ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
Ế-
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa họ
Thái Nguyên, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Đờ ế -
ỉ
kết quả nghiên cứu của riêng tôi, nội dung đề tài luận văn có sử dụng tài liệu,
thông tin được đăng tải trên các báo, tạp chí và một số cuốn sách (đã nêu ở
phần Tài liệu tham khảo).
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và chưa được sử dụng trong công trình nghiên cứu nào. Các trích dẫn có
nguồn gốc rõ ràng.
ận văn
i
LỜI CẢM ƠN
TS.
n văn.
ỡ
ệ ệ ỉ
ể trong huyệ ỉ
ận văn
ii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ....................................................................................................... i
Lời cảm ơn .......................................................................................................... ii
Mục lục.............................................................................................................. iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN VÕ NHAI
TỈNH THÁI NGUYÊN .................................................................................... 9
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên .................................................................... 9
1.2. Nguồn gốc tộc người ................................................................................. 11
1.2.1. Khái quát về tộc người Mông trước khi đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái
Nguyên ............................................................................................................. 11
1.2.2. Tộc người Mông ở huyện Võ Nhai (1975 - 2015) ................................. 15
Chƣơng 2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN
VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015 ........ 20
2.1. Trong nông nghiệp .................................................................................... 20
2.1.1. Về trồng trọt ........................................................................................... 20
2.1.2. Về chăn nuôi .......................................................................................... 31
2.2. Nghề thủ công gia đình ............................................................................. 32
2.3. Khai thác nguồn lợi tự nhiên ..................................................................... 37
2.4. Trao đổi hàng hoá ..................................................................................... 38
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 39
Chƣơng 3. ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN
VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015 ........ 40
3.1. Tổ chức xã hội ........................................................................................... 40
3.1.1. Cộng đồng làng bản, dòng họ ................................................................ 41
3.1.2. Gia đình và hôn nhân ............................................................................. 47
iii
3.2 Đời sống vật chất ....................................................................................... 50
3.2.1. Đồ ăn, uống, hút ..................................................................................... 50
3.2.2. Trang phục ............................................................................................. 53
3.2.3. Nhà ở ...................................................................................................... 54
3.3. Các tập quán liên quan đến chu kì đời người ........................................... 55
3.3.1. Sinh đẻ và nuôi dạy con cái ................................................................... 55
3.3.2. Nghi lễ đám cưới .................................................................................... 56
3.3.3. Nghi lễ tang ma ...................................................................................... 58
3.4. Tín ngưỡng, tôn giáo ................................................................................. 62
3.5. Văn nghệ dân gian..................................................................................... 68
3.6. Lễ hội và trò chơi dân gian ....................................................................... 70
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 77
PHỤ LỤC
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây dựng một
nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh và vững bền, “sánh vai với các cường
quốc năm châu”. Đó là sức mạnh tổng hợp của 54 thành phần dân tộc anh
em trên dải đất hình chữ S, là kết quả của quá trình phát triển cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong lịch sử hình thành và phát triển của mỗi
thành phần dân tộc thì yếu tố kinh tế và văn hóa có vai trò rất quan trọng, có
mối quan hệ với nhau và là nền tảng, là tiền đề cho sức mạnh của mỗi quốc
gia, dân tộc.
Kinh tế là những hoạt động đầu tiên để giải quyết nhu cầu ăn, ở và mặc
cho con người. Trong quá trình định cư và sinh sống của mình, các dân tộc dựa
vào những điều kiện tự nhiên và đặc trưng riêng có mà hình thành nên các loại
hình kinh tế. Hoạt động kinh tế rất đa dạng nhưng giữa các nền kinh tế khác
nhau thường có sự giao thoa, hỗ trợ, hợp tác và cùng phát triển. Việc phát triển
cái mới trên cơ sở phát huy cái cũ của một nền kinh tế là một việc làm hết sức
cần thiết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong thời kì
hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay.
Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn nhằm đáp ứng
nhu cầu của mình. Văn hóa là tác nhân để đưa tới sự đối thoại, sự hợp tác và
đưa đến “tứ hải giai huynh đệ” (bốn biển đều là anh em) cho nhân loại. Văn
hoá vừa là động lực, vừa là kết quả nhân văn của một nền kinh tế. Tất cả các
dân tộc trong quá trình vận động và phát triển của mình đều có một hướng đi
chung là nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội cho
nhân dân. Vì vậy, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay,
Đảng ta xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phù
hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, đảm bảo cho cộng đồng các dân tộc
1
khai thác thế mạnh địa phương làm giàu cho mình, cho đất nước” (Nghị quyết
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá XI) và “Phát huy
mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của các dân tộc anh em làm phong phú
thêm nền văn hoá chung của cả nước” (Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII
của Đảng).
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, dân tộc Mông là một dân tộc ít
người thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, với 3 ngành chính: Mông Trắng,
Mông Hoa và Mông Đen. Địa bàn sinh sống của người Mông chủ yếu là ở
những vùng núi cao thuộc các tỉnh: Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu,
Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang….
Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc
Mông có 1.068.189 người, đứng thứ 8 trong bản danh sách các dân tộc ở Việt
Nam. Bằng sức mạnh cộng đồng và khả năng sáng tạo của mình, người Mông ở
Việt Nam đã xây dựng cho mình một đời sống kinh tế, văn hoá đặc thù của cư
dân vùng núi cao, phù hợp với đặc điểm tự nhiên và truyền thống sản xuất của
tộc người mình.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc với gần 20 thành phần dân
tộc anh em. Tộc người Mông ở Thái Nguyên tập trung khá đông đảo, nhất là ở
các huyện Võ Nhai, Đồng Hỷ, Định Hoá, Phú Lương. Người Mông ở Thái
Nguyên nói chung và Võ Nhai nói riêng chủ yếu mới di cư từ các tỉnh Cao
Bằng, Hà Giang về do cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Theo số liệu của
cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tỉnh Thái Nguyên có 7.230
người thuộc dân tộc Mông, chiếm 0,6% dân số toàn tỉnh và là 1 trong 8 thành
phần dân tộc có số lượng đông nhất.
Võ Nhai là huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, nằm ở tọa độ có giới
hạn địa lí từ 105035’ đến 106017’ kinh Đông, 21036’ đến 21056’ vĩ Bắc; phía
đông giáp huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn); phía tây giáp huyện Đồng Hỷ và
2
huyện Phú Lương; phía nam giáp huyện Đồng Hỷ (tỉnh Thái Nguyên) và huyện
Yên Thế (tỉnh Bắc Giang); phía bắc giáp huyện Na Rì (tỉnh Bắc Kạn).
Người Mông sống chủ yếu tại các xã Thượng Nung, Dân Tiến, Cúc
Đường, La Hiên, là những nơi có địa hình núi cao, thung lũng xen kẽ núi đá.
Bằng sức mạnh cộng đồng và khả năng của mình, người Mông ở Võ Nhai đã
sáng tạo những loại hình kinh tế, những nét văn hoá mang tính đặc thù.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn cuộc sống, nhằm góp phần
nhỏ vào việc tìm hiểu những đặc điểm kinh tế, văn hoá của người Mông ở Võ
Nhai - Thái Nguyên và để phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương, tôi
quyết định chọn đề tài: Đời sống kinh tế - văn hoá của tộc người Mông ở
huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975 đến năm 2015 làm Luận văn
Thạc sĩ Sử học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
trong và ngoài nước về tộc người Mông. Trong đó có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu sau đây:
Lịch sử người Mèo của học giả nước ngoài Savina F.M xuất bản tại
Hồng Kông năm 1924 do Trương Thọ dịch, cho biết một cách khái quát về lịch
sử di cư, tên gọi, nguồn gốc của người Mông trên thế giới.
Dân tộc Mông ở Việt Nam của các tác giả Cư Hoà Vần và Hoàng Nam -
Nxb Văn hoá dân tộc, 1994, đã phác họa một cách khá đầy đủ về kinh tế, văn
hoá, xã hội của tộc người Mông ở Việt Nam nói chung. Công trình này cũng là
nguồn tư liệu để tìm hiểu về đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của tộc người
Mông tại Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
Năm 1995, Nxb Văn hóa dân tộc xuất bản cuốn sách Văn hóa Mông của
tác giả Trần Hữu Sơn. Cuốn sách đề cập khá sâu sắc về nét văn hóa cổ truyền
của tộc người Mông.
3
Văn hoá tâm linh của người HMông ở Việt Nam truyền thống và hiện tại
của tác giả Vương Duy Quang, Nxb Văn hoá thông tin và Viện Văn hoá Hà
Nội xuất bản năm 2005, đã giới thiệu khái quát về lịch sử di cư, địa vực cư trú
và tộc danh của người Mông ở Việt Nam. Tác giả cuốn sách cũng đề cập đến
những nét chung về đời sống kinh tế, đời sống xã hội của người Mông.
Cuốn sách Địa chí Thái Nguyên, do Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản
năm 2009, là một công trình nghiên cứu công phu của tập thể tác giả trong và
ngoài tỉnh đã trình bày khá rõ nét và cơ bản về kinh tế, văn hoá, xã hội của các
tộc người ở Thái Nguyên, trong đó có tộc người Mông.
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam - Nxb Giáo dục Việt Nam - 2010, giới
thiệu sơ lược về 54 thành phần dân tộc anh em cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam, trong đó có tộc người Mông.
Một số Luận Văn Thạc sĩ, như:
Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại từ năm 1945
đến nay của Nguyễn Kiến Thọ, (2008), đã chỉ ra những vẻ đẹp đặc trưng, mới
lạ và độc đáo của bản sắc văn hóa tộc người Mông, góp thêm tiếng nói vào việc
giữ gìn, bảo tồn và phát huy những nét đẹp văn hóa của tộc người Mông từ sau
Cách mạng tháng Tám đến nay.
Kinh tế - Văn hóa của người Mông ở huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang
từ năm 1986 đến năm 2010 của Nguyễn Hoa Hậu, (2011), giới thiệu một cách
khái quát về đời sống kinh tê, văn hóa của tộc người Mông ở huyện Na Hang
tỉnh Tuyên Quang trong quá khứ và những chuyển biến ở hiện tại, là cơ sở để
chúng ta thực hiện mục tiêu phát triển dân trí, nâng cao chất lượng cuộc sống
của đồng bào dân tộc thiểu số, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
Kinh tế - Văn hóa của người Mông ở huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên
từ năm 1979 đến năm 2010 của Hứa Thị Hoàng Anh (2013), góp phần định
hướng những giải pháp nhằm ổn định, nâng cao đời sống kinh tế của người
4
Mông ở Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa vật chất và tinh thần của đồng bào.
Tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở miền Tây Cao
Bằng từ năm 1945 đến năm 2012, (2013), nhằm góp phần giữ gìn, bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Mông ở Việt Nam
nói chung và ở Cao Bằng nói riêng.
Luận án Tiến sĩ của Phan Viết Long, Vấn đề đạo Tin lành trong dân
tộc Mông các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, 2003, Học viện chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh 2003), khái quát về tình hình tín ngưỡng của tộc
người Mông trong lịch sử và hiện tại, những mặt tích cực và hạn chế cần duy
trì và xóa bỏ.
Ngoài những công trình nghiên cứu nêu trên, còn có một số bài báo, như:
Thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại - một vài đặc điểm nổi bật, của Trần Thị
Việt Trung, đăng trong Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên,
số 3 tập 1, 2008; Làng bản và luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người
Mông ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang của 2 tác giả Đàm Thị Uyên và Phùng
Thị Sinh, đăng trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Trường Đại học Sư phạm -
Đại học Thái Nguyên, 2010; Làng bản và luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
của người HMông huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang của hai tác giả Hà Thị Thu
Thủy và Đàm Thị Uyên, đăng trong Tạp chí Dân tộc và Thời đại số 139-140,
2011; Tìm hiểu cách thức khai thác và bảo vệ rừng của dân tộc Mông tỉnh Thái
Nguyên của tác giả Dương Quỳnh Phương, đăng trong Tạp chí Khoa học &
Công nghệ Đại học Thái Nguyên, số 2, 2006... Những bài báo này đã giới thiệu
về luật tục, cách thức khai thác và bảo vệ tài nguyên của tộc người Mông trong
quá trình sinh sống và lao động sản xuất.
Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về kinh tế - văn
hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Những công
5
trình nêu trên là nguồn tài liệu quý báu giúp cho tôi tiếp cận và nghiên cứu thực
hiện Luận văn này.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống lại các đặc điểm kinh tế - văn hoá của người Mông ở huyện
Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1979 đến năm 2015. Qua nghiên cứu, đề
xuất giải pháp giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hoá của người Mông trên địa
bàn nghiên cứu nói riêng và trên lãnh thổ Việt Nam nói chung.
- Cung cấp cho giáo viên và học sinh những hiểu biết về dân tộc thiểu số
nói chung và của tộc người Mông nói riêng ở địa phương, cụ thể để phục vụ
cho việc dạy học lịch sử địa phương.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kinh tế và văn hoá của người Mông ở
huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Nghiên cứu về kinh tế bao gồm kinh tế nông
nghiệp, khai thác nguồn lợi tự nhiên, thủ công nghiệp và trao đổi hàng hoá.
Nghiên cứu về văn hoá bao gồm các lĩnh vực trong đời sống vật chất và đời
sống tinh thần.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài giới hạn trong tìm hiểu về đời sống kinh tế -
văn hoá của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975
đến năm 2015, qua đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế,
đồng thời giữ gìn và phát huy những nét bản sắc văn hóa tộc người, “hòa nhập
nhưng không hòa tan” của mỗi tộc người trong cộng đồng 54 dân tộc anh em.
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Võ Nhai,
chủ yếu ở các xã Dân Tiến, La Hiên, Thượng Nung, Nghinh Tường, Phương
Giao, Phú Thượng là những nơi có đông người Mông sinh sống.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu các loại hình kinh tế và văn hoá
người Mông từ năm 1975, nghĩa là từ khi người Mông bắt đầu di cư về huyện
Võ Nhai,đến năm 2015.
6
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, xã hội của
người Mông ở huyện Võ Nhai từ năm 1979 đến năm 2015.
- Làm rõ những đổi thay trong đời sống vật chất và tinh thần.
- Xác định những đặc điểm cần bảo tồn và phát huy trong quá trình gìn
giữ những bản sắc văn hoá dân tộc.
4. Nguồn tƣ liệu và phuơng pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
- Nguồn tư liệu thành văn: Bao gồm các công trình nghiên cứu và các tác
phẩm viết về nguồn gốc cộng đồng dân tộc, những nét văn hoá truyền thống
đặc sắc, lí luận về dân tộc; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCH Trung ương
Đảng khóa VII; Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt
Nam, do Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương xuất bản…Các tác phẩm thông
sử và sách chuyên khảo... Các bài viết về kinh tế, văn hoá của tộc người Mông
ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
- Nguồn tư liệu thực địa và điền dã: Bao gồm sự quan sát cảnh quan,
phỏng vấn cán bộ lãnh đạo xã, Trưởng thôn, Trưởng bản, thầy cúng, thầy
thuốc, nông dân...để tìm hiểu đời sống kinh tế và văn hoá của tộc người Mông
ở Võ Nhai.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử
kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu. Bằng phương pháp lịch sử, dựa trên
những nguồn tư liệu chọn lọc, trình bày hệ thống quá trình di cư, xây dựng đời
sống kinh tế - văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai. Trên cơ sở phân
tích các sự kiện, hiện tượng lịch sử đưa ra những nhận xét, đánh giá những
thành tựu, hạn chế trong đời sống kinh tế của đồng bào và dề ra những giải
pháp thiết thực.
7
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp liên ngành khác, như
phương pháp điền dã dân tộc học, chủ yếu là phương pháp quan sát xã hội và
phỏng vấn sâu. Trong quá trình đi thực địa, tác giả có dịp quan sát cuộc sống
sinh hoạt cũng như tập tục và cách thức chăn nuôi, làm nương rẫy của đồng bào
Mông tại các xã Dân Tiến, Thượng Nung, Phương Giao, La Hiên; trực tiếp
phỏng vấn những người lớn tuổi, có kinh nghiệm và hiểu biết về tập tục, văn
hoá của người Mông ở địa phương. Từ đó, tiến hành so sánh đối chiếu để xác
minh tính chân thực lịch sử của một tộc người ở một địa phương cụ thể.
5. Đóng góp của Luận văn
- Đề tài là một trong những cơ sở để thực hiện mục tiêu phát triển dân trí,
nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
- Đề tài góp phần giáo dục tư tưởng cho thế hệ trẻ cần phải trân trọng
những giá trị văn hoá và tinh thần mà ông cha đã đúc kết được từ xưa đến nay.
Đó là kho báu vô giá đối với mỗi con người Việt Nam.
- Đề tài còn dùng làm tài liệu giảng dạy trong các trường phổ thông trên
địa bàn huyện.
6. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài
được cấu trúc thành 3 chương nội dung:
Chương 1: Khái quát về tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên.
Chương 2: Đời sống kinh tế của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai từ
năm 1975 đến năm 2015
Chương 3: Đời sống văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai từ
năm 1975 đến năm 2015
8
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƢỜI MÔNG
Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở khu vực Đông Bắc tỉnh Thái Nguyên,
cách thành phố Thái Nguyên khoảng 38km theo Quốc lộ 1B. Tổng diện tích đất
tự nhiên của huyện là 83.923,14 ha, địa hình phức tạp chủ yếu là đồi núi dốc và
núi đá vôi; phía bắc giáp huyện Nà Rì (tỉnh Bắc Kạn), phía đông giáp huyện
Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), phía nam giáp huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang), phía
tây giáp huyện Đồng Hỷ (tỉnh Thái Nguyên).
Huyện Võ Nhai thời thuộc Đường là huyện Vũ Lễ. Sang thời Lý - Trần (thế
kỉ X - XIV), gọi là châu Vạn Nhai. Thời thuộc Minh (1407-1427), đổi thành châu
Vũ Lễ. Đầu thời nhà Lê sơ, Vũ Lễ đổi thành huyện Võ Nhai, thuộc phủ Phú Bình,
do phiên thần họ Ma nối đời cai quản. Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836), huyện
Võ Nhai gồm 8 tổng và 29 xã, trại, cai trị theo chế độ lưu quan. Đời Đồng Khánh
(1886 - 1888), huyện Võ Nhai gồm 8 tổng, 28 xã, trại.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện Võ Nhai được đổi thành
châu Võ Nhai, gồm 6 tổng với 22 xã, 1 phố và 5 trại. Ngày 25/3/1948, Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí Sắc lệnh số 148/SL quy định bãi bỏ
các danh từ phủ, châu, quận; cấp trên xã và cấp dưới tỉnh tỉnh thống nhất gọi là
cấp huyện. Từ đó, châu Võ Nhai được đổi thành huyện Võ Nhai, gồm 14 xã.
Năm 1965, Thái Nguyên sáp nhập với Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, Võ Nhai
thành huyện của tỉnh Bắc Thái. Năm 1997, Bắc Thái tách thành 2 tỉnh Bắc Kạn
và Thái Nguyên, Võ Nhai trở thành huyện của tỉnh Thái Nguyên.
Ngày nay, huyện Võ Nhai có 15 đơn vị hành chính gồm thị trấn Đình Cả
và 14 xã: Sảng Mộc, Nghinh Tường, Thần Sa, Thượng Nung, Vũ Chấn, Cúc
Đường, La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá, Liên Minh, Phương
Giao, Liên Minh, Bình Long và Dân Tiến.
9
Địa hình Võ Nhai được chia thành 3 vùng rõ rệt:
- Vùng núi cao, gồm 6 xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung,
Cúc Đường, Thần Sa, Vũ Chấn, có đất rừng đa dạng với tập đoàn cây, con
phong phú, tạo nên cảnh đẹp tự nhiên. Nơi đây có khối núi đá vôi Thượng Nung đồ sộ nhất tỉnh Thái Nguyên, rộng tới 300 km2, độ cao từ 500 đến 600 mét, kéo dài từ Thần Sa qua Nghinh Tường, đến Liêm Thuỷ (huyện Na Rì, tỉnh
Bắc Kạn).
- Vùng thấp, gồm 3 xã La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng và thị trấn
Đình Cả, có địa hình tương đối bằng phẳng, được tạo nên bởi những thung lũng
chạy dọc theo Quốc lộ 1B, hai bên là hai dãy núi cao có độ dốc lớn.
- Vùng gò đồi, gồm 5 xã: Tràng Xá, Liên Minh, Dân Tiến, Bình Long và
Phương Giao, có nhiều đồi đất hình bát úp, bị chia cắt bởi các dòng sông, khe
suối và xen lẫn núi đá vôi.
Thời trước, Võ Nhai nổi tiếng là nơi rừng thiêng nước độc. Sách Đồng
Khánh địa dư chí, viết: “Trong huyện rừng núi liên tiếp, khí núi nặng nề. Khí
trời nhiều lạnh rét. Khí đất ẩm thấp. Cuối xuân trời vẫn còn lạnh, mùa hè thì
chỉ hơi nóng, đầu thu đã bắt đầu lạnh, đến mùa đông thì rét đậm. Hằng ngày
khoảng trước giờ Tỵ, sau giờ Thân thì không nhìn thấy núi”.
Võ Nhai mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi Bắc Bộ, nhưng có
phần khắc nghiệt hơn. Trong năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến
tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 23oC. Chế độ nhiệt này tạo cho Võ Nhai có thế mạnh trong việc
phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, cận nhiệt đới, nhất là các loại cây ăn quả
như vải, na, bưởi...Lượng mưa trung bình hằng năm 1.941,5 mm và phân bổ
không đều, chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa, khoảng 1.765 mm
(chiếm 91% tổng lượng mưa cả năm) [33].
Huyện Võ Nhai có mật độ song, suối khá lớn, nhưng phân bố không đều.
Ngoài nguồn nước mặt từ sông, suối, còn có các mạch nước ngầm. Võ Nhai có
10
hai con sông nhánh thuộc hệ thống sông Cầu và sông Thương, được phân bố ở
khu vực phía Bắc và phía Nam huyện.
Sông Nghinh Tường có chiều dài 46 km, bắt nguồn từ những dãy núi của
vòng cung Bắc Sơn (Lạng Sơn), chảy qua các xã Nghinh Tường, Sảng Mộc,
Thượng Nung, Thần Sa, rồi đổ ra sông Cầu. Khoảng 40% chiều dài dòng chảy
là vùng đá vôi, thung lũng thường hẹp và sâu, vách đá dựng đứng.
Sông Rong bắt nguồn từ xã Phú Thượng, chảy qua thị trấn Đình Cả, Tràng
Xá, Dân Tiến, Bình Long, sang địa phận tỉnh Bắc Giang và đổ về sông Thương.
Trong lòng đất có các mỏ chì, kẽm ở Thần Sa với quy mô, trữ lượng nhỏ,
không tập trung; vàng ở Thần Sa, Sảng Mộc, Liên Minh; phốt pho ở La Hiên
(trữ lượng khoảng 60.000 tấn). Ngoài ra, còn có đá xây dựng, cát, sỏi, sét xi
măng ở La Hiên, Cúc Đường...
Huyện Võ Nhai có những thắng cảnh nổi tiếng, như quần thể hang động
Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà, hang Nà Kháo, hang Huyền. Ngoài ra, Võ Nhai
còn có những di tích lịch sử, văn hoá như mái đá Ngườm, rừng Khuôn Mánh...
1.2. Nguồn gốc tộc ngƣời
1.2.1. Khái quát về tộc ngƣời Mông trƣớc khi đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái
Nguyên
Tộc người Mông là một trong 54 thành phần dân tộc Việt Nam, cư trú tại
62 trên tổng số 63 tỉnh thành của cả nước; chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc
như Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Điện Biên, Sơn La. Theo số liệu
cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Việt Nam có 1.068.189 người
thuộc tộc người Mông, đứng thứ 8 trong bản danh sách các dân tộc ở Việt
Nam.
