ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

Ế-

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa họ

Thái Nguyên, năm 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Đờ ế -

kết quả nghiên cứu của riêng tôi, nội dung đề tài luận văn có sử dụng tài liệu,

thông tin được đăng tải trên các báo, tạp chí và một số cuốn sách (đã nêu ở

phần Tài liệu tham khảo).

Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung

thực và chưa được sử dụng trong công trình nghiên cứu nào. Các trích dẫn có

nguồn gốc rõ ràng.

ận văn

i

LỜI CẢM ƠN

TS.

n văn.

ệ ệ ỉ

ể trong huyệ ỉ

ận văn

ii

MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan ....................................................................................................... i

Lời cảm ơn .......................................................................................................... ii

Mục lục.............................................................................................................. iii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN VÕ NHAI

TỈNH THÁI NGUYÊN .................................................................................... 9

1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên .................................................................... 9

1.2. Nguồn gốc tộc người ................................................................................. 11

1.2.1. Khái quát về tộc người Mông trước khi đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái

Nguyên ............................................................................................................. 11

1.2.2. Tộc người Mông ở huyện Võ Nhai (1975 - 2015) ................................. 15

Chƣơng 2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN

VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015 ........ 20

2.1. Trong nông nghiệp .................................................................................... 20

2.1.1. Về trồng trọt ........................................................................................... 20

2.1.2. Về chăn nuôi .......................................................................................... 31

2.2. Nghề thủ công gia đình ............................................................................. 32

2.3. Khai thác nguồn lợi tự nhiên ..................................................................... 37

2.4. Trao đổi hàng hoá ..................................................................................... 38

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 39

Chƣơng 3. ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN

VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015 ........ 40

3.1. Tổ chức xã hội ........................................................................................... 40

3.1.1. Cộng đồng làng bản, dòng họ ................................................................ 41

3.1.2. Gia đình và hôn nhân ............................................................................. 47

iii

3.2 Đời sống vật chất ....................................................................................... 50

3.2.1. Đồ ăn, uống, hút ..................................................................................... 50

3.2.2. Trang phục ............................................................................................. 53

3.2.3. Nhà ở ...................................................................................................... 54

3.3. Các tập quán liên quan đến chu kì đời người ........................................... 55

3.3.1. Sinh đẻ và nuôi dạy con cái ................................................................... 55

3.3.2. Nghi lễ đám cưới .................................................................................... 56

3.3.3. Nghi lễ tang ma ...................................................................................... 58

3.4. Tín ngưỡng, tôn giáo ................................................................................. 62

3.5. Văn nghệ dân gian..................................................................................... 68

3.6. Lễ hội và trò chơi dân gian ....................................................................... 70

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 73

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 77

PHỤ LỤC

iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây dựng một

nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh và vững bền, “sánh vai với các cường

quốc năm châu”. Đó là sức mạnh tổng hợp của 54 thành phần dân tộc anh

em trên dải đất hình chữ S, là kết quả của quá trình phát triển cả về chính trị,

kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong lịch sử hình thành và phát triển của mỗi

thành phần dân tộc thì yếu tố kinh tế và văn hóa có vai trò rất quan trọng, có

mối quan hệ với nhau và là nền tảng, là tiền đề cho sức mạnh của mỗi quốc

gia, dân tộc.

Kinh tế là những hoạt động đầu tiên để giải quyết nhu cầu ăn, ở và mặc

cho con người. Trong quá trình định cư và sinh sống của mình, các dân tộc dựa

vào những điều kiện tự nhiên và đặc trưng riêng có mà hình thành nên các loại

hình kinh tế. Hoạt động kinh tế rất đa dạng nhưng giữa các nền kinh tế khác

nhau thường có sự giao thoa, hỗ trợ, hợp tác và cùng phát triển. Việc phát triển

cái mới trên cơ sở phát huy cái cũ của một nền kinh tế là một việc làm hết sức

cần thiết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong thời kì

hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay.

Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn nhằm đáp ứng

nhu cầu của mình. Văn hóa là tác nhân để đưa tới sự đối thoại, sự hợp tác và

đưa đến “tứ hải giai huynh đệ” (bốn biển đều là anh em) cho nhân loại. Văn

hoá vừa là động lực, vừa là kết quả nhân văn của một nền kinh tế. Tất cả các

dân tộc trong quá trình vận động và phát triển của mình đều có một hướng đi

chung là nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội cho

nhân dân. Vì vậy, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay,

Đảng ta xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phù

hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, đảm bảo cho cộng đồng các dân tộc

1

khai thác thế mạnh địa phương làm giàu cho mình, cho đất nước” (Nghị quyết

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá XI) và “Phát huy

mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của các dân tộc anh em làm phong phú

thêm nền văn hoá chung của cả nước” (Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII

của Đảng).

Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, dân tộc Mông là một dân tộc ít

người thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, với 3 ngành chính: Mông Trắng,

Mông Hoa và Mông Đen. Địa bàn sinh sống của người Mông chủ yếu là ở

những vùng núi cao thuộc các tỉnh: Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu,

Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang….

Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc

Mông có 1.068.189 người, đứng thứ 8 trong bản danh sách các dân tộc ở Việt

Nam. Bằng sức mạnh cộng đồng và khả năng sáng tạo của mình, người Mông ở

Việt Nam đã xây dựng cho mình một đời sống kinh tế, văn hoá đặc thù của cư

dân vùng núi cao, phù hợp với đặc điểm tự nhiên và truyền thống sản xuất của

tộc người mình.

Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc với gần 20 thành phần dân

tộc anh em. Tộc người Mông ở Thái Nguyên tập trung khá đông đảo, nhất là ở

các huyện Võ Nhai, Đồng Hỷ, Định Hoá, Phú Lương. Người Mông ở Thái

Nguyên nói chung và Võ Nhai nói riêng chủ yếu mới di cư từ các tỉnh Cao

Bằng, Hà Giang về do cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Theo số liệu của

cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tỉnh Thái Nguyên có 7.230

người thuộc dân tộc Mông, chiếm 0,6% dân số toàn tỉnh và là 1 trong 8 thành

phần dân tộc có số lượng đông nhất.

Võ Nhai là huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, nằm ở tọa độ có giới

hạn địa lí từ 105035’ đến 106017’ kinh Đông, 21036’ đến 21056’ vĩ Bắc; phía

đông giáp huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn); phía tây giáp huyện Đồng Hỷ và

2

huyện Phú Lương; phía nam giáp huyện Đồng Hỷ (tỉnh Thái Nguyên) và huyện

Yên Thế (tỉnh Bắc Giang); phía bắc giáp huyện Na Rì (tỉnh Bắc Kạn).

Người Mông sống chủ yếu tại các xã Thượng Nung, Dân Tiến, Cúc

Đường, La Hiên, là những nơi có địa hình núi cao, thung lũng xen kẽ núi đá.

Bằng sức mạnh cộng đồng và khả năng của mình, người Mông ở Võ Nhai đã

sáng tạo những loại hình kinh tế, những nét văn hoá mang tính đặc thù.

Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn cuộc sống, nhằm góp phần

nhỏ vào việc tìm hiểu những đặc điểm kinh tế, văn hoá của người Mông ở Võ

Nhai - Thái Nguyên và để phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương, tôi

quyết định chọn đề tài: Đời sống kinh tế - văn hoá của tộc người Mông ở

huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975 đến năm 2015 làm Luận văn

Thạc sĩ Sử học.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học

trong và ngoài nước về tộc người Mông. Trong đó có thể kể đến một số công

trình nghiên cứu sau đây:

Lịch sử người Mèo của học giả nước ngoài Savina F.M xuất bản tại

Hồng Kông năm 1924 do Trương Thọ dịch, cho biết một cách khái quát về lịch

sử di cư, tên gọi, nguồn gốc của người Mông trên thế giới.

Dân tộc Mông ở Việt Nam của các tác giả Cư Hoà Vần và Hoàng Nam -

Nxb Văn hoá dân tộc, 1994, đã phác họa một cách khá đầy đủ về kinh tế, văn

hoá, xã hội của tộc người Mông ở Việt Nam nói chung. Công trình này cũng là

nguồn tư liệu để tìm hiểu về đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của tộc người

Mông tại Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

Năm 1995, Nxb Văn hóa dân tộc xuất bản cuốn sách Văn hóa Mông của

tác giả Trần Hữu Sơn. Cuốn sách đề cập khá sâu sắc về nét văn hóa cổ truyền

của tộc người Mông.

3

Văn hoá tâm linh của người HMông ở Việt Nam truyền thống và hiện tại

của tác giả Vương Duy Quang, Nxb Văn hoá thông tin và Viện Văn hoá Hà

Nội xuất bản năm 2005, đã giới thiệu khái quát về lịch sử di cư, địa vực cư trú

và tộc danh của người Mông ở Việt Nam. Tác giả cuốn sách cũng đề cập đến

những nét chung về đời sống kinh tế, đời sống xã hội của người Mông.

Cuốn sách Địa chí Thái Nguyên, do Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản

năm 2009, là một công trình nghiên cứu công phu của tập thể tác giả trong và

ngoài tỉnh đã trình bày khá rõ nét và cơ bản về kinh tế, văn hoá, xã hội của các

tộc người ở Thái Nguyên, trong đó có tộc người Mông.

Cộng đồng các dân tộc Việt Nam - Nxb Giáo dục Việt Nam - 2010, giới

thiệu sơ lược về 54 thành phần dân tộc anh em cùng sinh sống trên đất nước

Việt Nam, trong đó có tộc người Mông.

Một số Luận Văn Thạc sĩ, như:

Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại từ năm 1945

đến nay của Nguyễn Kiến Thọ, (2008), đã chỉ ra những vẻ đẹp đặc trưng, mới

lạ và độc đáo của bản sắc văn hóa tộc người Mông, góp thêm tiếng nói vào việc

giữ gìn, bảo tồn và phát huy những nét đẹp văn hóa của tộc người Mông từ sau

Cách mạng tháng Tám đến nay.

Kinh tế - Văn hóa của người Mông ở huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang

từ năm 1986 đến năm 2010 của Nguyễn Hoa Hậu, (2011), giới thiệu một cách

khái quát về đời sống kinh tê, văn hóa của tộc người Mông ở huyện Na Hang

tỉnh Tuyên Quang trong quá khứ và những chuyển biến ở hiện tại, là cơ sở để

chúng ta thực hiện mục tiêu phát triển dân trí, nâng cao chất lượng cuộc sống

của đồng bào dân tộc thiểu số, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân

chủ, công bằng, văn minh.

Kinh tế - Văn hóa của người Mông ở huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên

từ năm 1979 đến năm 2010 của Hứa Thị Hoàng Anh (2013), góp phần định

hướng những giải pháp nhằm ổn định, nâng cao đời sống kinh tế của người

4

Mông ở Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, bảo tồn và phát huy những giá trị văn

hóa vật chất và tinh thần của đồng bào.

Tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở miền Tây Cao

Bằng từ năm 1945 đến năm 2012, (2013), nhằm góp phần giữ gìn, bảo tồn và

phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Mông ở Việt Nam

nói chung và ở Cao Bằng nói riêng.

Luận án Tiến sĩ của Phan Viết Long, Vấn đề đạo Tin lành trong dân

tộc Mông các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, 2003, Học viện chính

trị Quốc gia Hồ Chí Minh 2003), khái quát về tình hình tín ngưỡng của tộc

người Mông trong lịch sử và hiện tại, những mặt tích cực và hạn chế cần duy

trì và xóa bỏ.

Ngoài những công trình nghiên cứu nêu trên, còn có một số bài báo, như:

Thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại - một vài đặc điểm nổi bật, của Trần Thị

Việt Trung, đăng trong Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên,

số 3 tập 1, 2008; Làng bản và luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người

Mông ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang của 2 tác giả Đàm Thị Uyên và Phùng

Thị Sinh, đăng trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Trường Đại học Sư phạm -

Đại học Thái Nguyên, 2010; Làng bản và luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên

của người HMông huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang của hai tác giả Hà Thị Thu

Thủy và Đàm Thị Uyên, đăng trong Tạp chí Dân tộc và Thời đại số 139-140,

2011; Tìm hiểu cách thức khai thác và bảo vệ rừng của dân tộc Mông tỉnh Thái

Nguyên của tác giả Dương Quỳnh Phương, đăng trong Tạp chí Khoa học &

Công nghệ Đại học Thái Nguyên, số 2, 2006... Những bài báo này đã giới thiệu

về luật tục, cách thức khai thác và bảo vệ tài nguyên của tộc người Mông trong

quá trình sinh sống và lao động sản xuất.

Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về kinh tế - văn

hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Những công

5

trình nêu trên là nguồn tài liệu quý báu giúp cho tôi tiếp cận và nghiên cứu thực

hiện Luận văn này.

3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Hệ thống lại các đặc điểm kinh tế - văn hoá của người Mông ở huyện

Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1979 đến năm 2015. Qua nghiên cứu, đề

xuất giải pháp giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hoá của người Mông trên địa

bàn nghiên cứu nói riêng và trên lãnh thổ Việt Nam nói chung.

- Cung cấp cho giáo viên và học sinh những hiểu biết về dân tộc thiểu số

nói chung và của tộc người Mông nói riêng ở địa phương, cụ thể để phục vụ

cho việc dạy học lịch sử địa phương.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kinh tế và văn hoá của người Mông ở

huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Nghiên cứu về kinh tế bao gồm kinh tế nông

nghiệp, khai thác nguồn lợi tự nhiên, thủ công nghiệp và trao đổi hàng hoá.

Nghiên cứu về văn hoá bao gồm các lĩnh vực trong đời sống vật chất và đời

sống tinh thần.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Đề tài giới hạn trong tìm hiểu về đời sống kinh tế -

văn hoá của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975

đến năm 2015, qua đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế,

đồng thời giữ gìn và phát huy những nét bản sắc văn hóa tộc người, “hòa nhập

nhưng không hòa tan” của mỗi tộc người trong cộng đồng 54 dân tộc anh em.

- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Võ Nhai,

chủ yếu ở các xã Dân Tiến, La Hiên, Thượng Nung, Nghinh Tường, Phương

Giao, Phú Thượng là những nơi có đông người Mông sinh sống.

- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu các loại hình kinh tế và văn hoá

người Mông từ năm 1975, nghĩa là từ khi người Mông bắt đầu di cư về huyện

Võ Nhai,đến năm 2015.

6

3.3. Nhiệm vụ của đề tài

- Khái quát vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, xã hội của

người Mông ở huyện Võ Nhai từ năm 1979 đến năm 2015.

- Làm rõ những đổi thay trong đời sống vật chất và tinh thần.

- Xác định những đặc điểm cần bảo tồn và phát huy trong quá trình gìn

giữ những bản sắc văn hoá dân tộc.

4. Nguồn tƣ liệu và phuơng pháp nghiên cứu

4.1 Nguồn tư liệu

- Nguồn tư liệu thành văn: Bao gồm các công trình nghiên cứu và các tác

phẩm viết về nguồn gốc cộng đồng dân tộc, những nét văn hoá truyền thống

đặc sắc, lí luận về dân tộc; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCH Trung ương

Đảng khóa VII; Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt

Nam, do Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương xuất bản…Các tác phẩm thông

sử và sách chuyên khảo... Các bài viết về kinh tế, văn hoá của tộc người Mông

ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.

- Nguồn tư liệu thực địa và điền dã: Bao gồm sự quan sát cảnh quan,

phỏng vấn cán bộ lãnh đạo xã, Trưởng thôn, Trưởng bản, thầy cúng, thầy

thuốc, nông dân...để tìm hiểu đời sống kinh tế và văn hoá của tộc người Mông

ở Võ Nhai.

4.2 Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử

kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu. Bằng phương pháp lịch sử, dựa trên

những nguồn tư liệu chọn lọc, trình bày hệ thống quá trình di cư, xây dựng đời

sống kinh tế - văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai. Trên cơ sở phân

tích các sự kiện, hiện tượng lịch sử đưa ra những nhận xét, đánh giá những

thành tựu, hạn chế trong đời sống kinh tế của đồng bào và dề ra những giải

pháp thiết thực.

7

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp liên ngành khác, như

phương pháp điền dã dân tộc học, chủ yếu là phương pháp quan sát xã hội và

phỏng vấn sâu. Trong quá trình đi thực địa, tác giả có dịp quan sát cuộc sống

sinh hoạt cũng như tập tục và cách thức chăn nuôi, làm nương rẫy của đồng bào

Mông tại các xã Dân Tiến, Thượng Nung, Phương Giao, La Hiên; trực tiếp

phỏng vấn những người lớn tuổi, có kinh nghiệm và hiểu biết về tập tục, văn

hoá của người Mông ở địa phương. Từ đó, tiến hành so sánh đối chiếu để xác

minh tính chân thực lịch sử của một tộc người ở một địa phương cụ thể.

5. Đóng góp của Luận văn

- Đề tài là một trong những cơ sở để thực hiện mục tiêu phát triển dân trí,

nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vì mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

- Đề tài góp phần giáo dục tư tưởng cho thế hệ trẻ cần phải trân trọng

những giá trị văn hoá và tinh thần mà ông cha đã đúc kết được từ xưa đến nay.

Đó là kho báu vô giá đối với mỗi con người Việt Nam.

- Đề tài còn dùng làm tài liệu giảng dạy trong các trường phổ thông trên

địa bàn huyện.

6. Cấu trúc của Luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài

được cấu trúc thành 3 chương nội dung:

Chương 1: Khái quát về tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.

Chương 2: Đời sống kinh tế của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai từ

năm 1975 đến năm 2015

Chương 3: Đời sống văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai từ

năm 1975 đến năm 2015

8

Chƣơng 1

KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƢỜI MÔNG

Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN

1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên

Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở khu vực Đông Bắc tỉnh Thái Nguyên,

cách thành phố Thái Nguyên khoảng 38km theo Quốc lộ 1B. Tổng diện tích đất

tự nhiên của huyện là 83.923,14 ha, địa hình phức tạp chủ yếu là đồi núi dốc và

núi đá vôi; phía bắc giáp huyện Nà Rì (tỉnh Bắc Kạn), phía đông giáp huyện

Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), phía nam giáp huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang), phía

tây giáp huyện Đồng Hỷ (tỉnh Thái Nguyên).

Huyện Võ Nhai thời thuộc Đường là huyện Vũ Lễ. Sang thời Lý - Trần (thế

kỉ X - XIV), gọi là châu Vạn Nhai. Thời thuộc Minh (1407-1427), đổi thành châu

Vũ Lễ. Đầu thời nhà Lê sơ, Vũ Lễ đổi thành huyện Võ Nhai, thuộc phủ Phú Bình,

do phiên thần họ Ma nối đời cai quản. Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836), huyện

Võ Nhai gồm 8 tổng và 29 xã, trại, cai trị theo chế độ lưu quan. Đời Đồng Khánh

(1886 - 1888), huyện Võ Nhai gồm 8 tổng, 28 xã, trại.

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện Võ Nhai được đổi thành

châu Võ Nhai, gồm 6 tổng với 22 xã, 1 phố và 5 trại. Ngày 25/3/1948, Chính

phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí Sắc lệnh số 148/SL quy định bãi bỏ

các danh từ phủ, châu, quận; cấp trên xã và cấp dưới tỉnh tỉnh thống nhất gọi là

cấp huyện. Từ đó, châu Võ Nhai được đổi thành huyện Võ Nhai, gồm 14 xã.

Năm 1965, Thái Nguyên sáp nhập với Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, Võ Nhai

thành huyện của tỉnh Bắc Thái. Năm 1997, Bắc Thái tách thành 2 tỉnh Bắc Kạn

và Thái Nguyên, Võ Nhai trở thành huyện của tỉnh Thái Nguyên.

Ngày nay, huyện Võ Nhai có 15 đơn vị hành chính gồm thị trấn Đình Cả

và 14 xã: Sảng Mộc, Nghinh Tường, Thần Sa, Thượng Nung, Vũ Chấn, Cúc

Đường, La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá, Liên Minh, Phương

Giao, Liên Minh, Bình Long và Dân Tiến.

9

Địa hình Võ Nhai được chia thành 3 vùng rõ rệt:

- Vùng núi cao, gồm 6 xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung,

Cúc Đường, Thần Sa, Vũ Chấn, có đất rừng đa dạng với tập đoàn cây, con

phong phú, tạo nên cảnh đẹp tự nhiên. Nơi đây có khối núi đá vôi Thượng Nung đồ sộ nhất tỉnh Thái Nguyên, rộng tới 300 km2, độ cao từ 500 đến 600 mét, kéo dài từ Thần Sa qua Nghinh Tường, đến Liêm Thuỷ (huyện Na Rì, tỉnh

Bắc Kạn).

- Vùng thấp, gồm 3 xã La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng và thị trấn

Đình Cả, có địa hình tương đối bằng phẳng, được tạo nên bởi những thung lũng

chạy dọc theo Quốc lộ 1B, hai bên là hai dãy núi cao có độ dốc lớn.

- Vùng gò đồi, gồm 5 xã: Tràng Xá, Liên Minh, Dân Tiến, Bình Long và

Phương Giao, có nhiều đồi đất hình bát úp, bị chia cắt bởi các dòng sông, khe

suối và xen lẫn núi đá vôi.

Thời trước, Võ Nhai nổi tiếng là nơi rừng thiêng nước độc. Sách Đồng

Khánh địa dư chí, viết: “Trong huyện rừng núi liên tiếp, khí núi nặng nề. Khí

trời nhiều lạnh rét. Khí đất ẩm thấp. Cuối xuân trời vẫn còn lạnh, mùa hè thì

chỉ hơi nóng, đầu thu đã bắt đầu lạnh, đến mùa đông thì rét đậm. Hằng ngày

khoảng trước giờ Tỵ, sau giờ Thân thì không nhìn thấy núi”.

Võ Nhai mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi Bắc Bộ, nhưng có

phần khắc nghiệt hơn. Trong năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến

tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 23oC. Chế độ nhiệt này tạo cho Võ Nhai có thế mạnh trong việc

phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, cận nhiệt đới, nhất là các loại cây ăn quả

như vải, na, bưởi...Lượng mưa trung bình hằng năm 1.941,5 mm và phân bổ

không đều, chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa, khoảng 1.765 mm

(chiếm 91% tổng lượng mưa cả năm) [33].

Huyện Võ Nhai có mật độ song, suối khá lớn, nhưng phân bố không đều.

Ngoài nguồn nước mặt từ sông, suối, còn có các mạch nước ngầm. Võ Nhai có

10

hai con sông nhánh thuộc hệ thống sông Cầu và sông Thương, được phân bố ở

khu vực phía Bắc và phía Nam huyện.

Sông Nghinh Tường có chiều dài 46 km, bắt nguồn từ những dãy núi của

vòng cung Bắc Sơn (Lạng Sơn), chảy qua các xã Nghinh Tường, Sảng Mộc,

Thượng Nung, Thần Sa, rồi đổ ra sông Cầu. Khoảng 40% chiều dài dòng chảy

là vùng đá vôi, thung lũng thường hẹp và sâu, vách đá dựng đứng.

Sông Rong bắt nguồn từ xã Phú Thượng, chảy qua thị trấn Đình Cả, Tràng

Xá, Dân Tiến, Bình Long, sang địa phận tỉnh Bắc Giang và đổ về sông Thương.

Trong lòng đất có các mỏ chì, kẽm ở Thần Sa với quy mô, trữ lượng nhỏ,

không tập trung; vàng ở Thần Sa, Sảng Mộc, Liên Minh; phốt pho ở La Hiên

(trữ lượng khoảng 60.000 tấn). Ngoài ra, còn có đá xây dựng, cát, sỏi, sét xi

măng ở La Hiên, Cúc Đường...

Huyện Võ Nhai có những thắng cảnh nổi tiếng, như quần thể hang động

Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà, hang Nà Kháo, hang Huyền. Ngoài ra, Võ Nhai

còn có những di tích lịch sử, văn hoá như mái đá Ngườm, rừng Khuôn Mánh...

1.2. Nguồn gốc tộc ngƣời

1.2.1. Khái quát về tộc ngƣời Mông trƣớc khi đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái

Nguyên

Tộc người Mông là một trong 54 thành phần dân tộc Việt Nam, cư trú tại

62 trên tổng số 63 tỉnh thành của cả nước; chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc

như Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Điện Biên, Sơn La. Theo số liệu

cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Việt Nam có 1.068.189 người

thuộc tộc người Mông, đứng thứ 8 trong bản danh sách các dân tộc ở Việt

Nam.

