thu nhập quy ra tiền là 850 kg (60$ + 35$ = 95$). Gia đình<br />
nông dân này sau khi thu hoạch, trừ tất cả các khoản chi phí, ăn uống sẽ thâm hụt mất 26,04$ (95$<br />
- 121,04$).<br />
Số liệu này cho thấy, mảnh đất nhỏ trong tay mỗi gia đình không thể nuôi sống họ. Muốn<br />
sống được, người nông dân phải đi vay và cầm cố mảnh đất với lãi suất rất cao (có khi lên 100%<br />
<br />
31<br />
Dương Văn Khoa<br />
<br />
<br />
hàng năm), có người đi tha phương cầu thực. Khi không trả được nợ, chủ nợ không ngần ngại gì<br />
mà không tiến hành những vụ tịch thu bắt giữ tài sản một cách thô bạo, chỉ cần một vụ thu hoạch<br />
mùa màng kém là nó lôi cuốn theo sau tình trạng phá sản của người nông dân. Tình hình này sẽ<br />
dẫn đến một kết cục “một người làm ruộng nhỏ đã trở thành tá điền ngay trên mảnh đất của chính<br />
anh ta” [4;109].<br />
Về ăn, mặc, ở: Ở Nam Định, số thóc gạo làm ra không đủ nuôi sống người nông dân, do<br />
vậy trong khẩu phần ăn của họ bao giờ cũng có các loại rau củ độn cùng “trong bếp của những nhà<br />
nghèo khó, một phần của khẩu phần bằng gạo đươc thay thế bởi việc ăn những củ khoai sọ, khoai<br />
lang hay những loại củ ăn được khác mà có một ít chất bột trắng, một chút muối khoáng, đem lại<br />
cho họ một phần nhỏ calo và để nói tất cả về một giá trị ăn uống xoàng xĩnh” [6;9-10].<br />
Tình cảnh thiếu thốn, đói kém, khổ cực của người nông dân Bắc Kì, cũng như Nam Định<br />
được một số tờ báo tiếng Việt đăng tải vào năm 1930: “Đến khi gặt được hột lúa về thì lo trang<br />
trải công nợ, mười phần cũng đã hết bảy tám phần rồi, còn lại ba phần nữa, vợ chồng con cái nuôi<br />
nhau cho đến mùa cày cấy tới. Được năm mưa thuận gió hòa, thóc lúa dồi dào thì còn có đủ hột<br />
cơm mà ăn, manh áo mà mặc, chẳng may gặp lúc thiên tai, nắng to hay nước lụt. . . thì tài gì cho<br />
khỏi gào đói kêu rét, trôi dạt lìa tan. Trông thấy cảnh ấy thật là thương tâm” [7;13]. Công sứ Pháp<br />
ở Nam Định Lốt-dơ cũng nhận định: hơn 900.000 dân Nam Định đều là những người thiếu ăn.<br />
J.Chesneaux cung cấp số liệu về mức tiêu thụ lượng thóc của người nông dân ở Bắc Kì như<br />
sau:<br />
Bảng 2. Mức tiêu thụ lượng thóc của nông dân Bắc Kì thời Pháp thuộc [8;209]<br />
Số thóc tiêu thụ của mỗi<br />
Năm Dân số (người) Tỉ lệ tăng (%) Tỉ lệ giảm (%)<br />
nhân khẩu (Kg)<br />
1900 13.000.000 262<br />
1913 15.000.000 17->22 226 14<br />
<br />
<br />
Nhìn vào số liệu của bảng trên ta thấy, dân số ở Bắc Kì từ năm 1900 đến năm 1913 tăng<br />
2000.000 người, nhưng mức tiêu thụ thóc của mỗi nhân khẩu lại giảm 36 kg. Điều đó chứng tỏ<br />
người dân ngày càng thiếu đói trầm trọng hơn. Nạn đói năm 1895 đã tàn phá ghê gớm các tỉnh<br />
đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có tỉnh Nam Định. Năm 1916, Bắc Bộ còn xảy ra một trận đói khủng<br />
khiếp nữa. Những nhà “khai hoá” cũng phải thừa nhận thảm hoạ này.<br />