Các nhà nghiên cứu dân tộc học đều có ý kiến cho rằng, phần lớn tộc
người Mông di cư vào Việt Nam từ Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam (Trung
Quốc), sớm nhất khoảng 350 năm và muộn nhất là 100 năm về trước, theo 3
đợt lớn. Đợt thứ nhất, cách đây trên 300 năm, người Mông từ Quý Châu di cư
11
sang Đồng Văn, Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang. Cuộc thiên di này được dân ca
Mông ghi lại: Người HMông ta ở Qúi Châu đến/ Vì người HMông ta không biết
chữ/ Thua kiện người Hán ta mới đi. Đợt thứ hai, cách ngày nay khoảng 200
năm, sau thất bại của phong trào khởi nghĩa của người Mông ở Quý Châu
(1776 - 1820). Họ vào theo hai hướng chính: Một hướng tiếp tục tràn vào cao
nguyên Đồng Văn rồi đi sang Bảo Lạc (Cao Bằng), Bắc Mê, Xín Mần, Hoàng
Su Phì (Hà Giang); một hướng vào vùng đất Xi Ma Cai và Mường Khương rồi
xuống Văn Bàn (Lào Cai), Phong Thổ, Sìn Hồ, Điện Biên (Lai Châu). Đợt thứ
ba là cuộc thiên di lớn nhất cách đây khoảng từ 120 đến 160 năm. Từ Phong
Thổ (Lai Châu), Xi Ma Cai và Mường Khương (Lào Cai), họ đi sâu vào vùng
Tây Bắc, đến Tủa Chùa, Tuần Giáo (Lai Châu), Thuận Châu, Sông Mã (Sơn
La). Một bộ phận từ Mù Căng Chải sang Bắc Yên, Phù Yên rồi xuống vùng núi
Mộc Châu (Sơn La) và điểm dừng cuối cùng là vùng núi Tây Thanh Hóa. Cũng
trong thời gian này, một nhóm người Mông ở Xiêng Khoảng (Lào) đã tràn vào
vùng núi Thanh - Nghệ và cư trú tập trung ở huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An.
Quá trình di cư của tộc người Mông luôn mang tính dòng họ và lịch sử di
cư của tộc người này luôn gắn liền với lịch sử di cư của các dòng họ. Thậm chí,
chỉ cần nghe bài cúng “Chỉ đường” cho người chết về với tổ tiên của các dòng
họ là ta có thể biết nguồn gốc của họ bắt đầu từ nơi nào (bởi lẽ đơn giản, thầy
cúng của các dòng họ bao giờ cũng cúng đưa hồn người chết của dòng tộc qua
các miền đất mà họ đã sinh sống, đến tận vùng đất cuối cùng mà họ còn nhớ, và
từ đó hồn người chết mới lên trời về “đất tổ tiên”). Không chỉ tộc người Mông
ở cao nguyên Đồng Văn mà nhiều nhóm Mông từ biên giới đến nội địa, từ
Đông Bắc sang Tây Bắc Việt Nam đều nhớ cái tên Pàn Tầu Làng. Điều đó
chứng tỏ địa danh này gắn bó chặt chẽ với lịch sử di cư của nhiều nhóm tộc
người Mông ở Việt Nam. Nếu giai đoạn di cư thứ nhất và thứ hai là quá trình
hình thành những vùng tộc người Mông chính ở Việt Nam, thì đến giai đoạn
ba, những vùng có tộc người Mông tiếp tục được củng cố và trở nên khá ổn
12
định như ngày nay. Quá trình di cư của tộc người này vào Việt Nam thể hiện rõ
niềm mong ước to lớn của họ là tìm được mảnh “đất lành” để sinh sống. Tộc
người Mông đã coi nơi này như quê hương mới của mình.
Trước khi di cư đến Việt Nam, người Hán gọi người Mông là Mèo. Tộc
danh Mèo theo âm Hán - Việt là Miêu. Đây là một tộc người sớm biết trồng lúa
nước ở vùng hồ Bành Lãi và hồ Động Đình (Trung Quốc), dần dần trở thành tên
gọi chính thức. Theo truyền thuyết, tổ tiên của tộc người Mông đã ở vùng Bành
Lãi (Giang Tây) và Động Đình (Hồ Nam) ở Trung Quốc từ hàng nghìn năm
trước Công nguyên. Trong suốt hàng chục thế kỉ, tộc người Mông di cư theo
hướng tây - tây nam, tập trung đông ở Hồ Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng
Đông, Quảng Tây và trung tâm là Quý Châu. Người Mông vốn có gốc gác là
những cư dân trồng lúa nước. Tên gọi Miêu theo Hán tự trên có bộ thảo là cây
cỏ, dưới có chữ điền là ruộng phần nào khẳng định tộc người Mông có nguồn cội
cư trú ở lưu vực các con sông với nghề trồng lúa nước. Văn học dân gian của tộc
người Mông cũng luôn nhắc tới ruộng, trâu, sông nước,... như một sự phản ánh
quá khứ họ từng sinh sống ở những vùng đất đai có sông ngòi và làm nhiều
ruộng như một ước mơ, như một sự phản ánh hiện thực xa xưa với một sự luyến
tiếc, hàm chứa sự so sánh giữa quá khứ và thực tại. Cũng theo truyền thuyết thì
xưa kia, tộc người Mông cũng có một quốc gia riêng với biểu tượng là hình đôi
sừng trâu và màu cờ đỏ. Ngày nay, một số vùng tộc người Mông ở Hà Giang,
Lào Cai vẫn ít nhiều còn để lại những dấu ấn ấy qua các phong tục, biểu hiện cụ
thể ở tấm vải đỏ treo trước cửa nhà; người chết không phân biệt già trẻ đều có
tấm vải đỏ che miệng; hình bộ sừng trâu dùng làm chốt cửa trên hai cánh cửa
chính của mỗi nhà.
Với hơn 300 năm di cư đến nước ta, tộc người Mông đã tự khai sơn phá
thạch dựng nên làng bản và trở thành một thành viên của đại gia đình các dân
tộc Việt Nam. Đồng bào đã sát cánh kề vai cùng các tộc người láng giềng đổ
mồ hôi và xương máu để giữ gìn và bảo vệ chủ quyền Quốc gia Việt Nam của
13
mình. Dải cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc, nơi có tộc người Mông sống tập
trung đông nhất, nơi còn lưu giữ được những yếu tố văn hóa cổ truyền nhất
xứng đáng được coi là trung tâm văn hóa truyền thống của tộc người Mông ở
Việt Nam và Đông Nam Á.
Khi di cư vào Việt Nam, người Mông vẫn mang theo tên gọi quen thuộc
của mình là Mèo. “Đến tháng 3 năm 1979, trên cở sở kết quả điều tra nghiên
cứu, có tham khảo ý kiến của các đại biểu người Mèo, theo đề nghị của Ủy
ban Dân tộc của Chính phủ, danh mục thành phần 54 dân tộc ở Việt Nam
được chính thức công bố thay cho danh mục cũ gồm 62 dân tộc. Từ đó đến
nay, dân tộc Mèo ở Việt Nam được gọi là H’Mông. Tuy nhiên, theo bảng danh
mục đó, tộc danh Mèo vẫn có giá trị pháp lí như H’Mông” [4]. Nhưng “Do sự
phát âm khó khăn, từ năm 1992 đến nay, Nhà nước ta thống nhất phiên âm
tên gọi của đồng bào là “Mông” và dùng cách viết “Mông” thay cho
“H’Mông” [4, 28]. Sau đó, ngày 4/12/2001, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội
(khóa X) ban hành Công văn số 09-CV/HĐDT về vấn đề đọc và ghi đúng tên
gọi các dân tộc. Công văn ghi rõ: “Tên gọi dân tộc Mông, nếu viết bằng chữ
phổ thông là ngôn ngữ chính thức của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thì viết là dân tộc Mông”.
Ở Việt Nam, tộc người Mông thường cư trú ở độ cao từ 800m đến 1500
m so với mực nước biển, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào [33].
Những xóm làng của tộc người Mông, tiếng Mông gọi là “Giao” (Jaol), nơi
tập trung đông cũng chỉ vài chục nóc nhà, còn phần nhiều lẻ tẻ, thường ở trên
các triền núi hoặc cao nguyên. Khí hậu mát mẻ về mùa hè, nhưng cũng hết
sức giá lạnh về mùa đông. Điều kiện đi lại, giao lưu rất khó khăn. Nước phục
vụ cho sinh hoạt thiếu thốn, thậm chí là khan hiếm. Cho nên, tộc người Mông
giỏi canh tác nương rẫy hơn làm ruộng nước. Ở những nơi chỉ toàn núi đá như
Mèo Vạc (Hà Giang), người dân đưa đất từ nơi khác tới, đổ vào những hốc đá
để tra ngô. Sống trên các vùng cao quanh năm sương phủ, sự hẻo lánh làm
14
cho đời sống xã hội Mông chậm phát triển; kinh tế hoàn toàn mang tính chất
tự cấp, tự túc, lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Chính vì hoàn cảnh sống vất vả
và khó khãn nên phần lớn đồng bào Mông sống du canh, du cư hoặc đã định
cư nhưng còn du canh. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
cùng với sự nỗ lực của mình, cuộc sống của tộc người Mông đã có những cải
thiện đáng kể.
Lịch sử của người Mông ở Việt Nam là lịch sử của những cuộc thiên di,
là một bản trường ca đầy bi tráng, mỗi thế hệ đồng bào đã viết lên trang sử
đau thương và hào hùng của tộc người mình. Lịch sử đau thương và hào hùng
cùng với điều kiện sống khắc nghiệt đã hun đúc thành một diện mạo tâm hồn
người Mông với bản lĩnh can trường, dũng cảm, chai sạn tới chắc nịch như đá
núi với một sức chịu đựng dỏe dai.
1.2.2. Tộc ngƣời Mông ở huyện Võ Nhai (1975 - 2015)
Theo số liệu điều tra của Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Võ Nhai có
14 xã, 1 thị trấn với số dân (tính đến năm 2015) là 68.518 khẩu thuộc 8 thành
phần dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó: Dân tộc Kinh chiếm 32,1%,
Tày: 22,7%, Nùng: 20,2%, Dao: 14,1%, Mông: 6,2%, Sán Chay: 4,3%, Sán
Dìu: 0,3%, Mường: 0,1% [14, 19].
Năm 1975, có 9 hộ tộc người Mông, gồm 53 nhân khẩu, di cư về Võ
Nhai, cư trú thành bản riêng tại các xã Thượng Nung, Dân Tiến. Năm 1979,
bên cạnh việc phục vụ nhiệm vụ chiến đấu, huyện Võ Nhai thành lập Ban
Phòng không sơ tán và hậu cần do đồng chí Lâm Văn Thơ (Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân huyện làm Trưởng ban); đồng thời còn thành lập Ban Đón tiếp nhân
dân các tỉnh biên giới phía Bắc và hướng dẫn nhân dân địa phương sơ tán khi
chiến tranh xảy ra. Đặc biệt, đối với 174 hộ (1.327 khẩu) đồng bào Mông sơ tán
từ tỉnh Cao Bằng về định cư trên địa bàn huyện, Huyện ủy chỉ thị cho các xã:
“Cần tạo mọi điều kiện giúp đỡ đồng bào ổn định đời sống. Hạn chế đến mức
thấp nhất các mặt tiêu cực có thể xảy ra như di chuyển ra đình đi khắp nơi
15
trong huyện, chặt phá rừng làm nương rẫy, nhất là rừng đầu nguồn, rừng cấm,
để cho kẻ xấu trà trộn phá hoại gây mất trật tự, an ninh. Đối với những hộ đủ
thủ tục cư trú hợp pháp thì tổ chức đồng bào thành lập hợp tác xã đi vào định
canh, định cư lâu dài. Với những hộ không có giấy tờ hợp pháp phải điều tra
xác minh và có chủ trương giải quyết đúng với chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước” [14]. Trong số 174 hộ, có hơn 40 hộ định cư tại xã Sảng
Mộc và lập nên xóm Khuổi Mèo. Trải qua gần 4 thập niên, đến nay, xóm có
102 hộ với hơn 600 nhân khẩu (100% số hộ là dân tộc Mông).
Năm 1993, đồng bào Mông tiếp tục di cư xuống Võ Nhai và cư trú xen
kẽ cùng tộc người mình ở các xã Dân Tiến, Phương Giao, Thương Nung, Sảng
Mộc, La Hiên...Ông Sinh cư trú tại xóm Lũng Hoài (Thượng Nung) cho biết:
“Người Mông mình ở Hà Quảng, Cao Bằng di cư lên đây từ năm 1993. Lúc ấy
cơ sở vật chất chưa có gì. Ruộng, nương cũng phải mua của người dân bản
địa, nhưng cũng không có nhiều, đất cằn cỗi, lại xa trung tâm xã”.
Cùng với chính quyền địa phương, các tộc người khác, đồng bào Mông
cư trú trước đó đã giúp đỡ các hộ di cư đến sau ổn định bước đầu về nhà ở, hỗ
trợ lương thực, gia súc gia cầm...
Theo kết quả điều tra điền dã của tác giả, phần lớn tộc người Mông ở Võ
Nhai đều đến từ huyện Trà Lĩnh và Hà Quảng tỉnh Cao Bằng, chủ yếu thuộc
nhóm Mông Trắng. Hiện nay, tộc người Mông ở Võ Nhai sinh sống tại các xã
Thượng Nung, Lâu Thượng, La Hiên, Cúc Đường, Thần Sa, Dân Tiến, Tràng
Xá, Phương Giao (trong đó đông nhất là xóm Khuổi Mèo xã Sảng Mộc; xóm
Lũng Cà và xóm Lũng Luông xã Thượng Nung) với dân số tính đến tháng
12/2014 là 3.976 người, chiếm 6,2% dân số toàn huyện [18].
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt là
các chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi
như Chương trình 135, Chương trình 134, Chương trình xây dựng nông thôn
mới, chính sách hỗ trợ vùng ATK, chính sách hỗ trợ huyện nghèo theo Quyết
16
định 615/QĐ-TTg… được sự quan tâm của Trung ương, của tỉnh, các chương
trình, dự án được đầu tư, thực hiện trên địa bàn huyện đã mang lại hiệu quả
thiết thực, kết cấu hạ tầng từng bước được cải thiện, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân không ngừng được nâng lên; nền kinh tế của huyện phát
triển ổn định, an ninh, quốc phòng được củng cố và giữ vững.
Công tác dân tộc, việc thực hiện các chính sách dân tộc luôn được các cấp
uỷ đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở quan tâm chỉ đạo thực hiện. Đặc biệt
là việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 12/2012/NQ-HĐND ngày 19/7/2012
của Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên và Quyết định số 1985/QĐ-UBND
ngày 04/9/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên về Chương trình công
tác dân tộc tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2012 - 2015 đã đạt được những kết quả
tích cực, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế - xã hội
hằng năm của huyện đề ra.
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành các nghị
quyết, chương trình, đề án, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát thực hiện theo
mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của Đảng đề ra, cùng với triển khai thực hiện các
chương trình, dự án, chính sách của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo bền vững,
đặc biệt là chính sách đối với vùng dân tộc và miền núi, vùng đặc biệt khó
khăn. Đặc biệt là những nới có đồng bào Mông sinh sống.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia,
đặc biệt là Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới; Giảm
nghèo bền vững; các chương trình mục tiêu quốc gia về Giáo dục và đào tạo;
Văn hóa; Y tế; Dân số, kế hoạch hóa gia đình; Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Vệ sinh an toàn thực phẩm; Phòng chống tội phạm… Quan
tâm chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc hưởng ứng
các phong trào, các cuộc vận động để phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh trật tự,
17
đề cao tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau cùng phát triển, xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Những năm đầu khi mới đến Võ Nhai (một trong những huyện nghèo nhất
tỉnh), cuộc sống của đồng bào Mông cũng như các tộc người khác gặp rất nhiều khó
khăn, thường xuyên bị đói ăn từ 3 đến 6 tháng; trình độ dân trí còn rất thấp, phần
lớn không biết chữ quốc ngữ, ngôn ngữ giao tiếp chính là tiếng Mông. Nhờ có
chính sách định canh định cư của Đảng và Nhà nước, được sự quan tâm của chính
quyền địa phương, và các tộc người anh em, đời sống của tộc người Mông ở Võ
Nhai ngày càng có nhiều đổi thay và ổn định như ngày nay.
18
Tiểu kết chƣơng 1
Võ Nhai là một huyện vùng cao nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Thái Nguyên,
cách trung tâm tỉnh lị 32km. Địa hình nơi đây mang đặc trưng của một tỉnh
miền núi phía Bắc, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, là nơi sinh sống
của nhiều tộc người khác nhau. Là một dân tộc thiểu số, người Mông di cư đến
nước ta cách đây khoảng hơn 300 năm và tập trung đông nhất ở các tỉnh miền
Bắc. Người Mông di cư đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975.
Ban đầu, cuộc sống của người Mông nơi đây còn gặp nhiều khó khăn, trình độ
dân trí thấp. Tuy nhiên, được sự quan tâm của Đảng bộ, các cấp chính quyền và
nhân dân các dân tộc địa phương, đời sống của đồng bào Mông ở Võ Nhai ngày
càng được nâng lên cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy chiếm số lượng không
nhiều trong cộng đồng các dân tộc huyện Võ Nhai, song đời sống kinh tế - văn
hoá của tộc người Mông ở huyện vẫn có những đặc trưng riêng, góp phần xây
dựng huyện Võ Nhai ngày càng giàu mạnh.
19
Chƣơng 2
ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG
Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015
2.1. Trong nông nghiệp
2.1.1. Về trồng trọt
Tuy có một số diện tích ruộng nước nhưng nguồn sống chính của đồng
bào Mông ở Võ Nhai chủ yếu là canh tác nương rẫy.
-Việc lựa chọn đất canh tác
Do định cư ở những nơi có địa hình đồi núi cao nên việc canh tác nương
rẫy là một loại hình sản xuất nông nghiệp rất phổ biến của tộc người Mông. Họ
gọi nương là têz. Trước kia, khi còn ở Cao Bằng, Hà Giang thì đây là loại hình
canh tác chủ yếu của người Mông. Khi di cư đến Võ Nhai, hình thức canh tác
này vẫn là loại hình canh tác chủ yếu của đồng bào.
Người Mông có quan niệm rất đơn giản về nương. Từ lâu đời, họ đã
truyền nhau: “Đất cũng có tên, chỗ nào cũng là đất, lấy dao phát được một
khóm gọi là nương, chỗ nào cũng là đất, tra một cây xuống được gọi là nương”
[22]. Như vậy, trong tâm thức của người Mông, nương là bất cứ mảnh đất nào,
chỉ cần trồng nên "một khóm", tra được "một cây” thì đó chính là nương. Chọn
đất làm nương của tộc người Mông ở Võ Nhai chủ yếu là do kinh nghiệm của
ông cha để lại. Theo họ, để có thể làm nương đạt kết quả tốt thì việc chọn đất
có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì chọn đất sẽ là tiền đề, là cơ sở đầu tiên
cho việc làm nương.
- Kĩ thuật chọn đất để phát nương
Khi chọn đất để phát nương, trước hết người Mông xem khu đất đó có đủ
điều kiện để làm nương hay không. Hướng nương phải đủ ánh sáng, nương
không quá dốc...Họ cho rằng đất để làm nương tốt thường là nơi có nhiều cây
mọc tốt, có độ ẩm cao và có chất đất tốt. Họ biết chia đất ra thành từng loại
khác nhau để phù hợp với từng loại cây khác nhau.
20
Người Mông Võ Nhai cho rằng mảnh đất cho năng suất tốt nhất là mảnh
đất ở thung lũng (á cư ha) nơi có rừng già, đất có màu đen, tơi xốp, độ ẩm cao,
có lẫn nhiều đá nhỏ màu đen, có lớp đất đen dầy từ 20 - 30cm là đất rất tốt. Ở
mảnh đất này có các cây to, già, có nhiều cành mục mọc các cây như cây gạo,
cây vông hoặc là rừng mọc nhiều chuối rừng. Loại đất này thì thích hợp với hầu
hết các loại cây trồng, đặc biệt là lúa. Mảnh đất tốt sẽ cho năng suất cao, có thể
trồng được từ 3 - 4 vụ mới bạc màu.
Đất ở sườn đồi núi thấp (á giông) cũng là loại đất tốt trồng các loại cây
như mía, ngô, đỗ tương, lạc... có thể cho 3 - 4 mùa vụ tốt tươi đất mới bạc
màu. Loại đất này có đặc điểm là đất có màu đen, đỏ sẫm hoặc nâu sẫm, lớp
đất trên mặt tơi xốp có độ dày khoảng 20 - 30cm, nếu có lẫn đá nhỏ màu đen
thì càng tốt. Đất đồi trọc (á liệt sứ) là đất màu vàng đỏ, thịt dẻo, có lẫn đá
sỏi, độ dốc tương đối lớn, ở đây mọc các loại cây có độ cứng lớn nhưng
không to. Loại đất này thích hợp với các loại cây công nghiệp ngắn ngày và
các loại cây ăn quả.
Đất núi cao (á há trông) có màu xám lẫn nhiều sỏi đá, đất mọc nhiều cây
bụi, cây leo và cây lau thì không thể sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Loại
đất này chủ yếu trồng rừng tái sinh để cải tạo đất.
Sau khi đã chọn được khu đất để phát nương, người ta đã đánh dấu bằng
cách đặt ở 4 góc mỗi góc một cây cọc được đóng xuống đất với mục đích làm
dấu hiệu cho người khác biết rằng đất đó đã có chủ. Khi việc chọn đất đã hoàn
thành, họ tiến hành phát và đốt nương. Công việc này thường được người
Mông tiến hành vào mùa khô vì đây là thời gian thích hợp. Độ ẩm lúc này thấp,
cho nên nương có thể cháy nhanh và gọn. Việc làm đầu tiên là phát cỏ và bụi
cây trước, sau đó mới chặt cây to. Với quy trình phát từ dưới lên, cây sẽ không
bị dính vào nhau, phát dễ hơn. Để thực hiện công việc một cách nhanh và gọn,
người Mông đã huy động nhân lực gồm toàn bộ các thành viên trong gia đình,
từ trẻ em đang đi học đến những người già cả và các hộ trong bản. Sự phân
công lao động diễn ra một cách tự nhiên: Những người đàn ông khoẻ mạnh thì
21
đảm nhiệm những công việc nặng nhọc nhất (chặt cây to, phát những nơi rậm
rạp khó phát), phụ nữ, trẻ em, người già có nhiệm vụ chặt cành, dọn dẹp những
vùng đất xung quanh cho thật sạch. Khi công việc phát nương cơ bản đã hoàn
thành, người ta để phơi nắng vài ngày, thậm chí là vài tuần để cho cây khô rồi
tiến hành đốt. Khi đốt, họ chọn ngày nắng to, khô hanh. Thời gian đốt nuơng
vào lúc chiều tối vì khi đó, gió sẽ mạnh hơn. Việc đốt nương thực hiện theo
nguyên tắc đốt từ chân nương lên đến đỉnh nương. Sau khi đốt xong lần thứ
nhất, họ để 3- 4 ngày rồi dọn dẹp, thu gom các cành cây chưa cháy hết để đốt
tiếp. Thời tiết cũng có ảnh hưởng nhiều tới việc phát và đốt nương. Nếu năm
nào, trời mưa nhiều, việc đốt nương và dọn dẹp nương sẽ gặp nhiều khó khăn
hơn. Để tránh cháy rừng, người Mông ở Võ Nhai tạo ra khoảng trống xung
quanh bốn mặt chỗ đất đã chọn .
Ngoài làm nương rẫy, nhiều gia đình người Mông ở Võ Nhai còn làm
ruộng nước. Ở Thái Nguyên nói chung và Võ Nhai nói riêng, do kết quả của
công tác định canh định cư, bên cạnh đất nương, hầu hết đồng bào Mông đã
canh tác ruộng nước.
Trước đây, do đặc điểm về điều kiện địa hình và khí hậu, thuỷ văn, loại
hình ruộng nước của tộc người Mông được canh tác ở địa hình đồi bát úp hoặc
các thung lũng hẹp. Phần lớn đồng bào vẫn lựa chọn khai phá đất để làm ruộng
nước ở gần nguồn nước, vỡ đất trên các sườn đồi thoải. Để đảm bảo nguồn nước
tưới, đồng bào Mông ở Võ Nhai cũng biết đào các con mương dẫn nước từ
nguồn là các khe suối về. Khi tiến hành điều tra điền dã tại các xóm Lũng Cà, xã
Thượng Nung có người Mông sinh sống, tác giả nhận thấy, đây là xóm có diện
tích ruộng nước lớn nhất của người Mông ở Võ Nhai (khoảng 10 ha), song phần
lớn chỉ cấy được một vụ do hạn chế về nguồn nước tưới.