Các nhà nghiên cứu dân tộc học đều có ý kiến cho rằng, phần lớn tộc

người Mông di cư vào Việt Nam từ Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam (Trung

Quốc), sớm nhất khoảng 350 năm và muộn nhất là 100 năm về trước, theo 3

đợt lớn. Đợt thứ nhất, cách đây trên 300 năm, người Mông từ Quý Châu di cư

11

sang Đồng Văn, Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang. Cuộc thiên di này được dân ca

Mông ghi lại: Người HMông ta ở Qúi Châu đến/ Vì người HMông ta không biết

chữ/ Thua kiện người Hán ta mới đi. Đợt thứ hai, cách ngày nay khoảng 200

năm, sau thất bại của phong trào khởi nghĩa của người Mông ở Quý Châu

(1776 - 1820). Họ vào theo hai hướng chính: Một hướng tiếp tục tràn vào cao

nguyên Đồng Văn rồi đi sang Bảo Lạc (Cao Bằng), Bắc Mê, Xín Mần, Hoàng

Su Phì (Hà Giang); một hướng vào vùng đất Xi Ma Cai và Mường Khương rồi

xuống Văn Bàn (Lào Cai), Phong Thổ, Sìn Hồ, Điện Biên (Lai Châu). Đợt thứ

ba là cuộc thiên di lớn nhất cách đây khoảng từ 120 đến 160 năm. Từ Phong

Thổ (Lai Châu), Xi Ma Cai và Mường Khương (Lào Cai), họ đi sâu vào vùng

Tây Bắc, đến Tủa Chùa, Tuần Giáo (Lai Châu), Thuận Châu, Sông Mã (Sơn

La). Một bộ phận từ Mù Căng Chải sang Bắc Yên, Phù Yên rồi xuống vùng núi

Mộc Châu (Sơn La) và điểm dừng cuối cùng là vùng núi Tây Thanh Hóa. Cũng

trong thời gian này, một nhóm người Mông ở Xiêng Khoảng (Lào) đã tràn vào

vùng núi Thanh - Nghệ và cư trú tập trung ở huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An.

Quá trình di cư của tộc người Mông luôn mang tính dòng họ và lịch sử di

cư của tộc người này luôn gắn liền với lịch sử di cư của các dòng họ. Thậm chí,

chỉ cần nghe bài cúng “Chỉ đường” cho người chết về với tổ tiên của các dòng

họ là ta có thể biết nguồn gốc của họ bắt đầu từ nơi nào (bởi lẽ đơn giản, thầy

cúng của các dòng họ bao giờ cũng cúng đưa hồn người chết của dòng tộc qua

các miền đất mà họ đã sinh sống, đến tận vùng đất cuối cùng mà họ còn nhớ, và

từ đó hồn người chết mới lên trời về “đất tổ tiên”). Không chỉ tộc người Mông

ở cao nguyên Đồng Văn mà nhiều nhóm Mông từ biên giới đến nội địa, từ

Đông Bắc sang Tây Bắc Việt Nam đều nhớ cái tên Pàn Tầu Làng. Điều đó

chứng tỏ địa danh này gắn bó chặt chẽ với lịch sử di cư của nhiều nhóm tộc

người Mông ở Việt Nam. Nếu giai đoạn di cư thứ nhất và thứ hai là quá trình

hình thành những vùng tộc người Mông chính ở Việt Nam, thì đến giai đoạn

ba, những vùng có tộc người Mông tiếp tục được củng cố và trở nên khá ổn

12

định như ngày nay. Quá trình di cư của tộc người này vào Việt Nam thể hiện rõ

niềm mong ước to lớn của họ là tìm được mảnh “đất lành” để sinh sống. Tộc

người Mông đã coi nơi này như quê hương mới của mình.

Trước khi di cư đến Việt Nam, người Hán gọi người Mông là Mèo. Tộc

danh Mèo theo âm Hán - Việt là Miêu. Đây là một tộc người sớm biết trồng lúa

nước ở vùng hồ Bành Lãi và hồ Động Đình (Trung Quốc), dần dần trở thành tên

gọi chính thức. Theo truyền thuyết, tổ tiên của tộc người Mông đã ở vùng Bành

Lãi (Giang Tây) và Động Đình (Hồ Nam) ở Trung Quốc từ hàng nghìn năm

trước Công nguyên. Trong suốt hàng chục thế kỉ, tộc người Mông di cư theo

hướng tây - tây nam, tập trung đông ở Hồ Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng

Đông, Quảng Tây và trung tâm là Quý Châu. Người Mông vốn có gốc gác là

những cư dân trồng lúa nước. Tên gọi Miêu theo Hán tự trên có bộ thảo là cây

cỏ, dưới có chữ điền là ruộng phần nào khẳng định tộc người Mông có nguồn cội

cư trú ở lưu vực các con sông với nghề trồng lúa nước. Văn học dân gian của tộc

người Mông cũng luôn nhắc tới ruộng, trâu, sông nước,... như một sự phản ánh

quá khứ họ từng sinh sống ở những vùng đất đai có sông ngòi và làm nhiều

ruộng như một ước mơ, như một sự phản ánh hiện thực xa xưa với một sự luyến

tiếc, hàm chứa sự so sánh giữa quá khứ và thực tại. Cũng theo truyền thuyết thì

xưa kia, tộc người Mông cũng có một quốc gia riêng với biểu tượng là hình đôi

sừng trâu và màu cờ đỏ. Ngày nay, một số vùng tộc người Mông ở Hà Giang,

Lào Cai vẫn ít nhiều còn để lại những dấu ấn ấy qua các phong tục, biểu hiện cụ

thể ở tấm vải đỏ treo trước cửa nhà; người chết không phân biệt già trẻ đều có

tấm vải đỏ che miệng; hình bộ sừng trâu dùng làm chốt cửa trên hai cánh cửa

chính của mỗi nhà.

Với hơn 300 năm di cư đến nước ta, tộc người Mông đã tự khai sơn phá

thạch dựng nên làng bản và trở thành một thành viên của đại gia đình các dân

tộc Việt Nam. Đồng bào đã sát cánh kề vai cùng các tộc người láng giềng đổ

mồ hôi và xương máu để giữ gìn và bảo vệ chủ quyền Quốc gia Việt Nam của

13

mình. Dải cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc, nơi có tộc người Mông sống tập

trung đông nhất, nơi còn lưu giữ được những yếu tố văn hóa cổ truyền nhất

xứng đáng được coi là trung tâm văn hóa truyền thống của tộc người Mông ở

Việt Nam và Đông Nam Á.

Khi di cư vào Việt Nam, người Mông vẫn mang theo tên gọi quen thuộc

của mình là Mèo. “Đến tháng 3 năm 1979, trên cở sở kết quả điều tra nghiên

cứu, có tham khảo ý kiến của các đại biểu người Mèo, theo đề nghị của Ủy

ban Dân tộc của Chính phủ, danh mục thành phần 54 dân tộc ở Việt Nam

được chính thức công bố thay cho danh mục cũ gồm 62 dân tộc. Từ đó đến

nay, dân tộc Mèo ở Việt Nam được gọi là H’Mông. Tuy nhiên, theo bảng danh

mục đó, tộc danh Mèo vẫn có giá trị pháp lí như H’Mông” [4]. Nhưng “Do sự

phát âm khó khăn, từ năm 1992 đến nay, Nhà nước ta thống nhất phiên âm

tên gọi của đồng bào là “Mông” và dùng cách viết “Mông” thay cho

“H’Mông” [4, 28]. Sau đó, ngày 4/12/2001, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

(khóa X) ban hành Công văn số 09-CV/HĐDT về vấn đề đọc và ghi đúng tên

gọi các dân tộc. Công văn ghi rõ: “Tên gọi dân tộc Mông, nếu viết bằng chữ

phổ thông là ngôn ngữ chính thức của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt

Nam thì viết là dân tộc Mông”.

Ở Việt Nam, tộc người Mông thường cư trú ở độ cao từ 800m đến 1500

m so với mực nước biển, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào [33].

Những xóm làng của tộc người Mông, tiếng Mông gọi là “Giao” (Jaol), nơi

tập trung đông cũng chỉ vài chục nóc nhà, còn phần nhiều lẻ tẻ, thường ở trên

các triền núi hoặc cao nguyên. Khí hậu mát mẻ về mùa hè, nhưng cũng hết

sức giá lạnh về mùa đông. Điều kiện đi lại, giao lưu rất khó khăn. Nước phục

vụ cho sinh hoạt thiếu thốn, thậm chí là khan hiếm. Cho nên, tộc người Mông

giỏi canh tác nương rẫy hơn làm ruộng nước. Ở những nơi chỉ toàn núi đá như

Mèo Vạc (Hà Giang), người dân đưa đất từ nơi khác tới, đổ vào những hốc đá

để tra ngô. Sống trên các vùng cao quanh năm sương phủ, sự hẻo lánh làm

14

cho đời sống xã hội Mông chậm phát triển; kinh tế hoàn toàn mang tính chất

tự cấp, tự túc, lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Chính vì hoàn cảnh sống vất vả

và khó khãn nên phần lớn đồng bào Mông sống du canh, du cư hoặc đã định

cư nhưng còn du canh. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,

cùng với sự nỗ lực của mình, cuộc sống của tộc người Mông đã có những cải

thiện đáng kể.

Lịch sử của người Mông ở Việt Nam là lịch sử của những cuộc thiên di,

là một bản trường ca đầy bi tráng, mỗi thế hệ đồng bào đã viết lên trang sử

đau thương và hào hùng của tộc người mình. Lịch sử đau thương và hào hùng

cùng với điều kiện sống khắc nghiệt đã hun đúc thành một diện mạo tâm hồn

người Mông với bản lĩnh can trường, dũng cảm, chai sạn tới chắc nịch như đá

núi với một sức chịu đựng dỏe dai.

1.2.2. Tộc ngƣời Mông ở huyện Võ Nhai (1975 - 2015)

Theo số liệu điều tra của Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Võ Nhai có

14 xã, 1 thị trấn với số dân (tính đến năm 2015) là 68.518 khẩu thuộc 8 thành

phần dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó: Dân tộc Kinh chiếm 32,1%,

Tày: 22,7%, Nùng: 20,2%, Dao: 14,1%, Mông: 6,2%, Sán Chay: 4,3%, Sán

Dìu: 0,3%, Mường: 0,1% [14, 19].

Năm 1975, có 9 hộ tộc người Mông, gồm 53 nhân khẩu, di cư về Võ

Nhai, cư trú thành bản riêng tại các xã Thượng Nung, Dân Tiến. Năm 1979,

bên cạnh việc phục vụ nhiệm vụ chiến đấu, huyện Võ Nhai thành lập Ban

Phòng không sơ tán và hậu cần do đồng chí Lâm Văn Thơ (Chủ tịch Ủy ban

Nhân dân huyện làm Trưởng ban); đồng thời còn thành lập Ban Đón tiếp nhân

dân các tỉnh biên giới phía Bắc và hướng dẫn nhân dân địa phương sơ tán khi

chiến tranh xảy ra. Đặc biệt, đối với 174 hộ (1.327 khẩu) đồng bào Mông sơ tán

từ tỉnh Cao Bằng về định cư trên địa bàn huyện, Huyện ủy chỉ thị cho các xã:

“Cần tạo mọi điều kiện giúp đỡ đồng bào ổn định đời sống. Hạn chế đến mức

thấp nhất các mặt tiêu cực có thể xảy ra như di chuyển ra đình đi khắp nơi

15

trong huyện, chặt phá rừng làm nương rẫy, nhất là rừng đầu nguồn, rừng cấm,

để cho kẻ xấu trà trộn phá hoại gây mất trật tự, an ninh. Đối với những hộ đủ

thủ tục cư trú hợp pháp thì tổ chức đồng bào thành lập hợp tác xã đi vào định

canh, định cư lâu dài. Với những hộ không có giấy tờ hợp pháp phải điều tra

xác minh và có chủ trương giải quyết đúng với chính sách của Đảng và pháp

luật của Nhà nước” [14]. Trong số 174 hộ, có hơn 40 hộ định cư tại xã Sảng

Mộc và lập nên xóm Khuổi Mèo. Trải qua gần 4 thập niên, đến nay, xóm có

102 hộ với hơn 600 nhân khẩu (100% số hộ là dân tộc Mông).

Năm 1993, đồng bào Mông tiếp tục di cư xuống Võ Nhai và cư trú xen

kẽ cùng tộc người mình ở các xã Dân Tiến, Phương Giao, Thương Nung, Sảng

Mộc, La Hiên...Ông Sinh cư trú tại xóm Lũng Hoài (Thượng Nung) cho biết:

“Người Mông mình ở Hà Quảng, Cao Bằng di cư lên đây từ năm 1993. Lúc ấy

cơ sở vật chất chưa có gì. Ruộng, nương cũng phải mua của người dân bản

địa, nhưng cũng không có nhiều, đất cằn cỗi, lại xa trung tâm xã”.

Cùng với chính quyền địa phương, các tộc người khác, đồng bào Mông

cư trú trước đó đã giúp đỡ các hộ di cư đến sau ổn định bước đầu về nhà ở, hỗ

trợ lương thực, gia súc gia cầm...

Theo kết quả điều tra điền dã của tác giả, phần lớn tộc người Mông ở Võ

Nhai đều đến từ huyện Trà Lĩnh và Hà Quảng tỉnh Cao Bằng, chủ yếu thuộc

nhóm Mông Trắng. Hiện nay, tộc người Mông ở Võ Nhai sinh sống tại các xã

Thượng Nung, Lâu Thượng, La Hiên, Cúc Đường, Thần Sa, Dân Tiến, Tràng

Xá, Phương Giao (trong đó đông nhất là xóm Khuổi Mèo xã Sảng Mộc; xóm

Lũng Cà và xóm Lũng Luông xã Thượng Nung) với dân số tính đến tháng

12/2014 là 3.976 người, chiếm 6,2% dân số toàn huyện [18].

Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt là

các chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi

như Chương trình 135, Chương trình 134, Chương trình xây dựng nông thôn

mới, chính sách hỗ trợ vùng ATK, chính sách hỗ trợ huyện nghèo theo Quyết

16

định 615/QĐ-TTg… được sự quan tâm của Trung ương, của tỉnh, các chương

trình, dự án được đầu tư, thực hiện trên địa bàn huyện đã mang lại hiệu quả

thiết thực, kết cấu hạ tầng từng bước được cải thiện, đời sống vật chất và tinh

thần của nhân dân không ngừng được nâng lên; nền kinh tế của huyện phát

triển ổn định, an ninh, quốc phòng được củng cố và giữ vững.

Công tác dân tộc, việc thực hiện các chính sách dân tộc luôn được các cấp

uỷ đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở quan tâm chỉ đạo thực hiện. Đặc biệt

là việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 12/2012/NQ-HĐND ngày 19/7/2012

của Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên và Quyết định số 1985/QĐ-UBND

ngày 04/9/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên về Chương trình công

tác dân tộc tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2012 - 2015 đã đạt được những kết quả

tích cực, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế - xã hội

hằng năm của huyện đề ra.

Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,

Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành các nghị

quyết, chương trình, đề án, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát thực hiện theo

mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của Đảng đề ra, cùng với triển khai thực hiện các

chương trình, dự án, chính sách của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo bền vững,

đặc biệt là chính sách đối với vùng dân tộc và miền núi, vùng đặc biệt khó

khăn. Đặc biệt là những nới có đồng bào Mông sinh sống.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia,

đặc biệt là Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới; Giảm

nghèo bền vững; các chương trình mục tiêu quốc gia về Giáo dục và đào tạo;

Văn hóa; Y tế; Dân số, kế hoạch hóa gia đình; Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Vệ sinh an toàn thực phẩm; Phòng chống tội phạm… Quan

tâm chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc hưởng ứng

các phong trào, các cuộc vận động để phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh trật tự,

17

đề cao tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau cùng phát triển, xây dựng

cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Những năm đầu khi mới đến Võ Nhai (một trong những huyện nghèo nhất

tỉnh), cuộc sống của đồng bào Mông cũng như các tộc người khác gặp rất nhiều khó

khăn, thường xuyên bị đói ăn từ 3 đến 6 tháng; trình độ dân trí còn rất thấp, phần

lớn không biết chữ quốc ngữ, ngôn ngữ giao tiếp chính là tiếng Mông. Nhờ có

chính sách định canh định cư của Đảng và Nhà nước, được sự quan tâm của chính

quyền địa phương, và các tộc người anh em, đời sống của tộc người Mông ở Võ

Nhai ngày càng có nhiều đổi thay và ổn định như ngày nay.

18

Tiểu kết chƣơng 1

Võ Nhai là một huyện vùng cao nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Thái Nguyên,

cách trung tâm tỉnh lị 32km. Địa hình nơi đây mang đặc trưng của một tỉnh

miền núi phía Bắc, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, là nơi sinh sống

của nhiều tộc người khác nhau. Là một dân tộc thiểu số, người Mông di cư đến

nước ta cách đây khoảng hơn 300 năm và tập trung đông nhất ở các tỉnh miền

Bắc. Người Mông di cư đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975.

Ban đầu, cuộc sống của người Mông nơi đây còn gặp nhiều khó khăn, trình độ

dân trí thấp. Tuy nhiên, được sự quan tâm của Đảng bộ, các cấp chính quyền và

nhân dân các dân tộc địa phương, đời sống của đồng bào Mông ở Võ Nhai ngày

càng được nâng lên cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy chiếm số lượng không

nhiều trong cộng đồng các dân tộc huyện Võ Nhai, song đời sống kinh tế - văn

hoá của tộc người Mông ở huyện vẫn có những đặc trưng riêng, góp phần xây

dựng huyện Võ Nhai ngày càng giàu mạnh.

19

Chƣơng 2

ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG

Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN

TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015

2.1. Trong nông nghiệp

2.1.1. Về trồng trọt

Tuy có một số diện tích ruộng nước nhưng nguồn sống chính của đồng

bào Mông ở Võ Nhai chủ yếu là canh tác nương rẫy.

-Việc lựa chọn đất canh tác

Do định cư ở những nơi có địa hình đồi núi cao nên việc canh tác nương

rẫy là một loại hình sản xuất nông nghiệp rất phổ biến của tộc người Mông. Họ

gọi nương là têz. Trước kia, khi còn ở Cao Bằng, Hà Giang thì đây là loại hình

canh tác chủ yếu của người Mông. Khi di cư đến Võ Nhai, hình thức canh tác

này vẫn là loại hình canh tác chủ yếu của đồng bào.

Người Mông có quan niệm rất đơn giản về nương. Từ lâu đời, họ đã

truyền nhau: “Đất cũng có tên, chỗ nào cũng là đất, lấy dao phát được một

khóm gọi là nương, chỗ nào cũng là đất, tra một cây xuống được gọi là nương”

[22]. Như vậy, trong tâm thức của người Mông, nương là bất cứ mảnh đất nào,

chỉ cần trồng nên "một khóm", tra được "một cây” thì đó chính là nương. Chọn

đất làm nương của tộc người Mông ở Võ Nhai chủ yếu là do kinh nghiệm của

ông cha để lại. Theo họ, để có thể làm nương đạt kết quả tốt thì việc chọn đất

có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì chọn đất sẽ là tiền đề, là cơ sở đầu tiên

cho việc làm nương.

- Kĩ thuật chọn đất để phát nương

Khi chọn đất để phát nương, trước hết người Mông xem khu đất đó có đủ

điều kiện để làm nương hay không. Hướng nương phải đủ ánh sáng, nương

không quá dốc...Họ cho rằng đất để làm nương tốt thường là nơi có nhiều cây

mọc tốt, có độ ẩm cao và có chất đất tốt. Họ biết chia đất ra thành từng loại

khác nhau để phù hợp với từng loại cây khác nhau.

20

Người Mông Võ Nhai cho rằng mảnh đất cho năng suất tốt nhất là mảnh

đất ở thung lũng (á cư ha) nơi có rừng già, đất có màu đen, tơi xốp, độ ẩm cao,

có lẫn nhiều đá nhỏ màu đen, có lớp đất đen dầy từ 20 - 30cm là đất rất tốt. Ở

mảnh đất này có các cây to, già, có nhiều cành mục mọc các cây như cây gạo,

cây vông hoặc là rừng mọc nhiều chuối rừng. Loại đất này thì thích hợp với hầu

hết các loại cây trồng, đặc biệt là lúa. Mảnh đất tốt sẽ cho năng suất cao, có thể

trồng được từ 3 - 4 vụ mới bạc màu.

Đất ở sườn đồi núi thấp (á giông) cũng là loại đất tốt trồng các loại cây

như mía, ngô, đỗ tương, lạc... có thể cho 3 - 4 mùa vụ tốt tươi đất mới bạc

màu. Loại đất này có đặc điểm là đất có màu đen, đỏ sẫm hoặc nâu sẫm, lớp

đất trên mặt tơi xốp có độ dày khoảng 20 - 30cm, nếu có lẫn đá nhỏ màu đen

thì càng tốt. Đất đồi trọc (á liệt sứ) là đất màu vàng đỏ, thịt dẻo, có lẫn đá

sỏi, độ dốc tương đối lớn, ở đây mọc các loại cây có độ cứng lớn nhưng

không to. Loại đất này thích hợp với các loại cây công nghiệp ngắn ngày và

các loại cây ăn quả.

Đất núi cao (á há trông) có màu xám lẫn nhiều sỏi đá, đất mọc nhiều cây

bụi, cây leo và cây lau thì không thể sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Loại

đất này chủ yếu trồng rừng tái sinh để cải tạo đất.

Sau khi đã chọn được khu đất để phát nương, người ta đã đánh dấu bằng

cách đặt ở 4 góc mỗi góc một cây cọc được đóng xuống đất với mục đích làm

dấu hiệu cho người khác biết rằng đất đó đã có chủ. Khi việc chọn đất đã hoàn

thành, họ tiến hành phát và đốt nương. Công việc này thường được người

Mông tiến hành vào mùa khô vì đây là thời gian thích hợp. Độ ẩm lúc này thấp,

cho nên nương có thể cháy nhanh và gọn. Việc làm đầu tiên là phát cỏ và bụi

cây trước, sau đó mới chặt cây to. Với quy trình phát từ dưới lên, cây sẽ không

bị dính vào nhau, phát dễ hơn. Để thực hiện công việc một cách nhanh và gọn,

người Mông đã huy động nhân lực gồm toàn bộ các thành viên trong gia đình,

từ trẻ em đang đi học đến những người già cả và các hộ trong bản. Sự phân

công lao động diễn ra một cách tự nhiên: Những người đàn ông khoẻ mạnh thì

21

đảm nhiệm những công việc nặng nhọc nhất (chặt cây to, phát những nơi rậm

rạp khó phát), phụ nữ, trẻ em, người già có nhiệm vụ chặt cành, dọn dẹp những

vùng đất xung quanh cho thật sạch. Khi công việc phát nương cơ bản đã hoàn

thành, người ta để phơi nắng vài ngày, thậm chí là vài tuần để cho cây khô rồi

tiến hành đốt. Khi đốt, họ chọn ngày nắng to, khô hanh. Thời gian đốt nuơng

vào lúc chiều tối vì khi đó, gió sẽ mạnh hơn. Việc đốt nương thực hiện theo

nguyên tắc đốt từ chân nương lên đến đỉnh nương. Sau khi đốt xong lần thứ

nhất, họ để 3- 4 ngày rồi dọn dẹp, thu gom các cành cây chưa cháy hết để đốt

tiếp. Thời tiết cũng có ảnh hưởng nhiều tới việc phát và đốt nương. Nếu năm

nào, trời mưa nhiều, việc đốt nương và dọn dẹp nương sẽ gặp nhiều khó khăn

hơn. Để tránh cháy rừng, người Mông ở Võ Nhai tạo ra khoảng trống xung

quanh bốn mặt chỗ đất đã chọn .

Ngoài làm nương rẫy, nhiều gia đình người Mông ở Võ Nhai còn làm

ruộng nước. Ở Thái Nguyên nói chung và Võ Nhai nói riêng, do kết quả của

công tác định canh định cư, bên cạnh đất nương, hầu hết đồng bào Mông đã

canh tác ruộng nước.

Trước đây, do đặc điểm về điều kiện địa hình và khí hậu, thuỷ văn, loại

hình ruộng nước của tộc người Mông được canh tác ở địa hình đồi bát úp hoặc

các thung lũng hẹp. Phần lớn đồng bào vẫn lựa chọn khai phá đất để làm ruộng

nước ở gần nguồn nước, vỡ đất trên các sườn đồi thoải. Để đảm bảo nguồn nước

tưới, đồng bào Mông ở Võ Nhai cũng biết đào các con mương dẫn nước từ

nguồn là các khe suối về. Khi tiến hành điều tra điền dã tại các xóm Lũng Cà, xã

Thượng Nung có người Mông sinh sống, tác giả nhận thấy, đây là xóm có diện

tích ruộng nước lớn nhất của người Mông ở Võ Nhai (khoảng 10 ha), song phần

lớn chỉ cấy được một vụ do hạn chế về nguồn nước tưới.

