intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Máng (1961-2020): Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:43

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sủng Máng là xã vùng cao núi đá phía Bắc; một trong những địa phương tiêu biểu của huyện Mèo Vạc về phát triển nghề thủ công truyền thống như: May mặc, nghề rèn... Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, nhân dân các dân tộc xã Sủng Máng luôn đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất và giàu lòng yêu nước. Cùng tìm hiểu về xã Sủng Máng mời các bạn cùng tham khảo cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Máng" phần 1 dưới đây!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Máng (1961-2020): Phần 1

  1. 1
  2. ĐẢNG BỘ HUYỆN MÈO VẠC ĐẢNG BỘ XÃ SỦNG MÁNG * TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ SỦNG MÁNG (1961 - 2020) ------ Xuất bản năm 2021 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Sủng Máng là xã vùng cao núi đá phía Bắc; một trong những địa phương tiêu biểu của huyện Mèo Vạc về phát triển nghề thủ công truyền thống như: May mặc, nghề rèn... Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, nhân dân các dân tộc xã Sủng Máng luôn đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất và giàu lòng yêu nước. Dưới thời phong kiến, đặc biệt từ khi thực dân Pháp và bè lũ tay sai áp đặt sự thống trị hà khắc, cuộc sống của người dân xã Sủng Máng ngày càng phải sống trong cảnh màn đêm đen tối. Song với truyền thống yêu nước, kiên cường, dũng cảm, người dân xã Sủng Máng đã nung nấu ý chí đấu tranh chống quân xâm lược, phong kiến thổ ty nhằm giành lấy cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Chi bộ xã (thành lập ngày 22/11/1961), Đảng bộ xã (năm 1997), nhân dân các dân tộc xã Sủng Máng đã tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, tinh thần cách mạng, ý chí tự lực tự cường, tích cực đẩy mạnh lao động sản xuất, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội; góp phần cùng với nhân dân các dân tộc huyện Đồng Văn (thời điểm từ trước tháng 12/1962), huyện Mèo Vạc (từ tháng 12/1962 đến nay) tích cực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân 3
  4. Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 1986), thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 2020). “Lịch sử Đảng là một pho sử bằng vàng”, nhằm ghi lại quá trình lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của Chi, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Sủng Máng trong giai đoạn lịch sử 1963 - 2020; thực hiện Kế hoạch số 342-KH/TU, ngày 02/8/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang về thực hiện Chỉ thị số 20- CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng; sự chỉ đạo của Huyện ủy Mèo Vạc; Ban Chấp hành Đảng bộ xã Sủng Máng khóa IV (nhiệm kỳ 2015 - 2020) đã quyết định chỉ đạo biên soạn cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Máng (1961 - 2020)”. Nội dung cuốn sách tập trung tái hiện lại quá trình hình thành, xây dựng, phát triển của Chi bộ (22/11/1961), Đảng bộ xã (1997); phản ánh vai trò lãnh đạo Đảng, của Chi, Đảng bộ đối với nhân dân xã qua các thời kỳ cách mạng. Từ đó rút ra những kinh nghiệm quý, phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ xã trong thời gian tiếp theo. Cuốn sách được xuất bản và phát hành sẽ là một tài liệu góp phần tích cực trong công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống 4