Sau khi đã chọn được chỗ đất làm ruộng, người ta tiến hành khai phá đất.
Công cụ khai phá chủ yếu là cuốc và cày. Người Mông dùng cuốc để vỡ đất và
phá bỏ những cây trên đất đó. Sau đó, họ dùng cày để cày, cứ san và cày sâu
mãi vào trong sườn núi; vừa cày vừa san đất cho đến khi nào thành ruộng mới
22
thôi. Nhiều chỗ, họ phải đào sâu xuống từ 1m đến 3m. Ruộng của người Mông
chủ yếu để trồng lúa nước; nhưng do thường xuyên thiếu nước, cho nên mỗi
năm họ chỉ trồng được một vụ; vụ còn lại họ biết trồng xen canh lúa hoặc đỗ
tương để tăng thêm nguồn lương thực.
Ruộng của người Mông thường được chuẩn bị khá kĩ lưỡng trước khi
cấy lúa. Họ thường cày ải ủ đất qua Tết Nguyên đán. Khi những cơn mưa
xuân đầu tiên đổ xuống, họ tiến hành cày bừa đất. Việc cày bừa thường được
tiến hành từ 1 đến 2 lần: Lần đầu tiên họ cày để vỡ đất. Sau khi thu hoạch
xong, họ cày lên để có thể làm đất ải, làm cho cỏ, gốc rạ được vùi xuống đất
khiến đất tơi xốp. Lần tiếp theo, họ cày khi những cơn mưa đầu tiên của một
năm xuất hiện. Họ cày lật đất lên, ngâm nước vài ngày rồi dùng bừa bừa kĩ
làm cho đất thật tơi xốp; rồi bừa lại một lần cuối cùng để cho đất được thật tơi
mịn trước khi cấy.
Hiện nay, do việc trao đổi sản xuất, thay đổi nơi định cư nên đồng bào
Mông còn tiến hành canh tác trên những thửa ruộng mà họ mua lại của các tộc
người khác hay họ làm ruộng của người Nùng, Tày rồi trả thóc theo vụ. Các
tiến bộ khoa học kĩ thuật được đồng bào áp dụng vào sản xuất như máy cày, thu
hoạch lúa bằng máy phụt.
- Việc chọn giống và gieo trồng
Cây trồng trên nương của người Mông chủ yếu là ngô, đậu tương, mía,
lúa, bí đỏ. Từ khi di chuyển đến Thái Nguyên, do địa hình bằng phẳng hơn, lại
do áp dụng kĩ thuật trồng trọt mới nên hệ cây trồng trên nương của người Mông
ở Võ Nhai cũng có thay đổi. Ngoài ngô là cây trồng chính trên nương rẫy, người
Mông trồng các loại cây công nghiệp (mía, đỗ tương), cây ăn quả. Theo người
Mông ở Võ Nhai, việc chọn giống có một vai trò rất quan trọng trong quá trình
trồng trọt. Để có giống cây trồng cho vụ sau, khi chọn giống, nhất thiết phải chọn
những khu nào cây ngô có bắp to, hạt to, chắc, mẩy và sai hạt... Những chỗ đó sẽ
được khoanh lại, khi thu hoạch cũng được để riêng. Đặc biệt, đối với những cây
23
lương thực chính, có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của người Mông thì
việc chọn và bảo quản giống rất được quan tâm.
Cây lương thực truyền thống của người Mông nói chung là ngô và lúa
nương, hiện nay là ngô và lúa. Cây ngô vẫn là cây lương thực đem lại thức ăn
chính với phần lớn gia đình người Mông ở Võ Nhai. Vì vậy, việc chọn giống 2
loại cây này được đồng bào hết sức chú ý. Đối với lúa giống, sau khi gặt được
bó riêng lại, treo trên gác bếp hoặc treo lên sàn nhà dùng cho vụ sau. Đối với
ngô giống, chọn loại bắp to, hạt đều. Khi thu hoạch, ngô được để cả vỏ, buộc
thành túm vài bắp lại với nhau rồi treo lên gác bếp và sàn nhà tránh bị mọt. Các
giống đỗ tương và lạc, chọn những cây sai quả, củ, hạt to, đều; sau đó bóc vỏ
phơi khô cho vào chai nhựa. Cách làm đó đảm bảo cho hạt giống khô ráo,
không bị mối mọt, không bị lẫn với hạt giống khác. Đến mùa gieo hạt, người ta
lấy những bó lúa giống đó đi tuốt hoặc vo, làm sạch, loại bỏ những hạt không
tốt, sau đó ủ từ 2 đến 3 ngày cho nẩy mầm rồi mang đi gieo. Ngô giống sau khi
tẽ hạt, được ngâm nước từ 1 đến 2 ngày rồi đem tra hạt. Như vậy, ngô sẽ nhanh
mọc hơn và mọc tốt hơn. Những giống khác như đỗ tương, lạc, thường được
gieo trực tiếp không cần phải ngâm.
Việc gieo hạt giống trên nương được tiến hành với đông đủ các thành
viên trong gia đình và các hộ khác trong bản (đàn ông thường cuốc hốc, phụ nữ
gieo hạt, người già và trẻ em đi đằng sau để lấp đất vào các hốc mới gieo hạt).
Sau khi chuẩn bị giống thật tốt, khi mang đi gieo, người gieo hạt đầu tiên phải
là chủ nhà hay người lớn tuổi nhất trong gia đình với mong muốn truyền sức
mạnh tâm linh của chủ nhà - người có sức mạnh, uy tín trong gia đình - cho cây
mọc tốt tươi. Đây cũng là cách để con cháu nhìn theo mà ước lượng khoảng
cách, học hỏi kinh nghiệm tra hạt. Sau khi chủ nhà gieo thì mới đến các thành
viên khác trong gia đình.
Người Mông có quan niệm rằng, một khi gia đình chưa gieo trồng xong
thì không bán giống và trao đổi giống cho người khác. Nếu không thực hiện
đúng, cả vụ mùa sẽ không may mắn. Khi gieo trồng trên nương rẫy, thông
24
thường, người Mông ở Võ Nhai chọn những vùng đất tốt, mới khai phá để
trồng ngô nếp, còn những nơi đất không tốt hoặc đã bạc màu, sẽ trồng ngô tẻ.
Do phù hợp khí hậu, thổ nhưỡng và là nguồn lương thực chính nên ngô tẻ
thường được trồng nhiều hơn ngô nếp. Cách thức trồng ngô của người Mông ở
Võ Nhai cũng giống cách thức trồng ngô của các tộc người khác gần đó. Sau
khi mảnh nương được khai phá và làm đất xong, họ dùng cuốc tạo thành từng
hốc nhỏ, mỗi hốc tra từ 1 đến 2 hạt giống, khoảng cách giữa các gốc từ 40cm
đến 45cm. Việc gieo trồng thường được hoàn thành trong một đến hai ngày.
Ngoài cây ngô và lúa, người Mông ở Võ Nhai còn trồng các loại khoai,
sắn, lanh trên nương rẫy. Khoai, sắn không chỉ bổ trợ nguồn lương thực những
lúc mất mùa, giáp hạt, mà còn là nguồn thức ăn trong chăn nuôi, là nguyên liệu
để nấu ruợu. Đồng bào còn trồng xen lẫn hoặc xen canh gối vụ các loại cây
thực phẩm khác, như bí đỏ, rau cải, rau rền, rau cải củ...
Khi làm ruộng nước, trước đây đồng bào Mông thường có tập quán gieo
thẳng hạt. Từ những năm 90 trở lại đây, được sự giúp đỡ của cán bộ nông
nghiệp và do có sự giao lưu với các dân tộc khác, đồng bào đã chuyển sang
gieo mạ. Theo kinh nghiệm của người Mông, cứ 4kg thóc thì cấy được 1 sào.
Nhưng ngày nay chỉ cần 1kg đến 2kg thóc giống vẫn cấy được một sào. Sau
25-30 ngày có thể nhổ mạ hoặc xúc để mang đi cấy, được chăm bón cho đến
khi thu hoạch.
Do kết quả của công tác định canh định cư, cơ cấu đất trồng của người
Mông có sự thay đổi đáng kể. Nhiều đợt tập huấn cho người dân về kĩ thuật
trồng trọt và chăn nuôi được triển khai, hình thức nương du canh không còn,
đồng bào đã biết áp dụng khoa học kĩ thuật làm tăng vòng quay của đất. Trên
mảnh đất nương của đồng bào, các loại cây xen canh đã được đưa vào sản xuất.
Cây ngô vẫn là cây lương thực chính và được trồng với số lượng lớn, chất
lượng cũng tăng lên, không chỉ đáp ứng nhu cầu hằng ngày của đồng bào, mà
còn được đem trao đổi buôn bán. Bên cạnh nương ngô, hoa màu và cây ăn quả,
25
nương mía ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống các hộ gia đình
người Mông ở Võ Nhai.
Ruộng nước đã cấy được hai vụ (đông - xuân, hè - thu). Bên cạnh đó, cơ
cấu cây trồng đã có sự chuyển đổi, biểu hiện ở việc đồng bào đưa các giống cây
trồng mới vào canh tác cho năng suất cao, như Khang dân, Đoàn kết...
Nhà nước có nhữ ản người Mông
đặc biệt khó khăn: Thực hiện lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư, hỗ trợ cho 9
xóm; những giống lúa, ngô mới được Nhà nước trợ giá, làm tăng đáng kể sản
lượng lương thực cho đồng bào. Trong 6 tháng đầu năm 2014, theo sự chỉ đạo
của UBND tỉnh, 9 xóm có đông đồng bào Mông sinh sống trên địa bàn huyện
được hỗ trợ 2.820 kg ngô giống và 120,55 tấn phân bón các loại [42, 19].
Ông Trương Văn Pai - Bí thư chi bộ xóm Chòi Hồng, xã Tràng Xá cho
biết: Trước đây đồng bào Mông chỉ trồng giống ngô nếp, ngô đỏ năng suất thấp
nên đời sống rất khó khăn. Vài năm trở lại đây cùng với chính sách tăng cường
đầu tư, chính quyền địa phương đã tích cực vận động người dân chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, đưa các giống ngô lai vào trồng. Cây ngô lai dễ trồng, cho năng
suất, hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn những cây trồng khác, nên 100% số hộ trong
xóm đều trồng ngô lai. Nhờ vậy, nhiều hộ đã thoát nghèo, xây dựng được nhà
mới, mua xe máy và nhiều tiện nghi phục vụ sinh hoạt.
Bảng 2.1- Sản lƣợng lƣơng thực (ngô + lúa) bình quân hằng năm
của ngƣời Mông ở huyện Võ Nhai từ năm 2010 đến năm 2014
STT Bình quân lƣơng thực Đơn vị tính Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
1 Lương thực bình quân 295 300 320 340 360 theo đầu người Kg/người /năm
2 Năng suất lúa bình Tạ/ha/vụ 25,0 2,0 27,5 28,0 29,0 quân
(Nguồn: Số liệu thống kê năm 2014 của Phòng Nông nghiệp huyện Võ Nhai)
3 Năng suất ngô bình Tạ/ha/vụ 31 30 33 32 33 quân
26
Cùng với Chương trình 135 và các cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới, việc thực hiện
Đề án 2037 (được ban hành theo Quyết định số 2037/QĐUBND
ngày 16/9/2014) về Phát triển kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất và đời sống
các xóm, bản đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc Mông sinh sống của
tỉnh đến năm 2020, đời sống của đồng bào Mông ở huyện Võ Nhai từng bước
được cải thiện. Các bản người Mông trên địa bàn huyện tiếp tục được hỗ trợ
giống cây trồng, phân bón các loại và các tiến bộ khoa học kĩ thuật để phát triển
sản xuất; đường giao thông, trường học, trạm y tế… được mở mang.
- Lựa chọn công cụ lao động
Công cụ sản xuất là phương tiện quan trọng giúp con người hoà nhập và
chinh phục thiên nhiên. Công cụ sản xuất cũng thể hiện những tinh hoa trong
sản xuất của đồng bào qua hàng nghìn năm lao động sản xuất và chống chọi với
tự nhiên. Công cụ lao động sản xuất của người Mông phong phú và đa dạng,
bao gồm các công cụ làm đất, gieo trồng, chăm bón.
Công cụ làm đất
Cày gỗ: Đó là chiếc cày làm bằng gỗ, lưỡi kim loại; hình dáng to hơn và
thô hơn so với cày gỗ của các tộc người khác.
Bừa gỗ: Về hình thức, chiếc bừa gỗ của người Mông ở Võ Nhai nhỏ hơn
so với bừa gỗ của các tộc người khác, phù hợp với ruộng bậc thang có diện tích
nhỏ hẹp. Cũng vì thế mà đồng bào chỉ dùng bừa đơn, tức là loại bừa dùng cho
một trâu (bò) kéo. Hiện nay, việc sử dụng bừa sắt đã được đồng bào ứng dụng
vào sản xuất, thay cho bừa gỗ.
Dao: Là công cụ đa năng được sử dụng trong quá trình canh tác, chủ yếu
được dùng để chặt cây, phát nương, làm rẫy. Đặc điểm nổi bật của dao người
Mông là to, dầy và rất sắc, ít bị mẻ.
Thuổng: Là công cụ dùng trong khai phá ruộng bậc thang, đào đất làm nhà,
đào củ rừng. Thuổng của người Mông dầy bản hơn so với thuổng của các tộc
người khác.
27
Công cụ chăm sóc
Cuốc bướm: Là công cụ có rất nhiều công dụng, không chỉ được dùng
trong khai phá đất đai mà còn được dùng phổ biến trong quá trình trồng tỉa và
chăm bón, thích hợp với địa hình canh tác là vùng dốc núi. Cuốc bướm dùng để
bổ hốc tra hạt nhằm chống sự rửa trôi chất dinh dưỡng và để luồn lách vào
những hốc đá làm cỏ. Cuốc bướm của người Mông có hình bán nguyệt, lòng
cuốc trũm sâu hơn so với cuốc của các tộc người khác, thích hợp với việc luồn
lách làm sạch cỏ trong các khe đá hẹp, đất dốc.
Cào cỏ: Gồm có cào tre, cào gỗ và cào sắt. Cào tre và cào gỗ được thiết
kế theo kiểu bán nguyệt (lưỡi cào gỗ có hình răng cưa) dùng để làm cỏ lúa
nước nơi có cỏ dại đâm rễ không sâu xuống bùn, dùng cào cỏ và cào gỗ có thể
dễ dàng luồn lách từng khóm lúa. Cào sắt dùng để làm cỏ trên nương, cào sắt
không có răng được cấu tạo từ một thanh sắt mỏng hay những con dao cũ
không sử dụng được nữa. Cào sắt có cấu tạo hình dấu chấm hỏi, lưỡi cào được
dát mỏng để luồn lách vào các hốc đá để cào sạch cỏ và vun cây trồng. Cào sắt
rất thích hợp với làm cỏ trên nương có lẫn nhiều đá.
Công cụ thu hoạch
Liềm (las): Gồm 3 loại: Liềm lưỡi vát bản rộng, lưỡi khum bản rộng và
lưỡi hình bán nguyệt. Liềm vát bản rộng khoảng 4cm, đầu lưỡi hơi khum hình
vành trăng, lưỡi được rũa tạo rãnh răng cưa nông và đều nhau; phần răng cưa
chủ yếu nằm một bên lưỡi, một bên lưỡi vẫn phẳng mỏng như lưỡi dao. Loại
liềm này dùng để móc hay cắt lúa. Liềm khum bản rộng không có răng, được
uốn khum dần ngay từ chỗ tiếp giáp với tông liềm. Loại này được sử dụng
trong việc làm cỏ, phát cây, ít sử dụng trong thu hoạch lúa. Liềm hình bán
nguyệt không có răng được uốn khum dần ngay từ chỗ tiếp giáp với tông liềm,
tạo ra lưỡi liềm hình bán nguyệt dùng để cắt lúa, cắt cỏ.
Gùi (lù cở): Là phương tiện vận chuyển phổ biến của đồng bào Mông,
thích hợp với đường mòn, leo dốc, xuống vực, trèo leo trên sườn đồi, vách đá.
28
Nhà có bao nhiêu người là có bấy nhiêu gùi. Người lớn dùng gùi lớn, người bé
dùng gùi nhỏ. Gùi được đan bằng nan giang hoặc trúc nên dùng rất bền. Dây
gùi thường được làm bằng da trâu, bò hoặc dây móc. Gùi cao khoảng 60cm, có
đáy hình chữ nhật 20cm x 30cm; phần thân gùi phía trên loe to dần. Miệng gùi
có hình bầu dục, không có nắp đậy, có thể chúa được những vật có chiều cao
hơn gùi như cuốc, củi...
Máng đập lúa: Cũng giống như chiếc gùi, đây là công cụ đặc thù của
người Mông nói riêng của các tộc người miền núi nói chung. Máng được cấu tạo
từ thân cây còn nguyên, bề ngoài trông như hình thang hộp, lòng máng được đục
rỗng hình hộp chữ nhật. Nếu không có thân gỗ nguyên, người ta dùng các miếng
ván to ghép mộng với nhau tạo thành máng hình hộp thang cân, dùng cho nhiều
người đập. Gặt đến thửa ruộng nào người ta di chuyển máng đến đó và đập lúa ở
hai quanh máng, rồi mới cho thóc vào gùi chở về nhà.
Giải pháp nước tưới, chăm sóc
Để thích ứng với điều kiện tự nhiên, người Mông ở Võ Nhai đã có những
giải pháp tưới nước cho hệ thống các ruộng lúa của mình, như đào mương qua
các sườn núi để dẫn nước từ các khe suối về ruộng. Chiều dài của con mương
tuỳ thuộc vào nguồn nước xa hay gần. Đối với ruộng bậc thang, họ biết đào các
rãnh dẫn nước từ ruộng trên xuống ruộng dưới theo nguyên tắc so le nhằm
tránh vỡ bờ.
Làm cỏ, vun gốc các loại cây trồng là một khâu không thể thiếu trong
canh tác ruộng của người Mông ở Võ Nhai. Trong một vụ lúa, bao giờ họ cũng
làm cỏ ít nhất hai lần kết hợp với bón phân chuồng, phân lân, đạm, phun thuốc
bảo vệ thực vật. Đối với các loại hoa màu và các loại cây xen canh khác, đồng
bào cũng chú trọng đến khâu làm cỏ vun xới.
Trong thu hoạch, bảo quản và trao đổi hàng hoá
Thu hoạch và cất giữ là khâu cuối cùng của việc trồng trọt. Đối với
nương rẫy, người Mông thu hoạch các cây trồng xen canh trước rồi mới thu
29
hoạch ngô. Khi ngô bắt đầu cứng hạt (hạt chín vàng), đồng bào phát những bụi
rậm quanh nương để chim, sóc, chuột không có chỗ trú ngụ. Một số gia đình
làm bẫy hoặc bù nhìn để đuổi thú rừng.
Vào các tháng 5 - 6, 10 - 11 là thời gian thu hoạch ngô và là khâu cuối
cùng của chu kì sản xuất. Khi râu ngô héo, vỏ quả ngô cũng như các lá ngô
chuyển sang màu vàng, là lúc đồng bào đem gùi đi hái ngô. Các hộ gia đình
trong họ hàng, hàng xóm tiến hành đổi công cho nhau. Ngô được bẻ cả mo, gùi
về nhà và phân loại sau đó cất riêng từng loại, phơi khô rồi cất giữ. Từng quả
ngô được xếp ngay ngắn thành hàng chồng lên nhau rất đẹp mắt lại tận dụng
được tối đa diện tích gác bếp. Ngô được treo ở gác bếp, giúp khô nhanh hơn và
được lớp bồ hóng bảo vệ nên không bị sâu mọt. Hiện nay, nhờ áp dụng các
giống ngô lai, nhiều loại phân bón nên sản lượng ngô thu hoạch của đồng bào
tăng lên rất cao, họ chỉ để một phần dùng cho gia đình đến vụ sau, số còn lại
mang ra trao đổi mua bán. Khi thu hoạch lúa, họ cũng cắt cây lúa và đập tại
ruộng rồi mang thóc về phơi, rơm rạ để tại ruộng khi nào khô sẽ đốt.
Bên cạnh những nông cụ truyền thống của tộc người mình, đồng bào đã
biết áp dụng máy móc vào sản xuất, mày cày, máy gặt, máy bơm nước... đã trở
thành nông cụ quen thuộc với nhiều gia đình người Mông ở Võ Nhai. Phân hoá
học, thuốc trừ sâu cũng được sử dụng phổ biến, góp phần đem lại năng suất lao
động cao trong trồng trọt. Việc Nhà nước đầu tư mở mang đường sá vào các
xóm Lũng Cà, Lũng Hoài (xã Thượng Nung); xóm Đồng Giong (khu Lân
Thùng, xã Phương Giao); xóm Lân Vai (xã Dân Tiến); xóm Chòi Hồng (xã
Tràng Xá)...[42], đã tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào vận chuyển nông sản.
Các loại xe máy, máy kéo được huy động nhiều hơn để vận chuyển nông sản
thay cho gùi.
Cuối năm 2014, Nhà nước đầu tư đổ bê tông tuyến đường dài gần 10km
từ trung tâm xã vào xóm theo Đề án 2037. Có đường mới, người dân ở đây đã
mạnh dạn vay vốn để chuyển một phần đất trồng ngô kém hiệu quả sang trồng
30
rừng sản xuất. Đến nay, bà con trồng được khoảng 15ha cây keo. Hiện tại,
trong xóm Khuổi Mèo đã có gần 40 hộ dân vay vốn của Ngân hàng Chính sách
Xã hội với số tiền từ 20 đến 30 triệu đồng để đầu tư trồng rừng. Bên cạnh đó,
một số hộ đồng bào Mông đã chuyển một phần đất trồng ngô sang trồng cây ăn
quả và bước đầu mở ra hướng phát triển mới cho cuộc sống.
2.1.2. Về chăn nuôi
Chăn nuôi là hoạt động kinh tế quan trọng và khá phổ biến của tộc
người Mông ở Võ Nhai. Nó hoàn toàn mang tính tự phát và gắn liền với
kinh tế hộ gia đình. Ngoài các loại gia cầm, người Mông chăn nuôi gia súc
không chỉ làm thực phẩm cho cuộc sống hằng ngày và phục vụ sản xuất,
mà còn cung cấp sản vật cho những hoạt động tôn giáo tín ngưỡng và các
nghi lễ không thể thiếu trong chu kì đời người; một phần nhỏ được dùng để
trao đổi, mua bán.
- Cách chọn giống các loại gia súc, gia cầm:
Đối với người Mông ở Võ Nhai, những con vật được nuôi trong gia đình
là trâu, bò, dê, gà, lợn, chó... Việc chọn giống các vật nuôi chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm được tích luỹ và truyền từ đời này sang đời khác. Để chọn giống
trâu, bò, cần phải chọn những con thân cao, vai rộng, chân to, móng tròn. Đó là
những con có sức khoẻ tốt. Những con trâu cái, bò cái, cần có mông to, rộng
bầu sữa, đôi sừng nhỏ và hơi mọc xuôi về đằng vai.
- Về phương thức nuôi dưỡng
Các loại gia súc như trâu, bò và dê chủ yếu được chăn thả tự nhiên trên
đồi núi, thức ăn là các loại cây cỏ có sẵn trong tự nhiên. Khi vào vụ rét hoặc
mùa vụ cày cấy, họ bồi dưỡng thêm cho trâu, bò rơm rạ, cây ngô tươi, thậm chí
là nấu cám ngô cho gia súc ăn để đảm bảo sức kéo trong vụ mùa.
Ngoài trâu, bò, lợn là con vật nuôi phổ biến của người Mông ở Võ Nhai.
Họ quan niệm “Lợn là vị thần có công giúp người, là người cha của người
Mèo” [48]. Chuồng lợn chỉ mang tính chất tạm bợ, được dựng lên bởi vài cây
31
gỗ và lợp bằng lá cọ, lá gianh. Họ cho lợn ăn 3 lần trong ngày, thường là vào
các buổi sáng, buổi trưa và tối. Thức ăn chính của lợn khá đơn giản, chỉ có một
ít bột ngô quấy chín với nước, một ít rau (lá khoai lang, chuối và rau rừng)
được nấu chín. Việc sử dụng cám tăng trọng trong nuôi lợn của đồng bào rất ít,
chủ yếu vẫn là nuôi theo phương pháp truyền thống. Giống lợn chủ yếu được
người Mông lựa chọn nuôi là lợn đen vì lợn đen có sức đề kháng tốt, không
phải chăm sóc nhiều.
