VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHÙNG VĂN QUÂN
GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHÙNG VĂN QUÂN
GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 8 34 04 12
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TẠ DOÃN TRỊNH
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.Tạ Doãn Trịnh. Các số liệu, những kết
luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực.Tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Phùng Văn Quân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: VAI TRÒ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ĐỐI VỚI VIỆC ƯƠM
TẠO DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ....................... 19
1.1. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ ............................................. 19
1.2. Ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ ............................... 30
1.3. Đầu tư mạo hiểm .............................................................................. 19
Chương 2: ĐẦU TƯ MẠO HIỂM CHO ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TẠI
VIỆT NAM VÀ CÁC BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUỐC TẾ .................... 35
2.1. Thực trạng hoạt động đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động ươm
tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam và quốc tế ........................................ 35
2.2. Thực tiễn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam khi đầu tư vào dự
án/công ty KH&CN khởi nghiệp .................................................................... 46
2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành và phát triển
ĐTMH vào ươm tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam .............................. 51
2.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................. 55
Chương 3 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐẦU
TƯ MẠO HIỂM CHO HOẠT ĐỘNG ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ .................................................................. 58
3.1. Nguyên tắc đề xuất vào các văn bản quy phạm pháp luật ............... 60
3.2. Các đề xuất chính sách ..................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 67
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
KH&CN Khoa học và công nghệ
ĐTMH Đầu tư mạo hiểm
PTTTDN Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và
công nghệ
OECD Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
Phát hành công khai lần đầu ( Initial Public Offering) IPO
VC Venture capital funds
GVC Government venture capital
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Hình 1: Các giai đoạn khởi nghiệp phân loại theo nhu cầu vốn ..................... 6
Hình 2: Giai đoạn cần vốn đầu tư mạo hiểm ................................................. 27
Hình 3: Các chủ thể trong hệ sinh thái khởi nghiệp........................................ 33
Hình 4: Vốn đầu tư mạo hiểm các doanh nghiệp Châu Âu huy động được ... 43
Hình 5: Số lượng các khoản đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp tại
Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2015 .................................................. 50
Hình 6: Số lượng giao dịch và tổng số tiền đầu tư mạo hiểm vào doanh
nghiệp khởi nghiệp (đơn vị triệu đô la) ................................................ 51
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc xây dựng và phát triển thị trường KH&CN là mục tiêu đặt ra cho
rất nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là những nước đang phát triển.Chính phủ
các nước đó đều hiểu rằng một thị trường KH&CN hoạt động hiệu quả và
mạnh mẽ sẽ trở thành đòn bẩy đưa nền kinh tế phát triển một cách nhanh
chóng và bền vững.
Trên thế giới, một trong những phương pháp phổ biến để thúc đẩy thị
trường KH&CN phát triển chính là việc đầu tư cho hoạt động ươm tạo doanh
nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực khoa học – công nghệ nhằm phát triển hệ
sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp. Trong các nghiên cứu về đầu tư cho hoạt động
này nổi bật lên 2 vấn đề chính: (1) nghiên cứu về đầu tư cho hoạt động ươm
tạo nói chung và (2) nghiên cứu về đầu tư trực tiếp cho đối tượng doanh
nghiệp KH&CN khởi nghiệp.
Hiện nay, hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN được thực hiện ở
một số dạng chính sau: (1) hoạt động hỗ trợ hoàn thiện công nghệ; (2) hoạt
động đào tạo, tư vấn về mô hình kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, xây dựng
thương hiệu, phát triển thị trường, sở hữu trí tuệ…; (3) Hoạt động hỗ trợ gọi
vốn đầu tư cho doanh nghiệp; và (4) hoạt động trực tiếp đầu tư cho doanh
nghiệp khởi nghiệp.
Xuất phát từ nhu cầu khác nhau trong các giai đoạn ươm tạo, phát
triển của doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp, Nhà nước cần có chính sách hỗ
trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua hoạt động của các cơ sở ươm tạo
(incubators) và hỗ trợ các doanh nghiệp non trẻ thông qua hoạt động của các
tổ chức thúc đẩy kinh doanh (business accelarators). Nhà nước cũng cần có
chính sách đầu tư ban đầu dưới dạng cấp vốn mồi (seed money) cho các nhóm
khởi nghiệp và hỗ trợ tài chính, tín dụng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp
1
(tài trợ, hỗ trợ đầu tư nghiên cứu thử nghiệm, cho vay ưu đãi, cho vay có thể
chuyển đổi thành cổ phần .v.v.).
Chính sách hỗ trợ đầu tư ban đầu của Nhà nước cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp là tác nhân quan trọng để thu hút các nguồn vốn đầu tư của xã hội
cho hoạt động ươm tạo, hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ khởi nghiệp. Chính
sách đầu tư của Nhà nước cần hướng đến sự quan tâm của các nhà đầu tư xã
hội có ý nghĩa quan trọng hình thành nên hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp, bao
gồm các nhà đầu tư thiên thần (angel investors), các quỹ đầu tư mạo hiểm
(venture capitals) và các công ty đầu tư (corporate investors).
Nhà nước cần liên kết với khu vực tư nhân để đầu tư phát triển mạng
lưới các cơ sở ươm tạo, tổ chức thúc đẩy kinh doanh.Đồng thời, các
chương trình hỗ trợ đầu tư của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp cần được quản lý hiệu quả với cơ chế đặc thù để thực sự trở thành
các nhân tố tiền đề tạo nên hệ sinh thái hỗ trợ doanh nhân công nghệ khởi
nghiệp tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, hầu hết các hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN
diễn ra ở các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN công lập. Tuy nhiên, hình
thức ươm tạo ở các cơ sở này hầu hết chỉ dừng lại ở việc cung cấp mặt bằng
và một số cơ sở vật – chất dùng chung hoặc cung cấp tài chính cho việc
nghiên cứu, phát triển hoàn thiện công nghệ, chứ chưa có hoạt động trực tiếp
cung cấp nguồn tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Hoạt động của
những cơ sở ươm tạo này được đánh giá là chưa có hiệu quả bởi số lượng và
chất lượng của các doanh nghiệp tốt nghiệp khởi các cơ sở này là chưa cao.
Trong khi đó, hầu hết những doanh nghiệp đã đăng ký doanh nghiệp KH&CN
mà Cục PTTTDN tổng hợp được đều không đi qua quá trình ươm tạo doanh
nghiệp KH&CN chuyên nghiệp nào.
Theo phân tích ban đầu của nhóm nghiên cứu, hoạt động cấp vốn trực
2
tiếp cho doanh nghiệp được coi là hoạt động không thể thiếu được trong quá
trình ươm tạo doanh nghiệp và nhất là đối với doanh nghiệp khởi nghiệp dựa
trên công nghệ. Trong hoạt động này, vai trò tham gia của Nhà nước là vô
cùng quan trọng bởi thời kỳ khởi nghiệp của doanh nghiệp KH&CN là thời
kỳ rủi ro nhất trong quá trình phát triển của doanh nghiệp mà các nhà đầu tư
tư nhân, nhất là những nhà đầu tư tại Việt Nam không muốn tham gia.
Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động đầu tư mạo hiểm thực tế hầu hết được
thực hiện bởi các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài như IDG Ventures hay
Cyber Agents và bản thân họ chỉ chú trọng vào đầu tư cho doanh nghiệp khởi
nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin với chu kỳ đầu tư ngắn và khoản
đầu tư ban đầu không cao. Như vậy có thể nói doanh nghiệp khởi nghiệp
trong các lĩnh vực KH&CN không phải công nghệ thông tin như lĩnh vực vật
lý, hóa học, công nghệ sinh học, hay những lĩnh vực công nghệ mới, công
nghệ cao, công nghệ có giá trị đối với người nông dân, xóa đói giảm nghèo,
bảo vệ môi trường,… đang bị các nhà đầu tư tư nhân “lãng quên” vì lý do
lợi nhuận, rất cần được Nhà nước quan tâm trong chính sách đầu tư phát
triển các cơ sở ươm tạo, tổ chức thúc đẩy kinh doanh, hỗ trợ nguồn vốn
khởi nghiệp ban đầu và hỗ trợ thúc đẩy kinh doanh của các doanh nghiệp
KH&CN khởi nghiệp.
Nguồn gốc sâu xa của đầu tư mạo hiểm đối với ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN là nuôi dưỡng nguồn thu cho tương lai với những đối tượng tiềm
năng lớn. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư luôn hàm chứa yếu tố rủi ro. Hay nói
cách khác, rủi ro cao luôn song hành với đầu tư mạo hiểm. Việc chấp nhận
điều này, đồng thời có cơ chế quản lý và xử lý rủi ro phù hợp là cần thiết
trong khuyến khích đẩy mạnh các hình thức đầu tư mạo hiểm đối với ươm tạo
doanh nghiệp KH&CN. Hiện tại các luật như Luật doanh nghiệp, Dự thảo
Luật quản lý sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, Luật đầu tư, Bộ
3
Luật hình sự (trong mối liên quan với các luật nội dung) vẫn chưa thể hiện rõ
các chính sách khuyến khích nói trên, thậm chí còn có một số rào cản đối với
các chủ thể tham gia trong hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp. Ví dụ, việc Nhà
nước đầu tư “vốn mồi” cho doanh nghiệp khởi nghiệp chưa được cho phép
trong bất kỳ văn bản luật hay dự luật nào nói trên. Mặc dù tại Luật Đầu tư
2014 đã có quy định ưu đãi đầu tư mạo hiểm, ươm tạo doanh nghiệp công
nghệ cao, tuy nhiên các quy định về đầu tư của Nhà nước trong các hoạt động
này chưa được quy định cụ thể[18]. Mặt khác, ở cả Luật doanh nghiệp (sửa
đổi) và Dự thảo Luật quản lý sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp
đều có những quy định chặt chẽ buộc người đại diện vốn nhà nước chịu trách
nhiệm bảo toàn và phát triển vốn đầu tư của Nhà nước trong doanh nghiệp,
không có ngoại lệ nào cho hoạt động đầu tư ươm tạo doanh nghiệp nghiệp
khoa học và công nghệ. Quy định đó sẽ làm nản lòng những cơ sở ươm tạo, tổ
chức thúc đẩy kinh doanh, người được giao quản lý các chương trình hỗ trợ
đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Chính vì những lý do nêu trên, để tạo điều kiện cho đầu tư của Nhà
nước/đầu tư có sự tham gia của Nhà nước cho hoạt động ươm tạo doanh
nghiệp KH&CN, Luận văn này tập trung vào các nội dung chính sau:
- Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về các loại hình đầu tư của Nhà
nước cho hoạt động ươm tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN và tác động
của nó trong hình thành hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp trong nước.
- Nghiên cứu thực trạng chính sách, thực tiễn hoạt động đầu tư của
Nhà nước và của tư nhân cho ươm tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN ở
Việt Nam; nhu cầu phát triển hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp trong nước.
- Đề xuất một số chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư của Nhà nước
và thúc đẩy đầu tư mạo hiểm từ xã hội cho hoạt động ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN tại Việt Nam.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Tình hình nghiên cứu quốc tế:
Theo các nghiên cứu nước ngoài, hoạt động đầu tư mạo hiểm thường
được gắn liền với các doanh nghiệp KH&CN trong giai đoạn đầu, hay còn gọi
là doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp (technology startup). Có thể phân loại
các loại hình đầu tư cho doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp theo đối tượng
đầu tư như sau: (1) Sáng lập viên khởi nghiệp, gia đình, bạn bè của doanh
nghiệp khởi nghiệp; (2) Nhà đầu tư thiên thần (business angels), là nhà đầu tư
cá nhân không phải gia đình, bạn bè nhưng là những người giàu có đầu tư cho
doanh nghiệp khởi nghiệp trong giai đoạn đầu phát triển; (3) Các trung gian
gọi vốn cộng đồng (crowdfunding) là nơi thu hút vốn đầu tư từ mọi người dân
cho doanh nghiệp khởi nghiệp; (4) Các công ty, tập đoàn đầu tư cho khởi
nghiệp (corporate ventures); (5) Các quỹ đầu tư mạo hiểm (venture capital
funds - VC); và (6) Nhà nước đầu tư cho khởi nghiệp (OECD, 1996; Lerner,
2002).
Các loại hình đầu tư này đóng các vai trò khác nhau trong từng bước
phát triển của startups, bao gồm: ươm mầm, bắt đầu khởi nghiệp, phát triển và
mở rộng, thoái vốn bằng mua bán & sáp nhập và chuẩn bị IPO. Nếu ở giai
đoạn ươm mầm, các nhà đầu tư thiên thần với các khoản tiền nhỏ nhưng rủi ro
cao đóng vai trò quan trọng trong việc cấp vốn ĐTMH cho startup thì ở giai
đoạn sau, các quỹ ĐTMH thường là đối tượng chính để cấp vốn cho doanh
nghiệp khởi nghiệp. Trong khi đó, các tập đoàn đầu tư có thể vừa đóng vai trò
của người cung cấp vốn đầu tư cho startups, vừa có thể thực hiện các khoản
mua bán và sáp nhập, chính là lúc các khoản đầu tư có thể thoái vốn. Nhà
nước thường tham gia vào giai đoạn ban đầu, cung cấp vốn cho doanh nghiệp
dưới dạng tài trợ hoặc đầu tư bằng cổ phần trực tiếp, hoặc đầu tư thông qua
một quỹ đầu tư tư nhân mà nhà nước góp vốn.
5
Hình 1: Các giai đoạn khởi nghiệp phân loại theo nhu cầu vốn [7]
Nguồn: https://startupxplore.com/en/blog/types-startup-investing/.
Các đặc điểm chính của các loại hình đầu tư mạo hiểm cho doanh
nghiệp KH&CN khởi nghiệp có thể tổng quát như sau:
- Nhà đầu tư thiên thần: đây là những nhà đầu tư cá nhân giàu có,
không phải bạn bè và gia đình của các sáng lập viên khởi nghiệp, họ đóng vai
trò lớn trong việc cung cấp các khoản vốn ban đầu cho các startup tại thời
điểm mà rủi ro vẫn còn rất cao và startup khó có thể gọi vốn từ các quỹ
ĐTMH. Nhà đầu tư thiên thần, ngoài việc là người cung cấp vốn thì còn đóng
vai trò hỗ trợ truyền đạt lại kinh nghiệm kinh doanh, hướng dẫn startup trong
quá trình khởi nghiệp của doanh nghiệp KH&CN (Mason, 2007), đồng thời
mang đến các mối quan hệ để startup gọi vốn ở các vòng tiếp theo (Mason,
6
2000). Hầu hết ở khắp nơi trên thế giới, số lượng doanh nghiệp mà nhà đầu tư
thiên thần đầu tư vào đều cao hơn số lượng được đầu tư bởi các quỹ ĐTMH
và các tổ chức tài chính (Sohl, 2012).Cung đầu tư từ nhà đầu tư thiên thần
cũng ít bị chịu ảnh hưởng bởi sự lên xuống của nền kinh tế hơn là các tổ chức
đầu tư lớn (Mason & Harrison, 2013).
- Crowdfunding được coi là mô hình trung gian mới, hiệu quả, cho
phép sử dụng hạ tầng internet để các doanh nghiệp khởi nghiệp ở giai đoạn
đầu có thể thu hút vốn đầu tư rất nhiều người, hầu hết là các khoản đầu tư nhỏ
từ vài trăm đến khoản vài ngàn USD mà không cần đi qua các trung gian tài
chính truyền thống (Mollick, 2013). Trong gọi vốn cộng đồng lại có 3 loại
hình chính là: (1) gọi vốn cộng đồng bằng tài trợ (donation-based
crowdfunding); (2) gọi vốn cộng đồng bằng phần thưởng (reward-based
crowdfunding); (3) gọi vốn cộng đồng bằng vốn vay (lending-based
crowdfunding) và (4) gọi vốn cộng đồng bằng cổ phần (equity-based
crowdfunding) (McCahery & Vermeulen, 2014; World Bank, 2013). World
Bank (2013) cho rằng nếu biết cách tạo môi trường thuận lợi, crowdfunding
sẽ là một loại hình trung gian phù hợp để thu hút vốn đầu tư cho các doanh
nghiệp KH&CN khởi nghiệp ở các nước đang phát triển.
- Quỹ ĐTMH: là loại hình tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, chuyên đầu tư
vào các công ty mới thành lập và có tiềm năng phát triển nhanh. Khác với các
tổ chức đầu tư tài chính truyền thống, VC có quy trình đánh giá, lựa chọn
startup rất kỹ lưỡng, không chỉ đầu tư mà còn hỗ trợ startups trong việc quản
lý doanh nghiệp, tìm kiếm các vòng đầu tư sau và chuẩn bị cho việc thoái vốn
thông qua mua bán & sáp nhập hoặc IPO (Lerner, 2009). Nhiều nghiên cứu
cho rằng VC có sự ảnh hưởng lớn và tích cực đến việc phát triển hoạt động
đổi mới sáng tạo (Hellmann & Puri, 2000). Các công ty được đầu tư từ VC
(VC-backed companies) hầu hết đóng vai trò quan trọng, dẫn đầu trong các
7
ngành như công nghệ sinh học, máy tính, bán dẫn (Lerner, 2009). Ngoài ra,
theo thống kê của các công ty đã niêm yết trên sàn chứng khoán Hoa Kỳ, các
công ty được đầu tư bởi VC cũng có xu hướng phát triển nhanh hơn (thời
điểm niêm yết kể từ khi thành lập), phát triển bền vững hơn sau khi phát hành
IPO và tạo ra nhiều việc làm hơn so với các công ty không được đầu tư bởi
các quỹ này (Lerner, 2009).