Nạn đói khủng khiếp nhất xảy ra vào cuối năm 1944 đầu năm 1945 đã cướp đi của Nam<br />
Định 212.218 người [9;344-345]. Riêng xã Nghĩa Hùng (huyện Nghĩa Hưng), toàn xã có 241 hộ<br />
có người chết đói, trong đó có 82 gia đình chết hết hoặc chỉ còn sống 1 người. Điển hình như gia<br />
đình các ông: Luận, Diệm, Thông, Chè, Đam, Liêm, Kim, Lập [10;16]. Hai xóm Lâm Thọ, Lâm<br />
Quý (Giao Thủy) có 105 hộ thì 89 hộ chết hết [11;31].<br />
Vấn đề mặc. Qua một số tư liệu của người Pháp và người Việt, chúng ta được biết, trang<br />
phục của người nông dân nói chung rất rách rưới. Cảnh tượng thường thấy là khi đi làm đồng, đàn<br />
ông chỉ mặc chiếc quần đùi ngắn ngủn và cũ kĩ, có khi chỉ đóng khố, đàn bà cũng ở trần, hoặc chỉ<br />
có một tấm yếm không đủ che lồng ngực. Trẻ con thì không bao giờ hoặc rất hiếm khi được manh<br />
áo mới, áo quần của chúng đều lấy áo quần cũ của cha mẹ may lại. Những cảnh trời rét, nông dân<br />
phải quàng manh chiếu rách, miếng bao tải. J.Morel – nhà nghiên cứu người Pháp cũng phải thừa<br />
nhận: “Những người công nhân nông nghiệp, bao gồm khách hàng của làng, chỉ sống ngày nào<br />
biết ngày ấy. Tiền lương của họ chỉ là mấy đồng tiền tạm đủ để mua bộ áo mỏng của cu-li để mặc,<br />
còn hầu hết thù lao là lĩnh gạo, đây là chế độ chung cho tất cả những người làm công, quan chức<br />
cũng như vô sản” [12;25].<br />
<br />
32<br />
Đời sống của người nông dân Nam Định thời thuộc địa (1884 – 1945)<br />
<br />
<br />
Về ở. Nguyễn Kiến Giang đã nêu khá cụ thể về nơi ở của người nông dân Bắc Kì trong công<br />
trình “Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách mạng Tháng Tám”: Phần<br />
đông nông dân đều ở trong những túp lều lụp xụp, dột nát, mà mỗi lần lụt to, bão lớn là mỗi lần<br />
họ phải lo sợ tại nạn đổ nhà. Nhà chỉ là mấy tấm tranh cùn làm mái, mấy chiệc cột gỗ, kèo tre<br />
xiêu vẹo chống đỡ mái nhà cho khỏi ụp xuống và xung quanh cũng là tranh, là rạ, là phên, may<br />
mắn lắm mới có bức tường đất rơm. Điều kiện quá lam lũ của nông dân khiến họ rất ít có thì giờ<br />
sửa sang lại nhà ở của mình, trừ phi lúc nào không sửa thì không thể ở được nữa. Vào trong nhà,<br />
cảnh nghèo lại càng lộ rõ: một chiếc giường tre để nằm và bức phản gỗ mỏng đặt trước bàn thờ tổ<br />
tiên hiu hắt để tiếp đãi khách khứa. Nhà nghèo thì một chiếc chõng tre có khi không đủ cho người<br />
nhà nằm. Suốt đời họ, ít khi được dùng tấm chiếu mới. Chiếu xơ dùng trải giường, chiếu lành lặn<br />
hơn dùng để đắp vào mùa rét. Ngoài ra là một vài chiếc nồi đất để kho nấu, dăm ba chiếc bát sành<br />
xấu xí, một chiếc hũ con đựng nước kèm theo chiếc gáo dừa, hoặc gáo mo. Thật quá sức giản đơn!<br />
Nhiều cố nông không có được một nơi ở nào nữa. Chỗ ở của họ thường là nhà bếp, chuồng trâu,<br />
kho lúa của địa chủ, là những nơi chật chội, bẩn thỉu, mà ở đó họ không được một chút tự do nào,<br />