  5. “Uống nước nhớ nguồn”, bồi dưỡng ý chí và tình cảm cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Trong quá trình sưu tầm và biên soạn cuốn sách, Ban Biên soạn đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu của các đồng chí cán bộ, đảng viên, lãnh đạo của xã qua các thời kỳ; phòng Lý luận Chính trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; Ban Tuyên giáo Huyện ủy Mèo Vạc. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản và phát hành xin được trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do công tác lưu trữ tài liệu qua các thời kỳ không được đầy đủ, tư liệu thành văn rất hiếm (là xã còn nhiều khó khăn, thời kỳ trước những năm 1975 tỷ lệ mù chữ chiếm tỷ lệ cao) trong khi các nhân chứng lịch sử nay đã già yếu, trí nhớ có phần suy giảm nên một số nội dung được phản ánh trong cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau. Trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Máng (1961 - 2020)”. T/M ĐẢNG ỦY BÍ THƯ Nùng Thanh Sấn 5
  6. Chương I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN XÃ SỦNG MÁNG TRƯỚC NĂM 1961 I- KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI Sủng Máng là xã vùng cao núi đá, thuộc khu vực Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn. Xã nằm ở phía Tây, cách trung tâm huyện Mèo Vạc 12 km. Phía Bắc và phía Đông giáp xã Sủng Trà, xã Tả 6
  7. Lủng. Phía Tây giáp xã Sủng Trà và Lũng Phìn (huyện Đồng Văn). Phía Nam giáp xã Nậm Ban, xã Lũng Chinh. Sủng Máng là 1 trong 10 xã, thị trấn nằm trong tiểu vùng giữa của huyện Mèo Vạc. Địa hình của xã nằm trên địa bàn tầng đá vôi có nhiều khe, dốc, vết sụt đất và hầu như không có suối hoặc khe nước, mà duy nhất có nguồn nước ở rừng đầu nguồn từ dải Chí Sán. Khả năng lưu giữ nước trên địa bàn xã cũng như trong tiểu vùng nói chung đều rất kém. Vì vậy, xã cũng như các xã khác trong tiểu vùng thường thiếu nước cho sản xuất và đời sống. Tổng diện tích đất tự nhiên của toàn xã là 2.511,43 ha. Trong đó, đất nông nghiệp 568,23 ha, đất lâm nghiệp 1.698,17 ha, đất phi nông nghiệp là 55,04 ha, đất chưa sử dụng 189,99 ha, đây chủ yếu là diện tích núi đá lớn. Xã Sủng Máng nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa. Chia thành hai mùa khá rõ rệt: Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.700 - 2.000mm và phân bố không đều trong các tháng. Mùa khô (mùa đông) thường kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau; khí hậu mùa này rất khắc nghiệt, khô, hanh, có nhiều ngày rét đậm, rét hại và sương muối; mùa này thường thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt. Thậm chí nếu không làm tốt công 7
  8. tác phòng, chống rét sẽ gây thiệt hại lớn về số lượng gia súc bị chết rét trong mùa đông. Trước đây, Sủng Máng là địa bàn có các loài động - thực vật khá phong phú, đa dạng và quý hiếm. Về động vật có các loài như: Gấu, cầy hương, don, sóc, khướu, họa mi…Về thực vật, có các loài cây quý như: Trai, nghiến… Tuy nhiên, do tình trạng khai thác quá mức, đến nay nhiều loài động, thực vật quý hiếm đã không còn trên địa bàn xã; diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp. Trước tình hình đó, Đảng bộ, chính quyền xã đã tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng, huy động việc trồng mới, phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Sủng Máng là vùng đất