Về mặt các chính sách liên quan đến đầu tư của nhà nước, đã có một số
nghiên cứu như sau:
Có hai cách chính mà Nhà nước sử dụng để ảnh hưởng đến nguồn vốn
đầu tư mạo hiểm: (1) đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp khởi nghiệp hoặc (2)
gián tiếp hỗ trợ cho các khoản đầu tư từ các nhà đầu tư tư nhân (Lerner,
2002). Đối với hình thức thứ nhất, Nhà nước mở ra các chương trình ĐTMH
riêng (government venture capital – GVC), trong khi đó đối với hình thức thứ
hai, nhà nước thường đầu tư dưới dạng cổ đông trách nhiệm hữu hạn (limited
partner) của các quỹ ĐTMH tư nhân hoặc đầu tư đối ứng với các nhà đầu tư
tư nhân, bao gồm cả quỹ ĐTMH, nhà đầu tư thiên thần, công ty đầu tư lẫn các
cơ sở ươm tạo.
Nhà nước đầu tư vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp vì một số giả định
rằng: (1) khu vực tư nhân không cung cấp đủ nguồn vốn đầu tư mạo hiểm cho
các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ; (2) nhà nước có khả năng lựa chọn
các khoản đầu tư có tiềm năng mang lại lợi ích xã hội hoặc lợi ích kinh tế cao
hoặc có thể khuyến khích để các trung gian làm việc này và (3) đầu tư của
nhà nước vào những lĩnh vực liên quan đến nhiều đến nghiên cứu và phát
triển có thể tạo ra được những ảnh hưởng lan tỏa tích cực đến thị trường, ví
dụ thông qua việc các đối thủ trên thị trường bị sức ép cạnh tranh khiến cho
phải thường xuyên cập nhật, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm (Lerner, 2002).
8
Tại Châu Âu, Nhà nước đóng góp khoảng 40% vào tổng số vốn đầu tư
cho khởi nghiệp trong năm 2012 (so với 10-15% từ những năm trước suy
thoái kinh tế) (Vlerick Business School, 2013). Các GVC hầu hết đầu tư vào
giai đoạn ươm mầm (seed stage) và giai đoạn ban đầu (early stage) của
startups. Có một số nghiên cứu cho rằng việc đầu tư từ nhà nước cho startups
có ảnh hưởng tích cực đến việc phát triển hoạt động ĐTMH (Leleux &
Surlemont, 2003; Cumming, 2011; del-Palacio, Zhang & Sole, 2012;
Cumming & Li, 2013; Brander, Du & Hellmann, 2013).
Mặc dù vậy, việc xây dựng các chính sách về trực tiếp đầu tư từ các
GVC là rất khó khăn trên các cơ sở lý thuyết cũng như thực tế, ví dụ:
+ Hầu hết những người quản lý GVC là công chức, cán bộ nhà nước,
chính vì vậy họ sẽ thiếu kinh nghiệm và động lực (tài chính) phù hợp để có
thể lựa chọn và cung cấp các hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp được đầu
tư (Leleux & Surlemont, 2003).
+ Rất nhiều nghiên cứu như Olson (1965) and Stigler (1971), Peltzman
(1976) and Becker (1983) đều cho thấy kết quả là hầu hết các hỗ trợ của Nhà
nước cho các tổ chức trung gian đều bị lợi dụng bởi các tổ chức có quan hệ
chính trị tốt chứ không dựa trên năng lực thực sự của các tổ chức đó.
+ Do GVC thường có các mục tiêu về xã hội như việc làm tạo ra, kết
quả nghiên cứu được thương mại hóa, hơn là mục tiêu về tài chính nên các
quỹ này có xu hướng đầu tư dưới giá thị trường, do đó thu hút hầu hết các dự
án startup tốt, để lại những dự án chất lượng thấp hơn cho các nhà đầu tư tư
nhân (Leleux & Surlemont, 2003). Có một số nghiên cứu thực nghiệm cho
thấy thực sự đầu tư từ nhà nước đã có ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư nhân
ở một số nước Châu Âu, Hoa Kỳ và Canada (Armour & Cumming, 2006;
Cumming & MacIntosh, 2006; Da Rin et al. ,2006).
Chính vì các lý do nêu trên, nhiều nghiên cứu cho rằng GVC thường ít
9
khi thành công (Lerner, 2002).
Tuy nhiên, hình thức đầu tư gián tiếp tư nhà nước được coi là có hiệu
quả hơn so với hình thức đầu tư trực tiếp từ GVC (OECD, 2013).Khi đó, nhà
nước đầu tư phần vốn của mình vào các quỹ ĐTMH của tư nhân như vậy nhà
nước có thể tận dụng bộ lọc và kinh nghiệm của các quỹ tư nhân trong việc
lựa chọn và hỗ trợ các startup phát triển (Cumming, 2007; Munari & Toschi,
2011).Các quỹ tư nhân cũng sẽ làm tốt hơn các GVC trong việc hỗ trợ thoái
vốn từ startup (Luukkonen, Deschryvere & Bertoni, 2013). Tại Israel, Chương
trình hỗ trợ đầu tư mạo hiểm Yozma từ năm 1993 đến 1998, được coi là động
lực quan trọng nhất để phát triển ngành đầu tư mạo hiểm tại nước này. Yozma
đã đầu tư 80 triệu USD để góp vốn vào 10 quỹ đầu tư mạo hiểm của tư nhân
và 20 triệu USD để hỗ trợ, đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp KH&CN khởi
nghiệp. Với sự tham gia đầu tư của Yozma mà lượng vốn đầu tư mạo hiểm
trên thị trường của Isarel tăng từ 27 triệu USD năm 1992 lên đến 2,712 triệu
USD vào năm 2000. Sau 5 năm, nhà nước đã thoái vốn thành công (bảo toàn
vốn) tại tất cả 10 quỹ được nhận đầu tư (Avnimelech, 2009).
* Tình hình nghiên cứu trong nước:
Các nghiên cứu trong nước hầu hết tập trung vào vấn đề chính sách của
nhà nước đối với doanh nghiệp KH&CN và gần đây là một số nghiên cứu về
tình hình đầu tư mạo hiểm trong nước, cụ thể là:
Về các chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp KH&CN
Doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp thực hiện sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm, hàng hoá từ kết
quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (Luật KH&CN 2013) [19].
Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về phát
triển doanh nghiệp KH&CN: quy định tiêu chí, điều kiện thành lập và các
chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp KH&CN. Tại Quyết định số
10
1244/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2015 và định hướng trong
giai đoạn 2015-2020 sẽ phát triển 3.000 doanh nghiệp KH&CN. Trong đó, số
lượng doanh nghiệp KH&CN hình thành từ các trường đại học, viện nghiên
cứu chiếm khoảng 70%[16]. Gần đây nhất, Luật KH&CN số 29/2013/QH13
ngày 18/6/2013 quy định về doanh nghiệp KH&CN (Điều 58) đã góp phần
hoàn thiện cơ sở pháp lý thúc đẩy sự hình thành và phát triển doanh nghiệp
KH&CN.
Các chính sách đưa ra các ưu đãi cho doanh nghiệp KH&CN như sau:
- Được xem xét, giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc sở hữu nhà nước;
- Được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn
lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà;
- Được ưu tiên thuê đất, cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao;
- Được hưởng chính sách ưu đãi về tín dụng đầu tư của Ngân hàng phát
triển Việt Nam, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và các quỹ khác để thực
hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh;
- Được ưu tiên sử dụng trang thiết bị phục vụ cho hoạt động nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ tại phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia,
cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu khoa học
và công nghệ của Nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN
còn nhiều khó khăn, vướng mắc, cụ thể:
- Vấn đề đăng ký chứng nhận doanh nghiệp KH&CN còn rất phức tạp,
mất thời gian để doanh nghiệp chứng minh được quyền sở hữu, quyền sử
dụng hợp pháp đối với kết quả nghiên cứu, đặc biệt là các kết quả nghiên cứu
11
hình thành từ ngân sách nhà nước (Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp
KH&CN, 2013b).
- Nhiều doanh nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) không mấy “mặn
mà’’ với việc đăng ký doanh nghiệp KH&CN do các ưu đãi họ được hưởng
khi là doanh nghiệp CNTT đã được hưởng rất nhiều ưu đãi (Tia sáng, 2013).
- Phần “công nghệ” trong doanh nghiệp chưa thực sự phát triển. Hằng
năm có quá ít các kết quả nghiên cứu từ người Việt Nam được đăng ký bảo hộ
sở hữu trí tuệ (Báo cáo hằng năm, Cục Sở hữu trí tuệ, 2015; Mai Hà, Mai Hà,
Hoàng Văn Tuyên, Đào Thanh Trường, 2015).
- Các chính sách về hỗ trợ tài chính, ví dụ thông qua ưu đãi thuế, cho
doanh nghiệp KH&CN rất khó để có thể tiếp cận, chưa thực sự tạo được động
lực cho các doanh nghiệp đó (Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp
KH&CN, 2013b).
- Để phát triển các doanh nghiệp KH&CN mới thành lập, vai trò của
các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN là rất quan trọng.Tuy nhiên, hầu
hết các cơ sở ươm tạo tại các trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam
hoạt động chưa thật hiệu quả. Nguồn tài chính đầu tư hiện nay cho các vườn
ươm chủ yếu từ ngân sách nhà nước nên còn nhiều hạn chế, đặc biệt khó thu
hút nhân lực có kinh nghiệm để làm việc. Các vườn ươm hiện có chưa thu hút
được sự quan tâm của các quỹ đầu tư và các doanh nghiệp lớn để đầu tư cho
các doanh nghiệp được ươm tạo (Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp
khoa học và công nghệ, 2013b).
- Các chính sách về hỗ trợ tài chính, thuế đối với doanh nghiệp
KH&CN còn chưa thực đồng bộ, gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Ví
dụ, điều kiện để doanh nghiệp KH&CN được nhận hỗ trợ theo Nghị định số
80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN và Thông tư liên tịch số
06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV hướng dẫn Nghị định tập trung vào tỷ lệ
12
doanh thu của việc sản xuất, kinh doanh hàng hóa hình thành từ kết quả
nghiên cứu KH&CN trên tổng doanh thu của doanh nghiệp, trong khi điều
kiện được nhận hỗ trợ của những doanh nghiệp có hoạt động đổi mới công
nghệ tại Luật chuyển giao công nghệ lại không phụ thuộc vào các điều kiện
như vậy mà vào địa bản, lĩnh vực (Nguyễn Thị Vân Anh, 2013).
Do còn có nhiều vướng mắc, số lượng doanh nghiệp KH&CN được cấp
chứng nhận đến cuối năm 2015 mới đạt 204 doanh nghiệp, thấp hơn rất nhiều
so với chỉ tiêu 3000 doanh nghiệp KH&CN đến năm 2015 và 5000 doanh
nghiệp KH&CN đến năm 2020 đề ra trong Quyết định số 1244/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ ngày 25/7/2011 về việc phê duyệt phương hướng, mục
tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu giai đoạn 2011-2015 (Hội nghị
“Phát triển doanh nghiệp doanh nghiệp khoa học và công nghệ năm 2015”).
Về tình hình đầu tư mạo hiểm
- Trong khi các dự án về phát triển, thương mại hóa công nghệ mới,
công nghệ cao khó có thể tiếp cận được các tổ chức tài chính truyền thống thì
họ có thể tiếp cận đầu tư từ các quỹ ĐTMH. Ở nhiều nước trên thế giới,
ĐTMH đã được chứng minh là đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển
các công ty có tiềm năng phát triển nhanh dựa trên công nghệ.Cũng có nhiều
chính sách liên quan đến phát triển ĐTMH. Tuy nhiên, tác giả của các nghiên
cứu trong nước về vấn đề này cho rằng biện pháp hiệu quả nhất là phải
khuyến khích được tư nhân cùng tham gia với nhà nước để thành lập các quỹ
ĐTMH phối hợp công – tư (Viện Chính sách và Chiến lược khoa học và công
nghệ, 2015).
- Từ năm 2000 đến nay, mới chỉ có khoảng 3 – 4 quỹ đầu tư mạo hiểm
ở Việt Nam và tất cả là quỹ nước ngoài, có văn phòng đại diện ở Việt Nam.
Trong năm 2016, Tập đoàn công nghệ FPT mở quỹ đầu tư FPT Ventures tuy
nhiên vẫn chưa rõ đây là mô hình công ty đầu tư hay quỹ đầu tư (được phép
13
phát hành chứng chỉ quỹ để huy động vốn). Điều này thể hiện một số thực tế
sau: (1) Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có quy
định về đăng ký hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm dành cho khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo trong khi đó ở các nước phát triển trên thế giới, việc thành
lập và hoạt động của các quỹ này được quy định riêng biệt và có những điều
kiện thấp hơn nhiều về vốn và các nguyên tắc đầu tư hơn so với điều kiện của
quỹ đầu tư chứng khoán thông thường; (2) Cũng chưa có các ưu đãi thuế dành
cho nhà đầu tư từ quy mô cá nhân (nhà đầu tư thiên thần) đến quy mô quỹ
trong khi đó các nước như Hồng Kông, Singapore đều có các ưu đãi rất lớn
cho nhà đầu tư mạo hiểm; (3) Hệ thống tài chính của Việt Nam chưa thật sự
phát triển, chính vì vậy các công cụ đầu tư, cách thức đầu tư và cấu trúc tài
chính của doanh nghiệp chưa được chuyên nghiệp, chưa thực sự thu hút nhà
đầu tư nước ngoài; (4) đặc biệt, thị trường mua bán và sáp nhập cũng như thị
trường chứng khoán của Việt Nam chưa thực sự phát triển, do đó nhà đầu tư
chưa nhìn thấy được “đầu ra”, chính là việc thoái vốn từ các khoản đầu tư
mạo hiểm cho các doanh nghiệp khởi nghiệp ở Việt Nam. Chính vì những lý
do trên mà các nhà đầu tư mạo hiểm ở nước ngoài cảm thấy “quen” làm việc
hơn với các thị trường phát triển như Singapore, Hồng Kông hay ở Hoa Kỳ
hơn là mất công tìm hiểu và vượt qua các rào cản để đầu tư vào Việt Nam.
Ngoài ra, trong 67 phi vụ đầu tư mạo hiểm thống kê được trong năm
2015 bởi Topica Founder Institute, khoảng ½ là các khoản đầu tư mà trong đó
nhà đầu tư yêu cầu doanh nghiệp khởi nghiệp phải đăng ký trụ sở tại nước
ngoài trước khi thực hiện đầu tư. Nói cách khác, đó không còn là những
doanh nghiệp đúng nghĩa Việt Nam mà là doanh nghiệp nước ngoài có người
sáng lập là người Việt Nam.
*Bình luận, đánh giá
Các tài liệu và nghiên cứu trong nước hầu hết tập trung vào các chính
14
sách phát triển doanh nghiệp KH&CN. Có rất ít các nghiên cứu về nội dung
đầu tư mạo hiểm. Chỉ có một số nghiên cứu như Đề tài “Nghiên cứu xây dựng
chính sách khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với nhà nước để
thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm phát triển công nghệ mới, công nghệ cao”,
Viện Chính sách và Chiến lược khoa học và công nghệ, Bộ Khoa học và
Công nghệ (2015) là tổng kết được các chính sách nước ngoài về vấn đề
ĐTMH và cho rằng Việt Nam nên học tập mô hình liên kết giữa nhà nước và
tư nhân để thành lập các quỹ này. Tuy nhiên, các mô hình ĐTMH là gì, điểm
mạnh, yếu của từng mô hình, các chính sách liên quan và việc tham gia của
nhà nước vào từng hình thức đầu tư mạo hiểm đóchưa được nghiên cứu sâu.
Các nghiên cứu cũng chưa phân biệt rõ giữa đầu tư cho dự án KH&CN
và đầu tư dưới dạng góp vốn doanh nghiệp. Do đó, các nghiên cứu hầu hết tập
trung phân tích khía cạnh KH&CN; trong khi đó những vấn đề về cấu trúc
doanh nghiệp, chính sách về doanh nghiệp (ví dụ, quy định về phá sản, bảo
hiểm,…), hay những chính sách về thị trường đầu tư (ví dụ: quy định về
chứng khoán, các tổ chức tín dụng, ngân sách nhà nước,…) có ảnh hưởng ra
sao đến đầu tư vẫn chưa được nghiên cứu. Hơn nữa, các nghiên cứu hầu hết
sử dụng phương pháp tổng hợp tài liệu quốc tế để đưa ra những đề xuất cho
việc phát triển đầu tư cho công nghệ ở Việt Nam, chứ chưa thực sự dựa trên
khung pháp lý hiện có và tình hình văn hóa, xã hội trong nước để đưa ra
những đề xuất phù hợp.