luôn luôn đó là những chỗ nằm tạm bợ.<br />
P.Gourou trong cuốn Người nông dân châu thổ Bắc Kì lại có quan điểm hơi khác về vấn đề<br />
này: “Nhà miền Bắc là những kiến trúc phức tạp, được dựng lên cẩn thận và thường có nghệ thuật.<br />
Đó là những kiến trức vững chãi, lâu bền, các thế hệ truyền lại cho đời sau và không thua kém gì<br />
những ngôi nhà của nông dân nhiều nước châu Âu. Tên gọi miệt thị lều hay túp không thích hợp<br />
để chỉ nó, mà chỉ có thể gọi là nhà” [2; 257]. Lí do của sự khác biệt đó là gì? Trong quá trình<br />
nghiên cứu, P.Gourou có khảo sát các làng như: Yên Phụ (Bắc Ninh), Phượng Vỹ (Hà Nam), chủ<br />
nhân của nó là những “nhà nho lịch sự”. Hay là ngôi nhà ở Quan Nhân (Khương Đình, Thanh Trì,<br />
Hà Đông), chủ nhà thuộc loại trung lưu [2;257-258]. Nếu lấy nhà của tầng lớp này làm mặt bằng<br />
chung cho tất cả các tầng lớp cư dân ở các vùng quê lúc ấy thì không chính xác. Đúng như biện<br />
giải của Nguyễn Kiến Giang, thành phần chiếm tuyệt đại đa số ở Việt Nam lúc đó là bần cố nông,<br />
những người khốn khổ, cả đời luẩn quẩn trong sự nghèo đói, túng thiếu. Vụ Tuyên huấn công tác<br />
nông thôn Trung ương cũng nhận định về thời kì đó: “Bất kì ai đi vào nông thôn, đồng bằng hay<br />
miền núi cũng đều nhận thấy rằng phần đông nông dân ở trong những túp lều lụp sụp, dột nát, mà<br />
mỗi lần lụt to, bão lớn là mỗi lần nông dân phải lo sợ tai nạn đổ nhà. Nhà chỉ là mấy tấm tranh cùn<br />
làm mái, mấy chiếc cột tre hoặc nứa khẳng khiu, và xung quanh cũng là tranh, là rạ làm phên, may<br />
mắn lắm mới có bức tường đất rơm. Vào trong nhà, thì cảnh nghèo lại càng thê thảm: một chiếc<br />
giường tre ọp ẹp để nằm, một bức phản mỏng gập ghềnh đặt trước bàn thờ tổ tiên hiu hắt để tiếp<br />
đãi khách khứa. Nhà nghèo thì chiếc chõng tre có khi không đủ cho người nhà nằm. Suốt đời họ, ít<br />
khi được dùng tấm chiếu mới. Ngoài ra, là một vài chiếc nồi đất để kho nấu, năm ba chiếc bát sành<br />
xấu xí, một chiếc hũ con đựng nước” [14;11-12]. Quan sát những bức ảnh mà Olivier Bouze chụp<br />
cảnh sinh hoạt và những ngôi nhà của nông dân Nam Định thời thuộc Pháp trong tác phẩm Đông<br />
Dương xưa, do Nxb Giáo dục dịch và xuất bản, chúng ta càng thấy Nguyễn Kiến Giang nhận định<br />
đúng.<br />
Không chỉ tồi tàn về đời sống vật chất, đời sống tinh thần của họ cũng rất nghèo nàn, họ bị<br />
chế độ thuộc địa giam hãm trong sự lạc hậu và dốt nát. Chỉ tính riêng địa bàn thành phố Nam Định<br />
đã có 70 điểm nhà thổ và cô đầu... Mãi tới năm 1920, cả một vùng phía Nam đồng bằng Bắc Bộ,<br />
chúng mới mở trường Pháp - Việt đầu tiên là trường Thành Chung (tương đương trình độ trung<br />
học cơ sở ngày nay) tại thành phố Nam Định, với mục đích đào tạo một số ít công chức phục vụ<br />
cho bộ máy thống trị. Năm 1932, tổng số học sinh các trường công trong tỉnh là 10.546 người. Cả<br />