Nuôi gà và lợn đã mang tính chất sản xuất hàng hóa. Đặc biệt, do giống
lợn đen của đồng bào thịt ngon nên rất được ưa chuộng tại thị trường huyện và
các vùng lân cận. Bên cạnh các loại thức ăn truyền thống, đồng bào đã biết sử
dụng cám công nghiệp cho gà và lợn ăn. Công tác thú y phòng dịch cho gia súc,
gia cầm đã được chú ý. Do đường sá được mở rộng đến tận thôn, bản, nên
những sản phẩm nông sản và vật nuôi của bà con được các lái buôn đến tận nhà
thu mua, đồng bào không phải mất công vận chuyển ra chợ. Năm 2013, Nhà
nước hỗ trợ cho đồng bào Mông 24 con giống [43]. Bà con cũng đã đầu tư
chăn nuôi bò, nuôi dê núi lấy thịt, đem lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Với lợi thế về bãi chăn thả đại gia súc, từ năm 2013, người dân xóm Khuổi
Mèo đã mạnh dạn đầu tư phát triển chăn nuôi trâu, bò, dê. Đến nay, tổng đàn trâu,
bò trong xóm đã đạt hơn 200 con và có 4 hộ nuôi dê với tổng số gần 100 con. Có
gia đình nuôi tới 10 con trâu, bò, điển hình như Trưởng xóm Phùng Văn Lành.
Chăn nuôi đại gia súc theo hướng thương phẩm đã bắt đầu hình thành thay cho
việc chăn nuôi lấy sức kéo như trước. Gia đình chị Chị Lý Thị Vàng, xóm Khuổi
Mèo, xã Sảng Mộc cũng mua 2 con trâu về để chăn thả, đến nay, trâu mẹ đã đẻ
được một nghé con. 2 năm nữa đến hạn trả vốn ngân hàng, gia đình chị bán 2
con trâu là có thể trả đủ số tiền đã vay để đầu tư.
2.2. Nghề thủ công gia đình
Nền kinh tế tự cung tự cấp đã biến mỗi gia đình Mông trở thành một đơn
vị kinh tế độc lập. Gia đình người Mông tự làm ra mọi thứ thiết yếu phục vụ
32
cho cuộc sống của mình. Nhìn chung, nghề thủ công của người Mông khá phát
triển, nhất là các nghề dệt, đan lát, mộc, nấu rượu. Kết quả điền dã tại các xã
Thượng Nung, Lâu Thượng, La Hiên, Dân Tiến huyện Võ Nhai cho thấy, khi di
cư đến đây, người Mông vẫn tiếp tục duy trì các nghề thủ công trên.
- Nghề mộc
Hầu hết nam giới người Mông ở Võ Nhai đều biết đến nghề mộc. Tuy
nhiên, đây chỉ là nghề được sử dụng chủ yếu trong việc làm nhà và làm ra các
đồ vật dùng trong gia đình, như thùng gỗ, máng gỗ, thìa gỗ. Trong nghề mộc,
đồng bào không sử dụng các loại đinh mà chủ yếu sử dụng kĩ thuật ghép mộng.
Ví dụ như để làm thùng gỗ, đồng bào dùng kĩ thuật bào ghép, đóng đai, đối với
máng gỗ thì dùng kĩ thuật tiện.
Mỗi gia đình người Mông đều có 2 chiếc bàn gỗ chuyên dùng để ăn cơm.
Bàn có hình vuông, mỗi bề khoảng 80cm đến 100cm, cao khoảng 60cm. Ghế
thường được làm từ miếng gỗ ghép lại dùng để ngồi ăn cơm và sưởi ấm.
Đồng bào Mông thường làm giường ngủ bằng cây mai, cây vầu đan
thành phên nan hoặc phản gỗ. Có hai loại giường: Loại giường được đóng
khung vững, đặt trên mặt đất và loại dùng cột gỗ chôn thẳng xuống đất làm
chân giường, sau đó gác phên lên để ngủ. Giường của người Mông thường hẹp
và ngắn, chiều dài trung bình là 1m60 đến 1m80, chiều rộng khoảng từ 80cm
đến 1m20.
Nghề mộc hiện nay đang đứng trước nguy cơ mai một do các sản phẩm
công nghiệp cạnh tranh.
- Nghề dệt
Mỗi gia đình người Mông đều có khung cửi để tự dệt vải mặc và vải làm
chăn màn cho cả gia đình. Trong các gia đình người Mông, phụ nữ phải biết
trồng lanh dệt vải, biết kĩ thuật in hoa văn bằng sáp ong, thêu hoa văn bằng các
loại vải mầu, chỉ mầu…Vì vậy, ngay từ nhỏ, các bé gái đã được học để khi trở
33
thành thiếu nữ, họ có đủ khả năng tạo nên các tấm vải lanh, làm nên bộ váy áo
cho bản thân và gia đình, nhất là người chồng và gia đình người chồng sau này.
Se sợi
Khung se sợi bao gồm các bộ phận: khung gỗ, bàn đạp bánh xe, các con
lăn cắm vào các que gỗ. Khi sợi soắn xong, người ta căng sợi lên dàn quay.
Dàn quay được làm bằng gỗ hay bằng tre cao khoảng 90cm, một đầu cắm
xuống đất, đầu trên có thể quay tròn được và đục hai lỗ để hai thanh tre dài
500cm - 600cm, bắt lại vuông góc với nhau thành hình dấu cộng. Ở đầu thanh
tre có cài que để giữ sợi lanh. Khi vận hành, người ta đẩy trục gỗ quay tròn và
cuốn sợi lên khung tre. Khi sợi đã căng trên dàn, họ gỡ xuống và đem phơi một
ngày. Sợi khi gỡ từ dàn xuống vẫn còn thô cứng và còn nguyên lớp vỏ xanh
của sợi lanh. Để làm sợi lanh có mầu trắng, dùng tro của cây gỗ trai để tẩy. Họ
cho sợi vào chảo đun cùng một ít nước, đến khi sợi có độ nóng vừa phải thì rắc
tro của cây gỗ trai vào và đảo đều, ủ hai ngày cho sợi ngấm đều nước tro rồi
đem giặt, giặt đến khi sợi lanh trắng ra là được. Khi sợi đã trắng như ý muốn,
luộc sợi hoà với sáp ong để cho sợi có độ bóng đẹp hơn.
Lăn sợi
Dụng cụ lăn sợi là một trục lăn làm bằng gỗ tròn, một phiến đá có bản
rộng từ 30cm đến 50cm. Khi lăn, họ đặt sợi lên khúc gỗ, lấy phiến đá đặt lên
trên rồi đứng lên phiến đá cho trục gỗ lăn đi lăn lại với mục đích làm cho sợi
mềm, bóng và các đầu nối của sợi được phẳng đều. Khi lăn sợi xong, họ đưa
sợi lên dàn quay để tháo sợi ra; sau đó kéo sợi để làm con chỉ. Mỗi con chỉ
thường có từ 10 sợi đến 12 sợi.
Dệt vải
Khung dệt của người Mông khá đơn giản, gồm hai thanh gỗ dựng đứng
cùng với vài thanh ngang đóng thành khung cố định. Khung dệt còn có thoi dệt,
dài khoảng 50cm, rộng 12cm, dày 5cm. Trước khi cho sợi vào khung dệt, họ
căng cho đủ số sợi dọc của khổ vải. Khi dệt cần phải buộc dây ở trục vòng qua
34
sau lưng, lấy chân đạp làm tách sợi dọc ra, dùng tay đẩy thoi dệt đan sợi ngang
qua lại, kéo lực ép sợi cho thật khít thì vải mới đẹp.
Kĩ thuật nhuộm chàm
Người Mông trồng cây chàm và chế biến thuốc chàm để nhuộm vải. Cây
chàm được cắt về, mang ngâm xuống nước cho đến khi mục rữa ra; gạn lấy
nước đem hoà với tro bếp và nước vôi, khuấy đều, để lắng lấy cao chàm. Vải
được nhúng vào nước lã cho ngấm đều, rồi ngâm vào vại nước chàm, ủ qua một
đêm, hôm sau giặt qua nước lã rồi đem phơi khô. Khi vải khô, lại nhúng vào
nước chàm, rồi mang phơi khô... Công việc đó lặp đi lặp lại nhiều lần, cho đến
khi nào vải có mầu đen ánh thì được.
Cắt và khâu y phục
Người Mông ở Võ Nhai nói riêng và ở các nơi khác nói chung
thường tự khâu cho mình những bộ trang phục bằng những mảnh vải tự làm
ra. Một mảnh vải thường có khổ rộng từ 35cm đến 50cm, được cắt thành
các miếng nhỏ tương ứng với những bộ phận có trên bộ trang phục, sau đó
khâu thành váy, áo.
Công việc tiếp theo là tạo hoa văn trên các bộ y phục. Thêu thùa trang
trí hoa văn trên vải là nét văn hoá đặc sắc của phụ nữ Mông. Họ có cách thêu
độc đáo và khéo léo, tạo hoa văn không theo mẫu vẽ sẵn mà hoàn toàn dựa
vào trí nhớ và óc tưởng tượng. Kĩ thuật thêu thể hiện trên mặt trái của vải để
hình mẫu nổi lên mặt phải. Do đó, trước khi thêu, phải tính toán tỉ mỉ tới từng
đường kim sợi chỉ, nhớ kích thước từng hoạ tiết trong toàn bộ mảng hoa văn,
tạo được tổng thể đồ án hoa văn có bố cục cân đối, hài hoà, mang tính thẩm
mĩ cao trong trang phục. Hoạ tiết hoa văn phổ biến là hình sừng trâu, con ốc,
các hình chữ thập ngoặc và hình móc câu… gắn với cảnh quan thiên nhiên và
quan niệm của tộc người.
Hiện nay đa số phụ nữ Mông đều biết đến nghề dệt, họ vẫn có thể kéo sợi
dệt nên những bộ quần áo đặc trưng của tộc người mình. Mặc dù có rất nhiều chỉ
35
thêu và vải có hoa văn gần giống hoa văn trên trang phục truyền thống của phụ
nữ Mông được bán tại các phiên chợ, nhưng phần lớn thiếu nữ Mông ở Võ Nhai
vẫn tự tay thêu và may lấy một bộ trang phục dùng để mặc khi cưới chồng và
dùng vào những dịp lễ tết quan trọng sau này trong gia đình. Trang phục hằng
ngày của họ hiện nay chủ yếu vẫn là từ sản phẩm thủ công.
- Nghề nấu rượu ngô
Nấu rượu ngô cũng được coi là một nghề của người Mông ở Võ Nhai.
Rượu ngô của đồng bào có mùi thơm đặc trưng, uống rất êm, dễ uống nhưng lại
rất dễ say. Để chưng cất được loại rượu có một không hai này, ngoài nguyên
liệu chính là ngô thì chất gây men không thể thiếu là lá rừng. Men lá được pha
chế từ hơn 20 loại thảo dược quý hiếm như: Cây dây nước, trầu rừng, dây ngọt,
rong rừng..., có tác dụng chữa lành vết thương, phong thấp, thấp khớp.
Muốn rượu được thơm ngon, ngô phải được trộn trực tiếp với củ giềng,
rau răm và lá quế đã xay nhỏ, với một tỷ lệ nhất định tuỳ theo bí quyết của mỗi
gia đình sau đó mang ủ vào thùng gỗ từ 20 đến 30 ngày cho ngô có thể lên men
đều mới mang chưng cất. Khi ngô đã lên men đều, họ cho ngô vào chõ gỗ và đặt
vào chảo bắt đầu nấu rượu. Sau 3 giờ liên tục thay nước, đun lửa đều, công đoạn
chưng cất mới hoàn thành. Rượu chưng cất được thường khoảng 30 - 35 độ.
Hiện nay, nghề nấu rượu ngô của tộc người Mông vẫn tiếp tục phát triển,
trở thành đặc sản rất được ưa chuộng và bán rất chạy trên thị trường huyện.
Nghề bốc thuốc chữa bệnh
Cũng giống như các tộc người khác, người Mông nói chung và người
Mông ở Võ Nhai nói riêng có một kho tàng kiến thức truyền đời về các loại cây
thuốc chữa bệnh, thuốc bổ và các bài thuốc chữa bệnh. Các bài thuốc ban đầu
thường chỉ được truyền trong dòng họ và dùng để chữa bệnh cho người trong
gia đình. Nhưng do tính hiệu quả và độc đáo của các bài thuốc của họ, bốc
thuốc chữa bệnh dần dần trở thành một nghề. Cây thuốc chủ yếu là sản vật của
36
rừng, dựa vào kinh nghiệm truyền miệng từ đời này sang đời khác mà không có
sự ghi chép.
Người Mông ở các xã Thượng Nung, La Hiên, Phương Giao... biết lấy
cây sau sau cùng một vài loại lá cây khác, hơ nóng, dải ra giường nằm để chữa
bệnh đau xương, khớp và để những người bị gãy xương nhanh lành. Các bài
thuốc lá tắm cho phụ nữ sau khi sinh nở của đồng bào Mông ở Võ Nhai cũng
rất được đồng bào các dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn huyện tin dùng.
Ngày nay, nghề bốc thuốc chữa bệnh không còn phổ biến ở đồng bào
Mông do sự thay đổi của môi trường sống và dịch vụ y tế phát triển.
- Nghề đan lát
Sản phẩm đan lát là các loại gùi, sọt, lồng gà, nơm úp gà. Nguyên liệu để
đan lát là các loại cây như nứa, mai, dang. Mùa đan lát là tháng 1- 2, là lúc nứa,
mai ... đang độ bánh tẻ, cũng là thời gian nông nhàn.
2.3. Khai thác nguồn lợi tự nhiên
Địa bàn cư trú của người Mông chủ yếu trên các cao nguyên và vùng núi
cao. Sống gần gũi với thiên nhiên, được thiên nhiên ưu đãi của cải tự nhiên có
thể tận dụng được, đồng bào Mông đã tranh thủ khai thác tất cả các nguồn lợi
sẵn có của núi rừng.
- Hái lượm
Cùng với săn bắt, hái lượm là một hình thức phổ biến của các gia đình
người Mông ở Võ Nhai. Rừng là nơi cung cấp cho họ một lượng lớn thức ăn từ
hái lượm, như các loại hoa quả (đu đủ, chuối, nhãn...), rau, củ rừng (ngót
hương, tầm bóp, củ mài...), củ rễ....theo kinh nghiệm cổ truyền. Bên cạnh đó,
các loại lâm sản quý, các loại cây thuốc chữa bệnh... là nguồn góp phần bổ trợ
cho kinh tế gia đình họ. Công việc này diễn ra quanh năm do mỗi mùa lại có
những nguồn lợi riêng biệt từ hái lượm đem lại.
37
Các loại rau, củ hầu như được đồng bào thu hái quanh năm, nhưng nhiều
nhất là vào mùa xuân và mùa hạ. Rau, củ thu nhặt được dùng trong bữa ăn
chính làm thức ăn như củ mài (hoài sơn), rau ngót rừng, măng rừng. Nhiều củ,
quả có thể được chế biến để dành ăn vào những tháng giáp hạt như củ mài, củ
rong, củ nâu. Trong số các sản phẩm thu nhặt được, nhiều thứ có thể dùng làm
thuốc bổ chữa bệnh, như mật ong, sa nhân. Các loại măng, mộc nhĩ, nấm hương
thường được thu hái ngoài việc phục vụ bữa ăn gia đình, còn được đồng bào
đem bán vì có giá trị kinh tế cao.
2.4. Trao đổi hàng hoá
Khi mới di cư về Võ Nhai, do địa bàn cư trú tương đối cách biệt nên mỗi
gia đình, mỗi bản Mông là một đơn vị kinh tế tự cấp tự túc. Hoạt động trao đổi
chưa phát triển và nhu cầu trao đổi chưa phải là cấp thiết.
Từ năm 1986, thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là từ khi thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, hệ thống đường liên
thôn, liên bản đã giúp cho việc trao đổi hàng hoá của người Mông với các tộc
người khác thuận lợi hơn nhiều. “Việc trao đổi hàng hóa chủ yếu trong các chợ
phiên”[49]. Sản phẩm đem bán thường là lá để làm bánh các loại, mục nhĩ, nấm
hương, cây thuốc lấy trong rừng, gà, đồ dệt. Sản phẩm mua về thường là muối,
thịt, cá, chỉ thêu, đồ trang sức ... Ở Võ Nhai, không có chợ dành riêng cho tộc
người Mông mà chợ phiên của tất cả các tộc người cùng một xã, hoặc vài xã
gần nhau. Chợ phiên tại các xã được tính theo lịch âm. Chợ phiên ở Dân Tiến
họp các ngày 4, 9, 14, 19, 24 và 29; ở La Hiên họp vào các ngày 3, 8, 13, 18, 23
và 28 hằng tháng. Ngoài chợ phiên, ở Võ Nhai còn có tổ chức phiên chợ tình của người Mông vào ngày 26 tháng 3 âm lịch [20].
Đến Thái Nguyên, do địa hình địa bàn cư trú ở thấp hơn so với ở Cao
Bằng, Hà Giang, chợ búa thuận tiện hơn nên người Mông ở Võ Nhai cũng dần
bỏ thói quen đi chợ từ chiều ngày hôm trước (chợ chiều). Đi chợ đối với người
Mông vẫn là sự hài hoà giữa hoạt động kinh tế và văn hoá. Nó thể hiện rõ hai
yếu tố: Trao đổi, mua bán và giao lưu văn hóa giữa người Mông với người
38
Mông và giữa người Mông với các tộc người khác. Thông qua các phiên chợ,
mối quan hệ giữa họ ngày càng gắn bó, thân thiện hơn.
Hàng hóa được đem ra trao đổi, mua bán, thúc đẩy đời sống của đồng
bào ngày càng phát triển. Đến nay, đời sống của tộc người Mông ở huyện Võ
Nhai đã có nhiều thay đổi; đời sống vật chất, tinh thần được nâng lên. Đạt được
kết quả này, ngoài sự nỗ lực của người dân còn có sự quan tâm hỗ trợ của Nhà
nước. Riêng trong 5 năm (2010 - 2015), đã có 20 hộ đồng bào Mông được hỗ
trợ làm nhà ở theo Chương trình 134 và Quyết định 167 của Chính phủ; 4 hộ
được hỗ trợ xây dựng công trình nước sinh hoạt phân tán; 33/33 hộ dân trong
huyện được hỗ trợ sản xuất (máy móc, cây, con giống…) với số tiền hàng tỉ
đồng [41].
Tiểu kết chƣơng 2
Sinh sống trong điều kiện của một huyện miền núi Võ Nhai, đời sống
kinh tế của người Mông chủ yếu diễn ra trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi,
tiểu thủ công nghiệp và trao đổi hàng hoá. Trong đó, trồng trọt là lĩnh vực
chính; chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và trao đổi hàng hoá chỉ đóng vai trò bổ
trợ. Hoạt động của tộc người Mông trong lĩnh vực chăn nuôi nhằm đáp ứng nhu
cầu về sức kéo, vận chuyển, cung cấp nguồn phân hữu cơ phục vụ trồng trọt và
nhu cầu về thực phẩm. Hoạt động của các nghề thủ công chỉ diễn ra vào lúc
nông nhàn, góp phần tăng nguồn thu nhập cho các hộ gia đình. Bên cạnh đó,
kinh tế hái lượm, trao đổi hàng hóa ở chợ phiên cũng thực hiện chức năng hỗ
trợ cho nông nghiệp.
Từ những năm 90 của thế kỉ XX, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của
chính quyền địa phương, của các tộc người khác, cuộc sống định canh định cư
của người Mông ở huyện Võ Nhai đã và đang có những chuyển biến rõ rệt.
Việc sống xen cư với các tộc người khác trong huyện đã tạo điều kiện giúp tộc
người Mông ở Võ Nhai giao lưu, học hỏi các kinh nghiệm trong đời sống kinh
tế, làm phong phú thêm bản sắc văn hoá tộc người mình.
39
Chƣơng 3
ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG
Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN
TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã nêu lên quan điểm chỉ đạo
về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số: Nền văn hóa Việt Nam là nền văn
hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. “Hơn 50
dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng.
Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt
Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc, là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và
phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em” [5].
Trong mỗi tộc người, văn hóa là cái không thể tách rời, là một yếu tố
không thể thiếu được trong cuộc sống con người, nó ăn sâu, bám rễ vào cuộc
sống của các thế hệ, tạo nên nét đặc trưng riêng biệt của từng tộc người, góp
phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của Quốc gia dân tộc. Di cư đến
huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ những năm 80 của thế kỉ trước, người
Mông ở Võ Nhai vẫn giữ cho mình những nét đặc trưng riêng có của tộc
người mình.
3.1. Tổ chức xã hội
Mỗi tộc người đều có cấu trúc xã hội mang những nét đặc thù, tồn tại qua
nhiều thế hệ và tiếp diễn đến nay. Bên cạnh những yếu tố lạc hậu, tiêu cực cần
loại bỏ, còn có rất nhiều yếu tố tích cực cần được gìn giữ, phát huy. Đó chính là
những giá trị văn hoá mang tính truyền thống của mỗi tộc người. Tổ chức xã
hội của tộc người Mông ở Võ Nhai là một điển hình của tộc người cư trú ở địa
bàn miền núi.
40
3.1.1. Cộng đồng làng bản, dòng họ
Về tổ chức cộng đồng làng bản
Do nguồn gốc lịch sử và sự chi phối của điều kiện tự nhiên, người Mông
di cư và tự phát sống cụm thành làng bản. Làng là đơn vị xã hội cơ bản và duy
nhất ở tộc người này. Người Mông gọi làng là Jaol hay Jol, Jêz Jol - đều có
nghĩa là “ổ” hay “tổ”, tức chỉ một cộng đồng cùng chung sống trong khu vực
địa lí nhất định. Làng Mông được hình thành trên sự tụ cư của những nhóm
người có hay không có mối quan hệ huyết thống. Bởi vậy, mối quan hệ cộng
đồng làng ở tộc người này thực chất là mối quan hệ của các thành viên cùng
dòng họ và giữa các dòng họ cùng địa vực cư trú.
Mật độ cư trú trong bản tuỳ thuộc vào địa hình, phạm vi đất đai; trung
bình mỗi bản có từ 25 đến 40 nóc nhà và có bãi chăn thả chung. Cũng do điều
kiện của địa hình và điều kiện tự nhiên, nhà của người Mông ở Võ Nhai thường
làm ở khu vực lưng chừng đồi thấp hoặc lẻ tẻ vài ba nhà ở một quả đồi; ở
những khu vực bằng phẳng thì tập trung nhiều hơn và sát gần nhau. Nhà trong
bản không theo một hướng nhất định, nhưng rất kiêng quay lưng ra sông suối,
khe hay vực sâu; thông thường nhà dựa lưng vào núi. Mỗi bản đều có địa giới
riêng và được quy định khi khai phá lập bản dần dần hình thành ý thức của các
thành viên trong bản về chủ quyền lãnh thổ của mình. Ranh giới giữa các bản
có thể là một bìa rừng, một ngọn núi hay một con suối. Mỗi bản có quyền sở
hữu, quản lí, bảo vệ và sử dụng đất, rừng, ruộng nương, nguồn nước cũng như
tài nguyên trong phạm vi của mình. Các bản còn có khu vực công như nhà văn
hóa, bãi đất rộng để tổ chức các hoạt động lễ, tết, vui chơi.
Đứng đầu mỗi bản có Trưởng bản (Trưởng xóm), tiếng Mông gọi là chư
dò hay chư dỉnh. Các Trưởng bản có nhiệm vụ thực hiện những công việc
chung của bản, như triển khai những chủ trương, chính sách của Đảng đến
đồng bào, những chính sách an sinh xã hội, quy ước chung của bản đã đề ra
và đôn đốc mọi người thực hiện. Trưởng bản được bầu dựa trên sự tín nhiệm
41
của nhân dân trong bản, theo cơ cấu của xã và có trình độ chuyên môn nhất
định. Trưởng bản phải là người biết ứng xử, nói được, làm được, có kinh
nghiệm trong sản xuất. Bên cạnh Trưởng bản còn có già làng là những người
có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, am hiểu phong tục tập quán, là người
được dân bản kính trọng.