Từ những nghiên cứu và thực tiễn trên thế giới, tại Việt Nam về đầu tư
mạo hiểm, tôi đã chọn thực hiện Luận văn với chủ đề “Giải pháp chính sách
thúc đẩy đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động ươm tạo doanh nghiệp
khoa học và công nghệ tại Việt Nam”, để có cái nhìn tổng quan về tình hình
đầu tư và chính sách đầu tư cho mô hình startup trên thế giới và những điểm
còn cần tiếp tục đào sâu, phân tích đối với thực trạng và chính sách đầu tư cho
15
ươm tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất chính
sách khuyến khích đầu tư mạo hiểm có sự tham gia của Nhà nước cho hoạt
động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về các loại hình đầu tư của Nhà
nước cho hoạt động ươm tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN.
- Nghiên cứu thực trạng chính sách, thực tiễn hoạt động đầu tư cho
ươm tạo và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam.
- Đề xuất một số chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư mạo hiểm có
sự tham gia của Nhà nước cho hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN tại
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn này là các chính sách, kinh nghiệm
quốc tế và thực tiễn của Việt Nam liên quan đến thúc đẩy đầu tư mạo hiểm
cho ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian nghiên cứu: chính sách của Việt Nam và một số
nước đi trước đã thành công trong việc thúc đẩy đầu tư cho ươm tạo doanh
nghiệp KH&CN.
Phạm vi thời gian nghiên cứu:
- Đối với nước ngoài: kể từ khi ban hành các chính sách, chương trình
của Chính phủ quy định về đầu tư mạo hiểm.
- Đối với Việt Nam: trong khoảng 05 năm trở lại đây.
16
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Đưa ra được các nội dung về doanh nghiệp khoa học và công nghệ,
các nội dung về ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đầu tư mạo
hiểm.
- Nêu ra và phân tích thực trạng hoạt động đầu tư mạo hiểm trong nước
và quốc tế, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các tài liệu trong nước và nước ngoài
về vấn đề chính sách thúc đẩy đầu tư mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Việc nghiên cứu Luận văn với đề tài trên một phần là củng cố tri thức,
phương pháp nghiên cứu khoa học cho người nghiên cứu về đầu tư mạo hiểm.
Đồng thời Luận văn sẽ làm phong phú thêm phạm vi nghiên cứu, lĩnh vực
nghiên cứu về đầu tư mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ được những đặc điểm và cơ chế hoạt động
của ĐTMH trong hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN, phân tích thực
trạng quốc tế về các loại hình đầu tư của Nhà nước cho hoạt động ươm tạo và
phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ và tác động của nó trong hình
thành hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp trong nước, phân tích thực trạng của
Việt Nam và nêu lên một số bài học kinh nghiệm cũng như đề xuất các giải
pháp chính sách nhằm phát triển hoạt động ĐTMH ở Việt Nam trong thời
gian tới
17
7. Bố cục của Luận văn
- Mở đầu
- Chương 1: Vai trò đầu tư mạo hiểm đối với việc ươm tạo doanh
nghiệp khoa học và công nghệ
- Chương 2: Đầu tư mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN: Thực trạng chính sách tại Việt Nam và các bài học kinh nghiệm
quốc tế.
- Chương 3: Đề xuất giải pháp chính sách thúc đẩy đầu tư mạo hiểm
cho hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.
- Kết luận.
- Tài liệu tham khảo.
18
Chương 1
VAI TRÒ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ĐỐI VỚI VIỆC ƯƠM TẠO
DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Đầu tư mạo hiểm
1.1.1. Khái niệm:
Khái niệm về đầu tư nói chung được hiểu “là quá trình sử dụng các
nguồn lực tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất
khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng
các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, các cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch vụ của ngành, cơ quan quản lý và xã hội nói riêng” (Giáo trình về
đầu tư và dự án đầu tư, Đại học Kinh tế quốc dân).
Việc đầu tư cho doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp cũng tương tự như
vậy và có thể được phân biệt theo chủ thể đầu tư như đối với doanh nghiệp
khởi nghiệp ĐMST (OECD, 1996; Lerner, 2002), bao gồm: Sáng lập viên
khởi nghiệp; Gia đình, bạn bè của doanh nhân KH&CN khởi nghiệp; Nhà đầu
tư thiên thần (business angels), là nhà đầu tư cá nhân không phải gia đình, bạn
bè nhưng là những người giàu có đầu tư cho doanh nghiệp KH&CN khởi
nghiệp trong giai đoạn đầu phát triển; Các trung gian gọi vốn cộng đồng
(crowdfunding) là nơi thu hút vốn đầu tư từ mọi người dân cho doanh nghiệp
khởi nghiệp; Các công ty, tập đoàn lớn trong cùng lĩnh vực (corporate
ventures); Các quỹ đầu tư mạo hiểm (venture capital funds - VC); và Nhà
nước đầu tư cho khởi nghiệp. Đồng thời, cũng bao gồm cả chủ thể đầu tư là tổ
chức “mẹ” đối với trường hợp spin-off.
Về động lực đầu tư, có thể phân làm các loại sau:
- Sáng lập viên khởi nghiệp đầu tư vào doanh nghiệp KH&CN khởi
nghiệp vì tin tưởng vào sản phẩm, dịch vụ của mình; vì mong muốn đưa các
sản phẩm, dịch vụ mới được tạo ra từ trí tuệ của mình đến cộng đồng, xã hội;
19
vì mong muốn được làm chủ và được công nhận (Hwang & Horowitt, 2012).
- Gia đình, bạn bè của doanh nhân KH&CN khởi nghiệp đầu tư hầu hết với
động lực là niềm tin và sự mong muốn được hỗ trợ doanh nhân KH&CN khởi
nghiệp thành công, hơn cả động lực về kinh tế (Hwang & Horowitt, 2012).
- Tổ chức “mẹ” đầu tư cho doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp với
mong muốn đưa kết quả nghiên cứu của tổ chức đó ra thị trường.
- Nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp vì mong
muốn tạo ra công ăn việc làm, đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường và phát
triển nền kinh tế dựa trên tri thức (Lerner, 2002).
- Ngoài các đối tượng trên, hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư thiên
thần, công ty đầu tư và quỹ đầu tư được gọi là hoạt động ĐTMH, có thể hiểu
đơn giản là đầu tư dưới hình thức góp vốn bằng cổ phần vào các doanh
nghiệp KH&CN khởi nghiệp có rủi ro cao để đổi lấy lợi nhuận vượt trội trong
tương lai (Cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ Hoa Kỳ SBA [7], Hiệp hội vốn
cổ phần và vốn ĐTMH của Hà Lan – NVP [7], Hiệp hội đầu tư mạo hiểm
Phần Lan – FVCA [7]). Hoạt động ĐTMH thường hướng đến một số lĩnh
vực chính bao gồm vực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) và công
nghệ sinh học, công nghệ sạch (OCED, 2011; Hiệp hội đầu tư mạo hiểm và
đầu tư cổ phần cá nhân Vương quốc Anh – BVCA [7]).
Các loại hình và tính chất của ĐTMH:
- Đầu tư mạo hiểm (ĐTMH) được hiểu là một loại hình tài chính đặc
thù được cung cấp bởi một số công ty có hoạt động vừa đầu tư, vừa quản lý
các công ty mới thành lập chưa có mặt trên sàn chứng khoán. Trong đó, có 3
đối tượng chính tham gia vào ngành ĐTMH là: (1) các tổ chức đầu tư; (2) các
doanh nghiệp khởi nghiệp được nhận đầu tư và (3) các tổ chức và cá nhân
trung gian thực hiện nhiệm vụ đánh giá, lựa chọn, giao dịch, quản lý các dự
án đầu tư và thu hút các khoản đầu tư (OECD, 1996).
20
- Có 3 loại hình đầu tư mạo hiểm chính là quỹ ĐTMH (venture capital
funds), nhà đầu tư thiên thần (business angels hoặc angel investors) và tập
đoàn đầu tư mạo hiểm (corporate venture). Các hình thức thoái vốn bao gồm:
mua bán, sáp nhập hoặc phát hành cổ phiếu ra thị trường (IPO). Các bước
phát triển khởi nghiệp công nghệ bao gồm: ươm mầm, bắt đầu khởi nghiệp,
phát triển và mở rộng, thoái vốn bằng mua bán & sáp nhập, IPO. Đặc điểm
của ĐTMH là đầu tư dài hạn từ 5-10 năm vào các dự án có rủi ro cao nhưng
có thể mang lại lợi ích lớn, chính vì vậy ĐTMH đóng vai trò quan trọng trong
việc kết nối nguồn tài chính cần thiết cho các dự án đổi mới sáng tạo của
doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp (OECD, 1996).
- Ngoài các hình thức kể trên, trong hoạt động ĐTMH, gọi vốn cộng
đồng (crowdfunding) là mô hình trung gian cho phép các doanh nghiệp khởi
nghiệp ở giai đoạn đầu có thể đưa thông tin về dự án của mình lên mạng và
thu hút vốn đầu tư rất nhiều người, hầu hết là các khoản đầu tư nhỏ từ vài
trăm đến khoản vài ngàn USD. Trong gọi vốn cộng đồng lại có 3 loại hình
chính là: (1) gọi vốn cộng đồng bằng tài trợ (donation-based crowdfunding);
(2) gọi vốn cộng đồng bằng phần thưởng (reward-based crowdfunding); (3)
gọi vốn cộng đồng bằng vốn vay (lending-based crowdfunding) và (4) gọi vốn
cộng đồng bằng cổ phần (equity-based crowdfunding) (McCahery &
Vermeulen, 2014; World Bank, 2013). World Bank (2013) cho rằng nếu biết
cách tạo môi trường thuận lợi, crowdfunding sẽ là một loại hình trung gian
phù hợp để thu hút vốn đầu tư cho các doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp ở
các nước đang phát triển.
Do mục tiêu và tính chất của đầu tư gắn liền với đối tượng đầu tư, do
đó trong Luận văn này, “đầu tư mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN” được hiểu như sau:
“Đầu tư mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp KH&CN là việc vừa đầu
21
tư vốn cổ phần vào các doanh nghiệp KH&CN, vừa hỗ trợ các doanh nghiệp
đó trong thời gian ban đầu hoạt động để các doanh nghiệp có thể giảm thiểu
rủi ro và phát triển nhanh chóng.”
Các chủ thể đầu tư bao gồm:Gia đình, bạn bè của doanh nhân KH&CN
khởi nghiệp; Nhà đầu tư thiên thần; Các công ty công ty lớn trong cùng lĩnh
vực; Các quỹ đầu tư mạo hiểm; Trung gian gọi vốn cộng đồng; Tổ chức thành
lập ra doanh nghiệp đó (nếu có); và Nhà nước.”
Vai trò của đầu tư mạo hiểm trong tổng thể hệ sinh thái phát triển
doanh nghiệp khởi nghiệp
Nhiều người cho rằng ĐTMH là một trong những yếu tố quan trọng
nhất trong việc quyết định sự thành công của một doanh nghiệp KH&CN khởi
nghiệp. Tuy nhiên, nếu không có sự phát triển toàn diện và liên kết chặt chẽ
giữa các thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp thì cũng khó có thể tạo ra
được những doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp mạnh. Chính vì vậy, ngành
ĐTMH không thể chỉ được nghiên cứu một cách độc lập mà cần được đặt
trong tổng thể các hoạt động của hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN
khởi nghiệp nói chung (Field, 2012; Hwang & Horowitt, 2012; Senor &
Singer, 2011).
Cuốn sách “The Rainforest: the secret to building the next Silicon
Valley” của tác giả Victor W. Hwang và G. Horowitt năm 2012 và cuốn sách
“Startup Communities:Building an entrepreneurial ecosystem in your city”
của tác giả Brad Field năm 2012, mỗi tác giả mô tả đặc tính của một hệ sinh
thái khởi nghiệp cách xa nhau, ở thung lũng Silicon, Sanfrancisco, và một hệ
sinh thái khởi nghiệp ở Boulder, Colorado nhưng có những điểm rất chung.
Đó là, mỗi cá nhân, tổ chức trong hệ sinh thái khởi nghiệp phải luôn sẵn sàng
giúp đỡ nhau, bỏ qua lợi ích cá nhân, không chỉ làm việc vì mục tiêu lợi
nhuận của riêng mình mà còn vì lợi ích chung của cộng đồng khởi nghiệp.
22
Chỉ có như vậy, hệ sinh thái khởi nghiệp mới tạo nên các kết nối dựa trên
lòng tin và mới có thể tự phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp một cách rất
tự nhiên. Điều này đúng với cả hoạt động ĐTMH. Với tư cách của các nhà
ĐTMH cho khởi nghiệp, mặc dù đặt mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu cao nhất,
các tác giả vẫn cho rằng nhà đầu tư chỉ có thể thành công nếu biết trân trọng,
hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp, kể cả nếu không đi đến hợp tác đầu tư
thành công thì họ vẫn sẵn sàng giới thiệu doanh nghiệp khởi nghiệp đó cho
nhà đầu tư phù hợp hơn.
Tuy nhiên, trong khi Field (2012) đánh giá rất thấp vai trò của nhà nước
trong hệ sinh thái khởi nghiệp, cho rằng các chính phủ, với tính chất làm việc
dựa trên nhiệm kỳ, sẽ không thể đưa ra chính sách gì hỗ trợ được sự phát triển
lâu dài của hệ sinh thái khởi nghiệp, thì Hwang & Horowitt (2012) lại cho
rằng tất cả các đối tượng trong hệ sinh thái, bao gồm cả Chính phủ, đều có thể
hỗ trợ khởi nghiệp nếu họ làm đúng cách và không vụ lợi.
Senor & Singer (2011) trong cuốn sách “Quốc gia khởi nghiệp” phân
tích các bí quyết trở thành quốc gia khởi nghiệp của Ixaren nhưng không dưới
góc độ chính sách mà dưới góc độ văn hóa, con người. Các tác giả cho rằng
chính lịch sử thường xuyên bị đe dọa bởi các thế lực thù địch, ai cũng phải
thực hiện nghĩa vụ quân sự, đã rèn rũa người Ixaren trở thành những chiến
binh dũng cảm, mưu trí, tự chủ trên cả chiến trường lẫn thương trường. Nghĩa
vụ tham gia quân sự bắt buộc và việc phải hằng năm quay trở lại phục vụ
quân đội trong thời gian ngắn đã làm mối quan hệ của những người Ixaren trở
nên thân thiết, và trở thành nguồn lực rất quý giá về mạng lưới hỗ trợ mỗi khi
người Ixaren nào muốn khởi nghiệp. Sự kết nối này cũng khiến các nhà
ĐTMH có thể đặt lòng tin ở các doanh nhân khởi nghiệp và sẵn sàng giúp đỡ
họ trong hoạt động kinh doanh. Sự chấp nhận thất bại, cho phép thách thức
các quy luật có sẵn, cách hành xử không đặt nặng vấn đề vị trí xã hội mà tôn
23
trọng sáng kiến, sự hiệu quả cũng chính là các yếu tố khiến người Ixaren trở
thành dân tộc rất thành công khi khởi nghiệp, đồng thời tạo nên thái độ chấp
nhận rủi ro dễ dàng hơn khi ĐTMH cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
Những yếu tố ảnh hưởng đến ĐTMH ở một quốc gia
Nghiên cứu định lượng của Jeng (2000) với số liệu của 21 nước trên thế
giới từ năm 1986 đến năm 1995 về các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của
hoạt động ĐTMH cho thấy:
+ IPO là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt động
ĐTMH.
+ Sự ảnh hưởng của các quỹ hưu trí đến hoạt động ĐTMH là có ý nghĩa
thống kê theo thời gian nhưng không theo quốc gia.
+ Sự ảnh hưởng của GDP và sự tăng trưởng của thị trường vốn lại
không có ý nghĩa thống kê.
+ Sự can thiệp của nhà nước có ảnh hưởng mang ý nghĩa thống kê đối
với hoạt động ĐTMH, từ cả hai phương diện: xây dựng môi trường pháp lý và
hỗ trợ thúc đẩy thị trường trong giai đoạn khủng hoảng, đi xuống.
Mỗi giai đoạn ĐTMH bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau. Ví dụ:
+ ĐTMH giai đoạn đầu đầu (early-stage VC investing) bị ảnh hưởng
nhiều bởi sự cứng nhắc của thị trường lao động nhưng ĐTMH giai đoạn sau
(later-stage VC investing) thì không.
+ IPO không có nhiều ảnh hưởng đến ĐTMH giai đoạn đầu nhưng lại
có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ĐTMH giai đoạn sau theo quốc gia.
Điều này cho thấy tiềm năng thoái vốn bằng IPO cao chính là yếu tố thúc đẩy
ĐTMH ở giai đoạn sau còn trong giai đoạn đầu thì không thoái vốn bằng IPO.
+ Các khoản ĐTMH có sự góp vốn của nhà nước thường không bị ảnh
hưởng nhiều bởi các yếu tố ảnh hưởng đến ĐTMH của tư nhân.