tỉnh chỉ có 1 trường trung học (tương đương cấp 2) thu nhận mỗi năm 80 học sinh ở các tỉnh đồng<br />
bằng Bắc Bộ [15;11]. Năm 1933, ở Nam Định cứ 100 người dân mới có một người được đi học,<br />
hơn 90% dân số bị mù chữ [16;53-54].<br />
<br />
33<br />
Dương Văn Khoa<br />
<br />
<br />
Như vậy, số vốn được chính quyền thực dân đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam, trong đó có<br />
tỉnh Nam Định ngày một tăng cao. Sản lượng, năng suất trồng lúa ngày càng được cải thiện. Tuy<br />
nhiên, đời sống của người nông dân nơi đây ngày một bần cùng hóa.<br />
<br />
2.3. Nguyên nhân dẫn tới sự khốn khổ trong cuộc sống của người nông dân Nam<br />
Định thời thuộc địa<br />
2.3.1. Tô, thuế nặng nề, phụ thu, lạm bổ vô lí<br />
Không chỉ bị thực dân và phong kiến cướp đoạt về ruộng đất, nông dân Nam Định còn phải<br />
đóng rất nhiều loại thuế khác nhau và các mức thuế đó không ngừng tăng theo thời gian (tính theo<br />
giá gạo, qua 55 năm, số thu tăng gấp 5 lần). Về thuế thân, hạng dân không có chút ruộng đất nào<br />
(vô sản) phải đóng 1,20$ mỗi người và người có một vài thước đất, không có lợi tức gì cũng phải<br />
đóng thuế như người có 4,5 mẫu. “Thuế thân tính theo lối đó chính là nhằm đánh vào nông dân,<br />
tức bần nông và trung nông. Nó làm cho nông dân vô cùng khốn quẫn. . . Thuế là một là một món<br />
nợ máu của nông dân phải trả cho bọn thống trị. Nông dân càng phá sản, ruộng đất càng tập trung<br />
vào địa chủ, thực dân” [8;97]. Nam Định cũng phải thực hiện theo quy định chung đó, nhưng nhân<br />
dân ở đây khốn khổ hơn một số địa phương khác vì liên tục gặp phải thiên tai, lũ lụt. Đơn cử như<br />
năm trận bão lớn gây lụt diện rộng năm 1929, nhân dân Nam Định có đơn xin giảm thuế: Ruộng<br />
gần bể, vỡ đê nước mặn tràn vào, xin tha thuế 2 năm, ruộng không tái sinh được vụ mùa xin tha<br />
thuế 1 năm. Nhưng nhà nước trả lời: Nếu bị thiệt hại thì sẽ trợ cấp cho một ít tiền là được, vả lại<br />
“thủy tai năm 1926 thiệt hại còn gấp bao nhiêu phần mà cũng không có xá thuế. Những làng nào<br />
bị thiệt hại mà không thể giả vụ thuế tháng Năm hay tháng Mười thì được gia thêm mấy hạn để<br />
nộp sau” [8;98].<br />
Quan lại địa phương ra sức nhũng nhiễu, bòn rút của người nông dân, chúng bày ra đủ mọi<br />
thứ phụ thu để bắt người dân đóng góp như: mua tờ Tiểu đơn kê khai ruộng đất, sổ biên lai kê khai<br />
thuế. . . Số tiền để mua những thứ đó không hề nhỏ. Theo đơn kiện của người dân huyện Vụ Bản<br />
năm 1923, mỗi người nông dân phải mua 3 tờ Tiểu đơn và 1 sổ biên lai. Giá mỗi tờ là 0,02$, công<br />
viết 0,04$, tổng cộng là 0,06$. Một sổ biên lai 6$. Theo người dân, số tiền này còn nặng hơn nộp<br />
thuế điền [17].<br />
Một học giả người Pháp đã tổng kết và phê phán một số loại thuế, các khoản đóng góp, phụ<br />
thu phổ biến mà thực dân Pháp đã áp dụng ở Nam Định nói riêng,Việt Nam nói chung như: thuế<br />