Sau khi đã chọn được chỗ đất làm ruộng, người ta tiến hành khai phá đất.

Công cụ khai phá chủ yếu là cuốc và cày. Người Mông dùng cuốc để vỡ đất và

phá bỏ những cây trên đất đó. Sau đó, họ dùng cày để cày, cứ san và cày sâu

mãi vào trong sườn núi; vừa cày vừa san đất cho đến khi nào thành ruộng mới

22

thôi. Nhiều chỗ, họ phải đào sâu xuống từ 1m đến 3m. Ruộng của người Mông

chủ yếu để trồng lúa nước; nhưng do thường xuyên thiếu nước, cho nên mỗi

năm họ chỉ trồng được một vụ; vụ còn lại họ biết trồng xen canh lúa hoặc đỗ

tương để tăng thêm nguồn lương thực.

Ruộng của người Mông thường được chuẩn bị khá kĩ lưỡng trước khi

cấy lúa. Họ thường cày ải ủ đất qua Tết Nguyên đán. Khi những cơn mưa

xuân đầu tiên đổ xuống, họ tiến hành cày bừa đất. Việc cày bừa thường được

tiến hành từ 1 đến 2 lần: Lần đầu tiên họ cày để vỡ đất. Sau khi thu hoạch

xong, họ cày lên để có thể làm đất ải, làm cho cỏ, gốc rạ được vùi xuống đất

khiến đất tơi xốp. Lần tiếp theo, họ cày khi những cơn mưa đầu tiên của một

năm xuất hiện. Họ cày lật đất lên, ngâm nước vài ngày rồi dùng bừa bừa kĩ

làm cho đất thật tơi xốp; rồi bừa lại một lần cuối cùng để cho đất được thật tơi

mịn trước khi cấy.

Hiện nay, do việc trao đổi sản xuất, thay đổi nơi định cư nên đồng bào

Mông còn tiến hành canh tác trên những thửa ruộng mà họ mua lại của các tộc

người khác hay họ làm ruộng của người Nùng, Tày rồi trả thóc theo vụ. Các

tiến bộ khoa học kĩ thuật được đồng bào áp dụng vào sản xuất như máy cày, thu

hoạch lúa bằng máy phụt.

- Việc chọn giống và gieo trồng

Cây trồng trên nương của người Mông chủ yếu là ngô, đậu tương, mía,

lúa, bí đỏ. Từ khi di chuyển đến Thái Nguyên, do địa hình bằng phẳng hơn, lại

do áp dụng kĩ thuật trồng trọt mới nên hệ cây trồng trên nương của người Mông

ở Võ Nhai cũng có thay đổi. Ngoài ngô là cây trồng chính trên nương rẫy, người

Mông trồng các loại cây công nghiệp (mía, đỗ tương), cây ăn quả. Theo người

Mông ở Võ Nhai, việc chọn giống có một vai trò rất quan trọng trong quá trình

trồng trọt. Để có giống cây trồng cho vụ sau, khi chọn giống, nhất thiết phải chọn

những khu nào cây ngô có bắp to, hạt to, chắc, mẩy và sai hạt... Những chỗ đó sẽ

được khoanh lại, khi thu hoạch cũng được để riêng. Đặc biệt, đối với những cây

23

lương thực chính, có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của người Mông thì

việc chọn và bảo quản giống rất được quan tâm.

Cây lương thực truyền thống của người Mông nói chung là ngô và lúa

nương, hiện nay là ngô và lúa. Cây ngô vẫn là cây lương thực đem lại thức ăn

chính với phần lớn gia đình người Mông ở Võ Nhai. Vì vậy, việc chọn giống 2

loại cây này được đồng bào hết sức chú ý. Đối với lúa giống, sau khi gặt được

bó riêng lại, treo trên gác bếp hoặc treo lên sàn nhà dùng cho vụ sau. Đối với

ngô giống, chọn loại bắp to, hạt đều. Khi thu hoạch, ngô được để cả vỏ, buộc

thành túm vài bắp lại với nhau rồi treo lên gác bếp và sàn nhà tránh bị mọt. Các

giống đỗ tương và lạc, chọn những cây sai quả, củ, hạt to, đều; sau đó bóc vỏ

phơi khô cho vào chai nhựa. Cách làm đó đảm bảo cho hạt giống khô ráo,

không bị mối mọt, không bị lẫn với hạt giống khác. Đến mùa gieo hạt, người ta

lấy những bó lúa giống đó đi tuốt hoặc vo, làm sạch, loại bỏ những hạt không

tốt, sau đó ủ từ 2 đến 3 ngày cho nẩy mầm rồi mang đi gieo. Ngô giống sau khi

tẽ hạt, được ngâm nước từ 1 đến 2 ngày rồi đem tra hạt. Như vậy, ngô sẽ nhanh

mọc hơn và mọc tốt hơn. Những giống khác như đỗ tương, lạc, thường được

gieo trực tiếp không cần phải ngâm.

Việc gieo hạt giống trên nương được tiến hành với đông đủ các thành

viên trong gia đình và các hộ khác trong bản (đàn ông thường cuốc hốc, phụ nữ

gieo hạt, người già và trẻ em đi đằng sau để lấp đất vào các hốc mới gieo hạt).

Sau khi chuẩn bị giống thật tốt, khi mang đi gieo, người gieo hạt đầu tiên phải

là chủ nhà hay người lớn tuổi nhất trong gia đình với mong muốn truyền sức

mạnh tâm linh của chủ nhà - người có sức mạnh, uy tín trong gia đình - cho cây

mọc tốt tươi. Đây cũng là cách để con cháu nhìn theo mà ước lượng khoảng

cách, học hỏi kinh nghiệm tra hạt. Sau khi chủ nhà gieo thì mới đến các thành

viên khác trong gia đình.

Người Mông có quan niệm rằng, một khi gia đình chưa gieo trồng xong

thì không bán giống và trao đổi giống cho người khác. Nếu không thực hiện

đúng, cả vụ mùa sẽ không may mắn. Khi gieo trồng trên nương rẫy, thông

24

thường, người Mông ở Võ Nhai chọn những vùng đất tốt, mới khai phá để

trồng ngô nếp, còn những nơi đất không tốt hoặc đã bạc màu, sẽ trồng ngô tẻ.

Do phù hợp khí hậu, thổ nhưỡng và là nguồn lương thực chính nên ngô tẻ

thường được trồng nhiều hơn ngô nếp. Cách thức trồng ngô của người Mông ở

Võ Nhai cũng giống cách thức trồng ngô của các tộc người khác gần đó. Sau

khi mảnh nương được khai phá và làm đất xong, họ dùng cuốc tạo thành từng

hốc nhỏ, mỗi hốc tra từ 1 đến 2 hạt giống, khoảng cách giữa các gốc từ 40cm

đến 45cm. Việc gieo trồng thường được hoàn thành trong một đến hai ngày.

Ngoài cây ngô và lúa, người Mông ở Võ Nhai còn trồng các loại khoai,

sắn, lanh trên nương rẫy. Khoai, sắn không chỉ bổ trợ nguồn lương thực những

lúc mất mùa, giáp hạt, mà còn là nguồn thức ăn trong chăn nuôi, là nguyên liệu

để nấu ruợu. Đồng bào còn trồng xen lẫn hoặc xen canh gối vụ các loại cây

thực phẩm khác, như bí đỏ, rau cải, rau rền, rau cải củ...

Khi làm ruộng nước, trước đây đồng bào Mông thường có tập quán gieo

thẳng hạt. Từ những năm 90 trở lại đây, được sự giúp đỡ của cán bộ nông

nghiệp và do có sự giao lưu với các dân tộc khác, đồng bào đã chuyển sang

gieo mạ. Theo kinh nghiệm của người Mông, cứ 4kg thóc thì cấy được 1 sào.

Nhưng ngày nay chỉ cần 1kg đến 2kg thóc giống vẫn cấy được một sào. Sau

25-30 ngày có thể nhổ mạ hoặc xúc để mang đi cấy, được chăm bón cho đến

khi thu hoạch.

Do kết quả của công tác định canh định cư, cơ cấu đất trồng của người

Mông có sự thay đổi đáng kể. Nhiều đợt tập huấn cho người dân về kĩ thuật

trồng trọt và chăn nuôi được triển khai, hình thức nương du canh không còn,

đồng bào đã biết áp dụng khoa học kĩ thuật làm tăng vòng quay của đất. Trên

mảnh đất nương của đồng bào, các loại cây xen canh đã được đưa vào sản xuất.

Cây ngô vẫn là cây lương thực chính và được trồng với số lượng lớn, chất

lượng cũng tăng lên, không chỉ đáp ứng nhu cầu hằng ngày của đồng bào, mà

còn được đem trao đổi buôn bán. Bên cạnh nương ngô, hoa màu và cây ăn quả,

25

nương mía ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống các hộ gia đình

người Mông ở Võ Nhai.

Ruộng nước đã cấy được hai vụ (đông - xuân, hè - thu). Bên cạnh đó, cơ

cấu cây trồng đã có sự chuyển đổi, biểu hiện ở việc đồng bào đưa các giống cây

trồng mới vào canh tác cho năng suất cao, như Khang dân, Đoàn kết...

Nhà nước có nhữ ản người Mông

đặc biệt khó khăn: Thực hiện lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư, hỗ trợ cho 9

xóm; những giống lúa, ngô mới được Nhà nước trợ giá, làm tăng đáng kể sản

lượng lương thực cho đồng bào. Trong 6 tháng đầu năm 2014, theo sự chỉ đạo

của UBND tỉnh, 9 xóm có đông đồng bào Mông sinh sống trên địa bàn huyện

được hỗ trợ 2.820 kg ngô giống và 120,55 tấn phân bón các loại [42, 19].

Ông Trương Văn Pai - Bí thư chi bộ xóm Chòi Hồng, xã Tràng Xá cho

biết: Trước đây đồng bào Mông chỉ trồng giống ngô nếp, ngô đỏ năng suất thấp

nên đời sống rất khó khăn. Vài năm trở lại đây cùng với chính sách tăng cường

đầu tư, chính quyền địa phương đã tích cực vận động người dân chuyển đổi cơ

cấu cây trồng, đưa các giống ngô lai vào trồng. Cây ngô lai dễ trồng, cho năng

suất, hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn những cây trồng khác, nên 100% số hộ trong

xóm đều trồng ngô lai. Nhờ vậy, nhiều hộ đã thoát nghèo, xây dựng được nhà

mới, mua xe máy và nhiều tiện nghi phục vụ sinh hoạt.

Bảng 2.1- Sản lƣợng lƣơng thực (ngô + lúa) bình quân hằng năm

của ngƣời Mông ở huyện Võ Nhai từ năm 2010 đến năm 2014

STT Bình quân lƣơng thực Đơn vị tính Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014

1 Lương thực bình quân 295 300 320 340 360 theo đầu người Kg/người /năm

2 Năng suất lúa bình Tạ/ha/vụ 25,0 2,0 27,5 28,0 29,0 quân

(Nguồn: Số liệu thống kê năm 2014 của Phòng Nông nghiệp huyện Võ Nhai)

3 Năng suất ngô bình Tạ/ha/vụ 31 30 33 32 33 quân

26

Cùng với Chương trình 135 và các cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới, việc thực hiện

Đề án 2037 (được ban hành theo Quyết định số 2037/QĐUBND

ngày 16/9/2014) về Phát triển kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất và đời sống

các xóm, bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc Mông sinh sống của

tỉnh đến năm 2020, đời sống của đồng bào Mông ở huyện Võ Nhai từng bước

được cải thiện. Các bản người Mông trên địa bàn huyện tiếp tục được hỗ trợ

giống cây trồng, phân bón các loại và các tiến bộ khoa học kĩ thuật để phát triển

sản xuất; đường giao thông, trường học, trạm y tế… được mở mang.

- Lựa chọn công cụ lao động

Công cụ sản xuất là phương tiện quan trọng giúp con người hoà nhập và

chinh phục thiên nhiên. Công cụ sản xuất cũng thể hiện những tinh hoa trong

sản xuất của đồng bào qua hàng nghìn năm lao động sản xuất và chống chọi với

tự nhiên. Công cụ lao động sản xuất của người Mông phong phú và đa dạng,

bao gồm các công cụ làm đất, gieo trồng, chăm bón.

Công cụ làm đất

Cày gỗ: Đó là chiếc cày làm bằng gỗ, lưỡi kim loại; hình dáng to hơn và

thô hơn so với cày gỗ của các tộc người khác.

Bừa gỗ: Về hình thức, chiếc bừa gỗ của người Mông ở Võ Nhai nhỏ hơn

so với bừa gỗ của các tộc người khác, phù hợp với ruộng bậc thang có diện tích

nhỏ hẹp. Cũng vì thế mà đồng bào chỉ dùng bừa đơn, tức là loại bừa dùng cho

một trâu (bò) kéo. Hiện nay, việc sử dụng bừa sắt đã được đồng bào ứng dụng

vào sản xuất, thay cho bừa gỗ.

Dao: Là công cụ đa năng được sử dụng trong quá trình canh tác, chủ yếu

được dùng để chặt cây, phát nương, làm rẫy. Đặc điểm nổi bật của dao người

Mông là to, dầy và rất sắc, ít bị mẻ.

Thuổng: Là công cụ dùng trong khai phá ruộng bậc thang, đào đất làm nhà,

đào củ rừng. Thuổng của người Mông dầy bản hơn so với thuổng của các tộc

người khác.

27

Công cụ chăm sóc

Cuốc bướm: Là công cụ có rất nhiều công dụng, không chỉ được dùng

trong khai phá đất đai mà còn được dùng phổ biến trong quá trình trồng tỉa và

chăm bón, thích hợp với địa hình canh tác là vùng dốc núi. Cuốc bướm dùng để

bổ hốc tra hạt nhằm chống sự rửa trôi chất dinh dưỡng và để luồn lách vào

những hốc đá làm cỏ. Cuốc bướm của người Mông có hình bán nguyệt, lòng

cuốc trũm sâu hơn so với cuốc của các tộc người khác, thích hợp với việc luồn

lách làm sạch cỏ trong các khe đá hẹp, đất dốc.

Cào cỏ: Gồm có cào tre, cào gỗ và cào sắt. Cào tre và cào gỗ được thiết

kế theo kiểu bán nguyệt (lưỡi cào gỗ có hình răng cưa) dùng để làm cỏ lúa

nước nơi có cỏ dại đâm rễ không sâu xuống bùn, dùng cào cỏ và cào gỗ có thể

dễ dàng luồn lách từng khóm lúa. Cào sắt dùng để làm cỏ trên nương, cào sắt

không có răng được cấu tạo từ một thanh sắt mỏng hay những con dao cũ

không sử dụng được nữa. Cào sắt có cấu tạo hình dấu chấm hỏi, lưỡi cào được

dát mỏng để luồn lách vào các hốc đá để cào sạch cỏ và vun cây trồng. Cào sắt

rất thích hợp với làm cỏ trên nương có lẫn nhiều đá.

Công cụ thu hoạch

Liềm (las): Gồm 3 loại: Liềm lưỡi vát bản rộng, lưỡi khum bản rộng và

lưỡi hình bán nguyệt. Liềm vát bản rộng khoảng 4cm, đầu lưỡi hơi khum hình

vành trăng, lưỡi được rũa tạo rãnh răng cưa nông và đều nhau; phần răng cưa

chủ yếu nằm một bên lưỡi, một bên lưỡi vẫn phẳng mỏng như lưỡi dao. Loại

liềm này dùng để móc hay cắt lúa. Liềm khum bản rộng không có răng, được

uốn khum dần ngay từ chỗ tiếp giáp với tông liềm. Loại này được sử dụng

trong việc làm cỏ, phát cây, ít sử dụng trong thu hoạch lúa. Liềm hình bán

nguyệt không có răng được uốn khum dần ngay từ chỗ tiếp giáp với tông liềm,

tạo ra lưỡi liềm hình bán nguyệt dùng để cắt lúa, cắt cỏ.

Gùi (lù cở): Là phương tiện vận chuyển phổ biến của đồng bào Mông,

thích hợp với đường mòn, leo dốc, xuống vực, trèo leo trên sườn đồi, vách đá.

28

Nhà có bao nhiêu người là có bấy nhiêu gùi. Người lớn dùng gùi lớn, người bé

dùng gùi nhỏ. Gùi được đan bằng nan giang hoặc trúc nên dùng rất bền. Dây

gùi thường được làm bằng da trâu, bò hoặc dây móc. Gùi cao khoảng 60cm, có

đáy hình chữ nhật 20cm x 30cm; phần thân gùi phía trên loe to dần. Miệng gùi

có hình bầu dục, không có nắp đậy, có thể chúa được những vật có chiều cao

hơn gùi như cuốc, củi...

Máng đập lúa: Cũng giống như chiếc gùi, đây là công cụ đặc thù của

người Mông nói riêng của các tộc người miền núi nói chung. Máng được cấu tạo

từ thân cây còn nguyên, bề ngoài trông như hình thang hộp, lòng máng được đục

rỗng hình hộp chữ nhật. Nếu không có thân gỗ nguyên, người ta dùng các miếng

ván to ghép mộng với nhau tạo thành máng hình hộp thang cân, dùng cho nhiều

người đập. Gặt đến thửa ruộng nào người ta di chuyển máng đến đó và đập lúa ở

hai quanh máng, rồi mới cho thóc vào gùi chở về nhà.

Giải pháp nước tưới, chăm sóc

Để thích ứng với điều kiện tự nhiên, người Mông ở Võ Nhai đã có những

giải pháp tưới nước cho hệ thống các ruộng lúa của mình, như đào mương qua

các sườn núi để dẫn nước từ các khe suối về ruộng. Chiều dài của con mương

tuỳ thuộc vào nguồn nước xa hay gần. Đối với ruộng bậc thang, họ biết đào các

rãnh dẫn nước từ ruộng trên xuống ruộng dưới theo nguyên tắc so le nhằm

tránh vỡ bờ.

Làm cỏ, vun gốc các loại cây trồng là một khâu không thể thiếu trong

canh tác ruộng của người Mông ở Võ Nhai. Trong một vụ lúa, bao giờ họ cũng

làm cỏ ít nhất hai lần kết hợp với bón phân chuồng, phân lân, đạm, phun thuốc

bảo vệ thực vật. Đối với các loại hoa màu và các loại cây xen canh khác, đồng

bào cũng chú trọng đến khâu làm cỏ vun xới.

Trong thu hoạch, bảo quản và trao đổi hàng hoá

Thu hoạch và cất giữ là khâu cuối cùng của việc trồng trọt. Đối với

nương rẫy, người Mông thu hoạch các cây trồng xen canh trước rồi mới thu

29

hoạch ngô. Khi ngô bắt đầu cứng hạt (hạt chín vàng), đồng bào phát những bụi

rậm quanh nương để chim, sóc, chuột không có chỗ trú ngụ. Một số gia đình

làm bẫy hoặc bù nhìn để đuổi thú rừng.

Vào các tháng 5 - 6, 10 - 11 là thời gian thu hoạch ngô và là khâu cuối

cùng của chu kì sản xuất. Khi râu ngô héo, vỏ quả ngô cũng như các lá ngô

chuyển sang màu vàng, là lúc đồng bào đem gùi đi hái ngô. Các hộ gia đình

trong họ hàng, hàng xóm tiến hành đổi công cho nhau. Ngô được bẻ cả mo, gùi

về nhà và phân loại sau đó cất riêng từng loại, phơi khô rồi cất giữ. Từng quả

ngô được xếp ngay ngắn thành hàng chồng lên nhau rất đẹp mắt lại tận dụng

được tối đa diện tích gác bếp. Ngô được treo ở gác bếp, giúp khô nhanh hơn và

được lớp bồ hóng bảo vệ nên không bị sâu mọt. Hiện nay, nhờ áp dụng các

giống ngô lai, nhiều loại phân bón nên sản lượng ngô thu hoạch của đồng bào

tăng lên rất cao, họ chỉ để một phần dùng cho gia đình đến vụ sau, số còn lại

mang ra trao đổi mua bán. Khi thu hoạch lúa, họ cũng cắt cây lúa và đập tại

ruộng rồi mang thóc về phơi, rơm rạ để tại ruộng khi nào khô sẽ đốt.

Bên cạnh những nông cụ truyền thống của tộc người mình, đồng bào đã

biết áp dụng máy móc vào sản xuất, mày cày, máy gặt, máy bơm nước... đã trở

thành nông cụ quen thuộc với nhiều gia đình người Mông ở Võ Nhai. Phân hoá

học, thuốc trừ sâu cũng được sử dụng phổ biến, góp phần đem lại năng suất lao

động cao trong trồng trọt. Việc Nhà nước đầu tư mở mang đường sá vào các

xóm Lũng Cà, Lũng Hoài (xã Thượng Nung); xóm Đồng Giong (khu Lân

Thùng, xã Phương Giao); xóm Lân Vai (xã Dân Tiến); xóm Chòi Hồng (xã

Tràng Xá)...[42], đã tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào vận chuyển nông sản.

Các loại xe máy, máy kéo được huy động nhiều hơn để vận chuyển nông sản

thay cho gùi.

Cuối năm 2014, Nhà nước đầu tư đổ bê tông tuyến đường dài gần 10km

từ trung tâm xã vào xóm theo Đề án 2037. Có đường mới, người dân ở đây đã

mạnh dạn vay vốn để chuyển một phần đất trồng ngô kém hiệu quả sang trồng

30

rừng sản xuất. Đến nay, bà con trồng được khoảng 15ha cây keo. Hiện tại,

trong xóm Khuổi Mèo đã có gần 40 hộ dân vay vốn của Ngân hàng Chính sách

Xã hội với số tiền từ 20 đến 30 triệu đồng để đầu tư trồng rừng. Bên cạnh đó,

một số hộ đồng bào Mông đã chuyển một phần đất trồng ngô sang trồng cây ăn

quả và bước đầu mở ra hướng phát triển mới cho cuộc sống.

2.1.2. Về chăn nuôi

Chăn nuôi là hoạt động kinh tế quan trọng và khá phổ biến của tộc

người Mông ở Võ Nhai. Nó hoàn toàn mang tính tự phát và gắn liền với

kinh tế hộ gia đình. Ngoài các loại gia cầm, người Mông chăn nuôi gia súc

không chỉ làm thực phẩm cho cuộc sống hằng ngày và phục vụ sản xuất,

mà còn cung cấp sản vật cho những hoạt động tôn giáo tín ngưỡng và các

nghi lễ không thể thiếu trong chu kì đời người; một phần nhỏ được dùng để

trao đổi, mua bán.

- Cách chọn giống các loại gia súc, gia cầm:

Đối với người Mông ở Võ Nhai, những con vật được nuôi trong gia đình

là trâu, bò, dê, gà, lợn, chó... Việc chọn giống các vật nuôi chủ yếu dựa vào

kinh nghiệm được tích luỹ và truyền từ đời này sang đời khác. Để chọn giống

trâu, bò, cần phải chọn những con thân cao, vai rộng, chân to, móng tròn. Đó là

những con có sức khoẻ tốt. Những con trâu cái, bò cái, cần có mông to, rộng

bầu sữa, đôi sừng nhỏ và hơi mọc xuôi về đằng vai.

- Về phương thức nuôi dưỡng

Các loại gia súc như trâu, bò và dê chủ yếu được chăn thả tự nhiên trên

đồi núi, thức ăn là các loại cây cỏ có sẵn trong tự nhiên. Khi vào vụ rét hoặc

mùa vụ cày cấy, họ bồi dưỡng thêm cho trâu, bò rơm rạ, cây ngô tươi, thậm chí

là nấu cám ngô cho gia súc ăn để đảm bảo sức kéo trong vụ mùa.

Ngoài trâu, bò, lợn là con vật nuôi phổ biến của người Mông ở Võ Nhai.

Họ quan niệm “Lợn là vị thần có công giúp người, là người cha của người

Mèo” [48]. Chuồng lợn chỉ mang tính chất tạm bợ, được dựng lên bởi vài cây

31

gỗ và lợp bằng lá cọ, lá gianh. Họ cho lợn ăn 3 lần trong ngày, thường là vào

các buổi sáng, buổi trưa và tối. Thức ăn chính của lợn khá đơn giản, chỉ có một

ít bột ngô quấy chín với nước, một ít rau (lá khoai lang, chuối và rau rừng)

được nấu chín. Việc sử dụng cám tăng trọng trong nuôi lợn của đồng bào rất ít,

chủ yếu vẫn là nuôi theo phương pháp truyền thống. Giống lợn chủ yếu được

người Mông lựa chọn nuôi là lợn đen vì lợn đen có sức đề kháng tốt, không

phải chăm sóc nhiều.