24
1.1.2. Đặc điểm:
Khác với các hình thức đầu tư tài chính thông thường, đối tượng được
nhận vốn ĐTMH phần lớn là các doanh nghiệp công nghệ cao, công nghệ tiên
tiến có quy mô vừa và nhỏ đang trong giai đoạn khởi nghiệp. Vì đầu tư vào
công nghệ cao, công nghệ tiên tiến nên độ rủi ro rất lớn, nhưng ngược lại nếu
thành công thì lợi nhuận thu được rất cao. ĐTMH có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, đầu tư vào các doanh nghiệp mà không cần phải có một
khoản đặt cọc hay ký quỹ nào, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm rót vốn
vào doanh nghiệp chủ yếu dựa trên sự tin tưởng vào việc tạo dựng thành công
doanh nghiệp của người sáng lập và đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp.
Thứ hai, đầu tư mạo hiểm là hình thức đầu tư đặc thù, có quy định riêng
biệt và thường có tiêu chuẩn thấp hơn về vốn và nguyên tắc đầu tư.
Thứ ba, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm đầu tư vào một doanh
nghiệp nào đó thì có nghĩa là họ sẽ đồng tham dự vào việc kiểm soát điều
hành doanh nghiệp.Điều này cũng có nghĩa là họ sẽ phải đối mặt với rủi ro bị
mất khoản đầu tư trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Tuy nhiên, rủi ro
cao thì sẽ được bù đắp bởi lợi nhuận cao khi doanh nghiệp đó thành công.
Thứ tư, bên cạnh việc cung cấp vốn, các chuyên gia quản lý vốn
ĐTMH còn tư vấn ở cấp chiến lược, hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp trong
quản lý và mở rộng các mối quan hệ nhằm tăng cường năng lực hoạt động
kinh doanh, tạo dựng uy tín, xây dựng thương hiệu và phát triển thị trường.
Thứ năm, đầu tư mạo hiểm không chỉ cấp vốn tái chính cho đối tượng
được chấp nhận, mà còn hỗ trợ về quản lý, các giải pháp công nghệ, phương
án kinh doanh,… nhằm nâng cao tỉ lệ thành công của doanh nghiệp KH&CN.
Do tính chất “mạo hiểm” trong hoạt động đầu tư, các chuyên gia quản
lý quỹ ĐTMH thường tiến hành rất kỹ việc sàng lọc hay thẩm định đầu tư
nhằm tìm ra các doanh nghiệp tiềm năng để đầu tư. Việc thẩm định đầu tư này
25
được tiến hành trên tất cả các mảng của hoạt động kinh doanh, từ việc xem
xét đội ngũ lãnh đạo, công nghệ cho đến mô hình kinh doanh.
1.1.3. Hình thức hoạt động của đầu tư mạo hiểm
Do ĐTMH có những đặc điểm mang tính đặc thù nên cơ chế và hình
thức hoạt động của loại hình đầu tư này cũng có những điểm riêng biệt, khác
với các loại hình đầu tư khác. Hoạt động ĐTMH có thể được tiến hành theo 3
bước:
Bước 1: Xem xét và thẩm định các dự án đầu tư. Các cá nhân hay tổ
chức tiến hành ĐTMH thường thực hiện thông qua các quỹ ĐTMH. Quỹ
ĐTMH sẽ thay mặt nhà đầu tư xem xét, nghiên cứu, thẩm định và tìm ra các
doanh nghiệp hay dự án tiềm năng để đầu tư. Quỹ ĐTMH có thể được tổ chức
dưới nhiều dạng như: Công ty hợp danh hữu hạn, quỹ tín thác, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…
- Công ty hợp danh hữu hạn: Là hình thức trong đó những nhà đầu tư là
các thành viên chính góp vốn, hưởng lợi nhuận và chịu trách nhiệm hữu hạn
tương ứng theo tỷ lệ phần trăm vốn góp. Còn những người hoặc tổ chức
không có vốn nhưng có kinh nghiệm và kỹ năng quản lý đầu tư thì góp một
phần vốn rất nhỏ, mang tính chất tượng trưng nhưng được toàn quyền quản lý
quỹ và chịu trách nhiệm vô hạn đối với hoạt động của quỹ.Đây là hình thức
phổ biến đối với các quỹ ĐTMH ở Mỹ.
- Quỹ tín thác (trust fund): Đây không phải là một pháp nhân đầy đủ,
mà chỉ phát hành tín phiếu đầu tư, sau đó uỷ thác cho công ty quản lý quỹ sử
dụng nguồn vốn đầu tư đó. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ thay mặt nhà
đầu tư giữ vai trò giám sát công ty quản lý quỹ nhằm bảo quản vốn và tài sản
của quỹ hay đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư.
- Các dạng khác như công ty con của một công ty lớn (corporation
venture), công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty tư nhân: So
26
với công ty hợp danh hữu hạn, những hình thức này thường không linh hoạt và
không mang lại hiệu quả cao do những người quản lý quỹ hoặc không phải là
những người quản lý đầu tư chuyên nghiệp, hoặc không có sự ràng buộc chặt
chẽ về lợi ích giữa hiệu quả hoạt động của quỹ và lợi ích của người quản lý.
Bước 2: Các quỹ ĐTMH tiến hành đầu tư, rót vốn vào các doanh
nghiệp công nghệ cao hay công nghệ tiên tiến có triển vọng, đang trong giai
đoạn khởi nghiệp và chưa tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Bước 3: Kết thúc đầu tư, hay thu hồi vốn. ĐTMH thường có thời gian
hoạt động nhất định, khoảng từ 7 đến 10 năm. Các khoản ĐTMH được thu
hồi thông qua 4 kênh chính: Thị trường chứng khoán (chào bán ra công chúng
lần đầu, IPO), bán cổ phần cho nhà đầu tư khác (trade sale), bán lại cổ phần
cho doanh nghiệp và bán doanh nghiệp cho doanh nghiệp khác.
Hiện nay, ở Việt Nam ĐTMH được thực hiện chủ yếu thông qua các
quỹ ĐTMH do các nhà đầu tư nước ngoài thành lập. Hình thức hoạt động chủ
yếu của các quỹ này là công ty hợp danh hữu hạn.
Hình 2: Giai đoạn cần vốn đầu tư mạo hiểm [20]
27
1.2. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Doanh nghiệp KH&CN là khái niệm được các nhà nghiên cứu Việt
Nam sử dụng từ năm 2003, trong quá trình nghiên cứu xây dựng chính sách
để phát triển loại hình doanh nghiệp này.
Trong đó, định nghĩa của các nghiên cứu hầu hết hướng đến loại hình
doanh nghiệp dựa trên kết quả nghiên cứu từ viện nghiên cứu, trường đại học
hoặc doanh nghiệp, là các tổ chức “mẹ” của doanh nghiệp và hỗ trợ doanh
nghiệp phát triển. Cụ thể:
- Theo Bạch Tân Sinh và đồng nghiệp (2003), doanh nghiệp KH&CN
là doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở áp dụng/khai thác kết quả nghiên
cứu KH&CN được tạo ra ở viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức nghiên
cứu tư nhân hoặc bởi một cá nhân hoặc tập thể nhà khoa học, công nghệ và
sáng chế.
- Theo Trương Hữu Chí (2004), doanh nghiệp KH&CN là loại hình
doanh nghiệp chuyên sâu, vừa có chức năng nghiên cứu, vừa có chức năng
sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các sản phẩm KH&CN có nhu cầu của thị
trường, đồng thời thương mại hóa các sản phẩm này thông qua sản xuất, dịch
vụ và chuyển giao công nghệ.
- Theo Võ Văn Tới (2005), doanh nghiệp KH&CN là mô hình doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đầu tư cho công việc công nghiệp hóa các kết quả nghiên
cứu tiên tiến có ý nghĩa thực tiễn và mang lại lợi nhuận cao một cách nhanh
chóng.
- Theo Phan Xuân Dũng (2006), doanh nghiệp KH&CN được hiểu là
những doanh nghiệp được hình thành dựa trên cơ sở: (1) áp dụng và khai thác
kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ được tạo ra ở viện nghiên cứu,
trường đại học; (2) chuyển đổi toàn bộ hoặc một phận của tổ chức nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ.
28
- Chỉ có Nguyễn Thị Minh Nga và đồng nghiệp (2006) là không đưa
yếu tố nguồn gốc thành lập vào định nghĩa doanh nghiệp KH&CN, cụ thể
theo các tác giả, doanh nghiệp KH&CN nên được xác định là doanh nghiệp
KH&CN vừa và nhỏ, trong đó: (i) sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp
phụ thuộc chủ yếu vào việc áp dụng kỹ năng hoặc tri thức KH&CN, áp dụng
đó là một áp dụng mới đầu mới (novel) của công nghệ tiên tiến hoặc sử dụng
công nghệ không phải là tiên tiến nhưng theo cách đổi mới (innovative) để
đưa ra một sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn toàn mới (new); (ii) các hoạt động
của doanh nghiệp theo đuổi yếu tố công nghệ như một nguồn lực chính cho
lợi thế cạnh tranh. Mặc dù trong định nghĩa không nhắc đến vấn đề nguồn gốc
của doanh nghiệp KH&CN, tuy nhiên, trong các phân tích về đặc tính của
doanh nghiệp KH&CN thì các tác giả lại cho rằng các hầu hết các doanh
nghiệp này được hưởng các hỗ trợ từ tổ chức “mẹ”.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 80/2007/NĐ-CP về
doanh nghiệp KH&CN (gọi tắt là Nghị định 80) để phát triển loại hình doanh
nghiệp dựa trên công nghệ tương tự. Trong đó định nghĩa về doanh nghiệp
KH&CN như sau:
“Doanh nghiệp khoa học và công nghệ quy định tại Nghị định này là
doanh nghiệp do tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức cá nhân nước ngoài có
quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ (quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định này) thành lập,
tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật
Khoa học và Công nghệ.”
“Hoạt động chính của doanh nghiệp khoa học và công nghệ là thực
hiện sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hoá hình thành từ kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và thực hiện các nhiệm vụ khoa
học và công nghệ. Ngoài các hoạt động này, doanh nghiệp khoa học và công
29
nghệ có thể thực hiện sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hoá khác
và thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.”
Luật KH&CN 2013 cũng đã luật hóa khái niệm doanh nghiệp KH&CN
như sau:
“1. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp thực hiện
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm,
hàng hoá từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.”
“2. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ phải đáp ứng các điều kiện
sau đây:
a) Là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức quản
lý và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp;
b) Có năng lực thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
c) Doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình
thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt tỷ lệ theo
quy định.”
Như vậy có thể nói định nghĩa về doanh nghiệp KH&CN tại Nghị định
80 cũng như trong Luật KH&CN có phần khác với định nghĩa về doanh
nghiệp KH&CN trong các nghiên cứu về mô hình này trước đây, trong đó,
nguồn gốc của doanh nghiệp KH&CN không được quy định, có nghĩa là
doanh nghiệp này có thể là doanh nghiệp độc lập, cũng có thể là doanh nghiệp
được hình thành từ kết quả nghiên cứu của tổ chức “mẹ”.
1.3. Ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ
1.3.1. Khái niệm:
Hoạt động ươm tạo doanh nghiệp thường được gắn với các cơ sở ươm
tạo. Trong đó có các định nghĩa như sau:
- Một vườn ươm doanh nghiệp là một đơn vị cung cấp các dịch vụ về
không gian dùng chung, đồng thời cung cấp một hệ thống hỗ trợ chiến lược,
30
tăng giá trị về mặt quản lý và kinh doanh của doanh nghiệp được ươm tạo
(Hackett & Dilts, 2004). Hệ thống hỗ trợ này quản lý, tập hợp và phân bổ các
nguồn lực với mục tiêu là hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp mới thành
lập được ươm tạo, trong khi đó giúp giảm chi phí trong trường hợp doanh
nghiệp mới bị thất bại.
- Mục tiêu của việc ươm tạo là cung cấp công cụ để hỗ trợ phát triển
các doanh nghiệp KH&CN, khởi nghiệp ĐMST phát triển và giảm thiểu tỷ lệ
thất bại (tr 59, Allen &Rahnan, 1980).
- Có các cách phân loại cơ sở ươm tạo khác nhau về nguồn gốc kinh phí
(từ nguồn ngân sách nhà nước, phi lợi nhuận, từ trường, viện và từ tư nhân);
các dịch vụ cung cấp (không gian làm việc chung, phí thuê thấp, các dịch vụ
hỗ trợ doanh nghiệp); nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp được ươm tạo (phát
triển sản phẩm, sản xuất, nhu cầu hỗn hợp); loại hình doanh nghiệp được ươm
tạo (doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nguồn) (tr 60). Riêng đối
với phân loại về nguồn gốc kinh phí, với trọng tâm của Luận văn này là liên
quan đến đầu tư mạo hiểm nghĩa là đầu tư với mục đích vì lợi nhuận thì sẽ
không tập trung vào loại hình cơ sở ươm tạo phi lợi nhuận.
- Cũng có ý kiến cho rằng hai loại cơ sở ươm tạo chính là: hỗ trợ chỗ
ngồi và hỗ trợ kinh doanh (tr 60, 62).
- Theo Luật chuyển giao công nghệ năm 2005, ươm tạo doanh nghiệp
công nghệ là hoạt động hỗ trợ tổ chức, cá nhân hoàn thiện công nghệ, huy
động vốn đầu tư, tổ chức sản xuất, kinh doanh, tiếp thị, thực hiện thủ tục pháp
lý và các dịch vụ cần thiết khác để thành lập doanh nghiệp sử dụng công nghệ
mới được tạo ra.
- Theo Thông tư số 16/2014/TT-BKHCN của Bộ KH&CN ngày
13/6/2014 về các tổ chức trung gian của thị trường KH&CN, cơ sở ươm tạo
công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ là loại hình tổ chức
31
trung gian cung cấp dịch vụ tư vấn, hỗ trợ tổ chức, cá nhân trong nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ; hoàn thiện, ứng dụng, thương mại hóa công
nghệ; xây dựng mô hình kinh doanh, huy động vốn đầu tư và các hoạt động
khác thúc đẩy hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
- Khi nói về phần vốn trong cơ sở ươm tạo, hầu hết các ý kiến cho rằng
các cơ sở ươm tạo hầu như không có quỹ riêng để đầu tư cho các doanh
nghiệp được ươm tạo mà thường đóng vai trò trung gian để giới thiệu các
doanh nghiệp được ươm tạo cho các nguồn đầu tư mạo hiểm bên ngoài.
1.2.2. Đặc điểm:
Vườn ươm hiện nay được chia làm 3 nhóm: Vườn ươm trong các Khu
công nghệ cao, Vườn ươm trong trường đại học và vườn ươm trong doanh
nghiệp. Ở phía Bắc có 5 vườn ươm, bao gồm vườn ươm thuộc Trung tâm
Nghiên cứu và Tư vấn về Quản lý (CRC) trường Đại học Bách khoa Hà Nội,
Vườn ươm HBI, Vườn ươm Doanh nghiệp Công nghệ cao Hoà Lạc của Khu
Công nghệ cao Hòa Lạc, 2 vườn ươm còn lại do công ty Công nghệ Tin học
Tinh Vân và công ty FPT thành lập. Khu vực phía Nam có 6 vườm ươm là
Vườn Ươm Doanh nghiệp Công nghệ cao thuộc Khu Công nghệ cao (Saigon
HiTech Park), Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp công nghệ thuộc Đại học
Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh; Vườn ươm Khu Công viên Phần mềm
Quang Trung (Software Park), Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp công nghệ
thuộc Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Vườm ươm Khu công
nghiệp Tân tạo và Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Nông nghiệp Công nghệ
cao thuộc Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh.
Hiện nay, hệ thống vườn ươm ở Việt Nam đã đa dạng hơn về loại hình,
tăng dần về số lượng, được mở rộng cơ sở vật chất, tăng thêm trang thiết bị
hiện đại, đồng bộ. Sản phẩm của các vườn ươm cũng ngày càng đa dạng, với
nhiều sản phẩm công nghệ cao được áp ụng rộng rãi trên thực tế, đóng góp
32
cho phát triển công nghệ, kinh tế - xã hội của đất nước. Trước năm 2003, Việt
Nam chưa có vườn ươm và doanh nghiệp được ươm tạo nào thì đến nay số
lượng doanh nghiệp đang được ươm tạo đã tăng lên đáng kể (khoảng trên
dưới 30 doanh nghiệp), với số doanh nghiệp được ươm tạo ở mỗi vườn ươm
dao động từ 3- 7 doanh nghiệp.
Mô hình vườn ươm đã lần đầu tiên tạo nên một hệ thống dịch vụ kinh
doanh đồng bộ, gắn kết thay vì các mô hình hỗ trợ dịch vụ đơn lẻ. Thông qua
các vườn ươm doanh nghiệp, cùng với việc hình thành hệ thống chia sẻ thông
tin, các mối liên kết giữa các doanh nghiệp ươm tạo và với các chủ thể khác
đã được tăng cường, góp phần tăng năng lực hoạt động, cạnh tranh cho các
doanh nghiệp trong bối cảnh mới (tự do hóa và toàn cầu hóa).
