Giải pháp để Việt Nam thích ứng với vấn đề già hóa dân số
lượt xem 4
download
Bài viết "Giải pháp để Việt Nam thích ứng với vấn đề già hóa dân số" thống kê số liệu, tác giả phân tích và so sánh để có cơ sở đề xuất các giải pháp giúp Việt Nam thích ứng với vấn đề già hóa dân số; giúp Việt Nam tiếp tục ổn định tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội trong tương lai. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giải pháp để Việt Nam thích ứng với vấn đề già hóa dân số
- GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM THÍCH ỨNG VỚI VẤN ĐỀ GIÀ HÓA DÂN SỐ ThS. Phan Thanh Bằng1 1. Khoa Đào tạo kiến thức chung. Email: bangpt@tdmu.edu.vn TÓM TẮT Ba mươi năm qua, Việt Nam đã thực hiện tốt công tác truyền thông, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân. Mặt khác, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng đáng kể. Chính những điều này đã kéo giảm tỷ suất sinh xuống khoảng một nửa, giảm tốc độ gia tăng dân số của Việt Nam trong nhiều năm qua. Từ đây, Việt Nam cũng bắt đầu quá trình già hóa dân số. Già hóa dân số đang dần trở thành vấn đề thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XXI trở đi. Từ việc thống kê số liệu, tác giả phân tích và so sánh để có cơ sở đề xuất các giải pháp giúp Việt Nam thích ứng với vấn đề già hóa dân số; giúp Việt Nam tiếp tục ổn định tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội trong tương lai. Từ khóa: Dân số già, dân số Việt Nam, an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội… 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Dân số già là thực tế khá phổ biến đối với các nước phát triển trên thế giới. Việt Nam là quốc gia đang phát triển nhờ có những giải pháp về chăm sóc ý tế, về thông tin truyền thông, về phát triển kinh tế - xã hội, nên cũng đang bắt đầu quá trình già hóa dân số. Già hóa dân số sẽ trở thành thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam (thiếu hụt lực lượng lao động; làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; khó bảo đảm chăm sóc, đảm bảo an sinh cho người cao tuổi; áp lực trong việc khám, chữa bệnh cho người cao tuổi…). Do đó, tác giả cố gắng mô tả bức tranh trên làm cơ sở đề xuất một số giải pháp để các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý cấp trung ương và cấp địa phương của Việt Nam có những quyết sách hợp lý và đúng đắn ngay từ bây giờ để tương lai xã hội Việt Nam thích ứng dễ dàng trước vấn đề già hóa dân số. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Với việc thống kê số liệu từ các nguồn thông tin chính thống (của Cục thống kê, các công trình đã công bố), tác giả phân tích và so sánh để có cơ sở đề xuất các giải pháp giúp Việt Nam thích ứng với vấn đề già hóa dân số. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Thực trạng và dự báo về tình hình giá hóa dân số ở Việt Nam Theo Ngân hàng thế giới, Việt Nam có nhiều cải thiện về đời sống xã hội, nên tỷ lệ sinh 234
- giảm đi và tuổi thọ tăng lên. Điều này dẫn tới sự già hóa dân số đối với Việt Nam. Quá trình này bắt đầu từ năm 2015. Dự kiến đế năm 2035, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia có dân số già. Do vậy, Việt Nam đang trở thành một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới (Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, 2020). Hình 1. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam (nguồn: VNExpess.net) Theo Ngân hàng Thế giới, một quốc gia có tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đạt 10% tổng dân số thì quốc gia đó được coi là bắt đầu bước vào quá trình già hóa; từ 20% đến dưới 30% thì gọi là “dân số già”; từ 30% đến dưới 35% thì gọi là dân số “rất già”; từ 35% trở lên gọi là “siêu già” (Ngân hàng Thế giới, 2021). Hình 2. Dự báo quy mô dân số già ở Việt Nam (nguồn: VNExpess.net) Quá trình già hóa dân số đã bắt đầu và dự kiến sẽ tăng tốc. Số người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) đạt 6,31 triệu người (6,7% dân số) vào năm 2014. Theo kịch bản mức sinh trung bình hiện nay, thì đến năm 2049, số người cao tuổi sẽ tăng lên 19,6 triệu người, cao hơn gấp ba lần so với năm 2014 và sẽ chiếm khoảng 18,1% dân số. Việt Nam là quốc gia xếp thứ 18 về số lượng người già trong so sánh với các nước khác trên thế giới. Việt Nam được xếp ngay sau Thái Lan (17) và Hàn Quốc (16). Chỉ với 20 năm, tỷ lệ người già phụ thuộc được dự kiến sẽ tăng gấp đôi từ 0,11 vào năm 2019 lên 0,22 vào năm 2039. Trong khi đó, tỷ lệ người trẻ phụ thuộc sẽ tiếp tục duy trì xu hướng đi xuống trong vòng 50 năm qua. 235
- Năm 2019, tuổi thọ bình quân của dân số thế giới là 72 tuổi, của dân số Việt Nam đã là 73,6 tuổi, cao hơn tuổi thọ bình quân của thế giới 1,6 tuổi. Nếu cũng tính theo mức tăng tuổi thọ bình quân cao nhất là 0,1 tuổi/năm, thì dân số Việt Nam đã già hóa dân số hơn dân số thế giới khoảng 16 năm. Như vậy, tổng thời gian dân số Việt Nam già hóa nhanh so với mức chung của thế giới là khoảng 96 năm (Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, 2020). Theo phân tích của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, chỉ số già hóa năm 2019 là 48,8%, tăng 13,3 điểm phần trăm so với năm 2009 và tăng hơn hai lần so với năm 1999. Chỉ số già hóa có xu hướng tiếp tục tăng lên trong những năm tới. Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng là hai vùng có chỉ số già hóa cao nhất cả nước (tương ứng là 58,5% và là 57,4%). Tây Nguyên là nơi có chỉ số già hóa thấp nhất so với các vùng còn lại trên cả nước (28,1%). Như vậy, Việt Nam được dự báo là quốc gia có tốc độ già hóa dân số thuộc vào nhóm nhanh nhất trên thế giới - 20 năm, trong khi Pháp là 115 năm, Australia là 73 năm, Hoa Kỳ là 69 năm, Anh và Tây Ban Nha là 45 năm, Nhật Bản và Trung Quốc là 26 năm… Thực tế cho thấy hiện nay số người già không có lương hưu hoặc trợ cấp xã hội ở Việt Nam rất lớn. Tính đến cuối năm 2020, cả nước có khoảng 14,1 triệu người sau độ tuổi nghỉ hưu (từ 55 tuổi trở lên đối với nữ; từ 60 tuổi trở lên đối với nam). Trong số đó, chỉ hơn 3,1 triệu người đang được hưởng lương hưu. Nếu tính cả những người đang hưởng trợ cấp hưu trí (1,8 triệu người), thì có tổng cộng gần 5 triệu người (chiếm 35%) được hưởng các khoản trợ cấp hàng tháng. Như vậy, cho đến nay vẫn còn khoảng 9,2 triệu người sau độ tuổi nghỉ hưu (chiếm 65%) chưa thuộc diện bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội hoặc tầng an sinh xã hội (Viết Tuân, 2021). Dù Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp để thúc đẩy tăng quỹ bảo hiểm xã hội để bảo đảm nguồn chi cho hưu trí sau cho người cao tuổi. Tuy nhiên, những người trong độ tuổi lao động, tính đến hết quý 1 năm 2022, có 16,4 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội (đạt khoảng 32% lực lượng lao động), tăng 2,77% so với cùng kỳ 2021. Trong đó, gần 1,3 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, tăng 16,09% so với cùng kỳ năm trước. Số liệu cho thấy có cải thiện về việc tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động. Nhưng hệ lụy tương lai dành cho người lao động khi bước vào thời kỳ hết tuổi lao động không phải là ít. Như vậy, già hóa dân số là vấn đề được nhiều nước quan tâm, trong đó có Việt Nam. Già hóa dân số tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm: Thị trường lao động, tài chính, nhu cầu về các hàng hóa, dịch vụ, giáo dục, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi… Già hóa dân số có thách thức rất lớn đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay. 3.2. Thách thức đối với Việt Nam trước tình trạng già hóa dân số Một là, thu nhập