Nuôi gà và lợn đã mang tính chất sản xuất hàng hóa. Đặc biệt, do giống

lợn đen của đồng bào thịt ngon nên rất được ưa chuộng tại thị trường huyện và

các vùng lân cận. Bên cạnh các loại thức ăn truyền thống, đồng bào đã biết sử

dụng cám công nghiệp cho gà và lợn ăn. Công tác thú y phòng dịch cho gia súc,

gia cầm đã được chú ý. Do đường sá được mở rộng đến tận thôn, bản, nên

những sản phẩm nông sản và vật nuôi của bà con được các lái buôn đến tận nhà

thu mua, đồng bào không phải mất công vận chuyển ra chợ. Năm 2013, Nhà

nước hỗ trợ cho đồng bào Mông 24 con giống [43]. Bà con cũng đã đầu tư

chăn nuôi bò, nuôi dê núi lấy thịt, đem lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao.

Với lợi thế về bãi chăn thả đại gia súc, từ năm 2013, người dân xóm Khuổi

Mèo đã mạnh dạn đầu tư phát triển chăn nuôi trâu, bò, dê. Đến nay, tổng đàn trâu,

bò trong xóm đã đạt hơn 200 con và có 4 hộ nuôi dê với tổng số gần 100 con. Có

gia đình nuôi tới 10 con trâu, bò, điển hình như Trưởng xóm Phùng Văn Lành.

Chăn nuôi đại gia súc theo hướng thương phẩm đã bắt đầu hình thành thay cho

việc chăn nuôi lấy sức kéo như trước. Gia đình chị Chị Lý Thị Vàng, xóm Khuổi

Mèo, xã Sảng Mộc cũng mua 2 con trâu về để chăn thả, đến nay, trâu mẹ đã đẻ

được một nghé con. 2 năm nữa đến hạn trả vốn ngân hàng, gia đình chị bán 2

con trâu là có thể trả đủ số tiền đã vay để đầu tư.

2.2. Nghề thủ công gia đình

Nền kinh tế tự cung tự cấp đã biến mỗi gia đình Mông trở thành một đơn

vị kinh tế độc lập. Gia đình người Mông tự làm ra mọi thứ thiết yếu phục vụ

32

cho cuộc sống của mình. Nhìn chung, nghề thủ công của người Mông khá phát

triển, nhất là các nghề dệt, đan lát, mộc, nấu rượu. Kết quả điền dã tại các xã

Thượng Nung, Lâu Thượng, La Hiên, Dân Tiến huyện Võ Nhai cho thấy, khi di

cư đến đây, người Mông vẫn tiếp tục duy trì các nghề thủ công trên.

- Nghề mộc

Hầu hết nam giới người Mông ở Võ Nhai đều biết đến nghề mộc. Tuy

nhiên, đây chỉ là nghề được sử dụng chủ yếu trong việc làm nhà và làm ra các

đồ vật dùng trong gia đình, như thùng gỗ, máng gỗ, thìa gỗ. Trong nghề mộc,

đồng bào không sử dụng các loại đinh mà chủ yếu sử dụng kĩ thuật ghép mộng.

Ví dụ như để làm thùng gỗ, đồng bào dùng kĩ thuật bào ghép, đóng đai, đối với

máng gỗ thì dùng kĩ thuật tiện.

Mỗi gia đình người Mông đều có 2 chiếc bàn gỗ chuyên dùng để ăn cơm.

Bàn có hình vuông, mỗi bề khoảng 80cm đến 100cm, cao khoảng 60cm. Ghế

thường được làm từ miếng gỗ ghép lại dùng để ngồi ăn cơm và sưởi ấm.

Đồng bào Mông thường làm giường ngủ bằng cây mai, cây vầu đan

thành phên nan hoặc phản gỗ. Có hai loại giường: Loại giường được đóng

khung vững, đặt trên mặt đất và loại dùng cột gỗ chôn thẳng xuống đất làm

chân giường, sau đó gác phên lên để ngủ. Giường của người Mông thường hẹp

và ngắn, chiều dài trung bình là 1m60 đến 1m80, chiều rộng khoảng từ 80cm

đến 1m20.

Nghề mộc hiện nay đang đứng trước nguy cơ mai một do các sản phẩm

công nghiệp cạnh tranh.

- Nghề dệt

Mỗi gia đình người Mông đều có khung cửi để tự dệt vải mặc và vải làm

chăn màn cho cả gia đình. Trong các gia đình người Mông, phụ nữ phải biết

trồng lanh dệt vải, biết kĩ thuật in hoa văn bằng sáp ong, thêu hoa văn bằng các

loại vải mầu, chỉ mầu…Vì vậy, ngay từ nhỏ, các bé gái đã được học để khi trở

33

thành thiếu nữ, họ có đủ khả năng tạo nên các tấm vải lanh, làm nên bộ váy áo

cho bản thân và gia đình, nhất là người chồng và gia đình người chồng sau này.

Se sợi

Khung se sợi bao gồm các bộ phận: khung gỗ, bàn đạp bánh xe, các con

lăn cắm vào các que gỗ. Khi sợi soắn xong, người ta căng sợi lên dàn quay.

Dàn quay được làm bằng gỗ hay bằng tre cao khoảng 90cm, một đầu cắm

xuống đất, đầu trên có thể quay tròn được và đục hai lỗ để hai thanh tre dài

500cm - 600cm, bắt lại vuông góc với nhau thành hình dấu cộng. Ở đầu thanh

tre có cài que để giữ sợi lanh. Khi vận hành, người ta đẩy trục gỗ quay tròn và

cuốn sợi lên khung tre. Khi sợi đã căng trên dàn, họ gỡ xuống và đem phơi một

ngày. Sợi khi gỡ từ dàn xuống vẫn còn thô cứng và còn nguyên lớp vỏ xanh

của sợi lanh. Để làm sợi lanh có mầu trắng, dùng tro của cây gỗ trai để tẩy. Họ

cho sợi vào chảo đun cùng một ít nước, đến khi sợi có độ nóng vừa phải thì rắc

tro của cây gỗ trai vào và đảo đều, ủ hai ngày cho sợi ngấm đều nước tro rồi

đem giặt, giặt đến khi sợi lanh trắng ra là được. Khi sợi đã trắng như ý muốn,

luộc sợi hoà với sáp ong để cho sợi có độ bóng đẹp hơn.

Lăn sợi

Dụng cụ lăn sợi là một trục lăn làm bằng gỗ tròn, một phiến đá có bản

rộng từ 30cm đến 50cm. Khi lăn, họ đặt sợi lên khúc gỗ, lấy phiến đá đặt lên

trên rồi đứng lên phiến đá cho trục gỗ lăn đi lăn lại với mục đích làm cho sợi

mềm, bóng và các đầu nối của sợi được phẳng đều. Khi lăn sợi xong, họ đưa

sợi lên dàn quay để tháo sợi ra; sau đó kéo sợi để làm con chỉ. Mỗi con chỉ

thường có từ 10 sợi đến 12 sợi.

Dệt vải

Khung dệt của người Mông khá đơn giản, gồm hai thanh gỗ dựng đứng

cùng với vài thanh ngang đóng thành khung cố định. Khung dệt còn có thoi dệt,

dài khoảng 50cm, rộng 12cm, dày 5cm. Trước khi cho sợi vào khung dệt, họ

căng cho đủ số sợi dọc của khổ vải. Khi dệt cần phải buộc dây ở trục vòng qua

34

sau lưng, lấy chân đạp làm tách sợi dọc ra, dùng tay đẩy thoi dệt đan sợi ngang

qua lại, kéo lực ép sợi cho thật khít thì vải mới đẹp.

Kĩ thuật nhuộm chàm

Người Mông trồng cây chàm và chế biến thuốc chàm để nhuộm vải. Cây

chàm được cắt về, mang ngâm xuống nước cho đến khi mục rữa ra; gạn lấy

nước đem hoà với tro bếp và nước vôi, khuấy đều, để lắng lấy cao chàm. Vải

được nhúng vào nước lã cho ngấm đều, rồi ngâm vào vại nước chàm, ủ qua một

đêm, hôm sau giặt qua nước lã rồi đem phơi khô. Khi vải khô, lại nhúng vào

nước chàm, rồi mang phơi khô... Công việc đó lặp đi lặp lại nhiều lần, cho đến

khi nào vải có mầu đen ánh thì được.

Cắt và khâu y phục

Người Mông ở Võ Nhai nói riêng và ở các nơi khác nói chung

thường tự khâu cho mình những bộ trang phục bằng những mảnh vải tự làm

ra. Một mảnh vải thường có khổ rộng từ 35cm đến 50cm, được cắt thành

các miếng nhỏ tương ứng với những bộ phận có trên bộ trang phục, sau đó

khâu thành váy, áo.

Công việc tiếp theo là tạo hoa văn trên các bộ y phục. Thêu thùa trang

trí hoa văn trên vải là nét văn hoá đặc sắc của phụ nữ Mông. Họ có cách thêu

độc đáo và khéo léo, tạo hoa văn không theo mẫu vẽ sẵn mà hoàn toàn dựa

vào trí nhớ và óc tưởng tượng. Kĩ thuật thêu thể hiện trên mặt trái của vải để

hình mẫu nổi lên mặt phải. Do đó, trước khi thêu, phải tính toán tỉ mỉ tới từng

đường kim sợi chỉ, nhớ kích thước từng hoạ tiết trong toàn bộ mảng hoa văn,

tạo được tổng thể đồ án hoa văn có bố cục cân đối, hài hoà, mang tính thẩm

mĩ cao trong trang phục. Hoạ tiết hoa văn phổ biến là hình sừng trâu, con ốc,

các hình chữ thập ngoặc và hình móc câu… gắn với cảnh quan thiên nhiên và

quan niệm của tộc người.

Hiện nay đa số phụ nữ Mông đều biết đến nghề dệt, họ vẫn có thể kéo sợi

dệt nên những bộ quần áo đặc trưng của tộc người mình. Mặc dù có rất nhiều chỉ

35

thêu và vải có hoa văn gần giống hoa văn trên trang phục truyền thống của phụ

nữ Mông được bán tại các phiên chợ, nhưng phần lớn thiếu nữ Mông ở Võ Nhai

vẫn tự tay thêu và may lấy một bộ trang phục dùng để mặc khi cưới chồng và

dùng vào những dịp lễ tết quan trọng sau này trong gia đình. Trang phục hằng

ngày của họ hiện nay chủ yếu vẫn là từ sản phẩm thủ công.

- Nghề nấu rượu ngô

Nấu rượu ngô cũng được coi là một nghề của người Mông ở Võ Nhai.

Rượu ngô của đồng bào có mùi thơm đặc trưng, uống rất êm, dễ uống nhưng lại

rất dễ say. Để chưng cất được loại rượu có một không hai này, ngoài nguyên

liệu chính là ngô thì chất gây men không thể thiếu là lá rừng. Men lá được pha

chế từ hơn 20 loại thảo dược quý hiếm như: Cây dây nước, trầu rừng, dây ngọt,

rong rừng..., có tác dụng chữa lành vết thương, phong thấp, thấp khớp.

Muốn rượu được thơm ngon, ngô phải được trộn trực tiếp với củ giềng,

rau răm và lá quế đã xay nhỏ, với một tỷ lệ nhất định tuỳ theo bí quyết của mỗi

gia đình sau đó mang ủ vào thùng gỗ từ 20 đến 30 ngày cho ngô có thể lên men

đều mới mang chưng cất. Khi ngô đã lên men đều, họ cho ngô vào chõ gỗ và đặt

vào chảo bắt đầu nấu rượu. Sau 3 giờ liên tục thay nước, đun lửa đều, công đoạn

chưng cất mới hoàn thành. Rượu chưng cất được thường khoảng 30 - 35 độ.

Hiện nay, nghề nấu rượu ngô của tộc người Mông vẫn tiếp tục phát triển,

trở thành đặc sản rất được ưa chuộng và bán rất chạy trên thị trường huyện.

Nghề bốc thuốc chữa bệnh

Cũng giống như các tộc người khác, người Mông nói chung và người

Mông ở Võ Nhai nói riêng có một kho tàng kiến thức truyền đời về các loại cây

thuốc chữa bệnh, thuốc bổ và các bài thuốc chữa bệnh. Các bài thuốc ban đầu

thường chỉ được truyền trong dòng họ và dùng để chữa bệnh cho người trong

gia đình. Nhưng do tính hiệu quả và độc đáo của các bài thuốc của họ, bốc

thuốc chữa bệnh dần dần trở thành một nghề. Cây thuốc chủ yếu là sản vật của

36

rừng, dựa vào kinh nghiệm truyền miệng từ đời này sang đời khác mà không có

sự ghi chép.

Người Mông ở các xã Thượng Nung, La Hiên, Phương Giao... biết lấy

cây sau sau cùng một vài loại lá cây khác, hơ nóng, dải ra giường nằm để chữa

bệnh đau xương, khớp và để những người bị gãy xương nhanh lành. Các bài

thuốc lá tắm cho phụ nữ sau khi sinh nở của đồng bào Mông ở Võ Nhai cũng

rất được đồng bào các dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn huyện tin dùng.

Ngày nay, nghề bốc thuốc chữa bệnh không còn phổ biến ở đồng bào

Mông do sự thay đổi của môi trường sống và dịch vụ y tế phát triển.

- Nghề đan lát

Sản phẩm đan lát là các loại gùi, sọt, lồng gà, nơm úp gà. Nguyên liệu để

đan lát là các loại cây như nứa, mai, dang. Mùa đan lát là tháng 1- 2, là lúc nứa,

mai ... đang độ bánh tẻ, cũng là thời gian nông nhàn.

2.3. Khai thác nguồn lợi tự nhiên

Địa bàn cư trú của người Mông chủ yếu trên các cao nguyên và vùng núi

cao. Sống gần gũi với thiên nhiên, được thiên nhiên ưu đãi của cải tự nhiên có

thể tận dụng được, đồng bào Mông đã tranh thủ khai thác tất cả các nguồn lợi

sẵn có của núi rừng.

- Hái lượm

Cùng với săn bắt, hái lượm là một hình thức phổ biến của các gia đình

người Mông ở Võ Nhai. Rừng là nơi cung cấp cho họ một lượng lớn thức ăn từ

hái lượm, như các loại hoa quả (đu đủ, chuối, nhãn...), rau, củ rừng (ngót

hương, tầm bóp, củ mài...), củ rễ....theo kinh nghiệm cổ truyền. Bên cạnh đó,

các loại lâm sản quý, các loại cây thuốc chữa bệnh... là nguồn góp phần bổ trợ

cho kinh tế gia đình họ. Công việc này diễn ra quanh năm do mỗi mùa lại có

những nguồn lợi riêng biệt từ hái lượm đem lại.

37

Các loại rau, củ hầu như được đồng bào thu hái quanh năm, nhưng nhiều

nhất là vào mùa xuân và mùa hạ. Rau, củ thu nhặt được dùng trong bữa ăn

chính làm thức ăn như củ mài (hoài sơn), rau ngót rừng, măng rừng. Nhiều củ,

quả có thể được chế biến để dành ăn vào những tháng giáp hạt như củ mài, củ

rong, củ nâu. Trong số các sản phẩm thu nhặt được, nhiều thứ có thể dùng làm

thuốc bổ chữa bệnh, như mật ong, sa nhân. Các loại măng, mộc nhĩ, nấm hương

thường được thu hái ngoài việc phục vụ bữa ăn gia đình, còn được đồng bào

đem bán vì có giá trị kinh tế cao.

2.4. Trao đổi hàng hoá

Khi mới di cư về Võ Nhai, do địa bàn cư trú tương đối cách biệt nên mỗi

gia đình, mỗi bản Mông là một đơn vị kinh tế tự cấp tự túc. Hoạt động trao đổi

chưa phát triển và nhu cầu trao đổi chưa phải là cấp thiết.

Từ năm 1986, thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là từ khi thực hiện

Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, hệ thống đường liên

thôn, liên bản đã giúp cho việc trao đổi hàng hoá của người Mông với các tộc

người khác thuận lợi hơn nhiều. “Việc trao đổi hàng hóa chủ yếu trong các chợ

phiên”[49]. Sản phẩm đem bán thường là lá để làm bánh các loại, mục nhĩ, nấm

hương, cây thuốc lấy trong rừng, gà, đồ dệt. Sản phẩm mua về thường là muối,

thịt, cá, chỉ thêu, đồ trang sức ... Ở Võ Nhai, không có chợ dành riêng cho tộc

người Mông mà chợ phiên của tất cả các tộc người cùng một xã, hoặc vài xã

gần nhau. Chợ phiên tại các xã được tính theo lịch âm. Chợ phiên ở Dân Tiến

họp các ngày 4, 9, 14, 19, 24 và 29; ở La Hiên họp vào các ngày 3, 8, 13, 18, 23

và 28 hằng tháng. Ngoài chợ phiên, ở Võ Nhai còn có tổ chức phiên chợ tình của người Mông vào ngày 26 tháng 3 âm lịch [20].

Đến Thái Nguyên, do địa hình địa bàn cư trú ở thấp hơn so với ở Cao

Bằng, Hà Giang, chợ búa thuận tiện hơn nên người Mông ở Võ Nhai cũng dần

bỏ thói quen đi chợ từ chiều ngày hôm trước (chợ chiều). Đi chợ đối với người

Mông vẫn là sự hài hoà giữa hoạt động kinh tế và văn hoá. Nó thể hiện rõ hai

yếu tố: Trao đổi, mua bán và giao lưu văn hóa giữa người Mông với người

38

Mông và giữa người Mông với các tộc người khác. Thông qua các phiên chợ,

mối quan hệ giữa họ ngày càng gắn bó, thân thiện hơn.

Hàng hóa được đem ra trao đổi, mua bán, thúc đẩy đời sống của đồng

bào ngày càng phát triển. Đến nay, đời sống của tộc người Mông ở huyện Võ

Nhai đã có nhiều thay đổi; đời sống vật chất, tinh thần được nâng lên. Đạt được

kết quả này, ngoài sự nỗ lực của người dân còn có sự quan tâm hỗ trợ của Nhà

nước. Riêng trong 5 năm (2010 - 2015), đã có 20 hộ đồng bào Mông được hỗ

trợ làm nhà ở theo Chương trình 134 và Quyết định 167 của Chính phủ; 4 hộ

được hỗ trợ xây dựng công trình nước sinh hoạt phân tán; 33/33 hộ dân trong

huyện được hỗ trợ sản xuất (máy móc, cây, con giống…) với số tiền hàng tỉ

đồng [41].

Tiểu kết chƣơng 2

Sinh sống trong điều kiện của một huyện miền núi Võ Nhai, đời sống

kinh tế của người Mông chủ yếu diễn ra trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi,

tiểu thủ công nghiệp và trao đổi hàng hoá. Trong đó, trồng trọt là lĩnh vực

chính; chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và trao đổi hàng hoá chỉ đóng vai trò bổ

trợ. Hoạt động của tộc người Mông trong lĩnh vực chăn nuôi nhằm đáp ứng nhu

cầu về sức kéo, vận chuyển, cung cấp nguồn phân hữu cơ phục vụ trồng trọt và

nhu cầu về thực phẩm. Hoạt động của các nghề thủ công chỉ diễn ra vào lúc

nông nhàn, góp phần tăng nguồn thu nhập cho các hộ gia đình. Bên cạnh đó,

kinh tế hái lượm, trao đổi hàng hóa ở chợ phiên cũng thực hiện chức năng hỗ

trợ cho nông nghiệp.

Từ những năm 90 của thế kỉ XX, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của

chính quyền địa phương, của các tộc người khác, cuộc sống định canh định cư

của người Mông ở huyện Võ Nhai đã và đang có những chuyển biến rõ rệt.

Việc sống xen cư với các tộc người khác trong huyện đã tạo điều kiện giúp tộc

người Mông ở Võ Nhai giao lưu, học hỏi các kinh nghiệm trong đời sống kinh

tế, làm phong phú thêm bản sắc văn hoá tộc người mình.

39

Chƣơng 3

ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG

Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN

TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã nêu lên quan điểm chỉ đạo

về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số: Nền văn hóa Việt Nam là nền văn

hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. “Hơn 50

dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng.

Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt

Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc, là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và

phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em” [5].

Trong mỗi tộc người, văn hóa là cái không thể tách rời, là một yếu tố

không thể thiếu được trong cuộc sống con người, nó ăn sâu, bám rễ vào cuộc

sống của các thế hệ, tạo nên nét đặc trưng riêng biệt của từng tộc người, góp

phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của Quốc gia dân tộc. Di cư đến

huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ những năm 80 của thế kỉ trước, người

Mông ở Võ Nhai vẫn giữ cho mình những nét đặc trưng riêng có của tộc

người mình.

3.1. Tổ chức xã hội

Mỗi tộc người đều có cấu trúc xã hội mang những nét đặc thù, tồn tại qua

nhiều thế hệ và tiếp diễn đến nay. Bên cạnh những yếu tố lạc hậu, tiêu cực cần

loại bỏ, còn có rất nhiều yếu tố tích cực cần được gìn giữ, phát huy. Đó chính là

những giá trị văn hoá mang tính truyền thống của mỗi tộc người. Tổ chức xã

hội của tộc người Mông ở Võ Nhai là một điển hình của tộc người cư trú ở địa

bàn miền núi.

40

3.1.1. Cộng đồng làng bản, dòng họ

Về tổ chức cộng đồng làng bản

Do nguồn gốc lịch sử và sự chi phối của điều kiện tự nhiên, người Mông

di cư và tự phát sống cụm thành làng bản. Làng là đơn vị xã hội cơ bản và duy

nhất ở tộc người này. Người Mông gọi làng là Jaol hay Jol, Jêz Jol - đều có

nghĩa là “ổ” hay “tổ”, tức chỉ một cộng đồng cùng chung sống trong khu vực

địa lí nhất định. Làng Mông được hình thành trên sự tụ cư của những nhóm

người có hay không có mối quan hệ huyết thống. Bởi vậy, mối quan hệ cộng

đồng làng ở tộc người này thực chất là mối quan hệ của các thành viên cùng

dòng họ và giữa các dòng họ cùng địa vực cư trú.

Mật độ cư trú trong bản tuỳ thuộc vào địa hình, phạm vi đất đai; trung

bình mỗi bản có từ 25 đến 40 nóc nhà và có bãi chăn thả chung. Cũng do điều

kiện của địa hình và điều kiện tự nhiên, nhà của người Mông ở Võ Nhai thường

làm ở khu vực lưng chừng đồi thấp hoặc lẻ tẻ vài ba nhà ở một quả đồi; ở

những khu vực bằng phẳng thì tập trung nhiều hơn và sát gần nhau. Nhà trong

bản không theo một hướng nhất định, nhưng rất kiêng quay lưng ra sông suối,

khe hay vực sâu; thông thường nhà dựa lưng vào núi. Mỗi bản đều có địa giới

riêng và được quy định khi khai phá lập bản dần dần hình thành ý thức của các

thành viên trong bản về chủ quyền lãnh thổ của mình. Ranh giới giữa các bản

có thể là một bìa rừng, một ngọn núi hay một con suối. Mỗi bản có quyền sở

hữu, quản lí, bảo vệ và sử dụng đất, rừng, ruộng nương, nguồn nước cũng như

tài nguyên trong phạm vi của mình. Các bản còn có khu vực công như nhà văn

hóa, bãi đất rộng để tổ chức các hoạt động lễ, tết, vui chơi.

Đứng đầu mỗi bản có Trưởng bản (Trưởng xóm), tiếng Mông gọi là chư

dò hay chư dỉnh. Các Trưởng bản có nhiệm vụ thực hiện những công việc

chung của bản, như triển khai những chủ trương, chính sách của Đảng đến

đồng bào, những chính sách an sinh xã hội, quy ước chung của bản đã đề ra

và đôn đốc mọi người thực hiện. Trưởng bản được bầu dựa trên sự tín nhiệm

41

của nhân dân trong bản, theo cơ cấu của xã và có trình độ chuyên môn nhất

định. Trưởng bản phải là người biết ứng xử, nói được, làm được, có kinh

nghiệm trong sản xuất. Bên cạnh Trưởng bản còn có già làng là những người

có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, am hiểu phong tục tập quán, là người

được dân bản kính trọng.