chợ; thuế đò; tiền chuộc sưu; việc cung cấp bò thịt; cung cấp các sản vật bản xứ để dự Triển lãm<br />
quốc tế; đóng góp tiền để nuôi lính bản xứ; lệnh khai báo ruộng; làm lại sổ đinh. . . Ví dụ như vấn<br />
đề “tiền chuộc sưu”. Năm 1886, một Sắc lệnh của chính quyền Pháp đã bắt buộc các làng xã hàng<br />
năm phải cung cấp một số lượng dân phu khá lớn và nói là để phục vụ cho các việc công ích ở các<br />
thành phố cũng như ở các tỉnh. Nếu người dân nào không đi phu, phải bỏ ra từ 2 đồng đến 4 đồng<br />
để được miễn trừ [18;34].<br />
2.3.2. Nạn cho vay nặng lãi<br />
Thông thường, người nông dân Nam Định vay mượn để làm giỗ, để an táng cho cha mẹ<br />
mình, để trả những khoản thuế và hoàn trả một khoản nợ nần từ trước đó. Nhưng nếu như việc<br />
hoàn trả đã không được tiến hành đúng kì hạn, người vay nợ sẽ gặp rất nhiều rắc rối. Camille<br />
Chapoulart viết: “người cho vay nặng lãi sẽ trả tiền cho một “nặc nô”- đòi nợ thuê tiến hành một<br />
vụ scandal ở ngay cửa nhà của con nợ bằng cách chửi rủa, lăng nhục thậm tệ rất lâu đến tất cả các<br />
đời tổ tiên của họ, sau đó là có đơn khiếu nại pháp lí, giấy tờ có dán tem hay đóng dấu, sự xét xử<br />
và sự tịch thu tài sản” [6;24].<br />
<br />
<br />
34<br />
Đời sống của người nông dân Nam Định thời thuộc địa (1884 – 1945)<br />
<br />
<br />
Tư bản Pháp cũng lập ra hệ thống ngân hàng, tín dụng nông nghiệp ở các tỉnh. Tuy nhiên,<br />
người nông dân muốn vay được tiền ở ngân hàng cần phải qua nhiều khâu trung gian, vì vậy lãi<br />
suất thực tế tăng lên rất cao. Báo chí đương thời phản ánh như sau: Ngân hàng nông nghiệp niêm<br />
yết lãi suất cho vay là 12 phân, nhưng thực tế người nông dân phải vay với lãi suất cao hơn rất<br />
nhiều. Lí do như tờ Canh nông luận biện giải: “Nói đến cái số cho vay ăn lời của hội thì nhà nông<br />
ta ai chẳng thèm, ai chẳng muốn vay để làm ăn, vì số cho vay ăn lời của hội chỉ có 10 đến 12 phân<br />
mà thôi, song đồng tiền ấy nó còn bị gián cách ở tay bậc đại điền chủ, khi đến tay các hạng tiểu<br />
nông điền - tốt kia thì số lời ấy nó đã thay hình đổi dạng mà hóa ra 20” [19;10].<br />
2.3.3. Thiên tai, bão lụt, hạn hán, bệnh tật<br />
Bắc Kì liên tục phải gánh chịu những cơn bão và lũ lụt. Từ năm 1911 đến 1929, trong<br />
khoảng 19 năm có 147 trận bão. Riêng trận bão tháng 7/1929 ở Nam Định có 78.640 nhà đổ, 10<br />
vạn mẫu ruộng không cấy lại được. . . Những năm 1911, 1913, 1915, 1918, 1923, 1926, 1929 đều<br />
xảy ra vỡ đê gây lụt lội và mất mùa [20;79].<br />
Đưa tin về sự thiệt hại do trận bão năm 1929 gây ra ở tỉnh Nam Định, báo Canh nông luận<br />
nêu: 127 người chết; 1402 ngôi nhà gạch bị sụt mái ; 82 nhà gạch bị đổ; 66.049 ngôi nhà là bị gió<br />
cuốn nóc; 78.558 ngôi nhà lá bị đổ. . . Mùa màng bị thiệt hại nặng nề [21;16]. Sang năm 1930, giá<br />
thóc gạo tăng cao, do thiên tai năm ngoái đã tàn phá những kho lúa dự trữ ở Nam Định. Vụ tháng<br />