có lịch sử từ lâu đời. Qua tài liệu nghiên cứu cho thấy, trong thời kỳ Pháp thuộc, đến năm 1929, Đạo quan binh 3 (tỉnh Hà Giang ngày nay) có 4 đơn vị hành chính là: Châu Vị Xuyên, Bắc Quang, Hoàng Su Phì và Đồng Văn. Châu Đồng Văn gồm có 2 tổng là: Quang Mậu (4 xã, 101 làng), Đông Minh (14 xã, 364 làng). Xã Sủng Máng lúc này là 1 trong 4 xã (Sủng Máng, Đồng Văn, Sơn Vĩ, Niêm Sơn) thuộc tổng Quang Mậu, châu Đồng Văn, gồm các thôn bản là: Sủng Nhỉ, Sín Thò, Can Sui Chin (nay gọi là Cán Số Chín), Lo Lo Phìn (Lò Lử Phìn), Sủng Quáng, Sin Chải, Sáo Cố Luổng, Pò Chu Luông, Lo Len Phìn, Seo Luổng, Quảng Thần Lủng, (Quán Thèn Lủng), Sung Sà, Sung Pản, Chang Cha 8
  9. Phìn, Chìn Chù Ván, Lũng Tháng, Sủng Máng, Sủng Ú, Lủng Chà (Lũng Chà), Phìn Mấy, Lũng Lý. Ngày 15/12/1962, thực hiện Quyết định số 211-CP, ngày 15/12/1962 của Hội đồng Chính phủ, huyện Đồng Văn được chia thành 3 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh. Cũng theo Quyết định này, xã Sủng Máng được điều chỉnh thuộc về huyện Mèo Vạc. Thời điểm này, địa giới hành chính của xã gồm 5 thôn là: Sủng Quáng, Sủng Nhỉ A, Sủng Nhỉ B, Sủng Máng, Sủng Ú. Sủng Máng là địa bàn cư trú của các dân tộc, gồm: Dân tộc Dao, Mông và Tày… đã bao đời nay, đồng bào các dân tộc xã Sủng Máng thường sinh sống ở các triền núi cao, cư trú theo quan hệ huyết thống hoặc sống xen kẽ với nhau. Đồng thời luôn giữ gìn truyền thống đoàn kết, tinh thần dũng cảm đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, đến nay, toàn xã có 563 hộ, 2.961 khẩu, gồm 3 dân tộc: Dân tộc Dao, Mông và Tày, trong đó dân tộc Dao chiếm 96%. Sủng Máng là địa bàn chứa đựng nhiều giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc. Mỗi dân tộc ở Sủng Máng có một truyền thống văn hóa đặc trưng, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Nét văn hóa đó được thể hiện qua ngôn ngữ, văn hóa - văn nghệ dân gian, phong tục tập quán. Trong đó, đồng bào dân tộc Dao có kho tàng câu chuyện thần thoại phản ánh đời sống của dân tộc mình. Đồng bào dân tộc Mông có các 9
  10. bài hát ca ngợi cái tốt đẹp, ca ngợi tình yêu nam nữ, yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước…Đặc biệt, tiếng khèn của đồng bào dân tộc Mông đã trở thành một loại nhạc cụ truyền thống và thu hút được nhiều du khách khi đặt chân đến nơi đây. Tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã là “vạn vật hữu linh” và thờ cúng tổ tiên. Nguồn gốc các dân tộc ở đây vốn không theo một tôn giáo nào. Các hoạt động văn hóa của các dân tộc thường được tổ chức trong dịp tết Nguyên đán; giao lưu văn nghệ tại các phiên chợ… Tuy nhiên, trải qua quá trình sinh sống, phát triển, hiện nay một số nét văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc dần bị mai một và du nhập một số văn hóa mới. Do đó đặt ra những vấn đề cần giữ gìn, bảo tồn và phát huy. Trong lao động sản xuất, người dân Sủng Máng đã tích cực khai phá, cải tạo đất đai để tạo ra những thửa ruộng bậc thang, những nương rẫy tốt phục vụ cho việc trồng trọt. Đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã chủ yếu trồng ngô làm cây lương thực chính. Ngoài ra, đồng bào còn trồng lúa nương, lúa nước, trồng xen canh các loại rau đậu, dong… Về chăn nuôi, người dân trong xã thường nuôi trâu, bò để phục vụ cho sản xuất; nuôi gà, dê, lợn… phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Sủng Máng là địa bàn sớm hình thành việc buôn bán nhỏ, trao đổi hàng hóa. Đặc biệt, trên địa bàn xã Sủng Máng có các nghề thủ công truyền thống, đến nay trở thành thế mạnh của xã như: Nghề may mặc; nghề 10