Trong phạm vi một bản, các gia đình được phép khai phá đất đai làm

nương rẫy, theo những quy định chung: Nơi nào có dấu hiệu là đất đã có chủ thì

không được xâm phạm, nếu muốn làm trên đất của người khác thì phải hỏi ý

kiến kèm theo chút quà là một con gà và chai rượu cho người đã có công khai

phá; Người ở bản khác đến khai phá phải hỏi Trưởng bản, mang theo rượu, gà.

Nếu được đồng ý thì còn phải nộp thêm lệ phí cho bản tuỳ theo chất lượng đất

canh tác; nhưng sau 3 - 5 năm phải trả lại cho bản. Những nương ngô, ruộng lúa

sau 3 đến 4 năm mà gia đình đó không canh tác nữa thì thuộc sở hữu công cộng.

Để bảo vệ nguồn nước của bản, vào cuối năm Trưởng bản đứng ra điều hành

việc tu sửa, mọi gia đình đều phải cử người đến góp sức. Người Mông cấm tắm

giặt, mổ lợn gà ở nguồn nước cũng như chặt phá rừng để làm nương rẫy ở những

khu vực rừng do bản quy định, nếu vi phạm sẽ bị phạt.

Những lễ nghi liên quan đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng chiếm vị trí

quan trọng. Đầu năm mới, các bản tổ chức lễ cúng ma bản. Các thành viên

trong bản có ý thức cộng đồng, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng

như khi có công việc ma chay, cưới xin, làm nhà mới, thăm hỏi giúp đỡ nhau

khi sinh đẻ hay lúc ốm đau, hoạn nạn.

Cộng đồng người Mông cư trú trên một phạm vi chủ yếu theo quan hệ

huyết thống cùng thực hiện những quy ước chung. Bản của người Mông là

quan hệ thôn xã cổ truyền, có vai trò quan trọng trong đời sống. Trong điều

kiện sản xuất cá thể, du canh, du cư, kinh tế mang tính khép kín, cư trú biệt lập

ở vùng núi cao, những quan hệ đó được lưu giữ một cách tự nhiên với nhiều

mức độ khác nhau.

42

Về tổ chức dòng họ

Người Mông gọi dòng họ là “xềnh” hoặc “xông”. Trong phạm vi rộng:

Dòng họ của người Mông gồm tất cả những người cùng một họ dù người đó cư

trú ở đâu. Người Mông quan niệm những người cùng chung một họ là những

người “cùng ma”, đều được sinh ra từ một ông tổ nên đều là anh em. Khi đã

nhận nhau là người cùng họ thì dù ở xa đến mấy cũng đều được coi là người

nhà và đều chịu sự chi phối của tổ chức dòng họ. Tính cố kết của cộng đồng

người Mông rất rộng lớn. Những thành viên cùng dòng họ, cùng tổ tiên còn

nhận nhau qua các điều kiêng kị về ăn uống, qua nghi thức cúng ma khô; qua

cách cúng, cách đặt hướng mộ, cách làm ma tươi. Những điều kiêng kị này đều

gắn với câu chuyện của từng dòng họ được truyền từ đời này sang đời khác,

mỗi thành viên đều phải có trách nhiệm ghi nhớ và tuân thủ.

Cũng như các tộc người khác, các thành viên trong một dòng họ người

Mông gắn bó với nhau bởi một phả hệ cùng có một ông tổ. Ông tổ là người đã

chết mà người già ở thế hệ cao nhất còn nhớ, thông thường là 3 thế hệ: con

(tua nhủa), cha (nia), ông (pò cúng). Các dòng họ phổ biến của người Mông ở

Võ Nhai là Lý, Sần, Hoàng, Sùng, ...trong đó đông nhất là dòng họ Lý. Các

dòng họ trên phân bố ở nhiều bản khác nhau, nhưng mỗi bản có một hoặc hai

dòng họ chiếm số đông. Chẳng hạn, tại xóm Lân Vai xã Dân Tiến, dòng họ Lý

chiếm số đông; ở bản Đồng Ươm thì dòng họ Sùng chiếm số đông. Các gia

đình cùng họ ở đây thường sống chung với nhau, song không có chỗ thờ cúng

tổ tiên chung.

Mỗi dòng họ đều có một trưởng họ, là người có vị trí hết sức quan trọng

và được coi là linh hồn của dòng họ. Trưởng họ là người có đạo đức, công tâm,

hiểu biết về lịch sử dòng họ, thành thục phong tục tập quán, biết các bài cúng

của dòng họ, có tài ứng xử. Trưởng họ là người có khả năng tổ chức, có kinh

nghiệm trong sản xuất, biết quan tâm đến đời sống và bảo vệ lợi ích của dòng

họ, gây được ảnh hưởng tốt đối với các thành viên trong họ, được mọi người

43

kính trọng. Trưởng họ cũng là người chịu trách nhiệm trước dòng họ truyền đạt

lại những tục lệ, kinh nghiệm của dòng họ cho con cháu, vận động các thành

viên giữ gìn đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Với uy tín và sự hiểu biệt của mình,

trưởng họ được các thành viên tin cậy, chia sẻ ý kiến; do đó tiếng nói của

trưởng họ có vai trò rất quan trọng, thậm chí là quyết định.

Ngày nay, trưởng họ là người có vai trò tích cực vận động các thành viên

trong dòng họ mình thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước, các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; đồng thời

phối hợp với chính quyền địa phương để tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu

quả quản lí xã hội trong cộng đồng người Mông. Bên cạnh trưởng họ, trong tổ

chức dòng họ còn có vai trò của bà cô (phâux) và người cầm quyền ma quyển

khách (cho đáng khô). Bà cô là người có thể quyết định thay thế một tập quán dù

lâu đời nhưng không còn phù hợp. Người cầm quyển ma quyển khách là người

có thể đảm nhiệm những việc liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng và các công việc

đối ngoại. Tổ chức dòng họ bao gồm trưởng họ, bà cô, người cầm quyển ma

quyển khách được coi là bộ máy tự quản rất hữu hiệu và quan trọng trong xã hội

của tộc người Mông. Đây là những người làm nhiệm vụ theo dõi, đề xướng

hướng giải quyết những công việc liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm

linh của các thành viên trong dòng họ cũng như công việc liên quan đến cộng

đồng xã hội nói chung.

Các đặc trưng của dòng họ:

Trước hết ngoại hôn tuyệt đối là đặc trưng nổi bật trong dòng họ của

người Mông. Người cùng họ, cùng thờ một ông tổ dù xa đến mấy đời cũng

không được kết hôn với nhau, trước đây còn có quy định người Mông không

được lấy người dân tộc khác. Người trong một họ kết hôn với nhau sẽ bị coi là

phạm tội loạn luân và bị phạt rất nặng.

Sự thống nhất về mặt xã hội của dòng họ tộc người Mông được thể hiện

rất rõ trong nét cư trú. Trước đây, các gia đình thường di cư theo dòng họ nên có

44

hiện tượng một bản chỉ có một dòng họ. Hiện nay, hình thức cư trú xen kẽ giữa

các dòng họ trong một bản tương đối phổ biến. Dòng họ nào có công khai phá,

lập bản thường có nhiều quyền lợi hơn, như được giữ chức Trưởng bản, được

chủ trì lễ cúng đuổi ma, cúng thổ thần, có ruộng nương nhiều. Mặt khác, các gia

đình trong cùng một họ có thể cư trú ở nhiều vùng, nhiều nơi khác nhau, nhưng

luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Những người cùng dòng họ đùm bọc,

giúp đỡ nhau bằng sức lao động và tiền của khi một gia đình trong họ có việc ma

chay, cưới xin, dựng nhà hay những lúc khó khăn, hoạn nạn.

Sự thống nhất về tư tưởng của dòng họ cũng biểu hiện rõ nét. Cứ 3 năm

một lần, vào ngày 29 Tết Nguyên đán, các thành viên trong họ lại tập trung ở nhà

trưởng họ để làm lễ “Tusu”. Đây là lễ cúng để trừ tà ma, cầu mong ông tổ phù hộ

cho con cháu khoẻ mạnh, làm ăn tốt lành. Thầy cúng sẽ gọi tên từng hộ gia đình,

đọc đến nhà ai thì nhà đó mang các hình nhân được cắt bằng giấy bản và vũ khí

giả bằng gỗ đến bỏ vào chiếc gùi. Thầy cúng một tay cầm bó hương, một tay

cầm dao, miệng đọc thần chú đuổi các hồn ma không được quấy nhiễu người

sống; đồng thời cầu mong cho các gia đình trong họ không gặp tai ương. Nghi lễ

này nhằm tăng cường sự cố kết cộng đồng dòng họ.

Một đặc trưng khác của dòng họ người Mông được biểu hiện qua cách

thức tổ chức lễ ma khô (ma bò). Đây là lễ con cái đền ơn cha mẹ hoặc làm cho

người nhà đã mất. Theo phong tục, dù hoàn cảnh có khó khăn như thế nào,

người con trai cũng phải làm đám ma khô một lần để đền ơn công lao bố mẹ,

người đã khuất. Đám ma khô thường được tiến hành sau khi bố (mẹ) qua đời từ

3 đến 5 năm, nếu gia đình nào có điều kiện thì sau 15 ngày là có thể làm. Lễ

làm ma khô thông thường phải mổ bò để cúng, tuy nhiên nếu dám ma tươi đã

có bò cúng rồi thì ở đám ma khô có thể dùng lợn, dê hoặc chó. Con vật làm lễ

cúng phải đẹp, không có khuyết tật, lông đồng mầu, không được chọn con vật

đã chết hoặc đã làm thịt. Mọi thành phần làm ma khô phải đầy đủ từ thầy cúng,

khèn, trống, chủ nhà, chủ bếp, Trưởng bản đến tất cả anh em trong dòng họ.

45

Mọi người được báo trước ít nhất 10 ngày. Đến ngày làm ma, khi mọi thành

phần đến đông đủ, tang chủ thông báo với trưởng họ về ý định và khả năng tổ

chức của gia đình, thời gian tiến hành, thực phẩm… để trưởng họ và mọi người

cùng giúp sức.

Sự phân biệt dòng họ còn thể hiện trong đám “ma tươi”. Có dòng họ

không đưa người chết vào quan tài mà trước hôm đem chôn, người ta mang

người chết ra ngoài bãi gọi là cho người đi “tàu sang”. Có họ (họ Lý) thì khiêng

cáng người chết chạy đến huyệt mới đặt người chết vào quan tài. Có họ thì cho

người chết vào quan tài từ lúc ở nhà. Trong đám ma chỉ có người trong dòng họ

mới khiêng quan tài. Cách đặt thi hài lên cáng, cách đặt mả cũng khác nhau.

Nếu dòng họ nào không tổ chức đám tang theo đúng nghi lễ của dòng họ mình,

sẽ bị dân bản chê cười vì người Mông quan niệm: “Làm ăn, làm uống ta có thể

học người khác nhưng làm ma thì không học theo người ta”.

Văn hóa ứng xử của tộc người Mông cũng tồn tại chủ yếu dựa trên

phong tục, tập quán của dòng họ mà nổi bật là những luật tục liên quan đến trật

tự xã hội, đến vấn đề khai thác và sở hữu đất đai canh tác, những luật tục quy

định quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên trong cộng đồng. Đặc biệt dòng

họ như một tín hiệu để các thành viên của tộc người này nhận biết nhau. Người

Mông sống ở đâu, thuộc nhóm nào, khi gặp nhau bao giờ họ cũng hỏi nhau

thuộc dòng họ gì. Đó là đặc điểm hiếm thấy ở những tộc người khác. Thời gian

và nhịp điệu phát triển của cuộc sống cùng sự tác động của các yếu tố văn hóa

bên ngoài dần ảnh hưởng đến xã hội Mông ở Việt Nam nói chung và ở Võ Nhai

nói riêng. Cuộc sống của tộc người Mông vừa chịu sự chi phối của mối quan hệ

truyền thống, vừa chịu tác động mạnh mẽ của mối quan hệ xã hội mới theo cơ

chế pháp luật của Nhà nước. Từ đó, mối quan hệ xã hội ở tộc người này đã có

sự tự điều chỉnh và thay đổi để có thể thích nghi, tồn tại với hoàn cảnh mới.

Tuy nhiên, dù có sự điều chỉnh hay thay đổi thậm chí còn tiếp nhận thêm những

46

yếu tố văn hoá mới, cấu trúc xã hội cơ bản của tộc người Mông vẫn tồn tại và

là một trong những yếu tố biểu hiện cho bản sắc dân tộc của cộng đồng này.

3.1.2. Gia đình và hôn nhân

Trước đây, các gia đình người Mông thường quần tụ khi cha mẹ còn

sống, có khi cả bốn thế hệ cùng sống với nhau trong một gia đình vì họ cho

rằng có nhiều thế hệ cùng sống dưới một mái nhà, cùng ăn một bếp mới là nhà

có phúc nên con cái chỉ ra ở riêng khi cha hoặc mẹ đã mất. Ngày nay, cùng với

sự phát triển của kinh tế - xã hội thì gia đình nhỏ hai đến ba thế hệ đã xuất hiện

và trở nên phổ biến.

Ngày nay, các hình thái gia đình thường thấy ở người Mông gồm có: Gia

đình hai thế hệ, gồm chồng, vợ và con cái chưa xây dựng gia đình; Gia đình ba

thế hệ, gồm chồng, vợ, con cái chưa xây dựng gia đình và bố, mẹ của chồng; Gia

đình gồm một cặp vợ chồng cùng con cái còn nhỏ cùng với bố, mẹ chồng và em

chồng; Gia đình không trọn vẹn gồm chồng (vợ) cùng con cái chưa xây dựng gia

đình; trong đó hình thái gia đình một vợ một chồng cùng con cái chưa xây dựng

gia đình là chủ yếu, quy mô gia đình từ 5 - 6 thành viên.

Mỗi gia đình người Mông là một đơn vị kinh tế độc lập. Tài sản của gia

đình gồm nhà ở, nương rẫy, công cụ sản xuất, các loại gia cầm, gia súc, khung

cửi, một số gia đình khá giả hơn có bạc trắng, đồ dùng bằng gỗ. Nhìn chung, cơ

sở kinh tế của gia đình người Mông còn nghèo, đủ trang trải cho cuộc sống

hằng ngày. Bên cạnh đó, một số ít gia đình có tài sản tích lũy để làm giàu.

Việc tổ chức sản xuất phân công lao động trong gia đình thực hiện

theo nguyên tắc tuổi - giới khá rõ rệt. Con trai, đàn ông thường làm những

việc nặng như làm nhà, chọn đất làm nương, cày bừa, mang vác, lên núi hái

củi, săn bắn, chế tác công cụ lao động. Đàn bà, con gái ngoài làm nương rẫy

còn đảm nhận hoàn toàn việc nhà và xe lanh dệt vải. Người già, trẻ em trong

nhà phụ giúp chăn thả trâu, bò. Cũng như các tộc người khác, gia đình người

Mông ở Võ Nhai thể hiện ý thức phụ quyền đậm nét. Điều này phản ánh rõ

47

qua mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dù đó là tiểu gia đình

hay đại gia đình thì vai trò quyết định thuộc về chủ gia đình (chi plo) là

người cha (người chồng hoặc anh cả).

Trong lĩnh vực sản xuất, chủ gia đình là người chỉ đạo tổ chức và phân

công lao động cho các thành viên phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và khả

năng của mỗi người. Chủ gia đình là người đảm nhận việc khấn tổ tiên, đón

thầy cúng và nhiều công việc khác mà theo phong tục người phụ nữ không

được làm.

Trong quan hệ với bên ngoài, chủ gia đình thay mặt gia đình trong các

công việc của làng bản, tiếp đón khách, nhất là người thuộc dân tộc khác; giải

quyết những vấn đề nảy sinh liên quan đến lợi ích của gia đình và các thành

viên; giữ gìn quan hệ đoàn kết giữa gia đình với dân bản nói chung. Tính chất

phụ quyền còn biểu hiện trong quan hệ tài sản, chỉ con trai mới có quyền thừa

kế tài sản. Khi chủ gia đình còn sống, toàn bộ tài sản thuộc quyền quản lí và

phân phối của ông ta. Trường hợp chủ gia đình chết thì người con trai cả sẽ

thay mặt cha mẹ quản lí số tài sản chung đó. Khi chia tài sản, anh em trai được

chia phần bằng nhau, nhưng nếu ai trực tiếp phụng dưỡng bố mẹ thì nhiều hơn

một chút so với các anh em còn lại. Trong trường hợp vợ chồng con cái muốn

ra ở riêng khi cha mẹ còn sống, thì chỉ được chia một phần tối thiểu tài sản theo

ý của người cha. Người con gái không được chia tài sản, nhưng khi đến tuổi

trưởng thành có thể tự đi làm thuê, phát nương để tích lũy một số đồ dùng của

cải sau này mang đến nhà chồng. Trong gia đình, vợ chồng bình đẳng trong

việc nuôi dạy con cái, song khi con lớn thì quyền quyết định dựng vợ gả chồng

hay làm ăn, học hành, phần lớn là do người chồng. Có nhiều con trai là điều

mong ước của mọi gia đình người Mông.

Việc giáo dục con cái được chú trọng nhiều mặt, người con trai không

những cần có khả năng lao động, có đạo đức tốt mà còn phải biết khấn tổ tiên;

13 - 14 tuổi đã có thể làm nương thạo, 17- 18 tuổi đã lao động giỏi, nắm được

48

nghề thủ công trong gia đình. Tính chất phụ quyền còn biểu hiện rõ nét trong

sinh hoạt hằng ngày. Khi ăn cơm, cả nhà cùng chung một mâm, nhưng khi con

trai đàn ông tiếp khách thì đàn bà ăn riêng một mâm. Khi đi làm, đi chợ, đi

thăm hỏi bạn bè, người thân, thì hai vợ chồng cùng đi với nhau. Người con dâu

muốn về thăm bố mẹ đẻ, phải xin phép bố mẹ chồng và có chồng cùng đi,

không được đi một mình.

Thời trước, theo quan niệm của người Mông thì con trai mới là con

mình, con gái là con người khác do mình mua về. Vì vậy, trong xã hội cũ,

người con dâu phải chịu rất nhiều khổ cực, phải làm lụng vất vả và hầu như

không có tiếng nói trong gia đình. Theo phong tục, con dâu không được ngồi

gần bố chồng, khi lấy vật gì trên gác cũng không được trèo hẳn lên mà chỉ được

đứng ở bậc thang lấy que mà khều, bát nước hoặc ống điếu của con dâu khi đưa

cho bố mẹ chồng phải tráng rồi mới đưa. Vì quan niệm lấy vợ là lấy người nên

có tục chẳng may người chồng chết sớm thì chị dâu phải lấy em chồng để nhà

chồng khỏi mất người. Nếu không chấp nhận lấy em chồng mà muốn lấy người

khác thì phải đền cho nhà chồng tất cả của cải, vật phẩm dùng cho hôn lễ trước

kia, gọi là lễ “thành phà”.

Xét một cách tổng thể, trong quan hệ gia đình của người Mông, sự

bình đẳng chỉ là tương đối. Ý thức “trọng nam khinh nữ” tồn tại rất đậm nét

trong xã hội truyền thống của người Mông. Ngày nay, những tập tục quá hà

khắc đã bị đẩy lùi, song những dấu vết còn lại mang tính quy định trong đời

sống xã hội vẫn tồn tại. Thông qua gia đình, mỗi thành viên đều hình thành

và tự học được các nếp ứng xử từ gia đình. Người con trai Mông biết thổi

khèn, thổi sáo, người con gái Mông biết thêu thùa, biết múa, biết hát giao

duyên…Vì vậy, mỗi gia đình người Mông chính là cái nôi hình thành, trao

truyền, phát triển văn hóa truyền thống và là hạt nhân cơ bản trong sự phát

triển của cộng đồng tộc người.

49

3.2 Đời sống vật chất

3.2.1. Đồ ăn, uống, hút

Người Mông khi mới di cư đến Võ Nhai vẫn sử dụng ngô làm lương

thực chính, từ ngô chế biến thành các món ăn như mèn mén, cơm độn ngô, ngô

luộc, bánh… Mèn mén là thức ăn không thể thiếu trong bữa ăn của gia đình

người Mông. Mèn mén được làm từ hạt ngô tẻ, thường nấu vào buổi sáng để ăn

cả ngày. Chế biến món ăn này rất tốn thời gian và qua nhiều công đoạn: bóc vỏ,

tách hạt ra khỏi lõi ngô, xay hạt ngô thành bột và sàng bớt vỏ (mày ngô). Từ

khoảng đầu năm 2000 trở lại đây, đồng bào Mông đã chuyển sang sử dụng lúa

gạo là nguồn lương thực chính. Các món ăn chế biến từ ngô vẫn được dùng

trong các dịp lễ, tết và những khi nông nhàn. Ngoài cơm và mén mén, người

Mông ở Võ Nhai còn chế biến các món ăn khác như nấu cháo với đỗ xanh, đỗ

đen, bí đỏ… Các loại cây, củ, quả cũng được chế biến dùng làm thức ăn hoặc

để dự trữ cho những ngày giáp hạt.

Loại thức ăn phổ biến nhất của người Mông là các món luộc. Họ cho

rằng món luộc phù hợp với điều kiện kinh tế của gia đình. Món luộc không cần

phải mỡ, cũng không cần gia vị. Món luộc ngọt, mát và hợp với khẩu vị của

nhiều người. Trong các dịp lễ, tết, đám cưới, tang ma hay khi nhà có khách

quý, họ đều dùng đến món luộc.

Các món sạ (xào), hầm cũng là món ăn được người Mông rất thích. Bên

cạnh các thức ăn giàu chất đạm và được coi là thức ăn mặn thì mỗi bữa ăn của

người Mông không thể không có món rau. Món ăn này thường dùng để ăn kèm

với các loại thực phẩm giàu chất đạm và béo.

Ngoài những món ăn hằng ngày, vào các ngày lễ tết, nhất là tết Nguyên

Đán, người Mông thường làm bánh chưng và bánh ngô. Một món ăn đặc trưng

của đồng bào Mông nói chung là món “thắng cố". Nghĩa đen của từ này nghĩa

là canh chảo. Món này là tất cả các loại thịt, xương, lòng, gan, tim, phổi của

một con vật như dê, trâu...được chặt ra đem nấu chung trong một chảo canh to.

50

Ngày nay, món thắng cố chỉ còn xuất hiện trong các dịp cưới xin và ma chay

của đồng bào Mông ở Võ Nhai.

Thức uống của đồng bào Mông tương đối đơn giản, hằng ngày họ uống

nước đun sôi, nước chè. Nước uống được dẫn về nhà bằng máng. Hiện nay, do

có chương trình nước sạch của Chính phủ, đa số đồng bào đã được dùng nước

sạch hút lên bể hoặc khoan giếng, đào giếng tại nhà. Rượu cũng được coi là

loại đồ uống khá phổ biến của đồng bào, nhất là trong các dịp lễ tết, ma chay,

cưới xin... Đối với người Mông "chén rượu còn là tình cảm chân thành và đằm

thắm của người mời đối với người được mời. Người được mời uống chén rượu

là trân trọng tình cảm của người mời” [45]. Đồng bào Mông hút thuốc lá khá

phổ biến. Trước kia, khi còn ở Cao Bằng, thuốc lá do đồng bào tự trồng. Từ khi

di cư đến Võ Nhai, người Mông không trồng thuốc lá nữa nên họ mua ở chợ để

hút. Thuốc lá là thứ đồ hút người Mông dùng để mời chào khách đến nhà.

“Khách đến nhà, mời ngồi quanh bếp lửa, chủ lấy điếu hút và bốc dúm thuốc

mời khách hút là biểu thị sự lịch sự và tôn trọng khách” [45].

Để có thể bảo quản được thực phẩm, đặc biệt là thịt, người Mông thường

ướp muối, sau đó treo lên gác bếp. Ngoài ra, họ còn dùng cách rán chín thịt rồi ủ

trong chum mỡ để ăn dần. Loại thịt thường được dùng là thịt lơn nạc. Các loại

rau được phơi khô rồi cho vào ống tre, ống nứa để ăn dần. Ngày nay, do điều

kiện kinh tế ngày càng phát triển, một số hộ gia đình người Mông ở Võ Nhai đã

sử dụng tủ lạnh để bảo quản thức ăn thay thế cho cách bảo quản truyền thống.

Cách bảo quản thịt trong chum mỡ vẫn còn, thường dùng sau mỗi dịp lễ Tết .