10 năm 1929 tiếp tục mất mùa. Mặc dù Chính quyền thực dân cấm xuất khẩu gạo trong ba tháng<br />
đầu năm 1930, nhưng nạn đầu cơ tích trữ, mất mùa đã đẩy giá lương thực lên cao, đời sống của<br />
người dân quê rất khó khăn.<br />
Hồi kí của J.Masson ghi tình hình bệnh tật ở Bắc Kì: “Ở đồng bằng, bệnh nổi bật nhất là<br />
bệnh sốt rét đầm lầy, ở miền núi là bệnh sốt rét rừng, cả hai đều ác tính. Những bệnh tật thông<br />
thường nhất là thương hàn, kiết lị, đau gan và say nắng, chúng xuất hiện ở mọi nơi và mùa nào<br />
cũng mắc phải. Bệnh tả xuất hiện hầu như hàng năm vào mùa nóng và sự tàn phá của nó càng lớn<br />
trên mảnh đất thiếu thốn” [22;153] .v.v. . .<br />
Trước cảnh bị áp bức, bóc lột nặng nề của đế quốc, phong kiến tay sai, nông dân Nam Định<br />
đã đứng dậy đấu tranh sôi nổi, nhất là từ năm 1930 trở đi (sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra<br />
đời). Điển hình có thể kể đến các huyện: Ý Yên, Giao Thủy, Hải Hậu, Xuân Trường [16;96,116].<br />
<br />
3. Kết luận<br />
Đời sống của người dân, đặc biệt là nông dân Nam Định thời kì này vô cùng cực khổ. Trung<br />
nông và phú nông có khá hơn bần cố nông, nhưng cũng cùng chung số phận như họ, đều bị đế<br />
quốc, phong kiến bóc lột, thống trị và không tránh được những tác động mạnh từ phía giai cấp<br />
thống trị và thiên nhiên gây ra. Người nông dân Bắc Kì cũng như Nam Định phải gánh chịu rất<br />
nhiều tai ương, hiểm họa dưới thời Pháp thuộc. Nhưng có lẽ đáng sợ nhất là chế độ tô, thuế, cho<br />
vay nặng lãi. Nó đã làm cho người nông dân nhanh chóng rơi vào sự phá sản và trở thành những<br />
người vô sản khốn khổ.<br />
Vốn có truyền thống yêu nước, cùng với sự khốn khổ do chính sách thống trị, vơ vét, bóc<br />
lột của chính quyền thực dân gây ra, những người nông dân Nam Định đã sớm đứng lên đấu tranh<br />
quyết liệt, đặc biệt sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo phong trào cách mạng.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] J.Aumiphin, 1994. Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859-1939) (tài<br />
liệu dịch). Nxb Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội.<br />
<br />
35<br />
Dương Văn Khoa<br />
<br />
<br />
[2] P.Gourou, 1936. Les paysans du delta tonkinnois Études de géographic humaine, tài liệu dịch.<br />
Nxb Nghệ thuật, Pari.<br />
[3] Vũ Thị Minh Hương, 2002. Nội thương Bắc Kì thời kì từ 1919 – 1939. Luận án tiến sĩ lịch sử,<br />
Đại học Khoa học Xã hội&Nhân văn.<br />
[4] André Dumareat, 1935. Sự hình thành các giai cấp xã hội ở xứ An Nam. Hoàng Đình Bình<br />
dịch, tr.108.<br />
[5] Residence de Nam Dinh. Renseignements sur les prix de diverses catégories de riz dans la<br />
province de Nam Dinh de 1903 à 1906. 003465, TTLT I, Hà Nội.<br />
[6] Camille Chapoulart, 1933. La province et la ville de Nam Dinh. Imprimerie Truong Phat, Nam<br />