Trong phạm vi một bản, các gia đình được phép khai phá đất đai làm
nương rẫy, theo những quy định chung: Nơi nào có dấu hiệu là đất đã có chủ thì
không được xâm phạm, nếu muốn làm trên đất của người khác thì phải hỏi ý
kiến kèm theo chút quà là một con gà và chai rượu cho người đã có công khai
phá; Người ở bản khác đến khai phá phải hỏi Trưởng bản, mang theo rượu, gà.
Nếu được đồng ý thì còn phải nộp thêm lệ phí cho bản tuỳ theo chất lượng đất
canh tác; nhưng sau 3 - 5 năm phải trả lại cho bản. Những nương ngô, ruộng lúa
sau 3 đến 4 năm mà gia đình đó không canh tác nữa thì thuộc sở hữu công cộng.
Để bảo vệ nguồn nước của bản, vào cuối năm Trưởng bản đứng ra điều hành
việc tu sửa, mọi gia đình đều phải cử người đến góp sức. Người Mông cấm tắm
giặt, mổ lợn gà ở nguồn nước cũng như chặt phá rừng để làm nương rẫy ở những
khu vực rừng do bản quy định, nếu vi phạm sẽ bị phạt.
Những lễ nghi liên quan đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng chiếm vị trí
quan trọng. Đầu năm mới, các bản tổ chức lễ cúng ma bản. Các thành viên
trong bản có ý thức cộng đồng, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng
như khi có công việc ma chay, cưới xin, làm nhà mới, thăm hỏi giúp đỡ nhau
khi sinh đẻ hay lúc ốm đau, hoạn nạn.
Cộng đồng người Mông cư trú trên một phạm vi chủ yếu theo quan hệ
huyết thống cùng thực hiện những quy ước chung. Bản của người Mông là
quan hệ thôn xã cổ truyền, có vai trò quan trọng trong đời sống. Trong điều
kiện sản xuất cá thể, du canh, du cư, kinh tế mang tính khép kín, cư trú biệt lập
ở vùng núi cao, những quan hệ đó được lưu giữ một cách tự nhiên với nhiều
mức độ khác nhau.
42
Về tổ chức dòng họ
Người Mông gọi dòng họ là “xềnh” hoặc “xông”. Trong phạm vi rộng:
Dòng họ của người Mông gồm tất cả những người cùng một họ dù người đó cư
trú ở đâu. Người Mông quan niệm những người cùng chung một họ là những
người “cùng ma”, đều được sinh ra từ một ông tổ nên đều là anh em. Khi đã
nhận nhau là người cùng họ thì dù ở xa đến mấy cũng đều được coi là người
nhà và đều chịu sự chi phối của tổ chức dòng họ. Tính cố kết của cộng đồng
người Mông rất rộng lớn. Những thành viên cùng dòng họ, cùng tổ tiên còn
nhận nhau qua các điều kiêng kị về ăn uống, qua nghi thức cúng ma khô; qua
cách cúng, cách đặt hướng mộ, cách làm ma tươi. Những điều kiêng kị này đều
gắn với câu chuyện của từng dòng họ được truyền từ đời này sang đời khác,
mỗi thành viên đều phải có trách nhiệm ghi nhớ và tuân thủ.
Cũng như các tộc người khác, các thành viên trong một dòng họ người
Mông gắn bó với nhau bởi một phả hệ cùng có một ông tổ. Ông tổ là người đã
chết mà người già ở thế hệ cao nhất còn nhớ, thông thường là 3 thế hệ: con
(tua nhủa), cha (nia), ông (pò cúng). Các dòng họ phổ biến của người Mông ở
Võ Nhai là Lý, Sần, Hoàng, Sùng, ...trong đó đông nhất là dòng họ Lý. Các
dòng họ trên phân bố ở nhiều bản khác nhau, nhưng mỗi bản có một hoặc hai
dòng họ chiếm số đông. Chẳng hạn, tại xóm Lân Vai xã Dân Tiến, dòng họ Lý
chiếm số đông; ở bản Đồng Ươm thì dòng họ Sùng chiếm số đông. Các gia
đình cùng họ ở đây thường sống chung với nhau, song không có chỗ thờ cúng
tổ tiên chung.
Mỗi dòng họ đều có một trưởng họ, là người có vị trí hết sức quan trọng
và được coi là linh hồn của dòng họ. Trưởng họ là người có đạo đức, công tâm,
hiểu biết về lịch sử dòng họ, thành thục phong tục tập quán, biết các bài cúng
của dòng họ, có tài ứng xử. Trưởng họ là người có khả năng tổ chức, có kinh
nghiệm trong sản xuất, biết quan tâm đến đời sống và bảo vệ lợi ích của dòng
họ, gây được ảnh hưởng tốt đối với các thành viên trong họ, được mọi người
43
kính trọng. Trưởng họ cũng là người chịu trách nhiệm trước dòng họ truyền đạt
lại những tục lệ, kinh nghiệm của dòng họ cho con cháu, vận động các thành
viên giữ gìn đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Với uy tín và sự hiểu biệt của mình,
trưởng họ được các thành viên tin cậy, chia sẻ ý kiến; do đó tiếng nói của
trưởng họ có vai trò rất quan trọng, thậm chí là quyết định.
Ngày nay, trưởng họ là người có vai trò tích cực vận động các thành viên
trong dòng họ mình thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; đồng thời
phối hợp với chính quyền địa phương để tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lí xã hội trong cộng đồng người Mông. Bên cạnh trưởng họ, trong tổ
chức dòng họ còn có vai trò của bà cô (phâux) và người cầm quyền ma quyển
khách (cho đáng khô). Bà cô là người có thể quyết định thay thế một tập quán dù
lâu đời nhưng không còn phù hợp. Người cầm quyển ma quyển khách là người
có thể đảm nhiệm những việc liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng và các công việc
đối ngoại. Tổ chức dòng họ bao gồm trưởng họ, bà cô, người cầm quyển ma
quyển khách được coi là bộ máy tự quản rất hữu hiệu và quan trọng trong xã hội
của tộc người Mông. Đây là những người làm nhiệm vụ theo dõi, đề xướng
hướng giải quyết những công việc liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm
linh của các thành viên trong dòng họ cũng như công việc liên quan đến cộng
đồng xã hội nói chung.
Các đặc trưng của dòng họ:
Trước hết ngoại hôn tuyệt đối là đặc trưng nổi bật trong dòng họ của
người Mông. Người cùng họ, cùng thờ một ông tổ dù xa đến mấy đời cũng
không được kết hôn với nhau, trước đây còn có quy định người Mông không
được lấy người dân tộc khác. Người trong một họ kết hôn với nhau sẽ bị coi là
phạm tội loạn luân và bị phạt rất nặng.
Sự thống nhất về mặt xã hội của dòng họ tộc người Mông được thể hiện
rất rõ trong nét cư trú. Trước đây, các gia đình thường di cư theo dòng họ nên có
44
hiện tượng một bản chỉ có một dòng họ. Hiện nay, hình thức cư trú xen kẽ giữa
các dòng họ trong một bản tương đối phổ biến. Dòng họ nào có công khai phá,
lập bản thường có nhiều quyền lợi hơn, như được giữ chức Trưởng bản, được
chủ trì lễ cúng đuổi ma, cúng thổ thần, có ruộng nương nhiều. Mặt khác, các gia
đình trong cùng một họ có thể cư trú ở nhiều vùng, nhiều nơi khác nhau, nhưng
luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Những người cùng dòng họ đùm bọc,
giúp đỡ nhau bằng sức lao động và tiền của khi một gia đình trong họ có việc ma
chay, cưới xin, dựng nhà hay những lúc khó khăn, hoạn nạn.
Sự thống nhất về tư tưởng của dòng họ cũng biểu hiện rõ nét. Cứ 3 năm
một lần, vào ngày 29 Tết Nguyên đán, các thành viên trong họ lại tập trung ở nhà
trưởng họ để làm lễ “Tusu”. Đây là lễ cúng để trừ tà ma, cầu mong ông tổ phù hộ
cho con cháu khoẻ mạnh, làm ăn tốt lành. Thầy cúng sẽ gọi tên từng hộ gia đình,
đọc đến nhà ai thì nhà đó mang các hình nhân được cắt bằng giấy bản và vũ khí
giả bằng gỗ đến bỏ vào chiếc gùi. Thầy cúng một tay cầm bó hương, một tay
cầm dao, miệng đọc thần chú đuổi các hồn ma không được quấy nhiễu người
sống; đồng thời cầu mong cho các gia đình trong họ không gặp tai ương. Nghi lễ
này nhằm tăng cường sự cố kết cộng đồng dòng họ.
Một đặc trưng khác của dòng họ người Mông được biểu hiện qua cách
thức tổ chức lễ ma khô (ma bò). Đây là lễ con cái đền ơn cha mẹ hoặc làm cho
người nhà đã mất. Theo phong tục, dù hoàn cảnh có khó khăn như thế nào,
người con trai cũng phải làm đám ma khô một lần để đền ơn công lao bố mẹ,
người đã khuất. Đám ma khô thường được tiến hành sau khi bố (mẹ) qua đời từ
3 đến 5 năm, nếu gia đình nào có điều kiện thì sau 15 ngày là có thể làm. Lễ
làm ma khô thông thường phải mổ bò để cúng, tuy nhiên nếu dám ma tươi đã
có bò cúng rồi thì ở đám ma khô có thể dùng lợn, dê hoặc chó. Con vật làm lễ
cúng phải đẹp, không có khuyết tật, lông đồng mầu, không được chọn con vật
đã chết hoặc đã làm thịt. Mọi thành phần làm ma khô phải đầy đủ từ thầy cúng,
khèn, trống, chủ nhà, chủ bếp, Trưởng bản đến tất cả anh em trong dòng họ.
45
Mọi người được báo trước ít nhất 10 ngày. Đến ngày làm ma, khi mọi thành
phần đến đông đủ, tang chủ thông báo với trưởng họ về ý định và khả năng tổ
chức của gia đình, thời gian tiến hành, thực phẩm… để trưởng họ và mọi người
cùng giúp sức.
Sự phân biệt dòng họ còn thể hiện trong đám “ma tươi”. Có dòng họ
không đưa người chết vào quan tài mà trước hôm đem chôn, người ta mang
người chết ra ngoài bãi gọi là cho người đi “tàu sang”. Có họ (họ Lý) thì khiêng
cáng người chết chạy đến huyệt mới đặt người chết vào quan tài. Có họ thì cho
người chết vào quan tài từ lúc ở nhà. Trong đám ma chỉ có người trong dòng họ
mới khiêng quan tài. Cách đặt thi hài lên cáng, cách đặt mả cũng khác nhau.
Nếu dòng họ nào không tổ chức đám tang theo đúng nghi lễ của dòng họ mình,
sẽ bị dân bản chê cười vì người Mông quan niệm: “Làm ăn, làm uống ta có thể
học người khác nhưng làm ma thì không học theo người ta”.
Văn hóa ứng xử của tộc người Mông cũng tồn tại chủ yếu dựa trên
phong tục, tập quán của dòng họ mà nổi bật là những luật tục liên quan đến trật
tự xã hội, đến vấn đề khai thác và sở hữu đất đai canh tác, những luật tục quy
định quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên trong cộng đồng. Đặc biệt dòng
họ như một tín hiệu để các thành viên của tộc người này nhận biết nhau. Người
Mông sống ở đâu, thuộc nhóm nào, khi gặp nhau bao giờ họ cũng hỏi nhau
thuộc dòng họ gì. Đó là đặc điểm hiếm thấy ở những tộc người khác. Thời gian
và nhịp điệu phát triển của cuộc sống cùng sự tác động của các yếu tố văn hóa
bên ngoài dần ảnh hưởng đến xã hội Mông ở Việt Nam nói chung và ở Võ Nhai
nói riêng. Cuộc sống của tộc người Mông vừa chịu sự chi phối của mối quan hệ
truyền thống, vừa chịu tác động mạnh mẽ của mối quan hệ xã hội mới theo cơ
chế pháp luật của Nhà nước. Từ đó, mối quan hệ xã hội ở tộc người này đã có
sự tự điều chỉnh và thay đổi để có thể thích nghi, tồn tại với hoàn cảnh mới.
Tuy nhiên, dù có sự điều chỉnh hay thay đổi thậm chí còn tiếp nhận thêm những
46
yếu tố văn hoá mới, cấu trúc xã hội cơ bản của tộc người Mông vẫn tồn tại và
là một trong những yếu tố biểu hiện cho bản sắc dân tộc của cộng đồng này.
3.1.2. Gia đình và hôn nhân
Trước đây, các gia đình người Mông thường quần tụ khi cha mẹ còn
sống, có khi cả bốn thế hệ cùng sống với nhau trong một gia đình vì họ cho
rằng có nhiều thế hệ cùng sống dưới một mái nhà, cùng ăn một bếp mới là nhà
có phúc nên con cái chỉ ra ở riêng khi cha hoặc mẹ đã mất. Ngày nay, cùng với
sự phát triển của kinh tế - xã hội thì gia đình nhỏ hai đến ba thế hệ đã xuất hiện
và trở nên phổ biến.
Ngày nay, các hình thái gia đình thường thấy ở người Mông gồm có: Gia
đình hai thế hệ, gồm chồng, vợ và con cái chưa xây dựng gia đình; Gia đình ba
thế hệ, gồm chồng, vợ, con cái chưa xây dựng gia đình và bố, mẹ của chồng; Gia
đình gồm một cặp vợ chồng cùng con cái còn nhỏ cùng với bố, mẹ chồng và em
chồng; Gia đình không trọn vẹn gồm chồng (vợ) cùng con cái chưa xây dựng gia
đình; trong đó hình thái gia đình một vợ một chồng cùng con cái chưa xây dựng
gia đình là chủ yếu, quy mô gia đình từ 5 - 6 thành viên.
Mỗi gia đình người Mông là một đơn vị kinh tế độc lập. Tài sản của gia
đình gồm nhà ở, nương rẫy, công cụ sản xuất, các loại gia cầm, gia súc, khung
cửi, một số gia đình khá giả hơn có bạc trắng, đồ dùng bằng gỗ. Nhìn chung, cơ
sở kinh tế của gia đình người Mông còn nghèo, đủ trang trải cho cuộc sống
hằng ngày. Bên cạnh đó, một số ít gia đình có tài sản tích lũy để làm giàu.
Việc tổ chức sản xuất phân công lao động trong gia đình thực hiện
theo nguyên tắc tuổi - giới khá rõ rệt. Con trai, đàn ông thường làm những
việc nặng như làm nhà, chọn đất làm nương, cày bừa, mang vác, lên núi hái
củi, săn bắn, chế tác công cụ lao động. Đàn bà, con gái ngoài làm nương rẫy
còn đảm nhận hoàn toàn việc nhà và xe lanh dệt vải. Người già, trẻ em trong
nhà phụ giúp chăn thả trâu, bò. Cũng như các tộc người khác, gia đình người
Mông ở Võ Nhai thể hiện ý thức phụ quyền đậm nét. Điều này phản ánh rõ
47
qua mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dù đó là tiểu gia đình
hay đại gia đình thì vai trò quyết định thuộc về chủ gia đình (chi plo) là
người cha (người chồng hoặc anh cả).
Trong lĩnh vực sản xuất, chủ gia đình là người chỉ đạo tổ chức và phân
công lao động cho các thành viên phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và khả
năng của mỗi người. Chủ gia đình là người đảm nhận việc khấn tổ tiên, đón
thầy cúng và nhiều công việc khác mà theo phong tục người phụ nữ không
được làm.
Trong quan hệ với bên ngoài, chủ gia đình thay mặt gia đình trong các
công việc của làng bản, tiếp đón khách, nhất là người thuộc dân tộc khác; giải
quyết những vấn đề nảy sinh liên quan đến lợi ích của gia đình và các thành
viên; giữ gìn quan hệ đoàn kết giữa gia đình với dân bản nói chung. Tính chất
phụ quyền còn biểu hiện trong quan hệ tài sản, chỉ con trai mới có quyền thừa
kế tài sản. Khi chủ gia đình còn sống, toàn bộ tài sản thuộc quyền quản lí và
phân phối của ông ta. Trường hợp chủ gia đình chết thì người con trai cả sẽ
thay mặt cha mẹ quản lí số tài sản chung đó. Khi chia tài sản, anh em trai được
chia phần bằng nhau, nhưng nếu ai trực tiếp phụng dưỡng bố mẹ thì nhiều hơn
một chút so với các anh em còn lại. Trong trường hợp vợ chồng con cái muốn
ra ở riêng khi cha mẹ còn sống, thì chỉ được chia một phần tối thiểu tài sản theo
ý của người cha. Người con gái không được chia tài sản, nhưng khi đến tuổi
trưởng thành có thể tự đi làm thuê, phát nương để tích lũy một số đồ dùng của
cải sau này mang đến nhà chồng. Trong gia đình, vợ chồng bình đẳng trong
việc nuôi dạy con cái, song khi con lớn thì quyền quyết định dựng vợ gả chồng
hay làm ăn, học hành, phần lớn là do người chồng. Có nhiều con trai là điều
mong ước của mọi gia đình người Mông.
Việc giáo dục con cái được chú trọng nhiều mặt, người con trai không
những cần có khả năng lao động, có đạo đức tốt mà còn phải biết khấn tổ tiên;
13 - 14 tuổi đã có thể làm nương thạo, 17- 18 tuổi đã lao động giỏi, nắm được
48
nghề thủ công trong gia đình. Tính chất phụ quyền còn biểu hiện rõ nét trong
sinh hoạt hằng ngày. Khi ăn cơm, cả nhà cùng chung một mâm, nhưng khi con
trai đàn ông tiếp khách thì đàn bà ăn riêng một mâm. Khi đi làm, đi chợ, đi
thăm hỏi bạn bè, người thân, thì hai vợ chồng cùng đi với nhau. Người con dâu
muốn về thăm bố mẹ đẻ, phải xin phép bố mẹ chồng và có chồng cùng đi,
không được đi một mình.
Thời trước, theo quan niệm của người Mông thì con trai mới là con
mình, con gái là con người khác do mình mua về. Vì vậy, trong xã hội cũ,
người con dâu phải chịu rất nhiều khổ cực, phải làm lụng vất vả và hầu như
không có tiếng nói trong gia đình. Theo phong tục, con dâu không được ngồi
gần bố chồng, khi lấy vật gì trên gác cũng không được trèo hẳn lên mà chỉ được
đứng ở bậc thang lấy que mà khều, bát nước hoặc ống điếu của con dâu khi đưa
cho bố mẹ chồng phải tráng rồi mới đưa. Vì quan niệm lấy vợ là lấy người nên
có tục chẳng may người chồng chết sớm thì chị dâu phải lấy em chồng để nhà
chồng khỏi mất người. Nếu không chấp nhận lấy em chồng mà muốn lấy người
khác thì phải đền cho nhà chồng tất cả của cải, vật phẩm dùng cho hôn lễ trước
kia, gọi là lễ “thành phà”.
Xét một cách tổng thể, trong quan hệ gia đình của người Mông, sự
bình đẳng chỉ là tương đối. Ý thức “trọng nam khinh nữ” tồn tại rất đậm nét
trong xã hội truyền thống của người Mông. Ngày nay, những tập tục quá hà
khắc đã bị đẩy lùi, song những dấu vết còn lại mang tính quy định trong đời
sống xã hội vẫn tồn tại. Thông qua gia đình, mỗi thành viên đều hình thành
và tự học được các nếp ứng xử từ gia đình. Người con trai Mông biết thổi
khèn, thổi sáo, người con gái Mông biết thêu thùa, biết múa, biết hát giao
duyên…Vì vậy, mỗi gia đình người Mông chính là cái nôi hình thành, trao
truyền, phát triển văn hóa truyền thống và là hạt nhân cơ bản trong sự phát
triển của cộng đồng tộc người.
49
3.2 Đời sống vật chất
3.2.1. Đồ ăn, uống, hút
Người Mông khi mới di cư đến Võ Nhai vẫn sử dụng ngô làm lương
thực chính, từ ngô chế biến thành các món ăn như mèn mén, cơm độn ngô, ngô
luộc, bánh… Mèn mén là thức ăn không thể thiếu trong bữa ăn của gia đình
người Mông. Mèn mén được làm từ hạt ngô tẻ, thường nấu vào buổi sáng để ăn
cả ngày. Chế biến món ăn này rất tốn thời gian và qua nhiều công đoạn: bóc vỏ,
tách hạt ra khỏi lõi ngô, xay hạt ngô thành bột và sàng bớt vỏ (mày ngô). Từ
khoảng đầu năm 2000 trở lại đây, đồng bào Mông đã chuyển sang sử dụng lúa
gạo là nguồn lương thực chính. Các món ăn chế biến từ ngô vẫn được dùng
trong các dịp lễ, tết và những khi nông nhàn. Ngoài cơm và mén mén, người
Mông ở Võ Nhai còn chế biến các món ăn khác như nấu cháo với đỗ xanh, đỗ
đen, bí đỏ… Các loại cây, củ, quả cũng được chế biến dùng làm thức ăn hoặc
để dự trữ cho những ngày giáp hạt.
Loại thức ăn phổ biến nhất của người Mông là các món luộc. Họ cho
rằng món luộc phù hợp với điều kiện kinh tế của gia đình. Món luộc không cần
phải mỡ, cũng không cần gia vị. Món luộc ngọt, mát và hợp với khẩu vị của
nhiều người. Trong các dịp lễ, tết, đám cưới, tang ma hay khi nhà có khách
quý, họ đều dùng đến món luộc.
Các món sạ (xào), hầm cũng là món ăn được người Mông rất thích. Bên
cạnh các thức ăn giàu chất đạm và được coi là thức ăn mặn thì mỗi bữa ăn của
người Mông không thể không có món rau. Món ăn này thường dùng để ăn kèm
với các loại thực phẩm giàu chất đạm và béo.
Ngoài những món ăn hằng ngày, vào các ngày lễ tết, nhất là tết Nguyên
Đán, người Mông thường làm bánh chưng và bánh ngô. Một món ăn đặc trưng
của đồng bào Mông nói chung là món “thắng cố". Nghĩa đen của từ này nghĩa
là canh chảo. Món này là tất cả các loại thịt, xương, lòng, gan, tim, phổi của
một con vật như dê, trâu...được chặt ra đem nấu chung trong một chảo canh to.
50
Ngày nay, món thắng cố chỉ còn xuất hiện trong các dịp cưới xin và ma chay
của đồng bào Mông ở Võ Nhai.
Thức uống của đồng bào Mông tương đối đơn giản, hằng ngày họ uống
nước đun sôi, nước chè. Nước uống được dẫn về nhà bằng máng. Hiện nay, do
có chương trình nước sạch của Chính phủ, đa số đồng bào đã được dùng nước
sạch hút lên bể hoặc khoan giếng, đào giếng tại nhà. Rượu cũng được coi là
loại đồ uống khá phổ biến của đồng bào, nhất là trong các dịp lễ tết, ma chay,
cưới xin... Đối với người Mông "chén rượu còn là tình cảm chân thành và đằm
thắm của người mời đối với người được mời. Người được mời uống chén rượu
là trân trọng tình cảm của người mời” [45]. Đồng bào Mông hút thuốc lá khá
phổ biến. Trước kia, khi còn ở Cao Bằng, thuốc lá do đồng bào tự trồng. Từ khi
di cư đến Võ Nhai, người Mông không trồng thuốc lá nữa nên họ mua ở chợ để
hút. Thuốc lá là thứ đồ hút người Mông dùng để mời chào khách đến nhà.
“Khách đến nhà, mời ngồi quanh bếp lửa, chủ lấy điếu hút và bốc dúm thuốc
mời khách hút là biểu thị sự lịch sự và tôn trọng khách” [45].
Để có thể bảo quản được thực phẩm, đặc biệt là thịt, người Mông thường
ướp muối, sau đó treo lên gác bếp. Ngoài ra, họ còn dùng cách rán chín thịt rồi ủ
trong chum mỡ để ăn dần. Loại thịt thường được dùng là thịt lơn nạc. Các loại
rau được phơi khô rồi cho vào ống tre, ống nứa để ăn dần. Ngày nay, do điều
kiện kinh tế ngày càng phát triển, một số hộ gia đình người Mông ở Võ Nhai đã
sử dụng tủ lạnh để bảo quản thức ăn thay thế cho cách bảo quản truyền thống.
Cách bảo quản thịt trong chum mỡ vẫn còn, thường dùng sau mỗi dịp lễ Tết .