Mặc dù đã có những đổi thay đáng kể, nhưng cuộc sống của đồng bào

dân tộc Mông trên địa bàn huyện Võ Nhai vẫn còn không ít gian nan khi đường

từ trung tâm bản đi đến các hộ dân vẫn còn rất khó khăn. Trong khi đó, các hộ

dân lại sinh sống rải rác, trình độ dân trí không đồng đều, tập quán canh tác chủ

yếu phụ thuộc vào thiên nhiên, thiếu vốn sản xuất… Có nơi, một số hộ chưa có

điện thắp sáng (xóm Lũng Cà thuộc xã Thượng Nung có 4 hộ, xóm Lũng

51

Luông của xã Thượng Nung có 7 hộ; xóm Mỏ Chì, Lằm Thăng của xã Cúc

Đường). Số hộ nghèo trong đồng bào Mông chiếm tỉ lệ cao: Cuối năm 2010 là

646 hộ (36%), đến cuối năm 2013 còn 606 hộ (31%) [42]. Theo lời kể của ông

Lý Văn Sinh - Trưởng xóm Lũng Hoài (Thượng Nung): Toàn thôn có 33 hộ

người Mông thì có 30 hộ nghèo, 3 hộ cận nghèo (tỉ lệ nghèo 91%). Mỗi năm xã

giao chỉ tiêu phải giảm hộ nghèo xuống, thì các hộ lại luân phiên nhau làm hộ

cận nghèo”.

Xã Thượng Nùng có 7 xóm, trong đó có 3 xóm dân tộc Mông, với 910

khẩu. Các xóm người Mông đều đã có điểm trường với đầy đủ các lớp học từ

mầm non cho tới tiểu học, nhưng số lượng các em tốt nghiệp tiểu học lên học

cấp 2 chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ông Lý văn Sinh - Trưởng xóm Lũng Hoài,

cho biết: “Cũng động viên gia đình cho các cháu đi học, nhưng chẳng ăn thua.

Mãi năm vừa rồi mới có một cháu đi học Cao đẳng sư phạm, một cháu được đi

học Đại học Luật theo dạng cử tuyển, còn lại khoảng 15 cháu học cấp 2, ba

cháu học cấp 3. Ở xóm thì cấp tiểu học nào cũng có lớp, nhưng có đứa đến lớp

5 rồi vẫn chưa biết đọc biết viết. Các cô giáo không ai biết tiếng Mông, nên các

cháu khó tiếp thu được. Về nhà lại chỉ nói tiếng Mông với bố mẹ, nên cũng

không học được gì nhiều mấy. Cứ thế càng học lên cao lại càng chán. Tiếng

Việt học còn chưa xong, thế mà các cháu còn được dạy học thêm cả tiếng Anh

theo chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo”. Ba xóm người Mông ở Thượng

Nùng vẫn chưa có điện. Nhà trưởng bản Lý Văn Sinh có một cái tivi nhưng chỉ

thỉnh thoảng mới dám chạy máy nổ để theo dõi tin tức bên ngoài. Ông Sinh nói:

“Giờ ước mơ lớn nhất của bà con là điện, để lũ trẻ con được xem tivi, mở mang

đầu óc ra bên ngoài và học nói tiếng Việt”.

Tương tự như xóm Lũng Hoài, xóm Lũng Luông có 117 hộ, với 561 khẩu

nhưng cũng chỉ có 10 hộ cho con đi học cấp 2 dưới xã, 2 em đang học cấp 3, còn

lại chủ yếu học hết tiểu học là nghỉ ở nhà phụ giúp bố mẹ làm nương, rẫy.

52

Xóm Lân Vai xã Dân Tiến đã có lớp học từ mẫu giáo đến cấp 1 cho con

em đồng bào Mông học tập, nhưng do cuộc sống mưu sinh và điều kiện kinh tế

khó khăn nên sau khi tốt nghiệp cấp 2 số em tiếp tục học lên cấp 3 rất ít.

3.2.2. Trang phục

Trang phục của người Mông mang nét đặc trưng riêng biệt, dễ phân biệt

với các tộc người khác. Người Mông ở Võ Nhai chủ yếu là người Mông Trắng.

Trang phục thổ cẩm của người phụ nữ Mông Trắng gồm khăn, áo xẻ ngực, váy,

tấm vải che trước váy, thắt lưng, xà cạp… với họa tiết hoa văn tinh xảo như

hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật, hình quả trám và hình xoắn ốc rực rỡ sắc

màu. Áo váy của phụ nữ Mông ở Võ Nhai có màu trắng, trên cổ áo, nẹp áo, ống

tay, cổ tay, ngang váy, gấu váy đều đính các sọc lam hoa văn, hoặc kim sa lấp

lánh. Váy của phụ nữ Mông Trắng là loại váy hở, xếp li vừa bằng bụng, phía

dưới xoè rộng nên khi mặc vào người tạo ra những lớp sóng rung rinh, khi ngồi

xuống thì xoè rộng như bông hoa nở. Váy được may bằng loại vải lanh và trang

trí hoa văn bằng kĩ thuật vẽ sáp ong ở chân váy. Thắt lưng thường chỉ là mảnh

vải gấp đôi, xà cạp gồm hai loại: loại thêu dùng trong ngày cưới, lễ hội; loại

không thêu dùng vào các ngày thường. Màu trắng là màu chủ đạo trên váy của

phụ nữ Mông trắng, khác với váy của người Mông hoa, màu đỏ là màu chủ đạo.

Trang phục truyền thống của cả nam và nữ đều có khăn đội đầu. Khăn

đội đầu của nữ có hai loại; một loại khăn vuông và một loại khăn cuốn tròn.

Khăn cuốn tròn được cấu tạo bởi hai bộ phận: Lõi khăn và vỏ khăn. Lõi khăn

là một tấm cót đan bằng lạt giang cuốn vòng tròn có chiều rộng khoảng 10cm,

chu vi tuỳ thuộc vòng đầu người đội. Thông thường chu vi của nó khoảng 50

đến 60 cm. Phía ngoài tấm cót được cuốn hai lớp vải kẻ ca rô; mỗi miếng vải

dài 1,6m đến 1,8 m, rộng 20cm đủ để bao quanh lõi cót. Loại khăn vuông

nhiều màu sắc sặc sỡ hay được chị em sử dụng hơn; nhưng vào những ngày

chợ phiên hay những dịp lễ tết, phụ nữ thường đội hai khăn chồng lên nhau

(khăn vuông đội bên ngoài khăn cuốn tròn). Khăn đội đầu của nam là một

53

mảnh vải lanh nhuộm chàm dài 1,5m đến 2,5 m, rộng 30 cm đến 40 cm,

không trang trí hoa văn, gập làm tư và quấn quanh đầu theo chiều từ trái qua

phải. Ngày nay, nam giới người Mông ở Võ Nhai chỉ dùng khăn đội đầu vào

các dịp đại sự.

Vòng cổ (Cầu sinh) là đồ trang sức chung cho cả phụ nữ và nam giới. Có

hai loại vòng cổ: Vòng trang sức và vòng bản mệnh. Ngoài ra, phụ nữ Mông

còn đeo rất nhiều vòng tay (Lồ pầu), nhẫn (Lề pai). Trang phục nam gồm có

quần dài, may kiểu đũng quần què, cạp lá toạ, áo ngắn tay, ống rộng, cổ đứng,

xẻ bụng, cài khuy và khăn đội đầu. Quần áo đều nhuộm màu chàm.

Ngày nay, do có sự giao lưu, hội nhập trong quá trình phát triển kinh tế -

xã hội, trang phục của người Mông ở Võ Nhai đã không còn giữ được nét

truyền thống như trước. Từ váy áo của nữ giới đến quần áo của nam giới không

còn được may bằng vải lanh, mà được thay bằng vải láng. Đa số nam giới

người Mông đều mặc quần áo giống như nam giới người Kinh, chỉ có người

lớn tuổi vẫn giữ nguyên bộ trang phục dân tộc vốn có. Đối với phụ nữ Mông,

tuy sự mai một về trang phục không diễn ra mạnh mẽ như ở nam giới, nhưng

thực tế cũng đang ở mức báo động. Nhiều phụ nữ ngày nay chỉ còn mặc mỗi

chiếc váy, còn áo cũng là áo phông hoặc áo sơ mi. Váy cũng vậy, nhiều người

không còn dùng váy do mình tự thêu dệt mà là những chiếc váy may sẵn (hàng

của Trung Quốc) được bày bán ở chợ, các họa tiết hoa văn trên váy không phải

là thêu bằng sợi chỉ mà là những họa tiết được in ấn bằng mực với máy hiện đại

lên mặt chất vải.

3.3.3. Nhà ở

Nhà ở là sản phẩm của văn hoá dân tộc. Dân tộc nào cũng làm nhà để ở,

nhưng mỗi tộc người đều làm nhà có cấu trúc, chất liệu khác nhau. Nhà của

người Mông thường làm ở những nơi gần nguồn nước, đi lại thuận tiện, gần

nương canh tác. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính

quyền địa phương, người Mông ở Võ Nhai đã định cư ven các thung lũng và

54

các vùng đồi có độ cao vừa phải. Nguyên liệu để làm nhà chủ yếu vẫn là gỗ,

tre… Hiện tại, một số hộ người Mông đã tiến hành xây nhà cấp bốn bằng gạch

nung giống người Kinh, dùng tấm lợp thay cho lá cọ, gianh.

3.3.3.1. Đặc điểm nhà ở truyền thống

Nhà đất 3 gian 2 chái, mái lợp bằng cỏ gianh hoặc tấm lợp xi măng, cột

gỗ được kê trên tảng đá to. Kết cấu của khung nhà dựa trên các vì kèo gỗ kết

cấu xà ngang, xà dọc gác trên ba hàng cột, hai bộ vì làm thành gian giữa, hai

bên hồi trốn cột, kèo gác lên tường đất. Kĩ thuật lắp ráp: có cột chống ở giữa,

kê trên đá tảng hai đầu xà, gác vào tường để chống lún và chống mối mọt chân

cột. Gian giữa dùng để đặt bàn thờ thờ cúng tổ tiên, là gian chung của cả nhà,

chuyên để làm những việc lớn, như hiếu, hỉ, tiếp khách. Cửa chính của nhà đặt

ở phía trước, có ngưỡng cao khoảng 40 cm. Gian thứ hai có hai bên: Một bên là

gian bếp - nơi giữ lửa; một bên dùng làm buồng ngủ của ông bà chủ (giường

ngủ thường bố trí ngang hàng với bàn thờ). Gian thứ ba là có bếp nấu cám lợn,

nấu cơm, có buồng ngủ cho các con, gian này có một cửa phụ.

Nhà có một cửa chính và cửa phụ. Cửa chính nằm ở gian giữa, đối diện

với bàn thờ; cửa phụ nằm ở bên phải ngôi nhà, là nơi dùng để đi lại của các

thành viên trong gia đình. Các cánh cửa nhà của người Mông thường được mở

vào phía trong, không mở ra phía ngoài. Trong nhà người Mông có gác làm

bằng gỗ rất chắc chắn, dùng để lương thực. Ngô thường xếp ở gác bếp để cho

khô và chống mối mọt. Hiên đầu nhà và hai bên đầu hồi là chỗ để nông cụ.

Chuồng trại chăn nuôi thường được làm sát bên trái ngôi nhà.

3.3. Các tập quán liên quan đến chu kì đời ngƣời

3.3.1. Sinh đẻ và nuôi dạy con cái

"Đối với người Mông, đứa trẻ ra đời là một sự kiện trọng đại. Vì vậy, đi

kèm với việc sinh đẻ là những kiêng kị và nghi lễ phức tạp” [27]. Người Mông

có nhiều nghi lễ liên quan đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh. Khi đẻ khó, người

Mông làm lễ cúng cầu “mẹ tròn, con vuông” gọi là lễ “đề ca sủa”. Thầy cúng

55

chặt đầu con chó, cho đầu con chó hướng lên trời để cắn ma nguyệt thực - loại

ma ăn trẻ con. Trong lễ cúng, ông thầy cúng gọi các lực lượng siêu nhiên về trợ

giúp, xua ma nguyệt thực.

Khi đứa trẻ sinh ra, rau thai nhi sẽ được chôn ở cột nhà chính (nếu đứa

trẻ là trai) với ý niệm con trai sẽ trở thành trụ cột gia đình. Nếu đứa trẻ là con

gái, rau thai nhi chôn ở gầm giường ngủ với niềm tin sau này con gái sẽ là

người nuôi dạy con cái, nội trợ giỏi. Trẻ sinh được 3 ngày, gia đình tổ chức lễ

“híp plì” (gọi hồn).

Đứa trẻ được một tuổi, người Mông làm lễ mừng tuổi cho con. Lễ vật là gà,

lợn. Ngày đầy tuổi, ông cậu sẽ tặng cháu một cây nỏ hoặc một khối sắt đủ rèn một

con dao với ý niệm mong cháu bé sẽ trở thành một chiến binh giỏi, thạo việc làm

nương. Nếu là bé gái, bà ngoại mừng cháu một cuộn chỉ thêu (có nơi là chiếc bút

đồng vẽ hoa văn sáp ong) mong cháu lớn lên thạo đường may vá. Lễ đổi tên lót

của người bố cũng được bố mẹ vợ đổi tên lót theo sở thích.

Trường hợp đứa trẻ hay ốm đau, gầy yếu, người Mông làm lễ nhận

bố nuôi “tua sảo” cho con, đồng thời đứa trẻ được lấy họ của bố nuôi đặt

thành tên đệm.

3.3.2. Nghi lễ đám cƣới

Lễ cưới của dân tộc Mông ở Võ Nhai gồm 3 nghi lễ chính: Lễ dạm hỏi,

lễ đưa đồ cưới và lễ cưới.

Sau khi thu hoạch vụ mùa xong, nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, nhờ

hai ông mối (người biết hát “Gầu xống”, thạo lí lẽ) thay mặt nhà trai sang

nhà gái dạm hỏi. Hai ông mối đem theo lễ vật gồm một đôi gà trống, mái và

một chai rượu, cầm ô đến nhà gái dạm hỏi. Khi đi đường, ô luôn cắp nách,

đầu ô quay về phía trước. Dọc đường đi, hai ông còn chú ý tránh các điểm

gở như gặp rắn...

Sau khi đến nhà gái, qua ít phút trao đổi đầu tiên, chủ nhà tỏ ý ưng thuận,

chủ nhà cho mời hai người đại diện họ hàng nhà gái tiếp chuyện. Họ hàng nhà

56

gái đồng ý, bố mẹ nhà cô gái lại cử hai ông mối nhà gái cùng thảo luận với hai

ông mối họ nhà trai. Ngôn ngữ giao tiếp đều chọn những lời hay ý đẹp. Các

ông mối làm lễ so tuổi, mổ gà xem chân gà, đoán biết tốt xấu.

Lễ cưới thường được tổ chức vào mùa đông, kiêng cưới vào mùa có

tiếng sấm. Lễ cưới gồm một hệ thống nghi lễ đón dâu “nhập môn”, liên hoan

mừng ngày cưới. Đoàn đón dâu khoảng từ 13 đến 17 người nhà trai sang nhà

gái (số người đi cùng đoàn phải là số lẻ) bao gồm hai “bố mẹ dẫn” hai vợ

chồng thuộc họ nhà trai (bằng vai với bố mẹ nhà trai), hai ông mối, chú rể, một

phù rể, một cô đón và một số bạn bè, người thân chú rể.

Lễ tiễn đưa dâu của nhà gái cũng được tổ chức trang trọng. Đúng giờ đưa

cô dâu sang nhà chồng, người anh ruột cô dâu (hoặc anh họ), có đủ vợ con, uy

tín, vào buồng cô dâu, dắt cô dâu ra khỏi buồng trao cho đại diện nhà trai. Cô

gái đón dâu của nhà trai xòe ô chờ đón cô dâu đi. Cô dâu òa khóc đi ra khỏi cửa

nhà. Hai ông mối nhà trai lấy hai bát rượu mời mẹ cô dâu. Lúc đó chú rể quỳ

lạy bàn thờ tổ tiên, quỳ lạy bố mẹ vợ và họ hàng nhà vợ. Quỳ lạy xong, chú rể

đi thẳng ra cửa chính. Họ hàng nhà gái đem rượu tiễn chân nhà trai. Họ mời đi

mời lại đầy lưu luyến.

Khi đoàn đón dâu về đến cửa thì cô dâu và cô đón dừng chân ở trước

cửa. Một ông chú nhà trai cầm con gà quay trên đầu cô dâu ba vòng, người

Mông quan niệm như vậy là nhập hồn cô dâu về nhà chồng. Từ đó, phần hồn

của cô dâu luôn được ma nhà chồng bảo vệ (che chở, không cho hồn cô dâu đi

đâu). Tối hôm đón dâu về, nhà trai tổ chức hát “gầu xống” suốt đêm.

Trang phục mà cô dâu chú rể mặc trong ngày cưới cũng không còn là y

phục cổ truyền như trước. Cô dâu vẫn mặc váy Mông, nhưng chú rể thì mặc Âu

phục. Cỗ bàn đám cưới đa số vẫn tự nấu. Các món ăn truyền thống của người

Mông trong đám cưới cũng không nhất thiết phải có trong mâm cỗ. Các đám

cưới nhìn chung được tổ chức đơn giản, gọn nhẹ hơn trước, nhưng vẫn giữ được

những nghi thức cơ bản và thuần phong mĩ tục. Đây là điều đáng khuyến khích

57

theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đề ra là xây dựng một nền

văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.

3.3.3. Nghi lễ tang ma

Quan niệm về hồn ma, cõi sống, cõi chết

Lễ tang của người Mông là một hiện tượng văn hóa đặc sắc, bao gồm

nhiều nghi lễ khác nhau, phản ánh về các quan niệm và lịch sử xã hội, về cộng

đồng dân tộc. Người Mông quan niệm thế giới gồm ba tầng: Tầng trên trời là

thế giới tổ tiên ở, tầng giữa là thế giới con người, tầng dưới lòng đất là địa

ngục, âm phủ. Theo quan niệm của đồng bào, con người có ba linh hồn (plì),

khi chết 3 linh hồn cũng đều lìa khỏi xác và đi ba nơi khác nhau.

- Linh hồn gốc đi sang thế giới tổ tiên và sống với hồn gốc của tổ tiên.

Nhưng hồn gốc gác mộ cũng thường xuyên liên hệ chặt chẽ với con cháu hay

phù hộ (hoặc quấy nhiễu con cháu), do đó con cháu phải cúng bái, làm lễ

cho hồn này.

- Linh hồn thứ hai, con người sau khi bay lên trời để thưa kiện với trời

rằng, tại sao người phải chết, linh hồn sẽ ở tầng giữa thế giới của trời.

- Linh hồn thứ ba sẽ đi đầu thai để sống ở trần gian. Nếu khi sống, con

người làm nhiều điều tốt hồn sẽ đầu thai làm người. Còn khi sống con người

làm nhiều điều ác như trộm cắp, loạn luân... thì linh hồn này sẽ đầu thai làm

con vật phục vụ cho con người như trâu, bò, chó...để con người hành hạ, trả

thù. Sau khi gột rửa hết tội lỗi mới được đầu thai sang kiếp người. Nhiều nghi

lễ tang ma liên quan đến quan niệm về ba thế giới, quan niệm về ba hồn.

Nghi lễ tang ma

Lễ chỉ đường “khúa kê”

Gia đình tắm và khâm liệm người chết. Có dòng họ cho người chết vào

trong quan tài. Người nhà đi mời ông “dở mổ” thầy cúng đến làm lễ chỉ đường

“khúa kê” . Vừa dùng bút chỉ đường “xin từ”, “giao tiếp” với người chết, thầy

cúng vừa đọc bài “khúa kê” hướng dẫn hồn tìm đường về với tổ tiên.

58

Khi ông đọc đến sự tích gà dẫn đường hồn người chết về với tổ tiên, người

nhà mang cả gà mới mổ còn nguyên lông, moi lòng gà ra ngoài hoặc cả con gà

sống để trong âu bột ngô về phía đầu người chết. Lễ chỉ đường là lễ thức rất

quan trọng. Đồng bào quan niệm phải có bài chỉ đường, linh hồn người chết mới

trở về được với tổ tiên. Vì vậy, một số gia đình nhà nghèo không cần làm ma, chỉ

làm lễ chỉ đường xong là có thể đem người chết đi chôn.

Lễ thổi kèn

Trong khi thầy “dở mổ” đọc “bài ca chỉ đường”, các thợ kèn, trống tiến

hành treo trống. Chiếc cột giả treo trống được dựng lên giữa nhà bằng cách

gác một cây trúc ngang qua xà nhà và một cọc trúc đóng thẳng xuống đất.

Trống được treo ngang chỗ cây trúc vắt ngang và cành trúc giao nhau. Đội

kèn trống thổi bài kèn tắt thở (đưa hồn người chết qua các con ma nhà như ma

buồng, ma cửa, ma cột cái chính, ma bếp, “xử ca”, “đá trùng”. Bài kèn tắt thở

với nội dung báo hiệu lời chào của hồn người chết và các ma trong nhà để đi

ra mộ, lên trời về thế giới tổ tiên. Bài kèn tắt thở có nội dung tương tự “bài ca

chỉ đường” .

Lễ viếng

Người Mông rất coi trọng lễ viếng. Người viếng tùy ân tình với người

chết mà đồ phúng viếng nhiều hay ít. Bình thường gồm một “sinh” ngô, 5 lít

rượu, giấy vàng, hương. Nếu người chết khi còn sống cho con gái một con trâu

thì con rể phải mang trâu đến viếng. Gia đình thông gia phía con gái thường

viếng hai con gà, một cây tiền “xù to” bằng giấy màu. Đoàn thông gia đến

viếng thường có đội kèn riêng. Gần đến nhà tang chủ, người thổi kèn của đoàn

rúc lên một hồi kèn lánh lót báo hiệu, người rước cây tiền giơ lên, giơ xuống

theo nhịp 2/4 của thanh la. Tiếng kèn của tang chủ vồn vã đáp lời. Đôi khi đội

kèn tang chủ còn thổi bài hỏi quan hệ của người đến viếng. Đoàn kèn viếng

phải thổi bài đáp lễ, thổi đúng mới được vào viếng. Khi viếng thổi bài báo cho

người chết đồ viếng của ai, gồm những gì.

59

Lễ “tàu sáng” (đưa người chết ra ngoài bãi)

Một số dòng họ không đưa người chết vào quan tài thì trước ngày đem

chôn, người ta đưa người chết đi “tầu sáng”. Vào lúc nửa đêm, tang chủ đem

toàn bộ tiền giấy, vàng, hương phúng viếng ra đốt lấy tro đổ vào một túi đem

theo người chết. Con cháu òa lên khóc vĩnh biệt. Thợ kèn thổi một bài dài nói

lên tình cảm của người đang sống với người chết. Trời vừa sáng, người chết

được đưa ra ngoài bãi đã làm sẵn chiếc sàn cao 1m. Người chết được đặt lên

sàn, đầu hướng về phía gia đình. Xung quanh người chết có dòng họ còn cắm 7

cành cây (nếu là nam) và 9 cành cây (nếu là nữ).

Lễ hạ huyệt

Chọn giờ tốt, thầy cúng cúng bài đưa người chết đi chôn, kèn trống nổi lên

thổi hai bài tiễn biệt. Những thanh niên khỏe mạnh trong ban tổ chức lễ tang

khiêng cáng người chết chạy nhanh như ngựa đến huyệt (người Mông quan niệm

cáng là ngựa nên khi bó người chết vào cáng có bài kèn lên ngựa). Đến huyệt

thầy cúng ngắt ba lá cỏ tranh làm động tác quét quan tài (với quan niệm cỏ tranh

có tác dụng xua ma trừ tà) sau đó mới đặt người chết vào quan tài. Người con

trưởng cầm cuốc lấp đất trước, sau đến mọi người cùng lấp. Trước khi lấp đất,

người ta mở nắp quan tài lấy đồng xu trong miệng người chết ra, mọi người nhìn

người chết lần cuối cùng. Khi trở về, tất cả những người khiêng quan tài tiếp xúc

với thân thể người chết đều phải rửa tay trong thùng nước đặt trước cửa nhà và

hơ tay trên bếp lửa, đó là dấu hiệu đề phòng hồn ma người chết bắt đi.

Lễ cúng cơm ba ngày “ma xi”

Người chết được ba ngày, gia đình tang chủ tổ chức lễ sửa lại mộ “sáo

chang”. Buổi tối tổ chức làm “ma xi”, nơi gần bàn thờ treo tấm ván nhỏ bày một

quả trứng, một cốc rượu, một chiếc nỏ. Ông chủ ma trịnh trọng khấn cầu các hồn

ma về nhận các đồ ăn (đầu trâu và 4 chân trâu được dành từ hôm trước).