Hình 3: Các chủ thể trong hệ sinh thái khởi nghiệp [20]
33
Tiểu kết chương
Sau khi nghiên cứu các nội dung liên quan đến doanh nghiệp KH&CN,
ươm tạo doanh nghiệp KH&CN và đầu tư mạo hiểm chúng ta nhận thấy được
đầu tư mạo hiểm đối với ươm tạo doanh nghiệp KH&CN là rất cần thiết. Để
doanh nghiệp KH&CN nói riêng, cộng đồng doanh nghiệp nói chung có thể
tồn tại, phát triển và góp phần đẩy mạnh nền kinh tế, thì cần có những chú
hích ban đầu, mà đối với doanh nghiệp KH&CN, cú hích đó chính là nguồn
vốn đầu tư mạo hiểm. Chương 1 đã thể hiện được một số chủ thể và tầm quan
trọng của chúng trong sự phát triển hoạt động ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN, cũng gợi mở ra các nội dung tiếp theo được thể hiện ở Chương 2 và
Chương 3.
34
Chương 2
ĐẦU TƯ MẠO HIỂM CHO ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TẠI VIỆT NAM
VÀ CÁC BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
2.1. Thực trạng hoạt động đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động ươm
tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam và quốc tế
2.1.1. Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
Năm 2006 Bộ KH&CN đã trình Thủ tướng Chính phủ đề án “Thành lập
quỹ đầu tư mạo hiểm quốc gia từ ngân sách nhà nước”. Tuy nhiên đề án này
không được phê duyệt, có thể kể đến một số lý do bao gồm [22]:
- Mục tiêu cơ bản của quỹ là hỗ trợ trong khi đó bản chất của ĐTMH là
chấp nhận rủi ro, kiếm lợi nhuận dựa trên nguyên tắc thị trường. Do đó quỹ
ĐTMH quốc gia sẽ không thể có được những khoản đầu tư lâu dài và hiệu quả.
- Trong đề xuất có quá nhiều cơ quan cùng tham gia quỹ, dẫn đến việc
quản lý cũng như điều hành quỹ sẽ gặp nhiều khó khăn, chồng chéo;
- Nguồn của quỹ ĐTMH chủ yếu là ngân sách nhà nước, mà ngân sách
nhà nước có hạn.
- Thời điểm cho ra đời quỹ có thể chưa là giai đoạn “chín muồi” để mọi
thứ có thể sẵn sàng: cả về phía Nhà nước, phía doanh nghiệp, con người, ý
tưởng, các văn bản pháp lý có liên quan, định hướng về lĩnh vực đầu tư…..
Đến năm 2008, cụm từ đầu tư mạo hiểm lần đầu tiên xuất hiện trong
một văn bản quy phạm pháp luật, Luật công nghệ cao. Điều 24 Luật này về
đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao quy định:
“1. Đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao là đầu tư cho nghiên
cứu phát triển công nghệ cao, hình thành và phát triển doanh nghiệp ứng
dụng, sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công nghệ cao, được thực hiện
bằng hình thức góp vốn và tư vấn cho tổ chức, cá nhân nhận đầu tư;
35
2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân
trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước
ngoài, tổ chức quốc tế tham gia hoạt động đầu tư mạo hiểm cho phát triển
công nghệ cao, thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao tại Việt Nam.
3. Tổ chức, cá nhân thực hiện đầu tư mạo hiểm cho phát triển công
nghệ cao thuộc Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển được
hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật về thuế.”
Điều 25 Luật này về Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia quy
định:
“1. Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia là tổ chức tài chính
nhà nước để đầu tư vốn, cung cấp dịch vụ tư vấn cho tổ chức, cá nhân hình
thành và phát triển doanh nghiệp ứng dụng, sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch
vụ công nghệ cao.
2. Nguồn tài chính hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao
quốc gia bao gồm:
a) Vốn điều lệ của Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia được
hình thành từ ngân sách nhà nước và được bổ sung từ ngân sách nhà nước
trong quá trình hoạt động;
b) Tài trợ, vốn góp của tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân
nước ngoài;
c) Các khoản thu từ hoạt động của Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao
quốc gia;
d) Các khoản vốn huy động hợp pháp khác.
3. Đối tượng được Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia đầu tư
là tổ chức, cá nhân có ý tưởng công nghệ cao và kinh doanh công nghệ cao,
có kết quả nghiên cứu sáng tạo về công nghệ cao, có công nghệ cao cần được
36
hoàn thiện; doanh nghiệp vừa và nhỏ có dự án ứng dụng, sản xuất sản phẩm,
cung ứng dịch vụ công nghệ cao.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính trình
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, ban hành quy chế tổ chức và hoạt
động của Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia.”
Như vậy có thể nói Luật này đã công nhận và khuyến khích hình thức
ĐTMH nói chung và ĐTMH có sự tham gia của nhà nước nói riêng. Tuy
nhiên ĐTMH trong Luật này mới chỉ nhắc đến ĐTMH cho công nghệ cao,
chưa có hình thức ĐTMH cho doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp, là xu
hướng mà các quỹ ĐTMH của nhiều nước trên thế giới thường làm.
Hơn nữa, cho đến nay, quy định này vẫn chưa được đưa vào hiện thực
với lý do là chưa phù hợp với các quy định pháp luật về đầu tư của Nhà nước,
cụ thể như sau:
- Bộ Luật hình sự quy định về "tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến
tài sản của Nhà nước", "tội lập quỹ trái phép", "tội thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng" đều chưa tạo điều kiện cho việc đầu tư vào hình thức có
tính rủi ro cao như đầu tư vào các doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp.
- Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp có các quy định về “bảo toàn và gia tăng giá trị vốn nhà
nước đầu tư vào doanh nghiệp” cũng không phù hợp với tính chất của việc
ĐTMH, đó là thời hạn đầu tư dài (vốn có thể bảo toàn và phát triển nhưng
không phải hằng năm mà sau 7 – 10 năm), và có nhiều rủi ro (tỷ lệ % doanh
nghiệp thất bại và thất thoát vốn có thể cao đến 80-90%).
Ngoài ra, Điều 10 Luật này cũng quy định phạm vi đầu tư vốn nhà
nước để thành lập doanh nghiệp bao gồm:
“1. Đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp thuộc phạm vi sau đây:
a) Doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội;
37
b) Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực trực tiếp phục vụ quốc
phòng, an ninh;
c) Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền tự nhiên;
d) Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát
triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế.
2. Chính phủ quy định chi tiết việc đầu tư vốn nhà nước để thành lập
doanh nghiệp và cơ chế đặt hàng của Nhà nước đối với doanh nghiệp có chức
năng hỗ trợ điều tiết kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội của đất nước quy
định tại khoản 1 Điều này.”
Trong các phạm vi nói trên, chưa hề có nội dung về việc đầu tư cho
khởi nghiệp KH&CN. Chỉ có việc đầu tư cho doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ cao nhưng bắt buộc yếu tố “đầu tư lớn”, trong khi đó theo kinh nghiệm
quốc tế, đầu tư trực tiếp của Nhà nước cho doanh nghiệp KH&CN khởi
nghiệp thường là những khoản đầu tư nhỏ, chỉ khoảng 20,000 USD – 100,000
USD nên không thuộc phạm vi nói trên. Hơn nữa, việc Nhà nước đầu tư góp
vốn vào quỹ ĐTMH của tư nhân cũng không được cho phép theo quy định tại
Luật này.
Có thể nói các quy định này thể hiện nhận thức về vấn đề ĐTMH và
tầm quan trọng của ĐTMH trong việc phát triển đối tượng doanh nghiệp
KH&CN nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung là chưa cao. Việc thiếu
vắng các quy định phù hợp chính là rào cản để Chính phủ Việt Nam tham gia
vào hoạt động ĐTMH trong nước và quốc tế.
2.1.2. Kinh nghiệm quốc tế về đầu tư mạo hiểm
Về kinh nghiệm quốc tế, Nhà nước thường tham gia vào hoạt động đầu tư
mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp KH&CN dưới 3 hình thức chính: (1) tự
mở quỹ đầu tư vào doanh nghiệp KH&CN, (2) góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo
hiểm tư nhân, và (3) Đối ứng vốn đầu tư với các tổ chức, cá nhân tư nhân.
38
2.1.3. Hình thức tự đầu tư vào doanh nghiệp KH&CN
Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, Chính phủ Liên bang có những hỗ trợ trực tiếp về tài
chính cho doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp. Ví dụ, từ khi thành lập vào
năm 1958 đến cuối năm 2015, công ty Đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ của
Hoa Kỳ (US Small Business Investment Company - SBIC) đã đầu tư trên 67
tỷ USD cho các doanh nghiệp nhỏ tại nước này. Tương tự như vậy, Chương
trình khuyến khích doanh nghiệp nhỏ của đầu tư đổi mới sáng tạo (Small
Business Innovation Research - SBIR) từ năm 1982 đến cuối năm 2015 đã
cung cấp khoản hỗ trợ tài chính khoảng 38 tỷ USD cho các doanh nghiệp nhỏ
có hoạt động đổi mới sáng tạo tại Hoa Kỳ; 11% trong số đó gọi được 65 tỷ
USD đầu tư mạo hiểm tiếp theo từ tư nhân.
Những chính sách thúc đẩy đầu tư trong những năm 1970, 1980 cũng giúp
ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm ở Mỹ phát triển một cách nhanh chóng.
Trong đó có Luật về lương hưu cho phép các quỹ hưu trí được đầu tư tiền vào
các quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc các tài sản có rủi ro cao (OECD, 1996).
Canada
Tại Canada, Chính phủ có nhiều chương trình để hỗ trợ sự phát triển
của các doanh nghiệp KH&CN thông qua các khoản tài trợ nghiên cứu và
phát triển, hầu hết hướng tới mục tiêu thương mại hóa các kết quả nghiên cứu,
từ khu vực các trường đại học, viện nghiên cứu cũng như từ khu vực tư nhân,
và đặc biệt khuyến khích các dự án nghiên cứu và thương mại hóa có tính liên
kết giữa các thành phần này. Chính phủ cũng có những hỗ trợ dưới dạng vốn
vay lãi suất thấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để nâng cao năng lực và
phát triển kinh doanh. Trong các hỗ trợ đó, Chính phủ cũng thành lập Quỹ
thúc đẩy đầu tư (Investment Accelerator Fund) để cho vay và đầu tư không
quá 5% cổ phần và không quá 500,000 USD đối với các doanh nghiệp
39
KH&CN có tiềm năng trong lĩnh vực vật liệu mới, công nghệ sạch, công nghệ
thông tin và sức khỏe [29].
Trung Quốc
Tại Trung Quốc, Bộ KH&CN giao nhiệm vụ phát triển doanh nghiệp
KH&CN cho Trung tâm Phát triển Công nghiệp Công nghệ Bó đuốc, một cơ
quan có tư cách pháp nhân độc lập trực thuộc Bộ KH&CN. Nhiệm vụ chính
của Trung tâm là thúc đẩy việc hình thành doanh nghiệp KH&CN và hỗ trợ
tài chính cho giai đoạn đầu hoạt động, cấp phát kinh phí từ Quỹ sáng tạo
(Innovation Fund) cho các dự án thành lập doanh nghiệp KH&CN đã được
chấp thuận tại các vườn ươm công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật cũng như các khoản
vay cho các doanh nghiệp KH&CN vừa và nhỏ.
Lập ra vào năm 1999, Innofund cung cấp các khoản tài trợ ($150,000 -
$250,000), trợ cấp lãi suất cho vay và đầu tư vốn cổ phần. Doanh nghiệp xin
Innofund phải thuộc lĩnh vực R&D công nghệ cao, có dưới 500 người, ít nhất
30% nhân viên phải có trình độ kỹ thuật và người Trung Quốc sở hữu phần
lớn công ty. Mục tiêu cuối cùng của Innofund là giúp các doanh nghiệp khởi
nghiệp đi đủ xa về công nghệ và khả năng cạnh tranh trên thị trường để có thể
tiếp nhận các nguồn vốn tài chính (ngân hàng, các đối tác, công ty VC) khác.
Kể từ khi thành lập đến năm 2013,đã có hơn 35.000 hồ sơ xin Innofund với
9.000 dự án được phê duyệt và gần 1 tỷ USD được đầu tư [27].
Đức
Tổng số vốn đầu tư mạo hiểm năm 1998 mà Đức đã chi là 1,1 tỷ USD,
nhưng đến 2001 đã đạt 5,6 tỷ USD. Chính phủ Đức thành lập Quỹ Đầu tư
mạo hiểm nước Đức. Chính phủ Đức bảo hiểm đến 75% các khoản lỗ và lợi
nhuận của Quỹ từ các doanh nghiệp bị giới hạn trần nên Quỹ thiếu động cơ và
hoạt động không thành công [33].
Môi trường năng động của Berlin cung cấp đầy đủ các điều kiện cần
40
thiết giúp cung cấp cơ hội đào tạo, khả năng tiếp cận vốn và mở rộng quy mô
cho bất kỳ doanh nghiệp nào. Đức cũng là nơi có nhiều hơn một thung lũng
Silicon. Các công ty khởi nghiệp có xu hướng tập trung xung quanh các
trường đại học, nơi sản sinh ra các chuyên gia có trình độ cao và các nghiên
cứu tập trung vào thực tiễn, đã tạo ra một môi trường tuyệt vời cho đổi mới
sáng tạo. Thống kê cho thấy, Đức là quốc gia đứng đầu châu Âu về sáng tạo
với 67.899 đơn xin cấp bằng sáng chế vào năm 2016. Kết hợp với cơ sở hạ
tầng tiên tiến, trải rộng trên toàn lãnh thổ, nước Đức đã cho phép mọi ý tưởng
kinh doanh tìm được nơi phù hợp để triển khai thuận tiện và dễ dàng.
Doanh nghiệp tại Đức được bảo trợ bởi một môi trường kinh tế, chính
trị rất ổn định. Hệ thống luật bản quyền, luật sáng chế và luật thương hiệu
được thiết kế để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ rất tốt. Chính sách kinh tế của
Đức cũng tập trung vào việc bảo vệ các ý tưởng xuất sắc. Đơn cử là Luật
Cạnh tranh, cho phép đảm bảo các đối thủ không được phép tung các thông
tin sai sự thật về nhau để thu hút khách hàng. Đức không chỉ bảo vệ quyền tự
do cạnh tranh, mà còn bảo vệ sự tự do của công dân. Người dân được bầu cử
tự do và quyền lực được phân chia để tránh sự lạm dụng. Nhờ vậy, bất chấp
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, số lượng việc làm trong các
doanh nghiệp vừa và nhỏ (MittelIstand) đã tăng khoảng 2,5 triệu người trong
giai đoạn 2007 – 2011. Ngoài ra mạng lưới hỗ trợ doanh nhân cũng làm việc
hết sức hiệu quả. Các công ty khi thành lập cũng nhận được rất nhiều sự hỗ
trợ về thông tin, cách tiếp cận và xử lý hiệu quả nguồn vốn, cùng mạng lưới
các doanh nghiệp khởi nghiệp lẫn các chương trình hỗ trợ từ chính phủ [32].
Anh
Anh là nước thành công hơn cả trong đầu tư mạo hiểm. Đầu tư mạo
hiểm xuất hiện ở nước Anh hồi thập niên 70, đến nay đã chiếm 40% tổng vốn
đầu tư mạo hiểm của EU. Năm 1999, nước Anh có gần 250 doanh nghiệp đầu
41
tư mạo hiếm với tổng số vốn đạt 11,9 tỷ USD. Chính phủ Anh đã ban hành
Luật Uỷ thác Đầu tư mạo hiểm, trong đó ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân đầu
tư vào Quỹ uỷ thác để Quỹ tiến hành đầu tư mạo hiểm [33].
Vương quốc Anh, đã thực hiện một số bước đi tích cực để thiết lập và
nuôi dưỡng một hệ sinh thái khởi nghiệp. Từ năm 2010, bắt đầu với việc
thành lập Tech City ở London để đưa ra các ưu đãi thuế hào phóng cho cả
doanh nhân và các nhà đầu tư. Năm 2015, số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo ở London lên tới 608.110. Tại đây, chỉ mất không đến một ngày để
tìm ra một tên công ty không trùng lặp, điền đơn đăng ký và nộp đơn với cơ
quan quản lý. Làm việc với cơ quan thuế cũng chỉ mất một ngày, cũng như
đăng ký bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động,… Nước Anh cũng
cấp giải pháp giảm thuế để bảo vệ tránh sụt giảm quy mô, giảm lợi nhuận,
cũng như được miễn thuế từ vốn đầu tư. Bất kỳ tổn thất nào (trừ thuế thu
nhập) có thể được coi là khoản lỗ về vốn đối với lợi tức vốn của cùng năm
hoặc sẽ được trừ vào lợi nhuận trong những năm tới [34].