  11. rèn làm công cụ sản xuất như lưỡi cày, dao, cuốc, nghề làm hương, giấy bản… … Trước đây, hệ thống giao thông trên địa bàn xã hầu như chưa có gì, chủ yếu là đường mòn đi bộ cho người và ngựa thồ, đi lại gặp nhiều khó khăn. Đến nay, hệ thống đường giao thông liên xã, liên xóm đã được xây dựng thuận lợi cho tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, do địa hình có độ dốc cao, nên mùa mưa, lũ quét thường xảy ra, gây ra tình trạng sạt lở đường và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. II- NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC SỦNG MÁNG THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1961 DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng, chính thức mở cuộc xâm lược Việt Nam. Triều đình phong kiến nhà Nguyễn bạc nhược đầu hàng, đất đai của Tổ quốc dần rơi vào tay giặc. Đến năm 1887, thực dân Pháp chính thức chiếm đóng được vùng đất Hà Giang. Tại địa bàn châu Đồng Văn, khi thực dân Pháp đặt chân đến đây đã không dễ dàng đặt được ngay ách thống trị, mà người dân nơi đây đã kiên cường đứng lên đánh trả quyết liệt để bảo vệ chủ quyền quê hương mình. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Sùng Mí Chảng năm 1911 - 1912 ở xã Đồng Văn. Để đặt được ách thống trị đối với nhân dân nơi đây, thực dân 11
  12. Pháp đã phải lợi dụng, mua chuộc các lãnh chúa phong kiến, thổ ty làm tay sai và thông qua đó thực hiện âm mưu xâm lược. Thực dân Pháp thông qua những người cầm đầu các dân tộc ở từng vùng để cai trị, không quản lý trực tiếp. Đối với địa bàn xã Sủng Máng (châu Đồng Văn), lợi dụng điều kiện khó khăn, phức tạp, thiếu thông tin, trình độ dân trí thấp; thực dân Pháp và tay sai đã thực hiện “chia để trị”, ra sức duy trì hệ thống các dòng họ thổ ty trong địa phương đồng thời dùng mọi thủ đoạn thâm độc nhằm chia rẽ, gây hằn thù giữa các dòng tộc. Chúng phân biệt từng vùng, từng dân tộc để tổ chức bộ máy hành chính, trực tiếp cai trị. Người Dao được chia thành động, do quản Chiểu đứng đầu. Người Mông được chia ra thành giáp do bọn tổng giáp, mã phài nắm, dưới sự kiểm soát của bang tá người Mông. Người Hoa lập thành bang, đứng đầu có phường trưởng, bang trưởng... Thực dân Pháp đã nhen lên và khoét sâu sự xích mích, nghi kỵ, thù hằn lẫn nhau giữa dân tộc này với dân tộc kia, dòng họ này với dòng họ kia. Dưới chế độ cai trị của thực dân, phong kiến, thổ ty, đời sống kinh tế của người dân xã Sủng Máng hết sức khó khăn. Nhân dân xã Sủng Máng chủ yếu trồng ngô, lúa nương và mang tính tự cấp, tự túc, phân tán, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, đất đai cằn cỗi, phần lớn là núi đá, kỹ thuật canh tác lại hậu. Công cụ sản xuất thô sơ, cày cuốc nhỏ bé, bò, trâu không đủ cho 12