Mặc dù đã có những đổi thay đáng kể, nhưng cuộc sống của đồng bào
dân tộc Mông trên địa bàn huyện Võ Nhai vẫn còn không ít gian nan khi đường
từ trung tâm bản đi đến các hộ dân vẫn còn rất khó khăn. Trong khi đó, các hộ
dân lại sinh sống rải rác, trình độ dân trí không đồng đều, tập quán canh tác chủ
yếu phụ thuộc vào thiên nhiên, thiếu vốn sản xuất… Có nơi, một số hộ chưa có
điện thắp sáng (xóm Lũng Cà thuộc xã Thượng Nung có 4 hộ, xóm Lũng
51
Luông của xã Thượng Nung có 7 hộ; xóm Mỏ Chì, Lằm Thăng của xã Cúc
Đường). Số hộ nghèo trong đồng bào Mông chiếm tỉ lệ cao: Cuối năm 2010 là
646 hộ (36%), đến cuối năm 2013 còn 606 hộ (31%) [42]. Theo lời kể của ông
Lý Văn Sinh - Trưởng xóm Lũng Hoài (Thượng Nung): Toàn thôn có 33 hộ
người Mông thì có 30 hộ nghèo, 3 hộ cận nghèo (tỉ lệ nghèo 91%). Mỗi năm xã
giao chỉ tiêu phải giảm hộ nghèo xuống, thì các hộ lại luân phiên nhau làm hộ
cận nghèo”.
Xã Thượng Nùng có 7 xóm, trong đó có 3 xóm dân tộc Mông, với 910
khẩu. Các xóm người Mông đều đã có điểm trường với đầy đủ các lớp học từ
mầm non cho tới tiểu học, nhưng số lượng các em tốt nghiệp tiểu học lên học
cấp 2 chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ông Lý văn Sinh - Trưởng xóm Lũng Hoài,
cho biết: “Cũng động viên gia đình cho các cháu đi học, nhưng chẳng ăn thua.
Mãi năm vừa rồi mới có một cháu đi học Cao đẳng sư phạm, một cháu được đi
học Đại học Luật theo dạng cử tuyển, còn lại khoảng 15 cháu học cấp 2, ba
cháu học cấp 3. Ở xóm thì cấp tiểu học nào cũng có lớp, nhưng có đứa đến lớp
5 rồi vẫn chưa biết đọc biết viết. Các cô giáo không ai biết tiếng Mông, nên các
cháu khó tiếp thu được. Về nhà lại chỉ nói tiếng Mông với bố mẹ, nên cũng
không học được gì nhiều mấy. Cứ thế càng học lên cao lại càng chán. Tiếng
Việt học còn chưa xong, thế mà các cháu còn được dạy học thêm cả tiếng Anh
theo chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo”. Ba xóm người Mông ở Thượng
Nùng vẫn chưa có điện. Nhà trưởng bản Lý Văn Sinh có một cái tivi nhưng chỉ
thỉnh thoảng mới dám chạy máy nổ để theo dõi tin tức bên ngoài. Ông Sinh nói:
“Giờ ước mơ lớn nhất của bà con là điện, để lũ trẻ con được xem tivi, mở mang
đầu óc ra bên ngoài và học nói tiếng Việt”.
Tương tự như xóm Lũng Hoài, xóm Lũng Luông có 117 hộ, với 561 khẩu
nhưng cũng chỉ có 10 hộ cho con đi học cấp 2 dưới xã, 2 em đang học cấp 3, còn
lại chủ yếu học hết tiểu học là nghỉ ở nhà phụ giúp bố mẹ làm nương, rẫy.
52
Xóm Lân Vai xã Dân Tiến đã có lớp học từ mẫu giáo đến cấp 1 cho con
em đồng bào Mông học tập, nhưng do cuộc sống mưu sinh và điều kiện kinh tế
khó khăn nên sau khi tốt nghiệp cấp 2 số em tiếp tục học lên cấp 3 rất ít.
3.2.2. Trang phục
Trang phục của người Mông mang nét đặc trưng riêng biệt, dễ phân biệt
với các tộc người khác. Người Mông ở Võ Nhai chủ yếu là người Mông Trắng.
Trang phục thổ cẩm của người phụ nữ Mông Trắng gồm khăn, áo xẻ ngực, váy,
tấm vải che trước váy, thắt lưng, xà cạp… với họa tiết hoa văn tinh xảo như
hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật, hình quả trám và hình xoắn ốc rực rỡ sắc
màu. Áo váy của phụ nữ Mông ở Võ Nhai có màu trắng, trên cổ áo, nẹp áo, ống
tay, cổ tay, ngang váy, gấu váy đều đính các sọc lam hoa văn, hoặc kim sa lấp
lánh. Váy của phụ nữ Mông Trắng là loại váy hở, xếp li vừa bằng bụng, phía
dưới xoè rộng nên khi mặc vào người tạo ra những lớp sóng rung rinh, khi ngồi
xuống thì xoè rộng như bông hoa nở. Váy được may bằng loại vải lanh và trang
trí hoa văn bằng kĩ thuật vẽ sáp ong ở chân váy. Thắt lưng thường chỉ là mảnh
vải gấp đôi, xà cạp gồm hai loại: loại thêu dùng trong ngày cưới, lễ hội; loại
không thêu dùng vào các ngày thường. Màu trắng là màu chủ đạo trên váy của
phụ nữ Mông trắng, khác với váy của người Mông hoa, màu đỏ là màu chủ đạo.
Trang phục truyền thống của cả nam và nữ đều có khăn đội đầu. Khăn
đội đầu của nữ có hai loại; một loại khăn vuông và một loại khăn cuốn tròn.
Khăn cuốn tròn được cấu tạo bởi hai bộ phận: Lõi khăn và vỏ khăn. Lõi khăn
là một tấm cót đan bằng lạt giang cuốn vòng tròn có chiều rộng khoảng 10cm,
chu vi tuỳ thuộc vòng đầu người đội. Thông thường chu vi của nó khoảng 50
đến 60 cm. Phía ngoài tấm cót được cuốn hai lớp vải kẻ ca rô; mỗi miếng vải
dài 1,6m đến 1,8 m, rộng 20cm đủ để bao quanh lõi cót. Loại khăn vuông
nhiều màu sắc sặc sỡ hay được chị em sử dụng hơn; nhưng vào những ngày
chợ phiên hay những dịp lễ tết, phụ nữ thường đội hai khăn chồng lên nhau
(khăn vuông đội bên ngoài khăn cuốn tròn). Khăn đội đầu của nam là một
53
mảnh vải lanh nhuộm chàm dài 1,5m đến 2,5 m, rộng 30 cm đến 40 cm,
không trang trí hoa văn, gập làm tư và quấn quanh đầu theo chiều từ trái qua
phải. Ngày nay, nam giới người Mông ở Võ Nhai chỉ dùng khăn đội đầu vào
các dịp đại sự.
Vòng cổ (Cầu sinh) là đồ trang sức chung cho cả phụ nữ và nam giới. Có
hai loại vòng cổ: Vòng trang sức và vòng bản mệnh. Ngoài ra, phụ nữ Mông
còn đeo rất nhiều vòng tay (Lồ pầu), nhẫn (Lề pai). Trang phục nam gồm có
quần dài, may kiểu đũng quần què, cạp lá toạ, áo ngắn tay, ống rộng, cổ đứng,
xẻ bụng, cài khuy và khăn đội đầu. Quần áo đều nhuộm màu chàm.
Ngày nay, do có sự giao lưu, hội nhập trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, trang phục của người Mông ở Võ Nhai đã không còn giữ được nét
truyền thống như trước. Từ váy áo của nữ giới đến quần áo của nam giới không
còn được may bằng vải lanh, mà được thay bằng vải láng. Đa số nam giới
người Mông đều mặc quần áo giống như nam giới người Kinh, chỉ có người
lớn tuổi vẫn giữ nguyên bộ trang phục dân tộc vốn có. Đối với phụ nữ Mông,
tuy sự mai một về trang phục không diễn ra mạnh mẽ như ở nam giới, nhưng
thực tế cũng đang ở mức báo động. Nhiều phụ nữ ngày nay chỉ còn mặc mỗi
chiếc váy, còn áo cũng là áo phông hoặc áo sơ mi. Váy cũng vậy, nhiều người
không còn dùng váy do mình tự thêu dệt mà là những chiếc váy may sẵn (hàng
của Trung Quốc) được bày bán ở chợ, các họa tiết hoa văn trên váy không phải
là thêu bằng sợi chỉ mà là những họa tiết được in ấn bằng mực với máy hiện đại
lên mặt chất vải.
3.3.3. Nhà ở
Nhà ở là sản phẩm của văn hoá dân tộc. Dân tộc nào cũng làm nhà để ở,
nhưng mỗi tộc người đều làm nhà có cấu trúc, chất liệu khác nhau. Nhà của
người Mông thường làm ở những nơi gần nguồn nước, đi lại thuận tiện, gần
nương canh tác. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính
quyền địa phương, người Mông ở Võ Nhai đã định cư ven các thung lũng và
54
các vùng đồi có độ cao vừa phải. Nguyên liệu để làm nhà chủ yếu vẫn là gỗ,
tre… Hiện tại, một số hộ người Mông đã tiến hành xây nhà cấp bốn bằng gạch
nung giống người Kinh, dùng tấm lợp thay cho lá cọ, gianh.
3.3.3.1. Đặc điểm nhà ở truyền thống
Nhà đất 3 gian 2 chái, mái lợp bằng cỏ gianh hoặc tấm lợp xi măng, cột
gỗ được kê trên tảng đá to. Kết cấu của khung nhà dựa trên các vì kèo gỗ kết
cấu xà ngang, xà dọc gác trên ba hàng cột, hai bộ vì làm thành gian giữa, hai
bên hồi trốn cột, kèo gác lên tường đất. Kĩ thuật lắp ráp: có cột chống ở giữa,
kê trên đá tảng hai đầu xà, gác vào tường để chống lún và chống mối mọt chân
cột. Gian giữa dùng để đặt bàn thờ thờ cúng tổ tiên, là gian chung của cả nhà,
chuyên để làm những việc lớn, như hiếu, hỉ, tiếp khách. Cửa chính của nhà đặt
ở phía trước, có ngưỡng cao khoảng 40 cm. Gian thứ hai có hai bên: Một bên là
gian bếp - nơi giữ lửa; một bên dùng làm buồng ngủ của ông bà chủ (giường
ngủ thường bố trí ngang hàng với bàn thờ). Gian thứ ba là có bếp nấu cám lợn,
nấu cơm, có buồng ngủ cho các con, gian này có một cửa phụ.
Nhà có một cửa chính và cửa phụ. Cửa chính nằm ở gian giữa, đối diện
với bàn thờ; cửa phụ nằm ở bên phải ngôi nhà, là nơi dùng để đi lại của các
thành viên trong gia đình. Các cánh cửa nhà của người Mông thường được mở
vào phía trong, không mở ra phía ngoài. Trong nhà người Mông có gác làm
bằng gỗ rất chắc chắn, dùng để lương thực. Ngô thường xếp ở gác bếp để cho
khô và chống mối mọt. Hiên đầu nhà và hai bên đầu hồi là chỗ để nông cụ.
Chuồng trại chăn nuôi thường được làm sát bên trái ngôi nhà.
3.3. Các tập quán liên quan đến chu kì đời ngƣời
3.3.1. Sinh đẻ và nuôi dạy con cái
"Đối với người Mông, đứa trẻ ra đời là một sự kiện trọng đại. Vì vậy, đi
kèm với việc sinh đẻ là những kiêng kị và nghi lễ phức tạp” [27]. Người Mông
có nhiều nghi lễ liên quan đến việc chăm sóc trẻ sơ sinh. Khi đẻ khó, người
Mông làm lễ cúng cầu “mẹ tròn, con vuông” gọi là lễ “đề ca sủa”. Thầy cúng
55
chặt đầu con chó, cho đầu con chó hướng lên trời để cắn ma nguyệt thực - loại
ma ăn trẻ con. Trong lễ cúng, ông thầy cúng gọi các lực lượng siêu nhiên về trợ
giúp, xua ma nguyệt thực.
Khi đứa trẻ sinh ra, rau thai nhi sẽ được chôn ở cột nhà chính (nếu đứa
trẻ là trai) với ý niệm con trai sẽ trở thành trụ cột gia đình. Nếu đứa trẻ là con
gái, rau thai nhi chôn ở gầm giường ngủ với niềm tin sau này con gái sẽ là
người nuôi dạy con cái, nội trợ giỏi. Trẻ sinh được 3 ngày, gia đình tổ chức lễ
“híp plì” (gọi hồn).
Đứa trẻ được một tuổi, người Mông làm lễ mừng tuổi cho con. Lễ vật là gà,
lợn. Ngày đầy tuổi, ông cậu sẽ tặng cháu một cây nỏ hoặc một khối sắt đủ rèn một
con dao với ý niệm mong cháu bé sẽ trở thành một chiến binh giỏi, thạo việc làm
nương. Nếu là bé gái, bà ngoại mừng cháu một cuộn chỉ thêu (có nơi là chiếc bút
đồng vẽ hoa văn sáp ong) mong cháu lớn lên thạo đường may vá. Lễ đổi tên lót
của người bố cũng được bố mẹ vợ đổi tên lót theo sở thích.
Trường hợp đứa trẻ hay ốm đau, gầy yếu, người Mông làm lễ nhận
bố nuôi “tua sảo” cho con, đồng thời đứa trẻ được lấy họ của bố nuôi đặt
thành tên đệm.
3.3.2. Nghi lễ đám cƣới
Lễ cưới của dân tộc Mông ở Võ Nhai gồm 3 nghi lễ chính: Lễ dạm hỏi,
lễ đưa đồ cưới và lễ cưới.
Sau khi thu hoạch vụ mùa xong, nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, nhờ
hai ông mối (người biết hát “Gầu xống”, thạo lí lẽ) thay mặt nhà trai sang
nhà gái dạm hỏi. Hai ông mối đem theo lễ vật gồm một đôi gà trống, mái và
một chai rượu, cầm ô đến nhà gái dạm hỏi. Khi đi đường, ô luôn cắp nách,
đầu ô quay về phía trước. Dọc đường đi, hai ông còn chú ý tránh các điểm
gở như gặp rắn...
Sau khi đến nhà gái, qua ít phút trao đổi đầu tiên, chủ nhà tỏ ý ưng thuận,
chủ nhà cho mời hai người đại diện họ hàng nhà gái tiếp chuyện. Họ hàng nhà
56
gái đồng ý, bố mẹ nhà cô gái lại cử hai ông mối nhà gái cùng thảo luận với hai
ông mối họ nhà trai. Ngôn ngữ giao tiếp đều chọn những lời hay ý đẹp. Các
ông mối làm lễ so tuổi, mổ gà xem chân gà, đoán biết tốt xấu.
Lễ cưới thường được tổ chức vào mùa đông, kiêng cưới vào mùa có
tiếng sấm. Lễ cưới gồm một hệ thống nghi lễ đón dâu “nhập môn”, liên hoan
mừng ngày cưới. Đoàn đón dâu khoảng từ 13 đến 17 người nhà trai sang nhà
gái (số người đi cùng đoàn phải là số lẻ) bao gồm hai “bố mẹ dẫn” hai vợ
chồng thuộc họ nhà trai (bằng vai với bố mẹ nhà trai), hai ông mối, chú rể, một
phù rể, một cô đón và một số bạn bè, người thân chú rể.
Lễ tiễn đưa dâu của nhà gái cũng được tổ chức trang trọng. Đúng giờ đưa
cô dâu sang nhà chồng, người anh ruột cô dâu (hoặc anh họ), có đủ vợ con, uy
tín, vào buồng cô dâu, dắt cô dâu ra khỏi buồng trao cho đại diện nhà trai. Cô
gái đón dâu của nhà trai xòe ô chờ đón cô dâu đi. Cô dâu òa khóc đi ra khỏi cửa
nhà. Hai ông mối nhà trai lấy hai bát rượu mời mẹ cô dâu. Lúc đó chú rể quỳ
lạy bàn thờ tổ tiên, quỳ lạy bố mẹ vợ và họ hàng nhà vợ. Quỳ lạy xong, chú rể
đi thẳng ra cửa chính. Họ hàng nhà gái đem rượu tiễn chân nhà trai. Họ mời đi
mời lại đầy lưu luyến.
Khi đoàn đón dâu về đến cửa thì cô dâu và cô đón dừng chân ở trước
cửa. Một ông chú nhà trai cầm con gà quay trên đầu cô dâu ba vòng, người
Mông quan niệm như vậy là nhập hồn cô dâu về nhà chồng. Từ đó, phần hồn
của cô dâu luôn được ma nhà chồng bảo vệ (che chở, không cho hồn cô dâu đi
đâu). Tối hôm đón dâu về, nhà trai tổ chức hát “gầu xống” suốt đêm.
Trang phục mà cô dâu chú rể mặc trong ngày cưới cũng không còn là y
phục cổ truyền như trước. Cô dâu vẫn mặc váy Mông, nhưng chú rể thì mặc Âu
phục. Cỗ bàn đám cưới đa số vẫn tự nấu. Các món ăn truyền thống của người
Mông trong đám cưới cũng không nhất thiết phải có trong mâm cỗ. Các đám
cưới nhìn chung được tổ chức đơn giản, gọn nhẹ hơn trước, nhưng vẫn giữ được
những nghi thức cơ bản và thuần phong mĩ tục. Đây là điều đáng khuyến khích
57
theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đề ra là xây dựng một nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
3.3.3. Nghi lễ tang ma
Quan niệm về hồn ma, cõi sống, cõi chết
Lễ tang của người Mông là một hiện tượng văn hóa đặc sắc, bao gồm
nhiều nghi lễ khác nhau, phản ánh về các quan niệm và lịch sử xã hội, về cộng
đồng dân tộc. Người Mông quan niệm thế giới gồm ba tầng: Tầng trên trời là
thế giới tổ tiên ở, tầng giữa là thế giới con người, tầng dưới lòng đất là địa
ngục, âm phủ. Theo quan niệm của đồng bào, con người có ba linh hồn (plì),
khi chết 3 linh hồn cũng đều lìa khỏi xác và đi ba nơi khác nhau.
- Linh hồn gốc đi sang thế giới tổ tiên và sống với hồn gốc của tổ tiên.
Nhưng hồn gốc gác mộ cũng thường xuyên liên hệ chặt chẽ với con cháu hay
phù hộ (hoặc quấy nhiễu con cháu), do đó con cháu phải cúng bái, làm lễ
cho hồn này.
- Linh hồn thứ hai, con người sau khi bay lên trời để thưa kiện với trời
rằng, tại sao người phải chết, linh hồn sẽ ở tầng giữa thế giới của trời.
- Linh hồn thứ ba sẽ đi đầu thai để sống ở trần gian. Nếu khi sống, con
người làm nhiều điều tốt hồn sẽ đầu thai làm người. Còn khi sống con người
làm nhiều điều ác như trộm cắp, loạn luân... thì linh hồn này sẽ đầu thai làm
con vật phục vụ cho con người như trâu, bò, chó...để con người hành hạ, trả
thù. Sau khi gột rửa hết tội lỗi mới được đầu thai sang kiếp người. Nhiều nghi
lễ tang ma liên quan đến quan niệm về ba thế giới, quan niệm về ba hồn.
Nghi lễ tang ma
Lễ chỉ đường “khúa kê”
Gia đình tắm và khâm liệm người chết. Có dòng họ cho người chết vào
trong quan tài. Người nhà đi mời ông “dở mổ” thầy cúng đến làm lễ chỉ đường
“khúa kê” . Vừa dùng bút chỉ đường “xin từ”, “giao tiếp” với người chết, thầy
cúng vừa đọc bài “khúa kê” hướng dẫn hồn tìm đường về với tổ tiên.
58
Khi ông đọc đến sự tích gà dẫn đường hồn người chết về với tổ tiên, người
nhà mang cả gà mới mổ còn nguyên lông, moi lòng gà ra ngoài hoặc cả con gà
sống để trong âu bột ngô về phía đầu người chết. Lễ chỉ đường là lễ thức rất
quan trọng. Đồng bào quan niệm phải có bài chỉ đường, linh hồn người chết mới
trở về được với tổ tiên. Vì vậy, một số gia đình nhà nghèo không cần làm ma, chỉ
làm lễ chỉ đường xong là có thể đem người chết đi chôn.
Lễ thổi kèn
Trong khi thầy “dở mổ” đọc “bài ca chỉ đường”, các thợ kèn, trống tiến
hành treo trống. Chiếc cột giả treo trống được dựng lên giữa nhà bằng cách
gác một cây trúc ngang qua xà nhà và một cọc trúc đóng thẳng xuống đất.
Trống được treo ngang chỗ cây trúc vắt ngang và cành trúc giao nhau. Đội
kèn trống thổi bài kèn tắt thở (đưa hồn người chết qua các con ma nhà như ma
buồng, ma cửa, ma cột cái chính, ma bếp, “xử ca”, “đá trùng”. Bài kèn tắt thở
với nội dung báo hiệu lời chào của hồn người chết và các ma trong nhà để đi
ra mộ, lên trời về thế giới tổ tiên. Bài kèn tắt thở có nội dung tương tự “bài ca
chỉ đường” .
Lễ viếng
Người Mông rất coi trọng lễ viếng. Người viếng tùy ân tình với người
chết mà đồ phúng viếng nhiều hay ít. Bình thường gồm một “sinh” ngô, 5 lít
rượu, giấy vàng, hương. Nếu người chết khi còn sống cho con gái một con trâu
thì con rể phải mang trâu đến viếng. Gia đình thông gia phía con gái thường
viếng hai con gà, một cây tiền “xù to” bằng giấy màu. Đoàn thông gia đến
viếng thường có đội kèn riêng. Gần đến nhà tang chủ, người thổi kèn của đoàn
rúc lên một hồi kèn lánh lót báo hiệu, người rước cây tiền giơ lên, giơ xuống
theo nhịp 2/4 của thanh la. Tiếng kèn của tang chủ vồn vã đáp lời. Đôi khi đội
kèn tang chủ còn thổi bài hỏi quan hệ của người đến viếng. Đoàn kèn viếng
phải thổi bài đáp lễ, thổi đúng mới được vào viếng. Khi viếng thổi bài báo cho
người chết đồ viếng của ai, gồm những gì.
59
Lễ “tàu sáng” (đưa người chết ra ngoài bãi)
Một số dòng họ không đưa người chết vào quan tài thì trước ngày đem
chôn, người ta đưa người chết đi “tầu sáng”. Vào lúc nửa đêm, tang chủ đem
toàn bộ tiền giấy, vàng, hương phúng viếng ra đốt lấy tro đổ vào một túi đem
theo người chết. Con cháu òa lên khóc vĩnh biệt. Thợ kèn thổi một bài dài nói
lên tình cảm của người đang sống với người chết. Trời vừa sáng, người chết
được đưa ra ngoài bãi đã làm sẵn chiếc sàn cao 1m. Người chết được đặt lên
sàn, đầu hướng về phía gia đình. Xung quanh người chết có dòng họ còn cắm 7
cành cây (nếu là nam) và 9 cành cây (nếu là nữ).
Lễ hạ huyệt
Chọn giờ tốt, thầy cúng cúng bài đưa người chết đi chôn, kèn trống nổi lên
thổi hai bài tiễn biệt. Những thanh niên khỏe mạnh trong ban tổ chức lễ tang
khiêng cáng người chết chạy nhanh như ngựa đến huyệt (người Mông quan niệm
cáng là ngựa nên khi bó người chết vào cáng có bài kèn lên ngựa). Đến huyệt
thầy cúng ngắt ba lá cỏ tranh làm động tác quét quan tài (với quan niệm cỏ tranh
có tác dụng xua ma trừ tà) sau đó mới đặt người chết vào quan tài. Người con
trưởng cầm cuốc lấp đất trước, sau đến mọi người cùng lấp. Trước khi lấp đất,
người ta mở nắp quan tài lấy đồng xu trong miệng người chết ra, mọi người nhìn
người chết lần cuối cùng. Khi trở về, tất cả những người khiêng quan tài tiếp xúc
với thân thể người chết đều phải rửa tay trong thùng nước đặt trước cửa nhà và
hơ tay trên bếp lửa, đó là dấu hiệu đề phòng hồn ma người chết bắt đi.