Pháp
Ở Pháp, hiện nay có khoảng 9.400 startup, còn đầu tư vốn mạo hiểm
tăng lên hơn 2,2 tỷ Euro vào năm 2016, chỉ xếp sau Anh trong lĩnh vực
startup ở Châu Âu. Chính phủ Pháp đang đổ tiền nhằm thu hút các doanh
nghiệp trẻ đến Pháp và khuyến khích đầu tư vào những nơi cần thiết. Một
trong những mục tiêu của hướng thúc đẩy này là tạo ra một môi trường thu
hút những người sáng lập startup. Pháp đã nỗ lực khuyến khích thành lập các
vườn ươm, trung tâm tăng tốc và các không gian cho nhà sản xuất tại thành
phố. Một ví dụ tiêu biểu là chương trình “Frech Tech Ticket”, cung cấp cho
các đội sáng lập startup gồm từ hai đến ba mươi người nước ngoài nói tiếng
anh với mức lương 45.000 Euro một năm công thêm 12 tháng trong một vườn
ươm nếu họ sẽ thành lập startup tại Pháp [34].
42
Hình 4: Vốn đầu tư mạo hiểm các doanh nghiệp Châu Âu huy động được
[10]
Nguồn: https://doanhnhanonline.com.vn/luong-gio-moi-o-chau-au/
(21/5/2017).
2.1.4. Góp vốn với quỹ đầu tư
Israel
Chương trình Yozma của Israel đầu tư từ nhà nước 80 triệu USD đầu tư
dưới dạng góp vốn cho các quỹ tư tư nhân. Trong đó, nhà nước góp 8 triệu
USD/quỹ và yêu cầu tư nhân phải đối ứng thêm ít nhất 12 triệu USD. Với sự
tham gia đầu tư của Yozma mà lượng vốn đầu tư mạo hiểm trên thị trường
của Israel tăng từ 27 triệu USD năm 1992 lên đến 2,712 triệu USD vào năm
2000. Sau 5 năm, nhà nước đã thoái vốn thành công (bảo toàn vốn) tại tất cả
10 quỹ được nhận đầu tư (Avnimelech, 2009).
Canada
Năm 2012, Chính phủ Canada đã thông báo về Sáng kiến liên bang trị
giá 400 triệu Đô la nhằm củng cố thị trường vốn ĐTMH ở nước này. Venture
43
Capital Blueprint Advanced Technology Alliance của Canada có thể coi là lấy
cảm hứng từ chương trình Yozma rất thành công của Israel và đầu tư cho các
quỹ ĐTMH tư nhân tại Canada [28].
Phần Lan
Ở Phần Lan, Tekes được coi là một trong những quỹ quan trọng nhất
cung cấp nguồn vốn từ Chính phủ đến các dự án đổi mới sáng tạo [29]. Tekes
có các chương trình cụ thể để hỗ trợ cho các nhóm dự án theo các chủ đề khác
nhau như Chương trình BEAM khuyến khích sự liên kết giữa các dự án
nghiên cứu từ Phần Lan và với các nước đang phát triển, Chương trình Witty
city để hỗ trợ các dự án đưa sản phẩm, dịch vụ mới ra thị trường để làm tăng
chất lượng sống của người dân tại các thành phố lớn, v.v… Tekes cũng phân
loại rõ ràng các đối tượng thụ hưởng, trong đó bao gồm 3 đối tượng chính là
doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) và doanh nghiệp
lớn. Riêng với đối tượng khởi nghiệp, Tekes chia làm các gói hỗ trợ, từ hỗ
trợ kỹ thuật, hỗ trợ tài chính cho đến các hỗ trợ liên quan đến kết nối, phát
triển thị trường.
Ngoài các hỗ trợ không hoàn lại (grant) cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp ở bước đầu tìm hiểu thị trường, Tekes Phần Lan có riêng quỹ đầu tư
mạo hiểm Tekes Venture Capital để đầu tư cho các quỹ đầu tư mạo hiểm tư
nhân. Số vốn góp từ Tekes cho các quỹ tư nhân không quá 20 triệu Euro cho
mỗi quỹ.Và mỗi năm, Tekes Venture Capital có thể đầu tư cho khoảng từ 2
đến 4 quỹ tư nhân.Cho đến nay, Tekes Venture Capital đã đầu tư cho 10 quỹ
đầu tư mạo hiểm tư nhân với tổng số vốn đầu tư khoảng 106 triệu Euro.Phần
góp vốn còn lại của tư nhân vào khoảng 65 triệu USD. Các quỹ này đã đầu tư
cho khoảng 100 doanh nghiệp khởi nghiệp.
Việc vừa đầu tư dưới dạng cổ phần, vừa hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp phát triển nghiên cứu và thương mại hóa kết quả nghiên cứu dưới
44
nhiều hình thức khác nhau được coi là một ví dụ nổi bật về sự tham gia của
nhà nước đối với hoạt động đầu tư mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp
KH&CNkhởi nghiệp.
Trung Quốc
Như đã phân tích ở trên, Chương trình Bó Đuốc của Trung Quốc có 2
hợp phần liên quan đến đầu tư mạo hiểm: thứ nhất là Quỹ Innofund thực hiện
trực tiếp đầu tư, còn thứ hai là Quỹ hướng dẫn đầu tư mạo hiểm (Venture
Guiding Fund) thực hiện chức năng đầu tư góp vốn vào các quỹ đầu tư tư
nhân.
Vào năm 2007, Bộ Khoa học và Tài chính Trung Quốc đưa ra biện
pháp để nguồn vốn đầu tư mạo hiểm tập trung nhiều hơn vào các doanh
nghiệp khởi nghiệp ĐMST - họ thiết lập Quỹ Hướng dẫn Đầu tư mạo hiểm.
Quỹ Hướng dẫn Đầu tư mạo hiểm hoặc đầu tư trực tiếp vào các quỹ đầu tư
mạo hiểm, hoặc đồng đầu tư, hoặc bảo đảm cho các quỹ này. Để làm được
điều này, Chính phủ Trung Quốc thực hiện 4 chương trình: 1) Quỹ đầu tư vào
các quỹ (fund of funds), nắm giữ dưới 25% cổ phần trong các quỹ đầu tư mạo
hiểm tư nhân, chỉ cần nhận một lãi suất cố định; 2) Quỹ đối ứng đầu tư với
cácquỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân phù hợp khoản đầu tư lên đến 50% vốn chủ
sở hữu các startup hoặc tối đa là 500 nghìn USD; 3) Bảo trợ rủi ro cho các
quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân, trong đó Quỹđược dùng để hỗ trợ giảm chi phí
và tổn thất của các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân đã thực hiện đầu tư vào
doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp; và 4) Tài trợ cho danh mục dự trữ đầu
tư, trong đó quỹcung cấp các khoản tài trợ cho doanh nghiệp KH&CN đang
được ươm tạo.
Chương trình Bó Đuốc nói chung và Quỹ hướng dẫn đầu tư mạo hiểm
được đánh giá cao bởi các chuyên gia, được coi là một chương trình thành
công của Trung Quốc trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư mạo hiểm một
45
cách lành mạnh tại nước này [26].
2.1.5. Hình thức đối ứng với nhà đầu tư, quỹ đầu tư
Canada
Như đã nêu trên, Chính phủ Canada có nhiều hình thức hỗ trợ các
doanh nghiệp KH&CN. Trong đó, chương trình Đầu tư cho doanh nghiệp đổi
mới sáng tạo (Investing in Business Innovation) cung cấp cho doanh nghiệp
KH&CN tối đa là 1 triệu USD để thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của
mình với điều kiện là họ phải được đầu tư từ nhà đầu tư thiên thần hoặc quỹ
ĐTMH [29].
Singapore
Singapore có rất nhiều các chương trình hỗ trợ khác nhau cho khởi
nghiệp ĐMST hay khởi nghiệp công nghệ. Trong đó, Quỹ nghiên cứu quốc
gia (National Research Fund) thành lập và vận hành Quỹ đầu tư vốn mồi
(Early Stage Venture Fund - ESVF) để cung cấp nguồn vốn đầu tư mạo hiểm
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp tại nước này. Cụ thể, ESVF đối ứng 1:1
với quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu tư cho các doanh nghiệp KH&CN có tiềm
năng phát triển nhanh. Cho đến nay, ước tính khoảng 100 triệu đô la
Singapore đã được đầu tư vào các doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp. Chính
phủ cũng có kế hoạch để đầu tư tiếp 28 triệu đô la Singapore nữa vào chương
trình này.
2.2. Thực tiễn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam khi đầu tư vào dự
án/công ty KH&CN khởi nghiệp
Việt Nam hiện nay chưa có các quỹ ĐTMH một cách đúng nghĩa, tuy
nhiên đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp diễn ra một cách khá âm thầm
theo các cách thông thường sau: (i) các cá nhân tin tưởng và đầu tư lẫn nhau
đầu tư khoảng 5.000-50.000USD vào công ty khởi nghiệp; (ii) hoặc một số
ngân hàng, công ty lớn như Vietcombank, BIDV, VPBank, VietA bank, Tổng
46
công ty dầu khí thì có một số Công ty quản lý Quỹ để quản lý các quỹ. Tuy
nhiên họ hầu hết không đầu tư từ giai đoạn đầu và không đầu tư nhỏ mà đầu
tư vào những dự án thường vài trăm ngàn đô. Ví dụ Công ty Liên Doanh
Quản Lý Quỹ Đầu Tư Chứng Khoán Vietcombank ("VCBF") là Công ty liên
doanh giữa Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam
(“Vietcombank”) và Tập đoàn đầu tư đa quốc gia Franklin Templeton
Investments (“FTI”). Công ty đang quản lý hai quỹ mở là Quỹ Đầu Tư Cân
Bằng Chiến Lược VCBF (VCBF-TBF) và Quỹ Đầu Tư Cổ Phiếu Hàng Đầu
VCBF.Các quỹ này đầu tư vào một danh mục đa dạng các cổ phiếu niêm yết
có giá trị vốn hóa thị trường lớn và các trái phiếu Chính phủ Việt Nam.
Từ giữa năm 2014 đến nay, có hai quỹ đầu tư mạo hiểm thương hiệu
hoàn toàn Việt Nam là Seedcom và FPT Ventures ra đời và hướng đến các dự
án khởi nghiệp ở giai đoạn đầu. FPT Ventures có tổng số vốn đầu tư ban đầu
là 3 triệu đô-la, đầu tư vào các công ty khởi nghiệp ở giai đoạn đầu với định
giá nhỏ hơn 1 triệu USD. Các lãnh vực FPT Ventures quan tâm (nhưng không
giới hạn) đầu tư vào: Online, Media, OTT, Giáo dục, Y tế, Thương mại điện
tử, Quảng cáo. Ngoài đầu tư vốn, FPT Ventures cũng hỗ trợ các startup về nơi
làm việc, ban cố vấn, kinh nghiệm mở rộng thị trường, tập khách hàng, hạ
tầng kỹ thuật, năng lực marketing & PR, các mối quan hệ với các quỹ đầu tư
trên thế giới để triển khai sản phẩm trong nước và từng bước mở rộng ra khu
vực. Do đó, FPT Ventures đang được rất nhiều các doanh nghiệp khởi nghiệp
KH&CN Việt Nam kỳ vọng và quan tâm tiếp cận. Hiện tại, danh mục đầu tư
của FPT Ventures gồm Sendo.vn, Ants.vn, FPTPlay.net, Nhacso.net,
Viecnha.vn, Gostudybooking.com.Sau hơn một tháng thành lập quỹ, ông Trần
Hữu Đức - Giám đốc quỹ FPT Ventures cho biết đã nhận được trên 150 hồ sơ
mời gọi vốn, trong đó, có 2 hồ sơ của người nước ngoài.Việc mỗi ngày quỹ
nhận được từ 2-3 hồ sơ cho thấy nhu cầu vốn cho khởi nghiệp tại Việt Nam
47
đang rất lớn.Theo chia sẻ của Chủ tịch FPT Trương Gia Bình, mỗi năm doanh
nghiệp sẽ đầu tư vào quỹ 3 triệu USD. FPT Ventures sẽ tập trung hỗ trợ vốn,
kỹ năng về công nghệ và kinh nghiệm quản lý cho các dự án khởi nghiệp quy
mô dưới một triệu USD.
Mặc dù đã có một số tập đoàn, công ty tham gia vào thị trường ĐTMH,
tuy nhiên, theo ý kiến của một số nhà đầu tư thì thị trường ĐTMH vẫn có
nhiều điểm yếu như sau: (i) thị trường khởi nghiệp ở Việt Nam chưa phát
triển, chưa có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp chất lượng cao; (ii) thiếu vắng
các tổ chức thúc đẩy kinh doanh và vườn ươm chuyên nghiệp để ươm tạo và
giới thiệu các doanh nghiệp chất lượng tốt đến với các nhà đầu tư (ii) Chính
phủ chưa có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển các thành phần trong hệ sinh
thái khởi nghiệp; (iv) Chính phủ cũng chưa có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư đặc
biệt là nhà đầu tư cá nhân, hỗ trợ giảm rủi ro đầu tư. Hoặc theo bài “Đầu tư
mạo hiểm ở Việt Nam: Những khó khăn, tiềm năng và giải pháp phát triển”
của Viện Chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ, năm 2015, cũng
nó nêu khó khăn về việc triển khai Quỹ ĐTMH tại Việt Nam: [23]
Thứ nhất, ở Việt Nam thị trường chứng khoán hoạt động chưa thực sự
hiệu quả. Hoạt động ĐTMH tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1996. Tuy nhiên,
đến tháng 7/2000, thị trường chứng khoán Việt Nam mới bắt đầu đi vào hoạt
động. Sau hơn 10 năm, thị trường chứng khoán đã từng bước phát triển nhưng
không thực sự ổn định đã gây khó khăn rất lớn cho các nhà ĐTMH muốn đổ
tiền vào các công ty thông qua vấn đề niêm yết công ty.
Khó khăn thứ hai là về chất lượng doanh nghiệp ở Việt Nam còn thấp.
Nhiều doanh nghiệp đã tiếp cận được với các quỹ đầu tư mạo hiểm nhưng lại
không đáp ứng được các tiêu chuẩn của quỹ. Đó cũng là lý do để một quỹ đầu
tư mạo hiểm đã phải rút khỏi Việt Nam vào năm 1998.
Thứ ba, môi trường pháp lý còn chưa đầy đủ. Nghị định 99/2003/NĐ-
48
CP của Chính phủ ban hành quy chế khu công nghệ cao cũng chỉ mới đề cập
chung về định nghĩa và chức năng của quỹ ĐTMH mà thiếu những quy định
về cấu trúc pháp lý cũng như các ưu đãi cho các nhà đầu tư khi thiết lập quỹ
mạo hiểm tại Việt Nam dẫn đến trường hợp của IDG phải lựa chọn hình thức
quỹ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thay vì một quỹ được thiết lập ngay tại
Việt Nam.
Thứ tư là việc các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép góp vốn, mua
cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam với tỷ lệ không quá 30% vốn điều
lệ doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đối tượng tiếp nhận ĐTMH lại cần vốn
lớn. Sự khống chế đó cũng không cho phép nhà đầu tư được can thiệp vào các
quyết định chiến lược phát triển kinh doanh vốn là một điểm yếu của các
doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp khởi sự.
Khó khăn thứ năm đối với các quỹ ĐTMH là cách thu hồi vốn chưa rõ
ràng. Thu hồi vốn nhanh nhất trong ĐTMH là thị trường chứng khoán. Thị
trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển đến mức độ là công cụ để thu
hút vốn cho doanh nghiệp.
Tiềm năng to lớn của hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đang dần được
cụ thể hoá trong những năm gần đây, đặc biệt là từ 2015. Thông qua biểu đồ ở
dưới có thể thấy nếu như các năm trước đó (từ 2011 tới 2014) tốc độ tăng trưởng
tăng đều thì năm 2015 thì số lượng các khoản đầu tư vào các doanh nghiệp khởi
nghiệp trong năm 2015 có sự tăng trưởng phi mã, gấp 2.3 lần so với 2014. Các
startup Việt đang ở trong làng sóng thứ 3- làn sóng toàn cầu hoá.
Các khoản đầu tư tập trung chủ yếu vào các giai đoạn đầu tư thiên thần
(angel investing), đầu tư hạt giống (seed invesing, chiếm tới 80% tổng số các
khoản đầu tư.Tuy nhiên, cũng đã xuất hiện những vòng đầu tư cuối cùng với
giá trị hàng chục triệu USD, đầu tư mua lại doanh nghiệp. Đặc biệt là Misfit,
Arimo là những doanh nghiệp có cơ sở nghiên cứu ở Việt Nam đã được xếp
49
vào những doanh nghiệp sáng tạo nhất thế giới. Các lĩnh vực đầu tư, hiện vẫn
tập trung chính vào các ngành: thương mại điện tử, truyền thông đa phương
tiện, công nghệ tài chính, công nghệ giáo dục, mobile.
Hình 5: Số lượng các khoản đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt
Nam từ năm 2011 đến năm 2015 [12]
Nguồn: https://techinsight.com.vn/he-sinh-thai-khoi-nghiep-phan-2/
(7/12/2016).
Việt Nam này đang nỗ lực để vươn lên đi đầu trong cuộc đua xây dựng
những con kỳ lân đầu tiên của các quốc gia Đông Nam Á các nhà quản lý quỹ
cho biết. Những con số đang cho thấy đầu tư vào Việt Nam tăng trưởng cả về
quy mô và giá trị. Theo Tạp chí Đầu tư mạo hiểm châu Á, trong 6 tháng đầu
năm 2019, Việt Nam đã chứng kiến 24 giao dịch trị giá 128 triệu USD, trong
khi cùng kỳ năm trước chỉ có 6 giao dịch trị giá 12 triệu USD.
Các startup Việt Nam thu hút được sự quan tâm đáng kể từ các nhà đầu
tư khu vực và quốc tế gần đây gồm có FastGo, một đối thủ của Grab; Abivin,
startup hậu cần cho các doanh nghiệp Việt Nam và Logivan - Uber của vận tải
50
đường bộ.
Hình 6: Số lượng giao dịch và tổng số tiền đầu tư mạo hiểm vào doanh
nghiệp khởi nghiệp (đơn vị triệu đô la) [11]
2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành và phát
triển ĐTMH vào ươm tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam
Việc hình thành và phát triển loại hình ĐTMH ở Việt Nam là rất cần
thiết. Sự quan tâm của các nhà đầu tư mạo hiểm đối với thị trường Việt nam
hiện nay là những dấu hiệu cho thấy nhu cầu thị trường đối với loại hình đầu
tư này. Tuy nhiên, quá trình hình thành và phát triển của hoạt động ĐTMH
trên thực tế liên quan đến rất nhiều khía cạnh và cần có những điều kiện nhất
định, nhất là những qui định khuôn khổ pháp luật.Dưới đây sẽ xem xét những
yếu tố thuận lợi và khó khăn trong việc mở rộng và phát triển loại hình đầu tư
51
này ở Việt Nam.
2.3.1. Thuận lợi
Thứ nhất, thị trường chứng khoán Việt nam chính thức đi vào hoạt
động từ tháng 7 năm 2000. Cho đến nay, mặc dù thị trường chứng khoán của
Việt nam chưa đóng vai trò lớn trong việc huy động nguồn vốn trong nền kinh
tế nhưng bước đầu đã hứa hẹn tạo ra một kênh rút vốn tiềm năng cho các Quỹ
ĐTMH trong thời gian tới. Gần đây, Nhà nước cũng nới lỏng những qui định
về sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán,
tạo điều kiện cho các công ty nhỏ có thể niêm yết trên thị trường này.
Thứ hai, khu vực doanh nghiệp tư nhân và tinh thần kinh doanh được
khuyến khích và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Một trong những dấu
mốc quan trọng là sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 và Nghị định 13/2019/NĐ-CP đã khơi
thông những rào cản pháp lý đối với khu vực tư nhân, tạo nên môi trường
pháp lý thuận lợi và gia tăng số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt
Nam. Ngoài ra nhiều chủ trương, chính sách và các biện pháp khuyến khích,
hỗ trợ của Nhà nước đối với phát triển khu vực tư nhân đã thể hiện rõ ràng sự
cam kết của Nhà nước trong việc phát triển khu vực này. Cũng từ đó khuyến
khích tinh thần kinh doanh trong dân chúng và hứa hẹn những dự án hấp dẫn
cho các nhà ĐTMH.
Thứ ba, trong thời gian qua, nhiều qui định của nhà nước đối với đầu tư
có vốn nước ngoài cởi mở hơn. Những chính sách này có tác động đáng kể
đến ĐTMH bởi các quỹ ĐTMH hiện nay đang hoạt động ở Việt Nam là
những Quỹ do người nước ngoài đầu tư. Chính vì vậy, việc Nhà nước cho
phép nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong các doanh nghiệp trong nước
đã mở rộng hơn cơ hội đầu tư của các Quỹ ĐTMH.
Thứ tư, hiện nay, hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam đang phát
52
triển với hơn 40 quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động, tăng gấp đôi so với 2015.
Nhiều tập đoàn lớn trong nước đã tham gia vào đầu tư mạo hiểm như FPT,
Viettel, Vingroup, CMC, CenGroup ... Cùng với đó là hơn 40 cơ sở ươm tạo,
tổ chức thúc đẩy kinh doanh và 60 khu không gian làm việc chung trên cả
nước.
Năm 2018, nhiều tập đoàn lớn tăng cường đầu tư cho hệ sinh thái khởi
nghiệp, như, Tập đoàn Vinacapital đã thành lập Quỹ Đầu tư Vinacapital
Ventures (100 triệu USD); Vingroup thành lập Quỹ Hỗ trợ khởi nghiệp và
Quỹ Hỗ trợ nghiên cứu khoa học công nghệ có mức đầu tư 2.000 tỷ đồng,
Quỹ Đầu tư mạo hiểm có mức 300 triệu USD để hỗ trợ các ý tưởng sáng tạo
đột phá về công nghệ…
2.3.2. Khó khăn
Thứ nhất, về hành lang pháp lý, ĐTMH nói chung, ĐTMH cho ươm
tạo doanh nghiệp KH&CN là loại hình đầu tư mới ở Việt Nam. Hiện nay,
trong các văn bản pháp qui, chưa có văn bản nào đề cập trực tiếp đến hình
thức ĐTMH mà chỉ mới có một số qui định có liên quan đến hoạt động này
như qui định về hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư. Như
trên đã trình bày, một trong những hình thức hoạt động phù hợp đối với quỹ
ĐTMH là công ty hợp danh hữu hạn thì hiện nay Luật Doanh nghiệp đã có
quy định về loại hình công ty này nhưng thành viên của công ty chỉ có thể là
cá nhân. Trong khi đó, theo kinh nghiệm của các nước, các thành viên góp
vốn phần lớn là các tổ chức như ngân hàng, quỹ hưu trí, các viện nghiên cứu,
trường đại học, v.v… và thành viên hợp danh cũng có thể là các công ty quản
lý quỹ. Chính vì vậy, chưa có qui định pháp lý phù hợp để quỹ ĐTMH hoạt
động ở Việt Nam dưới hình thức công ty hợp danh hữu hạn.
Thứ hai, đối với các quỹ ĐTMH nước ngoài, một trong những qui định
quan trọng, có ảnh hưởng đến hoạt động này là hạn chế cổ phần của nhà đầu
53
tư nước ngoài trong doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, theo qui định, Nhà
nước chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài sở hữu tối đa 30% vốn của công ty
trong nước. Qui định này hạn chế người nước ngoài đầu tư nhiều hơn cho các
dự án công nghệ và những ý tưởng sáng tạo. Thực tế ở Việt Nam, những
người có ý tưởng sáng tạo khó có thể huy động được vốn từ các nguồn khác,
nếu có nguồn vốn từ ĐTMH chắc sẽ là nguồn vốn chính. Chính vì vậy, giới
hạn 30% là tương đối thấp trong hoạt động ĐTMH liên quan đến ý tưởng
sáng tạo và công nghệ mới.
Thứ ba, một trong những yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến
sự thành công hay thất bại của những khoản đầu tư vào triển khai những ý
tưởng sáng tạo mới là quyền sở hữu trí tuệ được đảm bảo. Quyền sở hữu trí
tuệ được bảo vệ thì nhà đầu tư mới yên tâm bỏ vốn phát triển ý tưởng sáng
tạo/dự án công nghệ mới đó. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở
Việt nam còn nhiều bất cập. Tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng giả
hàng nhái còn tràn lan. Đặc biệt, đáng báo động nhất là trong lĩnh vực phần
mềm, một trong những lĩnh vực có tiềm năng huy động được sự quan tâm của
các nhà ĐTMH.
Thứ tư, môi trường kinh doanh ở Việt nam hiện nay còn chưa khuyến
khích sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh và mang tính "chụp giật". Ví dụ,
các quy định về thuế không rõ ràng và mức thuế thu nhập khá cao buộc nhiều
DN trong nước có xu hướng thực hiện chế độ kế toán không minh bạch. Chính
sự không minh bạch đó cũng là yếu tố làm các nhà đầu tư mạo hiểm e ngại đồng
thời các doanh nghiệp cũng không muốn nhận khoản ĐTMH vì họ không muốn
sự can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các nhà ĐTMH. Tính chụp giật thể
hiện ở chỗ bản thân những người kinh doanh chưa có chiến lược đầu tư dài hạn
mà đa phần chỉ nhìn vào ngắn hạn. Chính vì chủ yếu quan tâm đến lợi ích ngắn
hạn nên đã làm trầm trọng thêm tính không minh bạch trong kinh doanh mặt
54
khác không khuyến khích khu vực doanh nghiệp tham gia ĐTMH.
Thứ năm, các ngành công nghệ cao của Việt Nam hiện nay mới đang
trong giai đoạn khởi đầu, nhất là so với các nước trong khu vực. Ngành này
hiện tại còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình cạnh tranh với các nước khác
về nguồn nhân lực, về nắm bắt và tiếp cận các thị trường. Việt nam hiện chưa
có cơ chế phù hợp để biến tiềm năng về nguồn nhân lực đó trở thành cơ hội
đầu tư cho các nhà ĐTMH. Hiện nay, cơ chế quản lý các nhà nghiên cứu và
phát triển công nghệ cũng như các tổ chức nghiên cứu và phát triển còn gò bó,
còn mang tính bao cấp, chưa khuyến khích được các cá nhân và tổ chức phát
huy tính sáng tạo của mình.
Thứ sáu, nguồn nhân lực người Việt Nam phù hợp cho phát triển
ĐTMH hiện chưa có. ĐTMH là lĩnh vực rất mới ở Việt nam nên nguồn nhân
lực hiểu biết và có những kỹ năng cần thiết cho loại hình kinh doanh này, đặc
biệt là những kỹ năngquản lý đầu tư, lựa chọn những dự án có tính khả thi và
tham gia tư vấn cho doanh nghiệp có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực
ĐTMH hầu như chưa có. Hiện nay, đa số nhân viên chính của các Quỹ
ĐTMH là người nước ngoài, người Việt Nam chỉ đóng vai trò trợ giúp. Trong
hệ thống tri thức trong trường đại học cũng chưa cung cấp kiến thức về loại
hình đầu tư này.
2.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Tổng kết lại, theo kinh nghiệm quốc tế, một số yếu tố liên quan đến đầu
tư cho ươm tạo doanh nghiệp KH&CN là:
- Nhà nước cần tham gia một cách chủ động, tích cực trong việc đầu tư
cho ươm tạo các doanh nghiệp KH&CN.
- Trong nhiều trường hợp, nhà nước là đơn vị đi đầu trong việc đầu tư
mạo hiểm, từ đó mới tạo cơ sở để thu hút các vốn đầu tư và hỗ trợ từ tư nhân.
Ví dụ của Trung Quốc, Israel hay Phần Lan đã thể hiện điều này khi các quỹ
55
ĐTMH của Chính phủ đã góp phần quan trọng trong việc thiết lập và phát
triển hoạt động ĐTMH của các nước này;
- Có 3 hình thức chính để nhà nước tham gia vào hoạt động ĐTMH cho
ươm tạo doanh nghiệp KH&CN, đó là: (1) Quỹ đầu tư trực tiếp vào doanh
nghiệp KH&CN khởi nghiệp; (2) Quỹ đầu tư của nhà nước góp vốn vào các
quỹ ĐTMH tư nhân và (3) nhà nước đối ứng đầu tư cùng các quỹ ĐTMH tư
nhân và các nhà đầu tư thiên thần.
- Hầu hết các quốc gia đều có nhiều hơn một hình thức ĐTMH cho
ươm tạo doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp tùy vào mục tiêu và mong muốn
phát triển các thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp KH&CN.
- Sự tham gia của nhà nước trong việc ĐTMH vào các doanh nghiệp
KH&CN có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp
KH&CN thương mại hóa được nhiều hơn các kết quả nghiên cứu, đưa các sản
phẩm và dịch vụ mới ra thị trường, đồng thời thu hút được vốn tiếp theo từ tư
nhân.
- Tuy nhiên, đối với các trường hợp nhà nước đầu tư trực tiếp cho các
doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp hoặc đầu tư dưới dạng góp vốn vào các
quỹ ĐTMH tư nhân, hầu hết các nước đều có kế hoạch thoái vốn sau một vài
năm. Điều này chứng tỏ nhà nước chỉ tham gia trực tiếp khi thị trường vốn
ĐTMH chưa phát triển và đóng vai trò đầu tư mồi.Sau đó, khi thị trường đã
phát triển, nhà nước sẽ rút dần vai trò của mình.
- Nhà nước cũng thường chỉ tham gia ĐTMHở giai đoạn đầu của doanh
nghiệp KH&CN khởi nghiệp, là giai đoạn khi doanh nghiệp khởi nghiệp cần
nhiều hỗ trợ nhất mà các nhà đầu tư tư nhân chưa tham gia nhiều.
Trên đây là một số bài học quốc tế về sự tham gia của nhà nước đối với
hoạt động ĐTMH cho doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp.Tuy nhiên, mỗi
quốc gia có một cách thức khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, khuôn
56
khổ luật pháp và nhu cầu phát triển doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp của
mình. Do đó, Việt Nam cần hiểu rõ thực trạng hoạt động ĐTMH của mình,
đồng thời hiểu rõ khung pháp lý liên quan đến ĐTMH, từ đó mới xây dựng
được những chính sách phù hợp để thúc đẩy hoạt động ĐTMH có sự tham gia
của nhà nước cho việc ươm tạo các doanh nghiệp này.
Tiểu kết chương
Từ những thực trạng về đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam, quốc tế,
Chương 2 đã nêu và phân tích được những khó khăn thuận lợi của việc hình
thành, phát triển của hoạt động đầu tư mạo hiểm vào ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN. Tuy nhiên để có thể đề xuất được một số chính sách thúc đẩy đầu tư
mạo hiểm vào doanh nghiệp KH&CN, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN, thì
chương này cũng đã nêu được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và nội dung
này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của nhà nước trong hoạt động đầu tư
mạo hiểm nói chung.
57
Chương 3
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ MẠO
HIỂM CHO HOẠT ĐỘNG ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ
Hiện nay, Việt Nam được coi là một thị trường hấp dẫn cho ĐTMH.
Điều này được minh chứng rõ khi trên thị trường tài chính Việt Nam đang
xuất hiện ngày càng nhiều các quỹ ĐTMH của nước ngoài như Mekong
Capital, Vina Capital, Dragon Capital… và quỹ đầu tư IDG Ventures – một
quỹ ĐTMH chuyên đầu tư vào lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ cao
tại Việt Nam. Sự xuất hiện của hình thức đầu tư vốn này đã góp phần làm cho
thị trường tài chính Việt Nam trở nên sôi động và tăng sức cạnh tranh hơn.
Bên cạnh đó, nó cũng góp phần xoa dịu phần nào cơn khát về vốn cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ thông tin, nhiều tiềm
năng và đang trong giai đoạn khởi nghiệp. Tuy nhiên các nhà ĐTMH vẫn còn
e ngại khi rót vốn vào thị trường Việt Nam, vì thị trường Việt Nam vẫn còn
tồn tại nhiều rào cản như: Cơ sở pháp lý cho hoạt động của quỹ ĐTMH chưa
hoàn thiện; môi trường kinh doanh chưa thực sự mang tính cạnh tranh và
công bằng, còn có sự phân biệt đối xử giữa khu vực kinh tế tư nhân và khu
vực kinh tế nhà nước; thị trường công nghệ chưa phát triển, thiếu các vườn
ươm công nghệ và nguồn nhân lực có trình độ cao; bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ chưa đủ mạnh; thị trường chứng khoán chưa phát triển đầy đủ, quy mô
còn nhỏ, tính thanh khoản chưa cao so với các nước trong khu vực.
Từ những phân tích về hình thức, cơ chế hoạt động của ĐTMH nói
chung và những rào cản đối với ĐTMH nói riêng tại Việt Nam, tacần triển
khai ngay một số giải pháp nhằm góp phần phát triển hình thức đầu tư này tại
Việt Nam.
58
Đối với Nhà nước
- Cải cách thủ tục hành chính và hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển của loại hình ĐTMH, xem xét nâng
mức tỷ lệ sở hữu cho các nhà ĐTMH.
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý và hệ thống chính sách nhằm tạo môi trường
kinh doanh công bằng, minh bạch và sân chơi bình đẳng cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát huy hết năng lực sản xuất và cùng
nhau phát triển.
- Đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển các khu công nghệ cao (Hoà
Lạc và thành phố Hồ Chí Minh), các vườn ươm công nghệ, các lĩnh vực
công nghệ cao.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ
giữa trung tâm đào tạo trong khu công nghệ cao với các trường, viện.
- Có giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường công nghệ, kích cầu công
nghệ, phát triển các loại hình dịch vụ xúc tiến mua/bán công nghệ.
- Tăng cường công tác sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong vấn đề thực thi;
kết hợp đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục để mọi người có ý thức sử dụng
các sản phẩm có bản quyền.
- Đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán: Hoàn thiện khung pháp
lý, thể chế, chính sách; nâng cao số lượng, chất lượng cung/cầu trên thị
trường; quản lý chặt chẽ thị trường chứng khoán tự do; nâng cao năng lực của
các tổ chức trung gian; tăng cường giám sát thị trường chứng khoán; tự động
hoá toàn bộ các hoạt động giao dịch, thanh toán, công bố thông tin theo chuẩn
mực quốc tế…
Đối với các doanh nghiệp muốn nhận tài trợ
- Xây dựng một mô hình kinh doanh vững chắc, được kiểm chứng với
một hướng đi rõ ràng cho những khoản lợi nhuận dài hạn.