Dinh.<br />
[7] H.T.B, 1930. Tình cảnh nhân dân ở chốn thôn quê trong buổi đói kém này. Tạp chí Canh nông<br />
luận, số 30.<br />
[8] Nguyễn Kiến Giang, 1959. Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách<br />
mạng Tháng Tám. Nxb Sự Thật, Hà Nội.<br />
[9] BCH Đảng bộ Hà Nam Ninh, 1989. Lịch sử Hà Nam Ninh, T.1. Hà Nam Ninh.<br />
[10] BCH Đảng bộ xã Nghĩa Hùng, 1991. Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa Hùng (Sơ thảo).<br />
[11] Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nam Hà, 1966. Sơ thảo Lịch sử Cách mạng Tháng Tám tỉnh Nam<br />
Định. Nxb Xí nghiệp in Nam Hà.<br />
[12] J.Moren, 1912. Việc cấp phát ruộng đất ở Bắc Kì, tài liệu do Hoàng Đình Bình dịch. Pari.<br />
[13] P.Gourou, 1936. Người nông dân châu thổ Bắc Kì, tài liệu dịch. Nxb Nghệ thuật, Pari.<br />
[14] Ban Công tác nông thôn trung ương, 1960. Nông dân Việt Nam trước và sau Cách mạng<br />
Tháng Tám. Nxb Nông thôn, Hà Nội.<br />
[15] Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Nam Hà, 1970. Lịch sử Đảng bộ Nam Định - Hà Nam (1930 -<br />
1945). Nxb Xí nghiệp in Nam Hà.<br />
[16] BCH Đảng bộ tỉnh Nam Định, 2001. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định 1930 - 1975. Nxb<br />
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.<br />
[17] Residence de Nam Dinh, 1916. Fonctionnement du jardin d’essai et des pépinières de Nam<br />
Dinh. 003424 TTLT I.<br />
[18] Nguyễn Văn Kiệm, 1995. Những nỗi thống khổ của nông dân Đồng bằng Bắc Kì những năm<br />
80-90 thế kỉ XIX (qua ghi chép của một Giám mục Công giáo). Nghiên cứu Lịch sử, số 5, 6.<br />
[19] Nguyễn Tử Thức, 1930. Cái tai nạn về sự nước lụt năm nay. Tạp chí Canh nông luận, số 20.<br />
[20] Nguyễn Khánh Toàn, 1960. Vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà<br />
Nội.<br />
[21] Canh nông luận, 1929. Tình hình canh nông ở ngoài Bắc. Tạp chí Canh nông luận, số 2.<br />
[22] J.Masson, 1892. Hồi ức về xứ trung kì và xứ, tài liệu dịch. Pari.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
The life of Nam Dinh farmers during colonial times (1884-1945)<br />
The lives of people, especially farmers in Nam Dinh Province underwent major changes as<br />
a mining colony under French colonialism, especially after World War I. At that time the French<br />
colonialists began to invest an increased amount of capital in order to improve crop yields and<br />
livestock production. However, while agricultural productivity increased„ but lives of the farmers<br />
in Nam Dinh worsened in terms of income, food, clothing, housing and spiritual life. Their lives<br />
were absolutely miserable and from their misery exploded the development of the increasingly<br />
powerful harmony in the movement of peoples since the birth of our Party leadership.<br />
Keywords: Nam Dinh farmers, colony (1884–1945), French colonialists<br />
<br />
<br />
36<br />