Lễ cúng cơm ba ngày “ma xi”
Người chết được ba ngày, gia đình tang chủ tổ chức lễ sửa lại mộ “sáo
chang”. Buổi tối tổ chức làm “ma xi”, nơi gần bàn thờ treo tấm ván nhỏ bày một
quả trứng, một cốc rượu, một chiếc nỏ. Ông chủ ma trịnh trọng khấn cầu các hồn
ma về nhận các đồ ăn (đầu trâu và 4 chân trâu được dành từ hôm trước).
Lễ tiễn đưa hồn “cho plì”
60
Người chết được 13 ngày, người Mông làm lễ “cho plì” lễ thả hồn tiễn
đưa hồn người chết đầu thai sang người khác. Nhưng trước khi đi, hồn sẽ trở về
thăm con cháu lần cuối và nhận lợn đi ăn đường. Do đó người Mông làm lễ đón
hồn và thả hồn đi. Có dòng họ dựng một cổng chào nhỏ đón hồn về ngay trước
cửa nhà. Trong nhà tổ chức lễ xua ma trước khi gọi hồn về. Phía ngoài cổng
chào, là một hình nhân đặt trên một chiếc mẹt để lên chiếc kiệu có bốn chân do
bốn thanh niên khỏe mạnh khiêng qua cổng. Hình nhân tượng trưng cho hồn
người chết về thăm nhà lần cuối, hình nhân được đi thăm nơi chôn nhau cắt
rốn, thăm các ma nhà (ma buồng, ma cột nhà chính, ma bếp, ma xử ca), cuối
cùng đặt hình nhân ở bàn thờ. Sau khi cúng lễ, ông chủ ma “chí dề” đem hình
nhân ra ngoài cổng chào, dỡ hình nhân (có dòng họ đốt hình nhân) khấn bài
tiễn đưa hồn về thế giới bên kia để đầu thai sang người khác. Sau đó, ông chủ
ma đẩy nghiêng chiếc mẹt đi, nếu chiếc mẹt ngửa, hồn sẽ đầu thai thành con
gái, nếu mẹt nghiêng thì đầu thai thành con trai.
Lễ “nhu đá” (ma trâu)
Sau khi bố mẹ chết, con cái trưởng thành có vợ, có con mới làm “nhu
đá” (ma trâu) cho người chết. Các nghi thức làm ma trâu tương tự như là ma
tươi (lúc mới chết). Tối hôm trước, tang chủ dựng một ngôi nhà nhỏ ở ngoài
trời và quan tài nhỏ. Tang chủ cắt một bộ quần áo bằng vải lanh nhỏ (nếu người
chết là cha) hoặc bộ váy áo nhỏ (nếu là mẹ) cho vào trong quan tài đặt trong
ngôi nhà nhỏ. Người ta còn làm hình nhân nam (nếu là bố đòi bò) hoặc là hình
nhân nữ (nếu là mẹ đòi bò). Trước khi cúng cũng buộc cổ trâu bằng sợi lanh dài
nối với tay hình nhân. Sau đó là mổ trâu (bò) luộc chín chia thịt thành các phần
tùy theo các họ. Số thịt chia cũng sắp theo hình một con trâu (bò). Làm ma trâu
khá tốn kém, làm một đêm, một ngày.
Ngày nay, trải qua nhiều cuộc vận động chính trị lớn, phong trào bài trừ
mê tín dị đoan, thực hiện nếp sống mới... đã tác động đến tư tưởng nhận thức
của đồng bào Mông ở Võ Nhai. Các thủ tục, nghi lễ rườm rà trong đám ma đã
61
giảm đi nhiều, đồng bào chỉ giữ thi thể trong nhà qua đêm để đảm bảo vệ sinh.
Lễ nhu đá hầu như chỉ những gia đình khá giả mới tiến hành, trong lễ này,
người ta cũng không mổ trâu để cúng mà chỉ mổ lợn để đỡ tốn kém.
3.4. Tín ngƣỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng
Trong thế giới tâm linh của tộc người Mông, thờ cúng tổ tiên và các vị
thần có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó không chỉ thể hiện niềm tin, mà còn
là những hoạt động tín ngưỡng thiêng liêng của tộc người. Đặc biệt, thờ cúng tổ
tiên là thành tố vô cùng quan trọng, góp phần tạo dựng và bảo tồn văn hóa cội
nguồn của tộc người.
Thờ cúng tổ tiên là thờ cúng các cụ, ông bà, những người cùng họ đã
chết. Theo quan niệm của người Mông, việc thờ cúng tổ tiên không chỉ thể hiện
lòng biết ơn với những người đã khuất, mà còn là sự cầu mong, sự tạ lỗi, xin
tha thứ, tránh sự trừng phạt. Với họ, tổ tiên có vai trò to lớn, chi phối cuộc sống
hiện tại của bản thân và gia đình. Việc thờ cúng tổ tiên được người Mông thực
hiện vào các dịp lễ, tết.
Nơi thờ cúng tổ tiên của người Mông gọi là Cung Pox Xiêz, có nghĩa là
chỗ nghỉ chân của tổ tiên. Bàn thờ được đặt ở vị trí rất trang trọng ở gian giữa
nhà, nhìn ra cửa chính, cao 2m so với mặt đất. Bàn thờ được biểu thị bằng 3
mảnh giấy mầu hoặc vải mầu vàng hình chữ nhật. Không có bát hương, khi
thắp hương họ có thể cắm ngay vào vách nhà. Hiện nay, do cấu trúc nhà cửa và
sự giao lưu với các tộc người khác, họ đã sử dụng bát hương để thuận tiện
trong việc thờ cúng. Nơi thờ cúng tổ tiên là khu vực linh thiêng, nên phụ nữ
không được đến gần (thể hiện tính phụ quyền cao), chỉ có nam giới, thầy cúng
mới được đến gần nơi thờ cúng tổ tiên.
Tín ngưỡng bao trùm của người Mông là “vạn vật hữu linh”. Người
Mông cũng như những tộc người khác, từ xa xưa không vượt ra ngoài khuôn
62
khổ của tư duy đa thần. Trong tâm thức của họ đã hình thành quan niệm mọi
vật đều có linh hồn, đều có thần làm chủ tức là “vạn vật hữu linh”.
Đối với người Mông, Trời là vị thần tối linh nhất, quyền năng nhất trong
thế giới thần linh, Trời ngự trị và chi phối cõi giới và muôn loài. Điều này xuất
phát từ quan niệm về vũ trụ. Người Mông cho rằng, sự xuất hiện của đất đai,
sông núi, biển cả đều do đấng tối cao là Trời tạo ra.
Ngoài Trời ra, người Mông không xếp thần linh theo một thứ bậc nào, vì
các vị thần trong thế giới thần linh đều bình đẳng và nó chỉ trở nên quan trọng, cần
thiết vào chính thời điểm mà người ta cần đến vị thần đó [22]. Chẳng hạn như lúc
hạn hán, cây cối mùa màng bị thiêu đốt thì thần nước, thần sông, thần núi trở nên
quan trọng nhất. Lúc đó, bản Mông sẽ cử già làng và thầy cúng ra cầu cúng những
nơi có nước. Nơi nào là nguồn nước thì thần nước ở đó là to nhất, thiêng nhất. Lễ
cúng có khi kéo dài tới mấy ngày. Lễ vật thường là gà, rượu, lợn; có khi là bò, dê,
trâu được giết lấy máu hòa vào rượu để cúng thần rồi vẩy ra bến bãi, vẩy lên trời
để cầu mưa, cầu nước. Nếu có nước, được mùa dân bản sẽ làm lễ cúng thần lúa,
thần nước để tỏ lòng biết ơn với các thần.
Với quan niệm vạn vật hữu linh, mỗi vật tồn tại đều là một thực thể, từ
cái cây, hòn đá, các con vật, những vật vô tri vô giác như rừng núi, sông
suối…đều có linh hồn, người Mông gọi là “cái ma” (đá chỏ). Điều này thể hiện
rất rõ trong sinh hoạt của người Mông. Vào ngày 30 Tết, người chủ gia đình lấy
giấy đỏ dán vào tất cả các vật dụng trong nhà, cũng như công cụ lao động từ cái
cày, cái cuốc đến chiếc cối xay với ngụ ý cho đồ vật nghỉ ngơi ăn Tết; mọi con
vật khi mua về nuôi đều có một nén hương, bát nước và một miếng vải đỏ buộc
vào chuồng nơi con vật ở.
Người Mông cũng rất kiêng kị việc mắng tục, chửi rủa đồ vật, dụng cụ
trong nhà và công cụ lao động vì như vậy là xúc phạm đến thần chủ của vật đó,
làm cho các thần không phù hộ, làm ăn sẽ bị lụn bại. Phần “thực” và phần
“hồn” có trong con người, trong các loài vật, các vật thể trong thiên nhiên.
63
Trong đó, quan niệm về phần “hồn” đã được tạo ra ở mỗi người và cộng đồng
người Mông một đời sống tâm linh phong phú nhưng cũng rất phức tạp.
Đối với con người, quan niệm về linh hồn được thể hiện qua các phong
tục ma chay, cưới xin, sự giao lưu giữa những người đang sống và những người
đã chết. Người Mông quan niệm con người có phần xác và phần hồn; trong một
con người có nhiều hồn và được chia thành các hồn trú ẩn ở những nơi cụ thể,
như hồn tiềm ẩn trong con người có loại nằm ở tim, có loại nằm ở vai, có loại
nằm ở đầu. Khi hồn lìa khỏi xác cũng có nghĩa là chết, hồn tồn tại vĩnh hằng
trong không gian, thời gian và có thể đầu thai ở kiếp sau.
Thông thường, sau một năm làm ăn vất vả, mỗi gia đình tự chọn lấy một
ngày tốt để làm lễ gọi hồn (huplì) chung cho gia đình. Lễ gọi hồn có thể mời
thầy cúng đến nhà, hoặc do một người lớn tuổi đứng ra chủ trì, ưu tiên gọi hồn
trước hết cho người nào trong gia đình hay bị đau yếu. Ngày làm lễ cúng
thường được chọn vào đầu tháng.
Cũng từ quan niệm vạn vật hữu linh, người Mông còn có thể nhận một
gốc cây to hoặc một tảng đá nào đó làm bố nuôi đứa trẻ. Bố mẹ của đứa trẻ
mang gà, rượu, hương và cõng đứa trẻ đến chỗ gốc cây, tảng đá để làm lễ khấn
thần cây, thần đá phù hộ cho đứa trẻ khỏe mạnh, chóng lớn; tiếp đến xin một
đoạn dây buộc vào cổ đứa trẻ rồi lại quấn quanh gốc cây, tảng đá ấy; sau đó
mới bện lại và buộc vào cổ cho con mình. Làm như vậy là vì họ tin rằng gốc
cây, tảng đá là những tạo vật vững chắc cũng có hồn, có thần làm chủ, có thể
hiểu được tiếng người nên mới trao đổi được ước nguyện như vậy.
Điều đáng chú ý trong đời sống tín ngưỡng của người Mông là dù rất tin
vào thần linh, nhưng lại không lập đền thờ thần và thực tế điền dã cho thấy
không có một đền thờ thần nào. Điều này được giải thích rằng, vì hệ thần linh
của người Mông quá đông đúc và phức tạp, thần linh có mặt ở tất cả các loài từ
cỏ cây, sông suối đến nhà cửa nên không thể lập đền thờ thần này mà không lập
đền thờ thần khác.
64
Tôn giáo:
Hiện nay trên địa bàn huyện có 3 tôn giáo chính là Phật giáo, Công giáo
và Đạo Tin Lành. Trong cộng đồng người Mông vẫn tồn tại nhiều hình thức tôn
giáo sơ khai vốn xuất hiện từ thời mạt kì nguyên thủy.
Tô tem giáo: Là hình thức tôn giáo cổ sơ nhất, thể hiện niềm tin của con
người vào mối liên hệ gần gũi, huyết thống giữa một nhóm người với một loại
động vật, cây cỏ, hay một hiện tượng nào đó. Trong 5 đặc trưng của tô tem (biểu
tượng về tô tem, huyền thoại về vật tổ, tục kiêng cữ không ăn vật tổ, nghi lễ liên
quan đến tô tem, niềm tin tái sinh sau khi chết sẽ trở lại kiếp của tô tem), thì
người Mông ở Võ Nhai chỉ còn 3 đặc trưng: Huyền thoại về vật tổ, tục kiêng ăn
và niềm tin tái sinh. Nhưng các đặc trưng này cũng chỉ thấy biểu hiện mờ nhạt,
không có tính hệ thống và mang tính dòng họ. Có lẽ đây chỉ là những mảnh còn
rơi rớt lại của tô tem giáo ở vùng người Mông. Ví dụ: khi điền dă đến xóm Lân
Vai, tác giả thấy họ Lý kiêng ăn thịt chó vì cho rằng con chó là họ hàng với dòng
họ mình.
Bái vật giáo và vật linh giáo:
Bái vật giáo là lòng tin về một thuộc tính siêu nhiên của những sự vật
như hòn đá, gốc cây, là bùa, tượng... Nó là sự thổi phồng, phóng đại những tính
năng thực tế của đồ vật và gán cho đồ vật đó những khả năng siêu phàm, trở
thành vật thiêng, được bảo vệ và giữ gìn một cách đặc biệt. Hơn nữa, các đồ vật
đó còn được coi là đối tượng để con người cầu xin, được đưa vào nghi lễ để
giúp cho con người đạt được những gì mà họ mong muốn.
Vật linh giáo là lòng tin ở linh hồn, xuất hiện khi con người có khả
năng hình thành những khái niệm về thế giới siêu linh, thế giới bên kia. Nhân
cách hóa và thần linh hóa là đặc trưng của Vật linh giáo. Vật linh giáo với
người Mông ở Võ Nhai biểu hiện rất phong phú, như việc họ thực hiện nghi lễ
cúng nương gọi hồn lúa, hồn ngô vào dịp mùng 3 tháng 3 âm lịch, thầy thuốc
65
trước khi lấy thuốc phải cúng thần cây để mong cho người bệnh mau khỏi sau
khi dùng thuốc...
Sa man giáo là hình thức tín ngưỡng nguyên thủy thể hiện niềm tin của
con người vào khả năng tác động đến các hiện tượng tự nhiên bằng những hành
động tượng trưng như cầu khẩn, phù phép, thần chú... Người ta quan niệm
rằng, bằng những hành vi ấy, con người có thể tác động đến vật thể hoặc đối
tượng nhất định để đạt được kết quả mà mình mong muốn. Sa man giáo còn thể
hiện khá nhiều trong cộng đồng người Mông, nhưng tiêu biểu là các hoạt động
của thầy mo.
Thầy mo tuy không phải là một nghề chuyên biệt nhưng trong quan niệm
của người Mông, đó là người nối liền xã hội với thần linh nên được mọi người
tôn kính. Thầy mo tiến hành mọi hoạt động có tính chất tín ngưỡng ở các dịp
cúng lễ trong chu kì đời người, từ lúc sinh ra, lúc ốm đau, cho đến khi chết. Công
cụ chủ yếu của thầy mo là dụng cụ âm dương, được làm từ hai mảng sừng trâu
hoặc bò; một đôi nhạc ngựa bằng đồng, một chiếc vòng lắc, một chiếc thanh la.
Trang phục của thầy mo rất đơn giản, ăn mặc như mọi người bình thường, chỉ
khác là có trùm một tấm khăn màu đỏ che kín đầu khi lên đồng. Trước khi lên
đồng, thầy mo ngồi trên một chiếc ghế, tay chân nhún nhẩy theo điệu nhạc ngựa,
cầm thanh la nhảy múa, miệng lẩm bẩm các bài cúng. Họ tin mình có khả năng
giao tiếp với thần linh, như là trông thấy, nghe thấy sự phán xét của thần linh.
Thầy mo còn dùng hiện tượng ma thuật, yểm bùa, phù phép chống lại sự làm hại
để bảo vệ gia đình, yểm bùa tình yêu...
Ở Võ Nhai hiện nay, đa số người Mông theo đạo Tin Lành (tiếng Mông
gọi là Zềnh Vàng Chứ) thông qua các hoạt động truyền đạo khoảng đầu thế kỉ
XXI. Một số người Mông từ Tuyên Quang xuống truyền đạo, sau hơn 10 năm,
hoặc công khai hoặc bí mật, đạo Tin Lành đã có mặt ở Võ Nhai. Tại đây có 15
điểm nhóm với tổng số 2.629 tín đồ, trong đó 13 điểm nhóm (gồm các xóm
Lũng Hoài, Lũng Luông, Lũng Cà, An Thành (xã Thượng Nung); xóm Chòi
66
Hồng (xã Tràng Xá), xóm Mỏ Chì (xã Cúc Đường), xóm Khuổi Mèo (xã Sảng
Mộc), khu Lũng Then của xóm Ngọc Sơn I, xóm Xuyên Sơn (xã Thần Xa), khu
Lân Thùng của xóm Đồng Dong (xã Phương Giao), xóm Lân Vai (xã Dân
Tiến), xóm La Mạ (xã Lâu Thượng), xóm Khuôn Ngục (xã La Hiên) được
UBND xã cấp giấy chứng nhận sinh hoạt, có sự phối hợp với chính quyền cấp
xã và đăng kí các nội dung hoạt động đầy đủ theo quy định. Trong các điểm
nhóm này có 8 Trưởng điểm nhóm được phong phẩm là Truyền đạo, có thông
báo và đăng kí hoạt động tôn giáo do Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam miền
Bắc đăng kí cho chức sắc. Còn lại 2 điểm nhóm chưa có sự phối hợp và đăng kí
sinh hoạt với UBND cấp xã là nhóm Tin lành Liên hữu Cơ đốc và nhóm Tin
lành Việt Nam miền Bắc tại khu Làng Ươm của xóm Bắc Phong, xóm Tân
Tiến, xã Dân Tiến. Hiện nay, UBND huyện đang tiếp tục phối hợp với các cơ
quan chức năng và UBND xã Dân Tiến hướng dẫn các điểm nhóm này lập hồ
sơ cấp đăng kí sinh hoạt theo quy định của pháp luật [43].
Ngoài 3 tôn giáo có tư cách pháp nhân nêu trên, từ cuối năm 1989, trên địa
bàn huyện Võ Nhai xuất hiện một thứ tà đạo, do Dương Văn Mình cầm đầu.
Lợi dụng sự lạc hậu, mê tín của một bộ phận đồng bào Mông, Dương
Văn Mình cùng đồng bọn đã lôi kéo đồng bào đi ngược lại chủ trương chính
sách của Đảng. Chúng dụ dỗ, lừa bịp hoặc ép buộc bà con đồng bào người
Mông quay trở về với những phong tục cổ hủ, như để xác chết người thân trong
nhà 7 ngày; xây dựng các công trình trái phép lấn át các công trình văn hóa.
Bọn cầm đầu còn lừa bịp bà con dân tộc Mông bỏ nhà cửa, nương rẫy để đi
theo chúng thành lập "vương quốc" Mông.
Năm 2000, Dương Văn Mình, ra mắt quần chúng cái gọi là tín ngưỡng
Dương Văn Mình, lập nên các “nhà đòn” để đồ cúng lễ cho người chết. Nhà
đòn là gian nhà nhỏ làm bằng gỗ, tre, rộng vài mét vuông dựng ở những bản
làng người Mông, bên trong có đặt bốn thứ: một con cóc - thay cho cái trống,
một con ve sầu - thay cho cái khèn, một con chim én - để khiêng người chết ra
67
đồng và một cây thánh giá - thay cho cái nỏ. Khi trong bản làng có người chết
thì những đồ này được mang tới nhà tang chủ để làm lễ tâm linh - một nghi lễ
chưa từng có trong lịch sử sinh hoạt văn hóa cộng đồng người Mông.
Các đệ tử đạo Dương Văn Mình vận động bà con phá bỏ bàn thờ tổ tiên,
hằng ngày đến “nhà đòn” cầu nguyện, hoặc nghe chúng tuyên truyền về nước
Mông. “Nhà đòn” thực chất là cơ sở tôn giáo trái phép lập ra để cạnh tranh với
nhà văn hóa, các công trình văn hóa do chính quyền địa phương và bà con xây
dựng nên. Những tuyên truyền của tà đạo nhằm phá vỡ những tiến bộ không
chỉ trong kinh tế, xã hội, mà cả về văn hóa của người Mông.
Được sự quan tâm, tuyên truyền của chính quyền các cấp, đến nay, đồng
bào Mông trên địa bàn huyện Võ Nhai đã nhận thức được bản chất của tổ chức
bất hợp pháp Dương Văn Mình, nhiều hộ đã không theo, tập trung vào làm
kinh tế. Tính đến năm 2015, trên địa bàn huyện chỉ còn một điểm nóng về tín
ngưỡng này là Lân Thùng, xóm Đồng Giong, xã Phương Giao. Mặc dù chính
quyền địa phương đã tuyên truyền, có những chính sách phát triển kinh tế, xã
hội nhưng đồng bào nơi đây vẫn lén lút lập nhà đòn để tổ chức hoạt động trái
phép về chính trị dưới vỏ bọc là tôn giáo.
3.4 . Văn nghệ dân gian
Người Mông có vốn văn nghệ dân gian lâu đời và khá phong phú về nội
dung cũng như thể loại (dân ca, tục ngữ, ca dao, truyện... và các loại nhạc cụ),
mang sắc thái riêng của tộc người.
Dân ca của người Mông khá mộc mạc, giản dị, dễ hiểu, chân thực nhưng
cũng rất lãng mạn. Người Mông hát dân ca ở bất kì chỗ nào mà họ cho là thích
hợp, như trong đám cưới, trên nương,... Dân ca Mông phản ánh cuộc sống sản
xuất và văn hoá. Nổi tiếng có các làn điệu mộ nha (đi làm dâu), cú nhe ca (yêu
nhau), mộ úc cong (đi nương)...
Tiếng hát trong tình yêu (hát giao duyên) là thể loại dân ca phong phú
nhất, đa dạng nhất của tộc người Mông, là tiếng nói trái tim của các chàng trai
cô gái Mông: Em ơi! xuân đến rồi / Chúng mình xuống chợ vui / Gặp em đây
68
anh muốn hỏi/Thấy em đẹp, ăn gì mà xinh thế?/ Anh ơi! Năm nay là năm
tốt/Ông trời xui em gặp anh/Nếu mùa hoa lê nở/Chúng mình lại đi chơi [4];
hoặc ca ngợi sự khéo léo, chăm chỉ của người con gái Mông: Lớn lên em theo
mẹ đi tập thêu/Thêu chỉ nhuộm chàm in hoa trên váy mới/ Gái đẹp không biết
làm lanh cũng xấu/Gái xinh không biết cầm kim cũng hư [8].
Cũng như bao tộc người anh em khác, tục ngữ Mông là kho tàng tri thức
về kinh nghiệm sống của đồng bào trong lịch sử, phản ánh ba nội dung: Kinh
nghiệm sản xuất, mối quan hệ xã hội, lối sống cùng những ứng xử của đồng
bào. Khi đi điền dã ở Thượng Nung, tác giả được nghe câu nói cửa miệng của
nhiều người Mông: “Muốn ăn thì hỏi hai tay". Họ cũng có những câu ca nói lên
sức mạnh của đoàn kết như: Một chân đứng không vững/Một tay vỗ không
vang.
Âm nhạc của người Mông nổi tiếng với nhiều loại nhạc cụ khác nhau,
chủ yếu là nhạc hơi với nhiều loại khèn, kèn và sáo. Khèn bao gồm hai loại
chính: khèn 6 ốp, gọi là khèn canh và khèn đơn ống, gọi là tra li lầu; trong đó
khèn 6 ốp được dùng phổ biến hơn. Trong tộc người Mông ở Võ Nhai hiện nay,
có một số người biết thổi khèn và biết cách chế tạo ra loại khèn này. Khèn được
thổi trong hội xuân, trong biểu diễn văn nghệ và trong cả đám tang. Sáo có hai
loại: Sáo thổi ngang và sáo thổi dọc. Sáo làm bằng ống trúc, dài khoảng 50 -
60cm, đường kính khoảng 2cm. Sáo thổi dọc với âm điệu trầm bổng được các
chàng trai Mông dùng để gọi, rủ người yêu. Kèn có hai loại: Kèn lá và kèn môi
(đàn môi). Kèn lá là nhạc cụ đơn giản và rất độc đáo, người thổi chỉ cần một
chiếc lá rộng 3 - 4 cm, dài 7 - 8 cm cặp vào giữa môi, khi thổi dùng môi, lưỡi
và hơi điều khiển. Khi thổi, kèn phát ra âm thanh nhỏ nhưng réo rắt. Kèn môi
(đàn môi) chủ yếu người Mông Hoa hay sử dụng.