59
- Xây dựng một kế hoạch kinh doanh tốt, đưa ra được các dự đoán đáng
tin cậy về tốc độ tăng trưởng và giải thích cụ thể cho chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp. Nó phải thể hiện một sự hiểu biết sâu rộng về thị trường,
về vị thế cạnh tranh và các cơ hội kinh doanh mới. Thị trường mục tiêu của
doanh nghiệp phải khá lớn để các nhà ĐTMH thấy đáng bỏ vốn đầu tư.
- Có sản phẩm đã sẵn sàng tung ra thị trường. Sản phẩm cần qua giai
đoạn thử nghiệm và đạt được các kết quả tốt như đáp ứng yêu cầu của khách
hàng, công nghệ mang tính độc đáo…
- Xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý và một ban lãnh đạo có năng
lực. Doanh nghiệp cần đảm bảo tất cả các thành viên trong tập thể quản lý đều
là những người có kinh nghiệm và năng lực, có tâm huyết với sự phát triển
của doanh nghiệp. Các nhà ĐTMH hiểu rằng khi kế hoạch kinh doanh được
triển khai, khó khăn là không thể tránh khỏi, và họ luôn tìm kiếm một tập thể
quản lý có khả năng chèo lái con thuyền qua những cơn giông bão.
- Quan tâm thoả đáng đến vấn đề sở hữu trí tuệ nhằm đảm bảo rằng,
doanh nghiệp có quyền sở hữu hợp pháp đối với tất cả các tài sản trí tuệ của
mình như các sáng chế, nhãn hiệu…
Cụ thể như sau:
3.1. Nguyên tắc đề xuất vào các văn bản quy phạm pháp luật
a) Bổ sung vào ngành, lĩnh vực Nhà nước đầu tư vốn vào doanh nghiệp:
- Ngành, lĩnh vực ươm tạo, thương mại hóa công nghệ và doanh nghiệp
khoa học và công nghệ.
- Ngành, lĩnh vực, địa phương có tiềm năng xây dựng hệ sinh thái khởi
nghiệp cần vốn đầu tư ban đầu của Nhà nước.
b) Miễn trách nhiệm về bảo toàn và phát triển vốn đầu tư của Nhà nước
trong lĩnh vực ươm tạo, thương mại hóa công nghệ và doanh nghiệp khoa học
và công nghệ đối với những trường hợp do nguyên nhân khách quan của thị
60
trường KH&CN được thể hiện trong Điều lệ doanh nghiệp do cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt. Đây là căn cứ để miễn truy cứu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về dân sự cho những người sử dụng và quản lý vốn đầu tư
của Nhà nước cho hoạt động ươm tạo, thương mại hóa công nghệ và doanh
nghiệp khoa học và công nghệ.
c) Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và trách nhiệm của người
đại diện vốn nhà nước trong doanh nghiệp đầu tư ươm tạo, thương mại hóa
công nghệ và doanh nghiệp khoa học và công nghệ cần được thực hiện theo
chu kỳ đầu tư thay vì theo năm tài chính như đối với doanh nghiệp nhà nước
thông thường.
d) Cần xây dựng tiêu chí riêng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
của Nhà nước trong lĩnh vực ươm tạo, thương mại hóa công nghệ và doanh
nghiệp khoa học và công nghệ: không đơn thuần là lợi nhuận thu được của
doanh nghiệp mà được thể hiệnở hiệu ứng lan tỏa của vốn đầu tư nhà nước
cho xã hội nhưsố lượng việc làm mới tạo ra, giá trị gia tăng của sản phẩm,
dịch vụ, khối lượng vốn đầu tư thu hút từ xã hội, mức độ tăng trưởng về số
lượng và giá trị của doanh nghiệp khởi nghiệp và các mục tiêu khác theo
thông lệ quốc tế.
3.2. Các đề xuất chính sách
3.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý dành cho đầu tư mạo hiểm
a) Nhà nước công nhận các loại hình đầu tư mạo hiểm bao gồm:
- Quỹ đầu tư mạo hiểm và công ty quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm
- Nhà đầu tư thiên thần và câu lạc bộ các nhà đầu tư thiên thần
- Công ty đầu tư mạo hiểm
- Sàn gọi vốn cộng đồng, trong đó có 3 loại:
+ Sàn gọi vốn cộng đồng lấy phần thưởng
+ Sàn gọi vốn cộng đồng lấy vốn vay
61
+ Sàn gọi vốn cộng đồng lấy cổ phần
- Nhà đầu tư có điều kiện tài chính mong muốn tham gia góp vốn vào
quỹ đầu tư mạo hiểm và đầu tư thông qua sàn gọi vốn cộng đồng.
b) Bộ Khoa học và công nghệ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Tài chính, Ủy ban Chứng khoán, Ngân hàng nhà nước để xây dựng tiêu chí
công nhận và quản lý các loại hình đầu tư mạo hiểm.
3.2.2. Khuyến khích các hoạt động đầu tư vào doanh nghiệp KH&CN
a) Các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hưu
trí, quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, bộ, ngành, địa phương
hoặc của doanh nghiệp được khuyến khích thành lập, liên kết thành lập quỹ
đầu tư mạo hiểm, công ty đầu tư mạo hiểm trực thuộc hoặc đầu tư vào các
quỹ đầu tư mạo hiểm trên thị trường;
b) Các doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN và các tổ chức đầu tư mạo
hiểm cho doanh nghiệp KH&CN được Nhà nước công nhận thì được áp dụng
ưu đãi thuế và ưu đãi đầu tư tương tự như doanh nghiệp khoa học và công
nghệ;
c) Miễn thuế thu nhập cá nhân cho các nhà đầu tư thiên thần được Nhà
nước công nhận và sáng lập viên của doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN đối
với khoản thu nhập tạo ra khi chuyển nhượng vốn tại doanh nghiệp khởi
nghiệp KH&CN đó trong vòng 5 năm kể từ khi được công nhận.
d) Cho phép các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp, tổ chức thúc đẩy kinh
doanh được tính công dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN bằng
cổ phần không quá 20% từ doanh nghiệp đó;
đ) Nhà nước hỗ trợ 50% kinh phí tham gia tập huấn đầu tư mạo hiểm
trong nước và 20% kinh phí tham gia tập huấn đầu tư mạo hiểm tại nước
ngoài cho các nhà đầu tư có điều kiện tài chính muốn trở thành nhà đầu tư
62
thiên thần và cho nhiều nhất 03 người làm việc mỗi quỹ đầu tư mạo hiểm, sàn
gọi vốn cộng đồng trong vòng 01 năm kể từ khi thành lập.
e) Khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài liên kết với tổ
chức, cá nhân trong nước thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc công ty quản
lý quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.
g) Các tổ chức, cá nhân đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam được Nhà nước công nhận thì được tạo điều kiện chuyển lợi nhuận đầu
tư ra nước ngoài ngoài sau khi đã thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
h) Miễn quy định về số năm hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi (2
năm) đối với doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CNkhi muốn phát hành cổ phiếu
lần đầu.
3.2.3. Hỗ trợ nâng cao năng lực, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp
KH&CN khởi nghiệp
a) Các bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương,
tùy theo nhu cầu phát triển của hoạt động khởi nghiệp của lĩnh vực, địa
phương, được phép thành lập Quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp
KH&CNtheo lĩnh vực, địa phương quản lý;
b) Các quỹ đầu tư của Nhà nước có nhiệm vụ đối ứng vốn với các quỹ
đầu tư mạo hiểm, công ty đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư thiên thần để hỗ trợ tài
chính cho các doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CNtrong giai đoạn đầu phát
triển. Các hình thức đối ứng vốn bao gồm một hoặc một số các hình thức sau:
- Tài trợ, cho vay các doanh nghiệp khởi nghiệp được quỹ đầu tư mạo
hiểm, công ty đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư thiên thần lựa chọn đầu tư.
- Tài trợ, cho vay hoặc góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, công ty
đầu tư mạo hiểm được công nhận.
63
c) Đối tượng được tài trợ, cho vay hoặc đầu tư cổ phần thì trong vòng 4
năm kể từ khi ra thị trường hoặc khi thoái vốn thành công trích lại ít nhất 3%
từ lợi nhuận kinh doanh của công ty hoặc 3% lợi nhuận tạo ra từ chuyển
nhượng vốn của đối tượng đó tại doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
d) Người đại diện vốn nhà nước tại các quỹ đầu tư nêu tại điểm a và
điểm b có kinh nghiệm kinh doanh ít nhất 5 năm, được miễn trách nhiệm về
bảo toàn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.
Tiểu kết chương
Các nội dung của Chương 3 đã đề xuất được một số chính sách hỗ trợ
hoạt động đầu tư mạo hiểm như công nhận các loại hình đầu tư mạo hiểm, hỗ
trợ phát triển các loại hình đầu tư mạo hiểm hoặc hỗ trợ tài chính của Nhà
nước đối với hoạt động đầu tư mạo hiểm. Tất cả những phân tích, đề xuất nêu
trên, đều cho chúng ta thấy được Nhà nước luôn đóng vai trò làm “Bà đỡ” cho
mọi thành phần trong nền kinh tế, nếu không được nhà nước hỗ trợ, không
được nhà nước ban hành chính sách thông thoáng thì các chủ thể trong nền
kinh tế sẽ không thể hình thành và phát triển được.
64
KẾT LUẬN
Qua ba chương, Luận văn đã làm rõ được những đặc điểm và cơ chế
hoạt động của ĐTMH trong hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN, phân
tích thực trạng một số nước như Hoa Kỳ, Phần Lan, Isarel về các loại hình
đầu tư của Nhà nước cho hoạt động ươm tạo và phát triển doanh nghiệp khoa
học công nghệ và tác động của nó trong hình thành hệ sinh thái hỗ trợ khởi
nghiệp trong nước, phân tích thực trạng của Việt Nam và nêu lên một số bài
học kinh nghiệm cũng như đề xuất các giải pháp chính sách nhằm phát triển
hoạt động ĐTMH ở Việt Nam trong thời gian tới.
Luận văn đã chỉ rõ bản chất của ĐTMH là một dạng kinh doanh vốn và
phù hợp với nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án công nghệ mới và ươm tạo
doanh nghiệp KH&CN. ĐTMH có những đặc điểm khác biệt với các loại
hình đầu tư khác nên cần có những qui định hành lang pháp lý nhất định để
điều tiết hoạt động này. Phát triển loại hình ĐTMH sẽ tạo ra một kênh cấp
vốn hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như khuyến khích sự
thành lập khu vực kinh tế tư nhân
Có thể nói để phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, doanh nghiệp
KH&CN thì đầu tư từ Nhà nước và từ các nhà đầu tư mạo hiểm đóng vai trò
hết sức quan trọng. Nghiên cứu này đã làm rõ các cơ sở lý luận về đầu tư mạo
hiểm cho doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp khoa học công nghệ, thực
trạng đầu tư mạo hiểm cũng như các khoảng trống cần Nhà nước hỗ trợ và
can thiệp.
Đặc biệt, nghiên cứu đề xuất một số chính sách để hoàn thiện và thúc
đẩy đầu tư mạo hiểm cho hoạt động ươm tạo và phát triển doanh nghiệp khoa
học công nghệ, trong đó tập trung vào 3 hướng giải pháp chính: (i) Hoàn thiện
khung pháp lý, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi; (ii) hỗ trợ nâng
cao năng lực của các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp khoa học và
65
công nghệ, nhằm tạo nguồn cung tốt cho các Quỹ đầu tư mạo hiểm, các
chương trình hỗ trợ của Nhà nước; và (iii) Chính sách khuyến khích các hoạt
động đầu tư vào doanh nghiệp khoa học công nghệ, doanh nghiệp khởi
nghiệp.
66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Nguyễn Hải An.Trung Tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Nông
nghiệp Công nghệ cao Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP. Hồ
Chí Minh http://ahtp.hochiminhcity.gov.vn/home/tin-tuc/uom-tao-doanh-
nghiep-hien-trang-va-mot-so-giai-phap.html.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông (2012). Sách trắng về Công nghệ
thông tin – truyền thông Việt Nam năm 2012.
3. Bộ Thông tin và Truyền thông (2013). Sách trắng về Công nghệ
thông tin – truyền thông Việt Nam năm 2013.
4. Bộ Y tế (2010). Quy hoạch chi tiết phát triển Công nghiệp Dược
Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030.
5. Chính phủ (2015), Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng
11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của
Luật Đầu tư.
6. Chính phủ (2007), Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về phát triển
doanh nghiệp KH&CN.
7. Các trang thông tin điện tử: www.dfj-
vinacapital.com/index.php/vn, www.pvni.vn/vi/tin-
tc.html?view=company&layout=news&page,
http://www.cyberagent.co.jp, http://www.cyberagentventures.com,
https://startupxplore.com/en/blog/types-startup-investing/,
https://www.sba.gov/starting-business/finance-your-business/venture-
capital/venture-capital,
http://www.nvp.nl/pagina/wat_is_private_equity/#!lang=en,
http://www.fvca.fi/en/about_pe_vc,
http://www.bvca.co.uk/privateequityexplained.aspx,
8. Nguyễn Lân Dũng, Việt Nam, truy cập 22 tháng 10 năm 2006 <:
http://nongnghiep.vn/dai-loan-but-pha-bang-cong-nghe-sinh-hoc-
post56627.html.
67
9. Ngô Thế Dân. Công nghệ sinh học Việt Nam – thực trạng, triển
vọng và giải pháp. Viện Chăn nuôi thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt
Nam
10. Doanh nhân. https://doanhnhanonline.com.vn/luong-gio-moi-o-
chau-au/ (21/5/2017).
11. Dòng vốn đầu tư mạo hiểm kỷ lục và cơ hội “hút máu chất xám”
của Việt Nam. http://cafef.vn/dong-von-dau-tu-mao-hiem-ky-luc-va-co-hoi-
hut-mau-chat-xam-cua-viet-nam-20190724143326062.chn(24//7/2019).
12. Hệ sinh thái khởi nghiệp (phần 2) https://techinsight.com.vn/he-
sinh-thai-khoi-nghiep-phan-2/ (7/12/2016).
13. Nguyễn Hữu Lộc, 2007. Giáo trình Nhập môn công nghệ sinh
học. Nhà xuất bản Đại học Huế.
14. Nguyễn Thị Hải Như, 2006. Hoạt động đầu tư mạo hiểm tại một
số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Khóa luận tốt nghiệp,
Đại học Ngoại Thương.
15. LCT Lawyers (2010). Cẩm nang doanh nghiệp công nghệ thông tin.
16. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 592/QĐ-TTg ngày 22
tháng 5 năm 2012 phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm.
17. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13.
18. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư số: 67/2014/QH13.
19. Quốc hội (2013), Luật Khoa học và Công nghệ số
29/2013/QH13.
20. Tạ Doãn Trịnh (2015), Chính sách khuyến khích tư nhân thành
lập và liên kết với nhà nước thành lập quỹ ĐTMH ở Việt Nam.
21. Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 1/2006, Doanh
nghiệp nhỏ góp phần mở rộng nền kinh tế Hoa Kỳ như thế nào.
22. Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN. Nghiên cứu tổng quan
68
về đầu tư mạo hiểm
23. Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN. 2015.
http://nistpass.gov.vn/tin-chien-luoc-chinh-sach/1313-dau-tu-mao-hiem-o-
viet-nam-nhung-kho-khan-tiem-nang-va-giai-phap-phat-trien.html.
24. Viện Nghiên cứu Hải sản. Các lĩnh vực ứng dụng của Công nghệ
Sinh học trong thực tiễn. d-ng-c-a-c-ng-ngh-sinh-h-c-trong-th-c-ti-n>. 25. Viện Kinh tế quy hoạch Thủy sản, Tổng cục Thủy sản. Báo cáo tóm tắt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, 2012. 26. Luật Minh Khuê, https://luatminhkhue.vn/dau-tu-mao-hiem- hinh-thuc-dau-tu-can-duoc-quan-tam.aspx(2010). 27. http://blogs.berkeley.edu/2013/04/11/chinas-torch-program-the- glow-that-can-light-the-world-part-2-of-5/. (11/4/2013). 28. http://business.financialpost.com/fp-comment/israels-yozma-an- example-for-canada (31/7/2012). http://www.finland.org/public/default.aspx?nodeid=44642. 29. https://www.mentorworks.ca/what-we-offer/government- 30. funding/. 31. https://www.rikvin.com/blog/16-singapore-start-up-grants-and- schemes/. 32. http://doanhnghiephoinhap.vn/kinh-nghiem-tao-lap-quoc-gia- khoi-nghiep-o-mot-so-nuoc.html. 33. http://tiasang.com.vn/-khoa-hoc-cong-nghe/dau-tu-mao-hiem- tren-the-gioi-1078. 34. http://ttbd.gov.vn/PrintPreView.aspx?distid=4526 69