  13. nhu cầu sản xuất, vì thế người dân phải dùng sức người thay thế. Bên cạnh đó phương pháp sản xuất của người dân còn lạc hậu, chưa biết sử dụng phân bón để làm cho hoa màu tốt hơn, kết quả thu hoạch rất thấp; lại bị bọn thực dân, thổ ty vơ vét, cướp đoạt nên đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc hết sức khổ cực. Thời kỳ này, nhân dân xã Sủng Máng phải đóng góp thuế rất nhiều. Trung bình mỗi gia đình/năm phải đóng góp cho Thổ ty: Thuốc phiện 10-20kg, bắp 200kg, tiền 2 đồng bạc già. Ngoài ra, nhân dân Sủng Máng còn phải đóng góp cho các chức dịch trong xã những khoản tiền như nuôi gia súc, tiếp khách… Mỗi kỳ thu thuế chúng còn tăng lên để lấn sén thêm. Thổ ty còn bóc lột sức lao động của người dân. Hàng năm người dân phải thay nhau đến hầu cho gia đình Thổ ty và làm không công cho các chức dịch trong xã 6 tháng. Thủ công nghiệp trên địa bàn xã chưa có sự phát triển. Đồng bào Dao đều biết làm vải và các đồ trang sức cho phụ nữ, biết làm lưỡi cày, cuốc, xẻng… nhưng nói chung chỉ tự túc trong gia đình, trừ khi nào cần thiết mới mang ra bán, đổi lấy muối, gạo, bắp…Bên cạnh đó, đường giao thông đi lại trên địa bàn xã hết sức khó khăn, việc buôn bán chỉ có tính chất trao đổi giữa người dân với nhau để đổi lấy những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày của họ. Hầu hết người dân vẫn dùng đồng bạc già để trao đổi mua bán, đồng bạc già giá trị thất thường lúc cao, lúc hạ, do ảnh hưởng của thị trường 13
  14. bên Trung Quốc và theo giá của mùa thuốc phiện nên đời sống nhân dân hết sức bấp bênh. Dưới chế độ thực dân, phong kiến, thổ ty ra sức kìm hãm, đầu độc nhân dân các dân tộc về mọi mặt, 99% người dân Sủng Máng không biết chữ, trong các xóm làng không có trường học. Người dân khi ốm đau không được khám, chữa bệnh, không có thuốc chữa bệnh. Các bệnh dịch như: Sốt rét, đậu mùa... tràn lan, nhiều người mắc bệnh không có thuốc để cứu chữa; đời sống nhân dân đã đói khổ lại càng khổ cực hơn, dân không có điều kiện được học hành. Bị bóc lột, bưng bít thông tin, nhân dân không được tiếp xúc với thông tin, hủ tục còn nhiều, mê tín còn nặng. Có thể khẳng định, đời sống nhân dân thời kỳ này hết sức khổ cực, dân trí thấp kém. Trung bình 70% dân chúng thiếu ăn 6 tháng/năm; 20% dân chúng thiếu ăn trong 3 tháng, chỉ có 10% dân chúng đủ ăn. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt hai phần ba thế kỷ bế tắc và khủng hoảng về đường lối cách mạng từ khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là tập hợp, tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây cách mạng Việt Nam bước sang thời kỳ mới. Tại Hà Giang, từ năm 1932 - 1945, nhiều cán bộ cách mạng của Đảng, của Mặt trận Việt Minh đã đến 14
  15. hoạt động tuyên truyền, vận động cách mạng, gây dựng cơ sở Việt Minh, xây dựng căn cứ cách mạng và thành lập được Ban Việt Minh tại các địa phương như: Bằng Hành, Hùng An (Bắc Quang); Bắc Mê (Vị Xuyên); Đường Thượng (Đồng Văn). Đặc biệt từ sau năm 1941, phong trào Việt Minh phát triển mạnh ở các địa phương trong tỉnh, thành lập được các đội du kích, đội tuyên truyền, giác ngộ quần chúng chuẩn bị cho cách mạng giành chính quyền khi thời cơ đến. Đối với địa bàn Sủng Máng, là xã vùng cao, địa hình hiểm trở, đời sống kinh tế, xã hội của người dân rất lạc hậu, giao thông đi lại khó khăn lại bị chế độ thực dân, phong kiến, thổ ty kìm hãm, khống chế mọi mặt nên ảnh hưởng của Đảng đến với đồng bào các dân tộc rất khó khăn. Cán bộ của Đảng trong thời gian này chưa thể xây dựng được cơ sở cách mạng ở đây. Tháng 8/1945, tình hình cách mạng Việt Nam có những thuận lợi mới. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự toàn thắng của phe Đồng Minh. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang, tê liệt. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam gục ngã. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện. Tuy nhiên quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa Đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật. Vì thế vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh. 15