Bên cạnh các nhạc cụ trên còn có các loại nhạc cụ chuyên sử dụng trong
các loại nghi lễ, như thanh la, trống và chuông.
69
3.5. Lễ hội và trò chơi dân gian
3.2.5.1. Trò chơi dân gian
Người Mông có nhiều trò chơi dân gian, như pá mò ma (tung còn), o chu
đi mua (bịt mắt bắt dê), đánh cù (đánh quay). Tung còn là trò chơi của nam, nữ
thanh niên trong các phiên chợ tình. Nam, nữ đứng thành hai hàng đối diện
nhau, vừa tung còn cho nhau đón, vừa hát giao duyên. Còn bao gồm quả còn và
đuôi còn. Quả còn hình lục thể, khung tre, bọc vải ngũ sắc, có tua ngũ sắc, nặng
gần 100g. Đuôi còn nối với quả còn làm bằng dây mềm, ở cuối đuôi còn cũng
có tua ngũ sắc.
Đánh quay là trò chơi của trẻ em. Đồ chơi gồm con quay và dây quay.
Con quay làm bằng gỗ nặng hình chum, có mấu ở đầu quay và đinh đóng ở đáy
quay. Dây quay làm từ dây gai hoặc dây rừng dài chừng 1,5 - 2m dùng để quấn
vào con quay khi đánh. Quay càng tròn, dây quấn càng chặt thì khi đánh con
quay càng tít và quay được lâu. Số người chơi có thể nhiều, nhưng ít nhất là hai
người. Thể lệ là tất cả cùng quay con quay một lúc, con quay của ai quay tít và
quay lâu thì người đó thắng.
3.2.5.2. Lễ hội dân gian
Không như các tộc người khác ở Võ Nhai, tộc người Mông có rất ít lễ
hội. Trong năm, họ có một số lễ, tết cơ bản sau:
- Tết Nguyên đán
Người Mông có một hệ lịch riêng, theo nhận định của các nhà nghiên
cứu, có lẽ họ tiếp thu cách tính lịch của dân tộc Di (Trung Quốc). Theo đó, Tết
của họ vào khoảng cuối tháng 11, đầu tháng 12 âm lịch. Tuy nhiên, ngày nay
các vùng người Mông đã ăn Tết Nguyên Đán như người Kinh. Ngày 25, 26
tháng Chạp, người Mông bắt đầu nghỉ ngơi, chuẩn bị đón Tết. Họ niêm phong
tất cả các công cụ sản xuất lại, dán một tờ giấy bản lên nhằm "trả công” cho
những thứ đó vì đã giúp họ làm ăn sinh sống và mong cho năm mới may mắn;
sau đó làm lễ với gà, bánh ngô, rượu.
70
Trước đây, người Mông không gói bánh chưng, ngày nay có gói; nhưng
không nhất thiết phải có trong bữa cỗ Tết của họ. Với người Mông, ba món
không thể thiếu là thịt, rượu và bánh ngô. Khoảng 1- 2 giờ sáng ngày mùng
Một Tết, chủ nhà sẽ mổ hai con gà (một con lông màu nâu hồng, một con lông
màu trắng) để lấy lông dán vào bàn thờ tổ tiên và cúng, mời tổ tiên về ăn tết với
con cháu. Riêng con gà mầu trắng thì phải mổ giữa nhà, vì theo quan niệm của
họ, làm như vậy là để bảo vệ ngôi nhà cho vững chắc. Sau khi cúng xong, chủ
nhà sẽ xem một số bộ phận của con gà vừa cúng, như lưỡi, chân, các lỗ ở
xương đùi… để đoán định những điều tốt, xấu có thể xảy ra đối với việc làm
ăn, sức khoẻ của các thành viên trong gia đình. Từ mồng Một trở đi, họ mặc
quần áo đẹp đi chơi xuân. Người Mông ở Võ Nhai ăn Tết rất dài ngày. Họ ăn
uống, chúc tụng và trò chuyện cả ngày, nhiều khi còn kéo dài đến tận đêm
khuya để sáng hôm sau lại cùng nhau sang nhà khác. Cứ như thế cho đến hết
Tết. Cuộc vui năm mới thường kéo dài đến mồng 5 Tết. Ngày đầu năm mới
thường kèm theo một số kiêng kị nhất định, như không quét nhà, không đổ
nước vào bếp vì cho rằng làm như vậy năm mới mưa nắng sẽ không thuận,
cuộc sống sẽ bấp bênh, ăn cơm mới không được chan canh vì sợ mưa nhiều... Ở
một số gia đình những kiêng kị này vẫn giữ cho đến bây giờ.
Tết Nguyên Đán còn là dịp sinh hoạt cộng đồng của người Mông. Mỗi
bản thường có một nơi chơi Tết và tổ chức các trò chơi, ca múa. Nơi đó thường
là nhà văn hóa có chỗ đất bằng phẳng. Đồng bào sẽ tổ chức các trò chơi, giải trí
mang đậm truyền thống văn hoá: Chọi gà, chọi chim, đấu vật, đẩy gậy, đánh
quay, ném quả Pao, múa khèn, hát giao duyên... Cuộc vui cứ kéo dài từ ngày
này ngày khác cho đến khi hết Tết.
Tết mùng 5 tháng 5
Là Tết được tổ chức để mừng cho cây lúa, cây ngô đã trưởng thành, sắp
trổ bông. Vào dịp này, đồng bào Mông tổ chức ăn uống vui vẻ nhưng lại kiêng
đi thăm nương, thăm lúa. Theo quan niệm của đồng bào Mông, vào ngày mùng
5 tháng 5, các nàng ngô, nàng lúa đi làm dâu, đi lấy chồng. Sự yên tĩnh trên
71
nương là cần thiết cho “hôn lễ” của các nàng ngô, nàng lúa cho hạt ngô, hạt
thóc chắc mẩy, mùa màng bội thu.
Tết rằm tháng Bảy
Ở Võ Nhai, đồng bào thường ăn Tết vào ngày 14 tháng 7 âm lịch. Vào
dịp này, người Mông đốt vàng mã cho tổ tiên; có nhà còn đốt quần áo giấy với
quan niệm làm vậy tổ tiên sẽ nhận được nhiều tiền và no đủ.
Lễ hội Gầu tào
Nói đến Tết của người Mông, không thể không nói đến một lễ hội gọi là hội
Sải Sán hay Gầu tào (hội cầu phúc). Một gia đình trong làng, nếu hay đau ốm hay
chậm có con thì mùng 2 đi dựng một cây nêu lớn ở bãi cỏ đầu làng. Hội này tiếng
là do một gia đình tổ chức (gia đình đó gọi là chủ nêu) nhưng thật ra đó là một lễ
hội của cộng đồng, thậm chí khi làng này dựng nêu, làng khác cũng đến dự hội.
Hội Gầu tào nhằm tạ ơn tổ tiên về mùa màng, súc vật; cầu cho con cháu đông đàn.
Đây là lễ hội lớn nhất của người Mông trong năm và nó thể hiện rõ nhất những
đặc trưng văn hoá Mông trong ngày Tết. Trong lễ hội này, sau phần lễ là hát giao
duyên và các trò chơi yêu thích của người Mông như vừa kể trên.
Lễ hội Nào sồng
Lễ hội nào sồng (lễ ăn ước hay ăn hội) được tổ chức trong từng bản, vào
đầu năm mới. Người Mông quan niệm ngày Thìn (ngày con rồng) là ngày tốt để
thực hiện nghi lễ này. Vì vậy hằng năm, vào ngày Thìn, các bản đều tổ chức họp
hội. Người tổ chức lễ Nào sồng là Trưởng bản. Những người được dự lễ hội là
chủ gia đình các hộ trong bản. Nếu chủ gia đình bị ốm hay đau yếu thì vợ và con
trai đi thay. Lễ Nào sồng được diễn ra theo trình tự: cúng thổ thần của bản, bàn
bạc công việc của bản và bầu người hội mới. Những người đến dự lễ lần lượt
uống một bát rượu thề thực hiện quy ước đã thống nhất thông qua tại lễ hội.
Lễ Nào sồng rất có ý nghĩa đối với người Mông. Các quy ước của bản đề
ra được coi là thước đo chuẩn mực đạo đức của mỗi thành viên, góp phần duy
trì trật tự xã hội, củng cố tính cố kết cộng đồng trong phạm vi một bản, dòng họ
72
và gia đình. Hiện nay ở Võ Nhai, lễ hội này thường được tổ chức cùng ngày
Hội Đại đoàn kết toàn dân (18/11).
Tiểu kết chƣơng 3
Người Mông ở Võ Nhai có một đời sống văn hoá rất phong phú và mang
đậm bản sắc truyền thống của tộc người. Định cư, xen cư với các tộc người khác
ở vùng đất mới tại huyện Võ Nhai không làm mất đi những nét đặc trưng vốn có
trong đời sống văn hoá của người Mông, bao gồm cả những yếu tố tích cực và
lạc hậu. Trong điều kiện phát triển của văn hoá đang thay đổi hiện nay, văn hoá
vật chất và văn hoá tinh thần của người Mông ở Võ Nhai cũng đang dần biến đổi
và có mối quan hệ mật thiết với đời sống kinh tế của đồng bào. Kế thừa và phát
huy những tinh hoa văn hoá tộc người, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn
hoá nhân loại sẽ là điều kiện quan trọng giúp người Mông ở Võ Nhai nâng cao
chất lượng sống cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, góp phần xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
73
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đời sống kinh tế - văn hoá của tộc người Mông ở
huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975 đến năm 2015, tác giả Luận văn
rút ra một số kết luận sau:
1. Võ Nhai là một huyện nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Thái Nguyên,
cách trung tâm thành phố 32km theo Quốc lộ 1B. Địa hình phức tạp chủ yếu
là đồi núi dốc và núi đá vôi, là cửa ngõ thông thương giữa Thái Nguyên với
Bắc Sơn và Hữu Lũng (Lạng Sơn). Cùng với Phú Lương và Đồng Hỷ được
chọn là một trong những điểm di cư đầu tiên của người Mông từ Cao Bằng
đến từ năm 1975, đặc biệt khi chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra năm
1979. Những xã có địa hình núi đất xen lẫn núi đá vôi như Dân Tiến,
Thượng Nung, Nghinh Tường, Sản Mộc được chọn là những nơi cư trú của
đồng bào Mông ở Võ Nhai.
2. Từ những đặc điểm của địa bàn cư trú, đặc điểm tộc người và những
tập quán sản xuất, người Mông ở Võ Nhai đã xây dựng cho mình một đời sống
kinh tế phong phú; trong đó trồng trọt đóng vai trò trung tâm. Cây lương thực
chủ yếu là lúa và ngô được đồng bào Mông canh tác dựa trên những tập quán
sản xuất truyền thống của tộc người mình, đồng thời tiếp thu những tri thức sản
xuất của các tộc người cùng sinh sống trên địa bàn và những tiến bộ mới trong
sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, đồng bào còn chăn nuôi gia súc, gia cầm
nhằm phục vụ cho sản xuất và đời sống sinh hoạt. Nhiều ngành nghề thủ công
vẫn tiếp tục được duy trì, song đã có tiếp thu có chọn lọc những tri thức mới
trong sản xuất. Hoạt động khai thác sản phẩm tự nhiên vẫn tiếp tục được duy trì
chủ yếu là khai thác các loại cây dược liệu. Trao đổi hàng hoá đã phát triển do
sản phẩm được làm ra không còn hoàn toàn mang tính tự cung tự cấp như
trước, mà đã trở thành hàng hoá, như nấu rượu, thịt gia súc, gia cầm.
Sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và áp dụng những thành tựu
khoa học kĩ thuật đang làm thay đổi cuộc sống của đồng bào Mông ở Võ Nhai.
74
Tuy nhiên, nền kinh tế của người Mông ở Võ Nhai hiện nay vẫn là nền kinh tế
kém phát triển, tỉ lệ hộ nghèo còn cao.
3. Văn hoá của người Mông ở Võ Nhai bao gồm văn hoá vật chất và văn
hoá tinh thần vẫn giữ được bản sắc truyền thống tộc người từ cái mặc, cái ăn,
cái ở đến tổ chức xã hội, làng bản, dòng họ, hôn nhân, gia đình, tín ngưỡng, tôn
giáo, phong tục tập quán, gắn chặt với cuộc sống thường ngày của đồng bào.
Cùng với sự đổi thay trong đời sống kinh tế, văn hoá của người Mông ở Võ
Nhai cũng đang có nhiều nét mới.
Văn hoá vật chất của người Mông ở Võ Nhai mang đậm bản sắc truyền
thống tộc người với những tập quán trong ăn, mặc, ở giản dị, phù hợp với điều
kiện địa bàn cư trú. Những nét tiến bộ mới đã xuất hiện do tác động trực tiếp từ
đời sống kinh tế của đồng bào. Bên cạnh yếu tố tích cực, sự tiếp thu những thói
quen sinh hoạt mới, cách ăn mặc mới... cũng đang báo động nguy cơ đánh mất
trang phục truyền thống của người Mông nói riêng và các tộc người thiểu số
khác ở Võ Nhai.
Trong xã hội của người Mông, thiết chế dòng họ vẫn đóng vai trò
quan trọng. Dòng họ vẫn là nơi tạo ra mối quan hệ của các thành viên trong
cộng đồng và làng bản. Đó cũng là lí do khiến người Mông ở Võ Nhai trở
thành một cộng đồng thiểu số có sự ràng buộc, gắn kết và đoàn kết rất cao
ở địa phương.
Tôn giáo tín ngưỡng của người Mông ở Võ Nhai vẫn giữ những nét
truyền thống với quan niệm về ba tầng thế giới, tầng trên cùng là nơi trú ngụ
của thần linh, tầng giữa là nơi trú ngụ của con người và tầng dưới là lòng đất.
Vì vậy, thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng đa thần vẫn rất phổ biến trong đồng bào.
Tuy nhiên, từ năm 1989, trên địa bàn huyện Võ Nhai xuất hiện một thứ tà đạo,
do Dương Văn Mình cầm đầu. Lợi dụng sự lạc hậu, mê tín của một bộ phận
đồng bào Mông, Dương Văn Mình cùng đồng bọn đã lôi kéo đồng bào đi
ngược lại chủ trương chính sách của Đảng, gây nên những bất ổn về chính trị,
75
an ninh. Được sự tuyên truyền của chính quyền các cấp, đến nay, đồng bào
Mông trên địa bàn huyện Võ Nhai đã nhận thức được bản chất của tổ chức bất
hợp pháp Dương Văn Mình, nhiều hộ đã không theo, tập trung vào làm kinh tế.
Tính đến năm 2015, trên địa bàn huyện chỉ còn một điểm nóng về thứ tôn giáo
này là Lân Thùng thuộc xóm Đồng Giong, xã Phương Giao.
Các nghi lễ trong chu kì đời người rất phong phú, mang đậm giá trị văn
hoá và ít biến đổi phản ánh trình độ văn hoá và hiểu biết của đồng bào Mông ở
Võ Nhai. Sự duy trì một cách khá bền vững những nghi lễ trong chu kì đời
người đã chi phối mạnh mẽ nếp sống, hoạt động kinh tế và sự hình thành nhân
cách của các thành viên trong cộng đồng người Mông.
Người Mông ở Võ Nhai có nền văn nghệ dân gian khá phong phú, mang
đậm tính nhân văn và bản sắc tộc người. Âm nhạc và trò chơi dân gian mang
đậm tính cộng đồng và là cầu nối giúp người Mông hoà nhập vào cộng đồng
các tộc người ở Võ Nhai. Tuy nhiên, nền văn nghệ dân gian trên đang đứng
trước nguy cơ mai một, biểu hiện rõ ở thế hệ trẻ người Mông không còn mấy
người biết thổi khèn và biết hát những điệu dân ca truyền thống. Trong điều
kiện phát triển của đất nước nói chung và Võ Nhai nói riêng, hiện tượng văn
hoá cổ truyền của người Mông ở Võ Nhai mai một đang là một thực tế đáng
lưu tâm. Việc giữ gìn những tinh hoa văn hoá tộc người và phát huy, tiếp thu có
chọ lọc những di sản văn hoá dân tộc và nhân loại đang là bài toán không dễ
tìm ra lời giải đối với chính các tộc người và các cấp chính quyền.
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb VHTT, HN.
2. Trần Văn Bính (chủ biên) (2006), Đời sống văn hoá các dân tộc thiểu số
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội.
3. Cục thống kê Thái Nguyên (2009), Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên
2008, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
4. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. Gia Dũng biên soạn (2000), Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam
thế kỷ XX, Nxb Văn hoá dân tộc.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Bế Viết Đẳng (1997), Dân tộc Mèo - Các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Khoa Điềm - Nông Quốc Chấn (2001), Bảo tồn phát huy văn hoá
truyền thống của các dân tộc thiểu số, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Tuấn Giang, Đặc điểm dân ca Mông - Tày - Nùng - Thái, Vanchuongviet.org,
Hà Nội 2011.
10. Lê Sĩ Giáo (1997), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Huệ (1999), Dân số các dân tộc miền núi và trung du Bắc Bộ
sau thời kì đổi mới, Nxb Văn hoá dân tộc.
12. Nguyễn Chí Huyên, Hoàng Hoa Toàn (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người
vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc - Hà Nội.
13. Mã A Lềnh (2009), Ghi chép về văn hoá dân gian Hmông, Nxb Văn hoá
Thông tin.
14. Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai, tập 2 (1955-2000), Huyện ủy Võ Nhai
xuất bản.
77
15. Phạm Quang Linh, Hoàng Phương Mai (2008), Một số tài liệu sưu tầm về
người H'Mông ở Việt Nam, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
16. Lã Văn Lô, Nguyễn Hữu Thấu, Mai Văn Trí, Ngọc Anh, Mạc Như Đường
(1959), Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Văn hoá Hà Nội.
17. Người Mông ở Việt Nam (2005), NXB Thông tấn Hà Nội
18. Phòng Dân tộc huyện Võ Nhai (2014), Bảng dân số chia theo dân tộc
huyện Võ Nhai 2014 - 2015.
19. Phòng Dân tộc huyện Võ Nhai (2014), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu các dân tộc thiểu số huyện Võ Nhai lần thứ II, năm 2014, Lưu trữ tại
Phòng Dân tộc huyện Võ Nhai .
20. Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Võ Nhai (2014), Báo cáo về tình hình
văn hoá dân tộc thiểu số huyện Võ Nhai, Lưu trữ tại Phòng Văn hoá -
Thông tin huyện Võ Nhai.
21. Vương Duy Quang (1994), Vấn đề người HMông theo đạo Kitô ở Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Dân tộc học số 4 năm 1994.
22. Vương Duy Quang (2005), Văn hóa tâm linh ở Việt Nam truyền thống và
hiện tại, Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội
23. Vương Duy Quang (Tháng 10/1998), Nghi lễ thờ cúng tổ tiên và một số vị
thần trong tôn giáo tín ngưỡng ở người HMông Việt Nam, Phòng Tư liệu
- Thư viện - Viện Nghiên cứu Tôn giáo.
24. Hoàng Quyết, Tấn Dũng (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc ở Việt
Bắc- Nxb Văn hóa dân tộc.
25. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên (2004), Báo cáo
tổng kết công tác định canh định cư và kinh tế mới giai đoạn 1990- 2004
tỉnh Thái Nguyên, Lưu trữ tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tỉnh Thái Nguyên.
26. Sở Văn hoá - Thông tin (2003), Đất và người Thái Nguyên, Lưu trữ tại sở
Văn hoá thông tin Thái Nguyên.
78
27. Trần Hữu Sơn (2005), Xây dựng đời sống văn hoá ở vùng cao, Nxb Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
28. Lâm Tâm (1972), Một số điều tra về người Mèo, Tạp chí Vietnamese
Studies, Hà Nội.
29. Lê Ngọc Thắng, Lê Bá Nam (1994), Bản sắc văn hoá các dân tộc ở Việt
Nam, Nxb Văn hoá dân tộc.
30. Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
31. Hà Thị Thu Thủy, Đàm Thị Uyên (2011), “Làng bản và luật tục bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên của người H’mông huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang”, Tạp chí Dân tộc học và thời đại, Thái Nguyên.
32. Hà Thị Thu Thủy, Dương Kim Giao (2011), “Luật tục và hương ước của dân
tộc H’mông khu vực miền núi phía Bắc trong việc sử dụng và bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên” , Tạp chí Dân tộc học và thời đại, Thái Nguyên.
33. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2009),
Địa chí Thái Nguyên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Nông Quốc Tuấn (2004), Trang phục cổ truyền của người Mông ở Việt
Nam, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
35. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2001), Tóm tắt quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội huyện Võ Nhai thời kì 2001 - 2010, lưu trữ tại Uỷ
ban Nhân dân huyện Võ Nhai.
36. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2004), Báo cáo thành tích thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2003, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân
huyện Võ Nhai.
37. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2005), Báo cáo thành tích thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2004, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân
huyện Võ Nhai.
38. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2006), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2005, nhiệm vụ
công tác năm 2006, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân huyện Võ Nhai.
79
39. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2009), Báo cáo tổng kết phong trào thi
đua yêu nước của đồng bào dân tộc thiểu số huyện Võ Nhai qua các thời
kỳ cách mạng và phương hướng nhiệm vụ công tác dân tộc huyện đến
năm 2020, lưu trữ tại Văn phòng UBND huyện Võ Nhai.
40. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2011), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2010, nhiệm vụ
công tác năm 2011, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân huyện Võ Nhai.
41. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2012), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2011, nhiệm vụ
công tác năm 2012, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân huyện Võ Nhai.
42. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2014), Tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, công tác dân
tộc và thực hiện chính sách dân tộc giai đoạn 2009 - 2014; phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2014 - 2019, lưu trữ tại Uỷ ban
Nhân dân huyện Võ Nhai.
43. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2015), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2014, nhiệm vụ
công tác năm 2015, lưu trữ tại Uỷ ban Nhân dân huyện Võ Nhai.
44. Ủy ban Nhân dân huyện Võ Nhai (2015), Báo cáo về tình hình kinh tế - xã
hội vùng đồng bào người Mông trên địa bàn huyện Võ Nhai, lưu trữ tại
Văn phòng UBND huyện Võ Nhai.
45. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Dân tộc - Văn hoá - Tôn giáo, Nxb Khoa
học xã hội.
46. Cư Hoà Vần - Hoàng Nam ( 1994), Người Mông ở Việt Nam, Nxb Văn hoá
dân tộc Hà Nội.
47. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam (2002),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
80
48. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía
Bắc), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
50. Viện Dân tộc học (1983), Sổ tay các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
51. Viện Khoa học Xã hội, Viện Dân tộc học, UBND tỉnh Thái Nguyên, Sở
Văn hoá - Thông tin Thái Nguyên (2004), Dân cư, dân tộc tỉnh Thái
Nguyên, Hà Nội.
52. Lê Trung Vũ, Mấy hình tượng đáng lưu ý trong truyện cổ dân tộc Mèo, Tạp
chí Dân tộc học số 3 năm 1976.
53. Vụ Văn hoá dân tộc, Bộ Văn hoá - Thông tin (2005), Bảo toàn và phát huy
văn hoá dân tộc Mông, Kỷ yếu Hội thảo khoa học.
81
PHỤ LỤC
Nguồn tác giả
Đơn vị thi công tuyến đường vào Làng Ươm, xóm Tân Tiến, xã Dân Tiến
Một góc bản Lũng Cà xã Thượng Nung
Nguồn tác giả
(Phòng Văn hóa huyện Võ Nhai)
Tham gia Liên hoan văn nghệ lần thứ nhất của huyện
Nguồn tác giả
(Phòng Văn hóa huyện Võ Nhai)
Nguồn tác giả
Dọn nương chuẩn bị cho vụ mới c ủa đồng bào Mông ở xóm Lân Vai xã Dân Tiến
[Đám cưới của hai vợ chống Giàng A Pao và Lý Thị Sình Thượng Nung
Nguồn tác giả
Nguồn tác giả
Lễ khánh thành và bàn giao nhà “Mái ấm tình thương” xóm Lân Vai, xã Dân Tiến (Hội phụ nữ xã Dân Tiến).
Nguồn tác giả
Điểm trường Lũng Luông, Thượng Nung Nguồn Tác giả
Các thiếu nữ Sảng Mộc tham gia văn nghệ đón xuân năm 2015