
DƯỢC HỌC
HỒNG HOA

Xuất xứ:
Khai bửu.
Tên Việt Nam:
Cây Rum.
Tên Hán Việt khác:
Hồng lam hoa, Đỗ hồng hoa, Mạt trích hoa, Hồng hoa thái, Tạng hồng
hoa, Kết hồng hoa, Sinh hoa, Tán hồng hoa, Hồng lan hoa, Trích hoa, Thạch
sinh hoa, Đơn hoa, Tiền bình hồng hoa, Tây tạng hồng hoa, Lạp hồng hoa,
Nguyên hồng hoa, Hoàng lan hoa, Dương hồng hoa (Trung Quốc Dược Học
Đại Từ Điển).
Tên khoa học:
Carhamus tinctorius L.
Họ khoa học:
Họ Cúc (Asteraceae).

Mô tả:
Cây thảo cao hơn 1m, thân nhẵn, đứng thẳng, có vạch dọc, trên có
phần cành. Lá mọc so le gần như không có cuống, bẹ, đầu chót nhọn như
gai, mép có răng cưa nhọn không đều, mặt lá trơn màu xanh sẫm, gân chính
giữa lồi cao. Cụm hoa gồm nhiều hoa nhỏ, màu đỏ cam, đẹp, họp lại thành
gù hình đầu, ở ngọn và chót cành, lá bắc có gai. Hoa có ống dài hình tên,
trên có 5 cánh đỏ như tua sợi, hoa cái giữa có nhụy vàng, kết quả vào dưới
ống. Quả bề hình trứng có 4 cạnh lồi. Mùa hoa tháng 6-8, mùa quả tháng 8-
9.
Địa lý:
Trước đây đã được trồng nhiều ở Hà Giang Việt Nam, nay đang được
phát triển trồng nhiều nơi. Trồng bằng hạt vào mùa xuân.
Phân biệt:
Cây Tạng hồng hoa, còn có tên là Phiên hồng hoa, hoặc Lệ hồng hoa,
có nhiều ở Tây Tạng và Âu Uyên, thuộc họ đuôi Điều đó là cây thảo sống đa
niên, ở phần dưới đất thân tròn hình cầu, phình lớn, lá 6-9 phiến, lá hình dãi,
không cuống. Vùng gốc có bẹ rộng bọc lại hình vẩy, khoảng tháng 9,10 từ lá
nổi lên 2,3 đoá hoa màu hồng nhạt, hoa chia thành 6 phiến màu hồng đậm,

nhỏ dài, trụ đầu tam thao, màu hồng tím, nhỏ dài. Công dụng giống như
Hồng hoa nhưng tốt hơn và giá tiền đắt hơn nên có nhiều thứ giả. Người ta
thường gọi là Tây tạng hồng hoa.
Thu hái, sơ chế:
Đầu mùa hè, khi hoa đang nở, cánh hoa đang chuyển từ vàng sang đỏ
thì bắt đầu thu hái, để nơi thoáng gió và nơi có ánh nắng cho khô, hoặc phơi
trong râm cho khô là được. Không nên phơi trực tiếp ngoài nắng để khỏi
biến màu.
Phần dùng làm thuốc:
Hoa (Flos Carhami).
Mô tả dược liệu:
1- Cánh hoa dạng ống nhỏ dài, khô teo lại như tơ, mút trước xẻ 5 thùy,
phiến thùy hình dải hẹp, dài chừng 6,5mm, toàn thể dài hơn 13mm, bên
ngoài biểu hiện màu hồng hoặc hồng tím, nhị đực màu vàng nhạt, hợp ôm lại
thành dạng ống, ở chính giữa có trụ đầu ló ra màu nâu nhạt, chất nhẹ xốp, có
mùi thơm đặc biệt. Hồng hoa có ở tỉnh Hà Tây gọi là ‘Hoài hồng hoa’ rất tốt,
cánh hoa dài, màu hồng tím, loại xản xuất ở Tứ xuyên gọi là Xuyên hồng

hoa có màu tím, hơi ẩm vàng, trước đây dùng làm thuốc để nhuộm, hiện nay
rất thông dụng.
2- Tạng hồng-hoa hay Tây tạng hồng hoa, phần dùng làm thuốc là hoa
trụ khô, phần nhiều tập hợp thành dạng khối tròn rời, màu hồng đậm, đơn
thể hoa trụ nhỏ mà dài, trụ đầu tam hoa, hơi dẹt, mút trước hơi phình lớn,
biểu hiện dạng loa kèn, dài chừng 6-10mm, bên ngoài biểu hiện màu hồng
đậm, đầu trơn hơi sáng, có mùi thơm đặc biệt, nhai nhổ ra thấy màu hồng
tranh. Tạng hồng hoa thu hái vào tháng 9-10.
Bào chế: Hái về bỏ đài hoa đi, chỉ dùng cánh hoa gói lại thành từng
bánh phơi khô, hoặc gĩa nát vắt thành miếng bánh phơi khô dùng gọi là
‘Tiền bính’. Loại chỉ phơi khô dùng không đóng bánh gọi là ‘Tán hồng
hoa’.
Cách dùng: Muốn thử xem thực giả lấy một cánh Hồng hoa bỏ vào
trong chén nước nóng thấy đỏ như máu, phơi hai đến ba lần cũng còn đỏ
mới thật làtốt. Dùng sống, cho vào thuốc thang sắc uống để dưỡng huyết,
tẩm rượu dùng để hoạt huyết phá huyết.