  16. Trước tình thế cách mạng vô cùng khẩn cấp và đang sục sôi trong cả nước, từ ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp tại Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Hội nghị đã nhận định: “Điều kiện khởi nghĩa của Đông Dương đến nay đã chín muồi, Đảng phải lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền”. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và đề ra đường lối đối nội, đối ngoại của Mặt trận Việt Minh trong tình hình mới. Thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân cả nước đã đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt cho toàn thể quốc dân, đồng bào đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với thế giới việc khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Lúc này khu vực Đồng Văn nói chung, xã Sủng Máng nói riêng có những khó khăn, phức tạp riêng và chưa giành được chính quyền. Do lực lượng cách mạng ở Đồng Văn cùng một lúc phải đối phó với nhiều loại kẻ thù. Kẻ địch câu kết với nhau chống phá cách mạng từ nhiều phía, đánh phá các cơ sở của ta, giết hại, bắt giữ, giam cầm cán bộ, chiến sỹ, tìm mọi cách bưng bít tình hình; khống chế, kìm hãm sự phát triển phong trào cách mạng trong vùng đồng bào, gây hiềm khích giữa đồng bào với cán bộ là người Kinh. Cùng với đó, lực lượng 16
  17. thổ ty Vương Chí Sình lúc này còn rất mạnh. Đây là khó khăn trở ngại cho việc phát triển phong trào cách mạng ở khu vực này. Từ tháng 10/1945, phong trào cách mạng của ta ở khu vực Đồng Văn được phát triển mạnh. Hơn nữa, Thổ ty Vương Chí Sình sau một thời gian cấu kết với Hoàng Quốc Chính đã nảy sinh nhiều bất mãn. Trong cuộc gặp tình cờ với đồng chí Mai Trung Lâm - cán bộ Việt Minh tại buổi tọa đàm với Hoàng Quốc Chính ở thị xã Hà Giang (đầu tháng 11/1945) và sau đó là cuộc gặp gỡ chính thức giữa Vương Chí Sình và Mai Trung Lâm; Vương Chí Sình đã quyết định về Hà Nội để gặp Cụ Hồ, mặc cho khi đó Hoàng Quốc Chính còn chiếm giữ thị xã Hà Giang ngăn cản. Sau cuộc gặp gỡ, (Cụ Hồ) Hồ Chủ tịch đã nhận biết được vai trò, ảnh hưởng cũng như sức mạnh của thổ ty Vương Chí Sình ở vùng biên cương có nhiều dân tộc ít người, có tình hình rất phức tạp về mọi mặt nên đã giao cho ông Vương Chí Sình làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Đồng Văn, đồng thời cử cán bộ cùng Vương Chí Sình quay trở lại Đồng Văn, mời thêm đại diện các khu, các dân tộc để thành lập chính quyền huyện Đồng Văn. Như vậy, ở Đồng Văn nói chung thời điểm này không có việc cướp chính quyền như các nơi khác, mà ta tạm thời thừa nhận thực tế chính quyền của thổ ty và biến nó thành “Ủy ban hành chính” để từng bước cải tạo chúng. Mọi quyền hành, chính trị, quân sự đều tập trung 17
  18. trong tay Thổ ty. Thổ ty còn lập nhà tù để giam hãm những kẻ nào phản kháng chúng hoặc không có tiền đút lót trong việc kiện cáo… Ngày 06/01/1946, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc huyện Đồng Văn, trong đó có nhân dân xã Sủng Máng đã tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Với cuộc bầu cử này, lần đầu tiên nhân dân các dân tộc huyện Đồng Văn được thực hiện quyền dân chủ của mình, được tự tay bỏ lá phiếu bầu ra cơ quan quyền lực cao nhất, góp phần xây dựng chế độ mới, thể hiện lòng tin của nhân dân với Đảng, với cách mạng. Ông Vương Chí Sình là một trong hai đại biểu của tỉnh Hà Giang được bầu vào Quốc hội khóa I. Thắng lợi này đã làm thất bại âm mưu phá hoại chính quyền cách mạng của bọn tay sai Tưởng Giới Thạch bên Trung Quốc, củng cố những thành quả của Cách mạng tháng Tám. Cuối năm 1946, quan hệ giữa ta và Pháp hết sức căng thẳng, thực dân Pháp âm mưu cướp nước ta một lần nữa. Trước những hành động gây chiến ngày càng trắng trợn của quân Pháp, ngày 17/12/1946, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến và đề ra những vấn đề cơ bản của đường lối kháng chiến. Đêm ngày 19/12/1946, cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ 18
  19. tịch Hồ Chí Minh được truyền khắp cả nước. Ngày 22/12/1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”. Chỉ thị đã nêu rõ mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Đường lối chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Để thúc đẩy việc hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, ngày 27/3/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc. Hướng thi đua chủ yếu là tăng gia sản xuất và luyện quân lập công. Năm 1948, trước tình hình ảnh hưởng và thế lực của Thổ ty Vương Chí Sình còn mạnh, lúc này Ủy ban hành chính huyện do Thổ ty Vương Chí Sình làm Chủ tịch. Về hình thức Ủy ban hành chính huyện vẫn trực thuộc Ủy ban hành chính tỉnh, nhưng thực tế ta chưa nắm được Vương nên huyện Đồng Văn vẫn chia làm 2 khu vực: Khu vực thuộc Thổ ty và khu vực phân khu Đông Minh thuộc ta. Địa bàn Sủng Máng lúc này thuộc vùng Thổ ty1. Thời điểm này, Ủy ban Kháng chiến hành chính xã đã được thành lập, nhưng dưới chế độ cai quản trực tiếp của Thổ ty nên nhiều nhiệm vụ của Đảng đề ra bị hạn chế, đời sống nhân dân xã Sủng Máng hết sức khổ cực. Nhân dân xã đều sinh sống với nghề nông, đất đai 1 Văn kiện Đảng bộ tỉnh toàn tập, tập I (1945-1960), trang 56. 19
  20. cằn cỗi, phần lớn là núi đá. Đến mùa đều phải đi phát nương trồng bắp, thuốc phiện và lúa nương. Phương pháp sản xuất còn lạc hậu, chưa biết sử dụng các nông cụ sản xuất mới. Cùng với đó, một trong những thiếu thốn lúc này là vấn đề muối, do đó, để tăng cường cán bộ vào khu vực này, gây dựng cho nhân dân có ý thức bảo vệ, xây dựng đối với lực lượng cách mạng, đối với Chính phủ, Đảng ta đã chủ trương cần đẩy mạnh việc tiếp tế muối cho dân, làm đà phát triển ảnh hưởng vào sâu khu vực của Vương cai quản. Trong những năm 1949 - 1951, vấn đề ruộng đất ở Sủng Máng rất phức tạp, trên địa bàn xã xảy ra tình trạng phú nông tiến hành thu tô, thuế cao. Cụ thể như: Ông Phàn Văn Phàng có 10 sinh2 ngô phát canh3 cho dân. Trong đó, 6 sinh ngô phát canh cho dân làm được hai vụ thì Phàng lấy 1 vụ bắp 65 đồng bạc già, 1 vụ thuốc phiện lấy 65 lạng; còn lại 4 sinh dân làm được 1 vụ bắp, thu mỗi vụ 40 đồng bạc già. Ngoài ra, bắt dân đến làm không công để trả nợ4. Trước tình hình trên, Ủy ban hành chính kháng chiến xã đã nâng cao nhận thức của nhân dân, để họ thấy rõ được bản chất, sự bóc lột của phú nông, đồng thời gây dựng, củng cố niềm tin của quần chúng vào chính quyền xã. 2 Sinh (đơn vị tính của người dân vùng cao) 1 sinh = 11 kg. 3 Phát canh (thuật ngữ thường dùng trước đây): Cho người khác cày ruộng của mình để lấy tô, thuế. 4 Văn kiện Đảng bộ tỉnh toàn tập, tập I (1945-190), tr.403. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2