Lễ tiễn đưa hồn “cho plì”

60

Người chết được 13 ngày, người Mông làm lễ “cho plì” lễ thả hồn tiễn

đưa hồn người chết đầu thai sang người khác. Nhưng trước khi đi, hồn sẽ trở về

thăm con cháu lần cuối và nhận lợn đi ăn đường. Do đó người Mông làm lễ đón

hồn và thả hồn đi. Có dòng họ dựng một cổng chào nhỏ đón hồn về ngay trước

cửa nhà. Trong nhà tổ chức lễ xua ma trước khi gọi hồn về. Phía ngoài cổng

chào, là một hình nhân đặt trên một chiếc mẹt để lên chiếc kiệu có bốn chân do

bốn thanh niên khỏe mạnh khiêng qua cổng. Hình nhân tượng trưng cho hồn

người chết về thăm nhà lần cuối, hình nhân được đi thăm nơi chôn nhau cắt

rốn, thăm các ma nhà (ma buồng, ma cột nhà chính, ma bếp, ma xử ca), cuối

cùng đặt hình nhân ở bàn thờ. Sau khi cúng lễ, ông chủ ma “chí dề” đem hình

nhân ra ngoài cổng chào, dỡ hình nhân (có dòng họ đốt hình nhân) khấn bài

tiễn đưa hồn về thế giới bên kia để đầu thai sang người khác. Sau đó, ông chủ

ma đẩy nghiêng chiếc mẹt đi, nếu chiếc mẹt ngửa, hồn sẽ đầu thai thành con

gái, nếu mẹt nghiêng thì đầu thai thành con trai.

Lễ “nhu đá” (ma trâu)

Sau khi bố mẹ chết, con cái trưởng thành có vợ, có con mới làm “nhu

đá” (ma trâu) cho người chết. Các nghi thức làm ma trâu tương tự như là ma

tươi (lúc mới chết). Tối hôm trước, tang chủ dựng một ngôi nhà nhỏ ở ngoài

trời và quan tài nhỏ. Tang chủ cắt một bộ quần áo bằng vải lanh nhỏ (nếu người

chết là cha) hoặc bộ váy áo nhỏ (nếu là mẹ) cho vào trong quan tài đặt trong

ngôi nhà nhỏ. Người ta còn làm hình nhân nam (nếu là bố đòi bò) hoặc là hình

nhân nữ (nếu là mẹ đòi bò). Trước khi cúng cũng buộc cổ trâu bằng sợi lanh dài

nối với tay hình nhân. Sau đó là mổ trâu (bò) luộc chín chia thịt thành các phần

tùy theo các họ. Số thịt chia cũng sắp theo hình một con trâu (bò). Làm ma trâu

khá tốn kém, làm một đêm, một ngày.

Ngày nay, trải qua nhiều cuộc vận động chính trị lớn, phong trào bài trừ

mê tín dị đoan, thực hiện nếp sống mới... đã tác động đến tư tưởng nhận thức

của đồng bào Mông ở Võ Nhai. Các thủ tục, nghi lễ rườm rà trong đám ma đã

61

giảm đi nhiều, đồng bào chỉ giữ thi thể trong nhà qua đêm để đảm bảo vệ sinh.

Lễ nhu đá hầu như chỉ những gia đình khá giả mới tiến hành, trong lễ này,

người ta cũng không mổ trâu để cúng mà chỉ mổ lợn để đỡ tốn kém.

3.4. Tín ngƣỡng, tôn giáo

Tín ngưỡng

Trong thế giới tâm linh của tộc người Mông, thờ cúng tổ tiên và các vị

thần có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó không chỉ thể hiện niềm tin, mà còn

là những hoạt động tín ngưỡng thiêng liêng của tộc người. Đặc biệt, thờ cúng tổ

tiên là thành tố vô cùng quan trọng, góp phần tạo dựng và bảo tồn văn hóa cội

nguồn của tộc người.

Thờ cúng tổ tiên là thờ cúng các cụ, ông bà, những người cùng họ đã

chết. Theo quan niệm của người Mông, việc thờ cúng tổ tiên không chỉ thể hiện

lòng biết ơn với những người đã khuất, mà còn là sự cầu mong, sự tạ lỗi, xin

tha thứ, tránh sự trừng phạt. Với họ, tổ tiên có vai trò to lớn, chi phối cuộc sống

hiện tại của bản thân và gia đình. Việc thờ cúng tổ tiên được người Mông thực

hiện vào các dịp lễ, tết.

Nơi thờ cúng tổ tiên của người Mông gọi là Cung Pox Xiêz, có nghĩa là

chỗ nghỉ chân của tổ tiên. Bàn thờ được đặt ở vị trí rất trang trọng ở gian giữa

nhà, nhìn ra cửa chính, cao 2m so với mặt đất. Bàn thờ được biểu thị bằng 3

mảnh giấy mầu hoặc vải mầu vàng hình chữ nhật. Không có bát hương, khi

thắp hương họ có thể cắm ngay vào vách nhà. Hiện nay, do cấu trúc nhà cửa và

sự giao lưu với các tộc người khác, họ đã sử dụng bát hương để thuận tiện

trong việc thờ cúng. Nơi thờ cúng tổ tiên là khu vực linh thiêng, nên phụ nữ

không được đến gần (thể hiện tính phụ quyền cao), chỉ có nam giới, thầy cúng

mới được đến gần nơi thờ cúng tổ tiên.

Tín ngưỡng bao trùm của người Mông là “vạn vật hữu linh”. Người

Mông cũng như những tộc người khác, từ xa xưa không vượt ra ngoài khuôn

62

khổ của tư duy đa thần. Trong tâm thức của họ đã hình thành quan niệm mọi

vật đều có linh hồn, đều có thần làm chủ tức là “vạn vật hữu linh”.

Đối với người Mông, Trời là vị thần tối linh nhất, quyền năng nhất trong

thế giới thần linh, Trời ngự trị và chi phối cõi giới và muôn loài. Điều này xuất

phát từ quan niệm về vũ trụ. Người Mông cho rằng, sự xuất hiện của đất đai,

sông núi, biển cả đều do đấng tối cao là Trời tạo ra.

Ngoài Trời ra, người Mông không xếp thần linh theo một thứ bậc nào, vì

các vị thần trong thế giới thần linh đều bình đẳng và nó chỉ trở nên quan trọng, cần

thiết vào chính thời điểm mà người ta cần đến vị thần đó [22]. Chẳng hạn như lúc

hạn hán, cây cối mùa màng bị thiêu đốt thì thần nước, thần sông, thần núi trở nên

quan trọng nhất. Lúc đó, bản Mông sẽ cử già làng và thầy cúng ra cầu cúng những

nơi có nước. Nơi nào là nguồn nước thì thần nước ở đó là to nhất, thiêng nhất. Lễ

cúng có khi kéo dài tới mấy ngày. Lễ vật thường là gà, rượu, lợn; có khi là bò, dê,

trâu được giết lấy máu hòa vào rượu để cúng thần rồi vẩy ra bến bãi, vẩy lên trời

để cầu mưa, cầu nước. Nếu có nước, được mùa dân bản sẽ làm lễ cúng thần lúa,

thần nước để tỏ lòng biết ơn với các thần.

Với quan niệm vạn vật hữu linh, mỗi vật tồn tại đều là một thực thể, từ

cái cây, hòn đá, các con vật, những vật vô tri vô giác như rừng núi, sông

suối…đều có linh hồn, người Mông gọi là “cái ma” (đá chỏ). Điều này thể hiện

rất rõ trong sinh hoạt của người Mông. Vào ngày 30 Tết, người chủ gia đình lấy

giấy đỏ dán vào tất cả các vật dụng trong nhà, cũng như công cụ lao động từ cái

cày, cái cuốc đến chiếc cối xay với ngụ ý cho đồ vật nghỉ ngơi ăn Tết; mọi con

vật khi mua về nuôi đều có một nén hương, bát nước và một miếng vải đỏ buộc

vào chuồng nơi con vật ở.

Người Mông cũng rất kiêng kị việc mắng tục, chửi rủa đồ vật, dụng cụ

trong nhà và công cụ lao động vì như vậy là xúc phạm đến thần chủ của vật đó,

làm cho các thần không phù hộ, làm ăn sẽ bị lụn bại. Phần “thực” và phần

“hồn” có trong con người, trong các loài vật, các vật thể trong thiên nhiên.

63

Trong đó, quan niệm về phần “hồn” đã được tạo ra ở mỗi người và cộng đồng

người Mông một đời sống tâm linh phong phú nhưng cũng rất phức tạp.

Đối với con người, quan niệm về linh hồn được thể hiện qua các phong

tục ma chay, cưới xin, sự giao lưu giữa những người đang sống và những người

đã chết. Người Mông quan niệm con người có phần xác và phần hồn; trong một

con người có nhiều hồn và được chia thành các hồn trú ẩn ở những nơi cụ thể,

như hồn tiềm ẩn trong con người có loại nằm ở tim, có loại nằm ở vai, có loại

nằm ở đầu. Khi hồn lìa khỏi xác cũng có nghĩa là chết, hồn tồn tại vĩnh hằng

trong không gian, thời gian và có thể đầu thai ở kiếp sau.

Thông thường, sau một năm làm ăn vất vả, mỗi gia đình tự chọn lấy một

ngày tốt để làm lễ gọi hồn (huplì) chung cho gia đình. Lễ gọi hồn có thể mời

thầy cúng đến nhà, hoặc do một người lớn tuổi đứng ra chủ trì, ưu tiên gọi hồn

trước hết cho người nào trong gia đình hay bị đau yếu. Ngày làm lễ cúng

thường được chọn vào đầu tháng.

Cũng từ quan niệm vạn vật hữu linh, người Mông còn có thể nhận một

gốc cây to hoặc một tảng đá nào đó làm bố nuôi đứa trẻ. Bố mẹ của đứa trẻ

mang gà, rượu, hương và cõng đứa trẻ đến chỗ gốc cây, tảng đá để làm lễ khấn

thần cây, thần đá phù hộ cho đứa trẻ khỏe mạnh, chóng lớn; tiếp đến xin một

đoạn dây buộc vào cổ đứa trẻ rồi lại quấn quanh gốc cây, tảng đá ấy; sau đó

mới bện lại và buộc vào cổ cho con mình. Làm như vậy là vì họ tin rằng gốc

cây, tảng đá là những tạo vật vững chắc cũng có hồn, có thần làm chủ, có thể

hiểu được tiếng người nên mới trao đổi được ước nguyện như vậy.

Điều đáng chú ý trong đời sống tín ngưỡng của người Mông là dù rất tin

vào thần linh, nhưng lại không lập đền thờ thần và thực tế điền dã cho thấy

không có một đền thờ thần nào. Điều này được giải thích rằng, vì hệ thần linh

của người Mông quá đông đúc và phức tạp, thần linh có mặt ở tất cả các loài từ

cỏ cây, sông suối đến nhà cửa nên không thể lập đền thờ thần này mà không lập

đền thờ thần khác.

64

Tôn giáo:

Hiện nay trên địa bàn huyện có 3 tôn giáo chính là Phật giáo, Công giáo

và Đạo Tin Lành. Trong cộng đồng người Mông vẫn tồn tại nhiều hình thức tôn

giáo sơ khai vốn xuất hiện từ thời mạt kì nguyên thủy.

Tô tem giáo: Là hình thức tôn giáo cổ sơ nhất, thể hiện niềm tin của con

người vào mối liên hệ gần gũi, huyết thống giữa một nhóm người với một loại

động vật, cây cỏ, hay một hiện tượng nào đó. Trong 5 đặc trưng của tô tem (biểu

tượng về tô tem, huyền thoại về vật tổ, tục kiêng cữ không ăn vật tổ, nghi lễ liên

quan đến tô tem, niềm tin tái sinh sau khi chết sẽ trở lại kiếp của tô tem), thì

người Mông ở Võ Nhai chỉ còn 3 đặc trưng: Huyền thoại về vật tổ, tục kiêng ăn

và niềm tin tái sinh. Nhưng các đặc trưng này cũng chỉ thấy biểu hiện mờ nhạt,

không có tính hệ thống và mang tính dòng họ. Có lẽ đây chỉ là những mảnh còn

rơi rớt lại của tô tem giáo ở vùng người Mông. Ví dụ: khi điền dă đến xóm Lân

Vai, tác giả thấy họ Lý kiêng ăn thịt chó vì cho rằng con chó là họ hàng với dòng

họ mình.

Bái vật giáo và vật linh giáo:

Bái vật giáo là lòng tin về một thuộc tính siêu nhiên của những sự vật

như hòn đá, gốc cây, là bùa, tượng... Nó là sự thổi phồng, phóng đại những tính

năng thực tế của đồ vật và gán cho đồ vật đó những khả năng siêu phàm, trở

thành vật thiêng, được bảo vệ và giữ gìn một cách đặc biệt. Hơn nữa, các đồ vật

đó còn được coi là đối tượng để con người cầu xin, được đưa vào nghi lễ để

giúp cho con người đạt được những gì mà họ mong muốn.

Vật linh giáo là lòng tin ở linh hồn, xuất hiện khi con người có khả

năng hình thành những khái niệm về thế giới siêu linh, thế giới bên kia. Nhân

cách hóa và thần linh hóa là đặc trưng của Vật linh giáo. Vật linh giáo với

người Mông ở Võ Nhai biểu hiện rất phong phú, như việc họ thực hiện nghi lễ

cúng nương gọi hồn lúa, hồn ngô vào dịp mùng 3 tháng 3 âm lịch, thầy thuốc

65

trước khi lấy thuốc phải cúng thần cây để mong cho người bệnh mau khỏi sau

khi dùng thuốc...

Sa man giáo là hình thức tín ngưỡng nguyên thủy thể hiện niềm tin của

con người vào khả năng tác động đến các hiện tượng tự nhiên bằng những hành

động tượng trưng như cầu khẩn, phù phép, thần chú... Người ta quan niệm

rằng, bằng những hành vi ấy, con người có thể tác động đến vật thể hoặc đối

tượng nhất định để đạt được kết quả mà mình mong muốn. Sa man giáo còn thể

hiện khá nhiều trong cộng đồng người Mông, nhưng tiêu biểu là các hoạt động

của thầy mo.

Thầy mo tuy không phải là một nghề chuyên biệt nhưng trong quan niệm

của người Mông, đó là người nối liền xã hội với thần linh nên được mọi người

tôn kính. Thầy mo tiến hành mọi hoạt động có tính chất tín ngưỡng ở các dịp

cúng lễ trong chu kì đời người, từ lúc sinh ra, lúc ốm đau, cho đến khi chết. Công

cụ chủ yếu của thầy mo là dụng cụ âm dương, được làm từ hai mảng sừng trâu

hoặc bò; một đôi nhạc ngựa bằng đồng, một chiếc vòng lắc, một chiếc thanh la.

Trang phục của thầy mo rất đơn giản, ăn mặc như mọi người bình thường, chỉ

khác là có trùm một tấm khăn màu đỏ che kín đầu khi lên đồng. Trước khi lên

đồng, thầy mo ngồi trên một chiếc ghế, tay chân nhún nhẩy theo điệu nhạc ngựa,

cầm thanh la nhảy múa, miệng lẩm bẩm các bài cúng. Họ tin mình có khả năng

giao tiếp với thần linh, như là trông thấy, nghe thấy sự phán xét của thần linh.

Thầy mo còn dùng hiện tượng ma thuật, yểm bùa, phù phép chống lại sự làm hại

để bảo vệ gia đình, yểm bùa tình yêu...

Ở Võ Nhai hiện nay, đa số người Mông theo đạo Tin Lành (tiếng Mông

gọi là Zềnh Vàng Chứ) thông qua các hoạt động truyền đạo khoảng đầu thế kỉ

XXI. Một số người Mông từ Tuyên Quang xuống truyền đạo, sau hơn 10 năm,

hoặc công khai hoặc bí mật, đạo Tin Lành đã có mặt ở Võ Nhai. Tại đây có 15

điểm nhóm với tổng số 2.629 tín đồ, trong đó 13 điểm nhóm (gồm các xóm

Lũng Hoài, Lũng Luông, Lũng Cà, An Thành (xã Thượng Nung); xóm Chòi

66

Hồng (xã Tràng Xá), xóm Mỏ Chì (xã Cúc Đường), xóm Khuổi Mèo (xã Sảng

Mộc), khu Lũng Then của xóm Ngọc Sơn I, xóm Xuyên Sơn (xã Thần Xa), khu

Lân Thùng của xóm Đồng Dong (xã Phương Giao), xóm Lân Vai (xã Dân

Tiến), xóm La Mạ (xã Lâu Thượng), xóm Khuôn Ngục (xã La Hiên) được

UBND xã cấp giấy chứng nhận sinh hoạt, có sự phối hợp với chính quyền cấp

xã và đăng kí các nội dung hoạt động đầy đủ theo quy định. Trong các điểm

nhóm này có 8 Trưởng điểm nhóm được phong phẩm là Truyền đạo, có thông

báo và đăng kí hoạt động tôn giáo do Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam miền

Bắc đăng kí cho chức sắc. Còn lại 2 điểm nhóm chưa có sự phối hợp và đăng kí

sinh hoạt với UBND cấp xã là nhóm Tin lành Liên hữu Cơ đốc và nhóm Tin

lành Việt Nam miền Bắc tại khu Làng Ươm của xóm Bắc Phong, xóm Tân

Tiến, xã Dân Tiến. Hiện nay, UBND huyện đang tiếp tục phối hợp với các cơ

quan chức năng và UBND xã Dân Tiến hướng dẫn các điểm nhóm này lập hồ

sơ cấp đăng kí sinh hoạt theo quy định của pháp luật [43].

Ngoài 3 tôn giáo có tư cách pháp nhân nêu trên, từ cuối năm 1989, trên địa

bàn huyện Võ Nhai xuất hiện một thứ tà đạo, do Dương Văn Mình cầm đầu.

Lợi dụng sự lạc hậu, mê tín của một bộ phận đồng bào Mông, Dương

Văn Mình cùng đồng bọn đã lôi kéo đồng bào đi ngược lại chủ trương chính

sách của Đảng. Chúng dụ dỗ, lừa bịp hoặc ép buộc bà con đồng bào người

Mông quay trở về với những phong tục cổ hủ, như để xác chết người thân trong

nhà 7 ngày; xây dựng các công trình trái phép lấn át các công trình văn hóa.

Bọn cầm đầu còn lừa bịp bà con dân tộc Mông bỏ nhà cửa, nương rẫy để đi

theo chúng thành lập "vương quốc" Mông.

Năm 2000, Dương Văn Mình, ra mắt quần chúng cái gọi là tín ngưỡng

Dương Văn Mình, lập nên các “nhà đòn” để đồ cúng lễ cho người chết. Nhà

đòn là gian nhà nhỏ làm bằng gỗ, tre, rộng vài mét vuông dựng ở những bản

làng người Mông, bên trong có đặt bốn thứ: một con cóc - thay cho cái trống,

một con ve sầu - thay cho cái khèn, một con chim én - để khiêng người chết ra

67

đồng và một cây thánh giá - thay cho cái nỏ. Khi trong bản làng có người chết

thì những đồ này được mang tới nhà tang chủ để làm lễ tâm linh - một nghi lễ

chưa từng có trong lịch sử sinh hoạt văn hóa cộng đồng người Mông.

Các đệ tử đạo Dương Văn Mình vận động bà con phá bỏ bàn thờ tổ tiên,

hằng ngày đến “nhà đòn” cầu nguyện, hoặc nghe chúng tuyên truyền về nước

Mông. “Nhà đòn” thực chất là cơ sở tôn giáo trái phép lập ra để cạnh tranh với

nhà văn hóa, các công trình văn hóa do chính quyền địa phương và bà con xây

dựng nên. Những tuyên truyền của tà đạo nhằm phá vỡ những tiến bộ không

chỉ trong kinh tế, xã hội, mà cả về văn hóa của người Mông.

Được sự quan tâm, tuyên truyền của chính quyền các cấp, đến nay, đồng

bào Mông trên địa bàn huyện Võ Nhai đã nhận thức được bản chất của tổ chức

bất hợp pháp Dương Văn Mình, nhiều hộ đã không theo, tập trung vào làm

kinh tế. Tính đến năm 2015, trên địa bàn huyện chỉ còn một điểm nóng về tín

ngưỡng này là Lân Thùng, xóm Đồng Giong, xã Phương Giao. Mặc dù chính

quyền địa phương đã tuyên truyền, có những chính sách phát triển kinh tế, xã

hội nhưng đồng bào nơi đây vẫn lén lút lập nhà đòn để tổ chức hoạt động trái

phép về chính trị dưới vỏ bọc là tôn giáo.

3.4 . Văn nghệ dân gian

Người Mông có vốn văn nghệ dân gian lâu đời và khá phong phú về nội

dung cũng như thể loại (dân ca, tục ngữ, ca dao, truyện... và các loại nhạc cụ),

mang sắc thái riêng của tộc người.

Dân ca của người Mông khá mộc mạc, giản dị, dễ hiểu, chân thực nhưng

cũng rất lãng mạn. Người Mông hát dân ca ở bất kì chỗ nào mà họ cho là thích

hợp, như trong đám cưới, trên nương,... Dân ca Mông phản ánh cuộc sống sản

xuất và văn hoá. Nổi tiếng có các làn điệu mộ nha (đi làm dâu), cú nhe ca (yêu

nhau), mộ úc cong (đi nương)...

Tiếng hát trong tình yêu (hát giao duyên) là thể loại dân ca phong phú

nhất, đa dạng nhất của tộc người Mông, là tiếng nói trái tim của các chàng trai

cô gái Mông: Em ơi! xuân đến rồi / Chúng mình xuống chợ vui / Gặp em đây

68

anh muốn hỏi/Thấy em đẹp, ăn gì mà xinh thế?/ Anh ơi! Năm nay là năm

tốt/Ông trời xui em gặp anh/Nếu mùa hoa lê nở/Chúng mình lại đi chơi [4];

hoặc ca ngợi sự khéo léo, chăm chỉ của người con gái Mông: Lớn lên em theo

mẹ đi tập thêu/Thêu chỉ nhuộm chàm in hoa trên váy mới/ Gái đẹp không biết

làm lanh cũng xấu/Gái xinh không biết cầm kim cũng hư [8].

Cũng như bao tộc người anh em khác, tục ngữ Mông là kho tàng tri thức

về kinh nghiệm sống của đồng bào trong lịch sử, phản ánh ba nội dung: Kinh

nghiệm sản xuất, mối quan hệ xã hội, lối sống cùng những ứng xử của đồng

bào. Khi đi điền dã ở Thượng Nung, tác giả được nghe câu nói cửa miệng của

nhiều người Mông: “Muốn ăn thì hỏi hai tay". Họ cũng có những câu ca nói lên

sức mạnh của đoàn kết như: Một chân đứng không vững/Một tay vỗ không

vang.

Âm nhạc của người Mông nổi tiếng với nhiều loại nhạc cụ khác nhau,

chủ yếu là nhạc hơi với nhiều loại khèn, kèn và sáo. Khèn bao gồm hai loại

chính: khèn 6 ốp, gọi là khèn canh và khèn đơn ống, gọi là tra li lầu; trong đó

khèn 6 ốp được dùng phổ biến hơn. Trong tộc người Mông ở Võ Nhai hiện nay,

có một số người biết thổi khèn và biết cách chế tạo ra loại khèn này. Khèn được

thổi trong hội xuân, trong biểu diễn văn nghệ và trong cả đám tang. Sáo có hai

loại: Sáo thổi ngang và sáo thổi dọc. Sáo làm bằng ống trúc, dài khoảng 50 -

60cm, đường kính khoảng 2cm. Sáo thổi dọc với âm điệu trầm bổng được các

chàng trai Mông dùng để gọi, rủ người yêu. Kèn có hai loại: Kèn lá và kèn môi

(đàn môi). Kèn lá là nhạc cụ đơn giản và rất độc đáo, người thổi chỉ cần một

chiếc lá rộng 3 - 4 cm, dài 7 - 8 cm cặp vào giữa môi, khi thổi dùng môi, lưỡi

và hơi điều khiển. Khi thổi, kèn phát ra âm thanh nhỏ nhưng réo rắt. Kèn môi

(đàn môi) chủ yếu người Mông Hoa hay sử dụng.

Bên cạnh các nhạc cụ trên còn có các loại nhạc cụ chuyên sử dụng trong

các loại nghi lễ, như thanh la, trống và chuông.

69

3.5. Lễ hội và trò chơi dân gian

3.2.5.1. Trò chơi dân gian

Người Mông có nhiều trò chơi dân gian, như pá mò ma (tung còn), o chu

đi mua (bịt mắt bắt dê), đánh cù (đánh quay). Tung còn là trò chơi của nam, nữ

thanh niên trong các phiên chợ tình. Nam, nữ đứng thành hai hàng đối diện

nhau, vừa tung còn cho nhau đón, vừa hát giao duyên. Còn bao gồm quả còn và

đuôi còn. Quả còn hình lục thể, khung tre, bọc vải ngũ sắc, có tua ngũ sắc, nặng

gần 100g. Đuôi còn nối với quả còn làm bằng dây mềm, ở cuối đuôi còn cũng

có tua ngũ sắc.

Đánh quay là trò chơi của trẻ em. Đồ chơi gồm con quay và dây quay.

Con quay làm bằng gỗ nặng hình chum, có mấu ở đầu quay và đinh đóng ở đáy

quay. Dây quay làm từ dây gai hoặc dây rừng dài chừng 1,5 - 2m dùng để quấn

vào con quay khi đánh. Quay càng tròn, dây quấn càng chặt thì khi đánh con

quay càng tít và quay được lâu. Số người chơi có thể nhiều, nhưng ít nhất là hai

người. Thể lệ là tất cả cùng quay con quay một lúc, con quay của ai quay tít và

quay lâu thì người đó thắng.

3.2.5.2. Lễ hội dân gian

Không như các tộc người khác ở Võ Nhai, tộc người Mông có rất ít lễ

hội. Trong năm, họ có một số lễ, tết cơ bản sau:

- Tết Nguyên đán

Người Mông có một hệ lịch riêng, theo nhận định của các nhà nghiên

cứu, có lẽ họ tiếp thu cách tính lịch của dân tộc Di (Trung Quốc). Theo đó, Tết

của họ vào khoảng cuối tháng 11, đầu tháng 12 âm lịch. Tuy nhiên, ngày nay

các vùng người Mông đã ăn Tết Nguyên Đán như người Kinh. Ngày 25, 26

tháng Chạp, người Mông bắt đầu nghỉ ngơi, chuẩn bị đón Tết. Họ niêm phong

tất cả các công cụ sản xuất lại, dán một tờ giấy bản lên nhằm "trả công” cho

những thứ đó vì đã giúp họ làm ăn sinh sống và mong cho năm mới may mắn;

sau đó làm lễ với gà, bánh ngô, rượu.

70

Trước đây, người Mông không gói bánh chưng, ngày nay có gói; nhưng

không nhất thiết phải có trong bữa cỗ Tết của họ. Với người Mông, ba món

không thể thiếu là thịt, rượu và bánh ngô. Khoảng 1- 2 giờ sáng ngày mùng

Một Tết, chủ nhà sẽ mổ hai con gà (một con lông màu nâu hồng, một con lông

màu trắng) để lấy lông dán vào bàn thờ tổ tiên và cúng, mời tổ tiên về ăn tết với

con cháu. Riêng con gà mầu trắng thì phải mổ giữa nhà, vì theo quan niệm của

họ, làm như vậy là để bảo vệ ngôi nhà cho vững chắc. Sau khi cúng xong, chủ

nhà sẽ xem một số bộ phận của con gà vừa cúng, như lưỡi, chân, các lỗ ở

xương đùi… để đoán định những điều tốt, xấu có thể xảy ra đối với việc làm

ăn, sức khoẻ của các thành viên trong gia đình. Từ mồng Một trở đi, họ mặc

quần áo đẹp đi chơi xuân. Người Mông ở Võ Nhai ăn Tết rất dài ngày. Họ ăn

uống, chúc tụng và trò chuyện cả ngày, nhiều khi còn kéo dài đến tận đêm

khuya để sáng hôm sau lại cùng nhau sang nhà khác. Cứ như thế cho đến hết

Tết. Cuộc vui năm mới thường kéo dài đến mồng 5 Tết. Ngày đầu năm mới

thường kèm theo một số kiêng kị nhất định, như không quét nhà, không đổ

nước vào bếp vì cho rằng làm như vậy năm mới mưa nắng sẽ không thuận,

cuộc sống sẽ bấp bênh, ăn cơm mới không được chan canh vì sợ mưa nhiều... Ở

một số gia đình những kiêng kị này vẫn giữ cho đến bây giờ.

Tết Nguyên Đán còn là dịp sinh hoạt cộng đồng của người Mông. Mỗi

bản thường có một nơi chơi Tết và tổ chức các trò chơi, ca múa. Nơi đó thường

là nhà văn hóa có chỗ đất bằng phẳng. Đồng bào sẽ tổ chức các trò chơi, giải trí

mang đậm truyền thống văn hoá: Chọi gà, chọi chim, đấu vật, đẩy gậy, đánh

quay, ném quả Pao, múa khèn, hát giao duyên... Cuộc vui cứ kéo dài từ ngày

này ngày khác cho đến khi hết Tết.

Tết mùng 5 tháng 5

Là Tết được tổ chức để mừng cho cây lúa, cây ngô đã trưởng thành, sắp

trổ bông. Vào dịp này, đồng bào Mông tổ chức ăn uống vui vẻ nhưng lại kiêng

đi thăm nương, thăm lúa. Theo quan niệm của đồng bào Mông, vào ngày mùng

5 tháng 5, các nàng ngô, nàng lúa đi làm dâu, đi lấy chồng. Sự yên tĩnh trên

71

nương là cần thiết cho “hôn lễ” của các nàng ngô, nàng lúa cho hạt ngô, hạt

thóc chắc mẩy, mùa màng bội thu.

Tết rằm tháng Bảy

Ở Võ Nhai, đồng bào thường ăn Tết vào ngày 14 tháng 7 âm lịch. Vào

dịp này, người Mông đốt vàng mã cho tổ tiên; có nhà còn đốt quần áo giấy với

quan niệm làm vậy tổ tiên sẽ nhận được nhiều tiền và no đủ.

Lễ hội Gầu tào

Nói đến Tết của người Mông, không thể không nói đến một lễ hội gọi là hội

Sải Sán hay Gầu tào (hội cầu phúc). Một gia đình trong làng, nếu hay đau ốm hay

chậm có con thì mùng 2 đi dựng một cây nêu lớn ở bãi cỏ đầu làng. Hội này tiếng

là do một gia đình tổ chức (gia đình đó gọi là chủ nêu) nhưng thật ra đó là một lễ

hội của cộng đồng, thậm chí khi làng này dựng nêu, làng khác cũng đến dự hội.

Hội Gầu tào nhằm tạ ơn tổ tiên về mùa màng, súc vật; cầu cho con cháu đông đàn.

Đây là lễ hội lớn nhất của người Mông trong năm và nó thể hiện rõ nhất những

đặc trưng văn hoá Mông trong ngày Tết. Trong lễ hội này, sau phần lễ là hát giao

duyên và các trò chơi yêu thích của người Mông như vừa kể trên.

Lễ hội Nào sồng

Lễ hội nào sồng (lễ ăn ước hay ăn hội) được tổ chức trong từng bản, vào

đầu năm mới. Người Mông quan niệm ngày Thìn (ngày con rồng) là ngày tốt để

thực hiện nghi lễ này. Vì vậy hằng năm, vào ngày Thìn, các bản đều tổ chức họp

hội. Người tổ chức lễ Nào sồng là Trưởng bản. Những người được dự lễ hội là

chủ gia đình các hộ trong bản. Nếu chủ gia đình bị ốm hay đau yếu thì vợ và con

trai đi thay. Lễ Nào sồng được diễn ra theo trình tự: cúng thổ thần của bản, bàn

bạc công việc của bản và bầu người hội mới. Những người đến dự lễ lần lượt

uống một bát rượu thề thực hiện quy ước đã thống nhất thông qua tại lễ hội.

Lễ Nào sồng rất có ý nghĩa đối với người Mông. Các quy ước của bản đề

ra được coi là thước đo chuẩn mực đạo đức của mỗi thành viên, góp phần duy

trì trật tự xã hội, củng cố tính cố kết cộng đồng trong phạm vi một bản, dòng họ

72

và gia đình. Hiện nay ở Võ Nhai, lễ hội này thường được tổ chức cùng ngày

Hội Đại đoàn kết toàn dân (18/11).

Tiểu kết chƣơng 3

Người Mông ở Võ Nhai có một đời sống văn hoá rất phong phú và mang

đậm bản sắc truyền thống của tộc người. Định cư, xen cư với các tộc người khác

ở vùng đất mới tại huyện Võ Nhai không làm mất đi những nét đặc trưng vốn có

trong đời sống văn hoá của người Mông, bao gồm cả những yếu tố tích cực và

lạc hậu. Trong điều kiện phát triển của văn hoá đang thay đổi hiện nay, văn hoá

vật chất và văn hoá tinh thần của người Mông ở Võ Nhai cũng đang dần biến đổi

và có mối quan hệ mật thiết với đời sống kinh tế của đồng bào. Kế thừa và phát

huy những tinh hoa văn hoá tộc người, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn

hoá nhân loại sẽ là điều kiện quan trọng giúp người Mông ở Võ Nhai nâng cao

chất lượng sống cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, góp phần xây dựng nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

73

KẾT LUẬN

Qua việc nghiên cứu đời sống kinh tế - văn hoá của tộc người Mông ở

huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975 đến năm 2015, tác giả Luận văn

rút ra một số kết luận sau:

1. Võ Nhai là một huyện nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Thái Nguyên,

cách trung tâm thành phố 32km theo Quốc lộ 1B. Địa hình phức tạp chủ yếu

là đồi núi dốc và núi đá vôi, là cửa ngõ thông thương giữa Thái Nguyên với

Bắc Sơn và Hữu Lũng (Lạng Sơn). Cùng với Phú Lương và Đồng Hỷ được

chọn là một trong những điểm di cư đầu tiên của người Mông từ Cao Bằng

đến từ năm 1975, đặc biệt khi chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra năm

1979. Những xã có địa hình núi đất xen lẫn núi đá vôi như Dân Tiến,

Thượng Nung, Nghinh Tường, Sản Mộc được chọn là những nơi cư trú của

đồng bào Mông ở Võ Nhai.

2. Từ những đặc điểm của địa bàn cư trú, đặc điểm tộc người và những

tập quán sản xuất, người Mông ở Võ Nhai đã xây dựng cho mình một đời sống

kinh tế phong phú; trong đó trồng trọt đóng vai trò trung tâm. Cây lương thực

chủ yếu là lúa và ngô được đồng bào Mông canh tác dựa trên những tập quán

sản xuất truyền thống của tộc người mình, đồng thời tiếp thu những tri thức sản

xuất của các tộc người cùng sinh sống trên địa bàn và những tiến bộ mới trong

sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, đồng bào còn chăn nuôi gia súc, gia cầm

nhằm phục vụ cho sản xuất và đời sống sinh hoạt. Nhiều ngành nghề thủ công

vẫn tiếp tục được duy trì, song đã có tiếp thu có chọn lọc những tri thức mới

trong sản xuất. Hoạt động khai thác sản phẩm tự nhiên vẫn tiếp tục được duy trì

chủ yếu là khai thác các loại cây dược liệu. Trao đổi hàng hoá đã phát triển do

sản phẩm được làm ra không còn hoàn toàn mang tính tự cung tự cấp như

trước, mà đã trở thành hàng hoá, như nấu rượu, thịt gia súc, gia cầm.

Sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và áp dụng những thành tựu

khoa học kĩ thuật đang làm thay đổi cuộc sống của đồng bào Mông ở Võ Nhai.

74

Tuy nhiên, nền kinh tế của người Mông ở Võ Nhai hiện nay vẫn là nền kinh tế

kém phát triển, tỉ lệ hộ nghèo còn cao.

3. Văn hoá của người Mông ở Võ Nhai bao gồm văn hoá vật chất và văn

hoá tinh thần vẫn giữ được bản sắc truyền thống tộc người từ cái mặc, cái ăn,

cái ở đến tổ chức xã hội, làng bản, dòng họ, hôn nhân, gia đình, tín ngưỡng, tôn

giáo, phong tục tập quán, gắn chặt với cuộc sống thường ngày của đồng bào.

Cùng với sự đổi thay trong đời sống kinh tế, văn hoá của người Mông ở Võ

Nhai cũng đang có nhiều nét mới.

Văn hoá vật chất của người Mông ở Võ Nhai mang đậm bản sắc truyền

thống tộc người với những tập quán trong ăn, mặc, ở giản dị, phù hợp với điều

kiện địa bàn cư trú. Những nét tiến bộ mới đã xuất hiện do tác động trực tiếp từ

đời sống kinh tế của đồng bào. Bên cạnh yếu tố tích cực, sự tiếp thu những thói

quen sinh hoạt mới, cách ăn mặc mới... cũng đang báo động nguy cơ đánh mất

trang phục truyền thống của người Mông nói riêng và các tộc người thiểu số

khác ở Võ Nhai.

Trong xã hội của người Mông, thiết chế dòng họ vẫn đóng vai trò

quan trọng. Dòng họ vẫn là nơi tạo ra mối quan hệ của các thành viên trong

cộng đồng và làng bản. Đó cũng là lí do khiến người Mông ở Võ Nhai trở

thành một cộng đồng thiểu số có sự ràng buộc, gắn kết và đoàn kết rất cao

ở địa phương.

Tôn giáo tín ngưỡng của người Mông ở Võ Nhai vẫn giữ những nét

truyền thống với quan niệm về ba tầng thế giới, tầng trên cùng là nơi trú ngụ

của thần linh, tầng giữa là nơi trú ngụ của con người và tầng dưới là lòng đất.

Vì vậy, thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng đa thần vẫn rất phổ biến trong đồng bào.

Tuy nhiên, từ năm 1989, trên địa bàn huyện Võ Nhai xuất hiện một thứ tà đạo,

do Dương Văn Mình cầm đầu. Lợi dụng sự lạc hậu, mê tín của một bộ phận

đồng bào Mông, Dương Văn Mình cùng đồng bọn đã lôi kéo đồng bào đi

ngược lại chủ trương chính sách của Đảng, gây nên những bất ổn về chính trị,

75

an ninh. Được sự tuyên truyền của chính quyền các cấp, đến nay, đồng bào

Mông trên địa bàn huyện Võ Nhai đã nhận thức được bản chất của tổ chức bất

hợp pháp Dương Văn Mình, nhiều hộ đã không theo, tập trung vào làm kinh tế.

Tính đến năm 2015, trên địa bàn huyện chỉ còn một điểm nóng về thứ tôn giáo

này là Lân Thùng thuộc xóm Đồng Giong, xã Phương Giao.

Các nghi lễ trong chu kì đời người rất phong phú, mang đậm giá trị văn

hoá và ít biến đổi phản ánh trình độ văn hoá và hiểu biết của đồng bào Mông ở

Võ Nhai. Sự duy trì một cách khá bền vững những nghi lễ trong chu kì đời

người đã chi phối mạnh mẽ nếp sống, hoạt động kinh tế và sự hình thành nhân

cách của các thành viên trong cộng đồng người Mông.

Người Mông ở Võ Nhai có nền văn nghệ dân gian khá phong phú, mang

đậm tính nhân văn và bản sắc tộc người. Âm nhạc và trò chơi dân gian mang

đậm tính cộng đồng và là cầu nối giúp người Mông hoà nhập vào cộng đồng

các tộc người ở Võ Nhai. Tuy nhiên, nền văn nghệ dân gian trên đang đứng

trước nguy cơ mai một, biểu hiện rõ ở thế hệ trẻ người Mông không còn mấy

người biết thổi khèn và biết hát những điệu dân ca truyền thống. Trong điều

kiện phát triển của đất nước nói chung và Võ Nhai nói riêng, hiện tượng văn

hoá cổ truyền của người Mông ở Võ Nhai mai một đang là một thực tế đáng

lưu tâm. Việc giữ gìn những tinh hoa văn hoá tộc người và phát huy, tiếp thu có

chọ lọc những di sản văn hoá dân tộc và nhân loại đang là bài toán không dễ

tìm ra lời giải đối với chính các tộc người và các cấp chính quyền.

76

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb VHTT, HN.

2. Trần Văn Bính (chủ biên) (2006), Đời sống văn hoá các dân tộc thiểu số

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Lý luận chính trị, Hà

Nội.

3. Cục thống kê Thái Nguyên (2009), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên

2008, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

4. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

5. Gia Dũng biên soạn (2000), Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam

thế kỷ XX, Nxb Văn hoá dân tộc.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Bế Viết Đẳng (1997), Dân tộc Mèo - Các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Nguyễn Khoa Điềm - Nông Quốc Chấn (2001), Bảo tồn phát huy văn hoá

truyền thống của các dân tộc thiểu số, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Tuấn Giang, Đặc điểm dân ca Mông - Tày - Nùng - Thái, Vanchuongviet.org,

Hà Nội 2011.

10. Lê Sĩ Giáo (1997), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Nguyễn Thị Huệ (1999), Dân số các dân tộc miền núi và trung du Bắc Bộ

sau thời kì đổi mới, Nxb Văn hoá dân tộc.

12. Nguyễn Chí Huyên, Hoàng Hoa Toàn (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người

vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc - Hà Nội.

13. Mã A Lềnh (2009), Ghi chép về văn hoá dân gian Hmông, Nxb Văn hoá

Thông tin.

14. Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai, tập 2 (1955-2000), Huyện ủy Võ Nhai

xuất bản.

77

15. Phạm Quang Linh, Hoàng Phương Mai (2008), Một số tài liệu sưu tầm về

người H'Mông ở Việt Nam, Viện Dân tộc học, Hà Nội.

16. Lã Văn Lô, Nguyễn Hữu Thấu, Mai Văn Trí, Ngọc Anh, Mạc Như Đường

(1959), Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Văn hoá Hà Nội.

17. Người Mông ở Việt Nam (2005), NXB Thông tấn Hà Nội

18. Phòng Dân tộc huyện Võ Nhai (2014), Bảng dân số chia theo dân tộc

huyện Võ Nhai 2014 - 2015.

19. Phòng Dân tộc huyện Võ Nhai (2014), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại

biểu các dân tộc thiểu số huyện Võ Nhai lần thứ II, năm 2014, Lưu trữ tại

Phòng Dân tộc huyện Võ Nhai .

20. Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Võ Nhai (2014), Báo cáo về tình hình

văn hoá dân tộc thiểu số huyện Võ Nhai, Lưu trữ tại Phòng Văn hoá -

Thông tin huyện Võ Nhai.

21. Vương Duy Quang (1994), Vấn đề người HMông theo đạo Kitô ở Việt Nam

hiện nay, Tạp chí Dân tộc học số 4 năm 1994.

22. Vương Duy Quang (2005), Văn hóa tâm linh ở Việt Nam truyền thống và

hiện tại, Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội

23. Vương Duy Quang (Tháng 10/1998), Nghi lễ thờ cúng tổ tiên và một số vị

thần trong tôn giáo tín ngưỡng ở người HMông Việt Nam, Phòng Tư liệu

- Thư viện - Viện Nghiên cứu Tôn giáo.

24. Hoàng Quyết, Tấn Dũng (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc ở Việt

Bắc- Nxb Văn hóa dân tộc.

25. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo

tổng kết công tác định canh định cư và kinh tế mới giai đoạn 1990- 2004

tỉnh Thái Nguyên, Lưu trữ tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

tỉnh Thái Nguyên.

26. Sở Văn hoá - Thông tin (2003), Đất và người Thái Nguyên, Lưu trữ tại sở

Văn hoá thông tin Thái Nguyên.

78

27. Trần Hữu Sơn (2005), Xây dựng đời sống văn hoá ở vùng cao, Nxb Văn

hoá dân tộc, Hà Nội.

28. Lâm Tâm (1972), Một số điều tra về người Mèo, Tạp chí Vietnamese

Studies, Hà Nội.

29. Lê Ngọc Thắng, Lê Bá Nam (1994), Bản sắc văn hoá các dân tộc ở Việt

Nam, Nxb Văn hoá dân tộc.

30. Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

31. Hà Thị Thu Thủy, Đàm Thị Uyên (2011), “Làng bản và luật tục bảo vệ tài

nguyên thiên nhiên của người H’mông huyện Đồng Văn, tỉnh Hà

Giang”, Tạp chí Dân tộc học và thời đại, Thái Nguyên.

32. Hà Thị Thu Thủy, Dương Kim Giao (2011), “Luật tục và hương ước của dân

tộc H’mông khu vực miền núi phía Bắc trong việc sử dụng và bảo vệ tài

nguyên thiên nhiên” , Tạp chí Dân tộc học và thời đại, Thái Nguyên.

33. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2009),

Địa chí Thái Nguyên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Nông Quốc Tuấn (2004), Trang phục cổ truyền của người Mông ở Việt

Nam, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

35. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2001), Tóm tắt quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội huyện Võ Nhai thời kì 2001 - 2010, lưu trữ tại Uỷ

ban Nhân dân huyện Võ Nhai.

36. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2004), Báo cáo thành tích thực hiện

nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2003, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân

huyện Võ Nhai.

37. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2005), Báo cáo thành tích thực hiện

nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2004, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân

huyện Võ Nhai.

38. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2006), Báo cáo tình hình thực hiện

nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2005, nhiệm vụ

công tác năm 2006, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân huyện Võ Nhai.

79

39. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2009), Báo cáo tổng kết phong trào thi

đua yêu nước của đồng bào dân tộc thiểu số huyện Võ Nhai qua các thời

kỳ cách mạng và phương hướng nhiệm vụ công tác dân tộc huyện đến

năm 2020, lưu trữ tại Văn phòng UBND huyện Võ Nhai.

40. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2011), Báo cáo tình hình thực hiện

nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2010, nhiệm vụ

công tác năm 2011, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân huyện Võ Nhai.

41. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2012), Báo cáo tình hình thực hiện

nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2011, nhiệm vụ

công tác năm 2012, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân huyện Võ Nhai.

42. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2014), Tình hình thực hiện nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, công tác dân

tộc và thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 2009 - 2014; phương

hướng, mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2014 - 2019, lưu trữ tại Uỷ ban

Nhân dân huyện Võ Nhai.

43. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2015), Báo cáo tình hình thực hiện

nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2014, nhiệm vụ

công tác năm 2015, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân huyện Võ Nhai.

44. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2015), Báo cáo về tình hình kinh tế - xã

hội vùng đồng bào người Mông trên địa bàn huyện Võ Nhai, lưu trữ tại

Văn phòng UBND huyện Võ Nhai.

45. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Dân tộc - Văn hoá - Tôn giáo, Nxb Khoa

học xã hội.

46. Cư Hoà Vần - Hoàng Nam ( 1994), Người Mông ở Việt Nam, Nxb Văn hoá

dân tộc Hà Nội.

47. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam (2002),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

80

48. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía

Bắc), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

50. Viện Dân tộc học (1983), Sổ tay các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

51. Viện Khoa học Xã hội, Viện Dân tộc học, UBND tỉnh Thái Nguyên, Sở

Văn hoá - Thông tin Thái Nguyên (2004), Dân cư, dân tộc tỉnh Thái

Nguyên, Hà Nội.

52. Lê Trung Vũ, Mấy hình tượng đáng lưu ý trong truyện cổ dân tộc Mèo, Tạp

chí Dân tộc học số 3 năm 1976.

53. Vụ Văn hoá dân tộc, Bộ Văn hoá - Thông tin (2005), Bảo toàn và phát huy

văn hoá dân tộc Mông, Kỷ yếu Hội thảo khoa học.

81

PHỤ LỤC

Nguồn tác giả

Đơn vị thi công tuyến đường vào Làng Ươm, xóm Tân Tiến, xã Dân Tiến

Một góc bản Lũng Cà xã Thượng Nung

Nguồn tác giả

(Phòng Văn hóa huyện Võ Nhai)

Tham gia Liên hoan văn nghệ lần thứ nhất của huyện

Nguồn tác giả

(Phòng Văn hóa huyện Võ Nhai)

Nguồn tác giả

Dọn nương chuẩn bị cho vụ mới c ủa đồng bào Mông ở xóm Lân Vai xã Dân Tiến

[Đám cưới của hai vợ chống Giàng A Pao và Lý Thị Sình Thượng Nung

Nguồn tác giả

Nguồn tác giả

Lễ khánh thành và bàn giao nhà “Mái ấm tình thương” xóm Lân Vai, xã Dân Tiến (Hội phụ nữ xã Dân Tiến).

Nguồn tác giả

Điểm trường Lũng Luông, Thượng Nung Nguồn Tác giả

Các thiếu nữ Sảng Mộc tham gia văn nghệ đón xuân năm 2015