bình quân đầu người chưa cao nhưng Việt Nam phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số. Theo Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân đầu người/1 tháng của Việt Nam năm 2020 đạt khoảng 4,2 triệu đồng (tương đương 183 USD) (Lưu Nguyên Sơn, 2021). Còn GS.TS Phạm Quang Minh, Trưởng bộ môn Nghiên cứu Phát triển Quốc tế, nhận xét: Những công nhân làm trong khu công nghiệp, mỗi tháng thu nhập trung bình từ 5 đến 6 triệu đồng, “mới chỉ đủ ăn”, không kịp tích lũy trước khi đến tuổi già (Viết Tuân, 2021). Việc già hóa dân số của Việt Nam diễn ra trong giai đoạn đang phát triển kinh tế và mức thu nhập GDP bình quân đầu người thấp hơn so với nhiều quốc gia khác. Theo Quỹ tiền tệ quốc 236
- tế (IMF), GDP bình quân của Việt Nam năm 2021 là 3.759 USD, còn thua xa một số nước trong khu vực: Indonesia - 4.287 USD, Thái Lan - 7.675 USD, Malaysia - 11.378 USD, Brunei - 26.274 USD và Singapore - 62.113 USD (Lê Ngọc, 2021). Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện mới chỉ đạt 40% mức trung bình toàn cầu và cần phải có thời gian, đặc biệt là sự nỗ lực mới bắt kịp được các quốc gia phát triển khác để đạt được mức thu nhập trung bình cao vào năm 2035. Tốc độ già hóa dân số nhanh thì Việt Nam ít có thời gian để điều chỉnh các chính sách cho thích hợp so với nhiều nền kinh tế phát triển trước đây. Cũng theo GS.TS Phạm Quang Minh, giai đoạn 2005 - 2035, cứ hai người trong độ tuổi lao động phải “gánh” chưa đến một người ngoài tuổi lao động. Tuy nhiên, dự báo sau năm 2035, cứ 4 người trong độ tuổi lao động phải gánh 3 người ngoài tuổi lao động. Đó là áp lực lớn đối với nhiều gia đình và toàn xã hội. Hai là, tác động đến nguồn lực tài chính quốc gia - nguồn thu ngân sách bị ảnh hưởng. Mặt khác, nguồn lực tài chính lại phải chi nhiều cho các vấn đề xã hội có liên quan đến già hóa dân số. Đây là điều chắc chắn khi Việt Nam chưa có nền kinh tế phát triển cao. Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 của Việt Nam, mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt khoảng 7.500 USD và đến năm 2045 đạt khoảng 12.500 USD - nước phát triển có thu nhập thấp. Viễn cảnh này cho thấy, năm 2035, khi bước vào thời kỳ dân số già, Việt Nam cũng chỉ mới là nước có thu nhập trung bình cao, chưa phải là nước phát triển. Khi dân số bước vào độ tuổi nghỉ hưu ngày càng đông và không còn kiếm được thu nhập nữa, thì nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân dành cho ngân sách quốc gia sẽ bị ảnh hưởng. Theo Tổng cục Thuế, năm 2021, thuế thu nhập cá nhân đạt khoảng 123.000 tỷ đồng, chiếm 7,86% tổng thu ngân sách nhà nước (1.563.000 tỷ đồng). Trong cơ cấu đóng thuế thu nhập cá nhân, tỷ lệ từ tiền công, tiền lương vẫn chiếm rất lớn, hơn 70% thu nhập của người lao động. Những khoản đóng góp khác như chứng khoán, bất động sản dù có tăng mạnh đi nữa, tính theo số tuyệt đối thì cũng không nhiều trong tổng số thuế thu nhập cá nhân đóng góp vào ngân sách nhà nước (Thanh Xuân, 2021). Thông tin này cho thấy từ thập niên 2030 trở đi, ngân sách nhà nước được đóng góp từ nguồn thuế thu nhập cá nhân, từ tiền công, tiền lương của người lao động sẽ giảm dần do lực lượng lao động suy giảm so với đội ngũ bước vào lực lượng cao tuổi ngày càng tăng. Bên cạnh đó, xã hội già hóa cũng đặt ra nhu cầu lớn hơn đối với các hệ thống chăm sóc y tế và hưu trí của Nhà nước cũng như tư nhân. Để kiểm soát vấn đề này, Chính phủ phải chi bổ sung 1,4% - 4,6% GDP hàng năm. Ba là, giảm bớt thời gian lao động, suy giảm năng suất lao động và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Dân số già tăng nhanh, thì cũng đồng nghĩa với suy giảm lực lượng lao động, hạn chế thời gian lao động và dẫn đến giảm tăng trưởng vốn, kìm hãm tăng năng suất lao động. Đó là người trẻ, người trong độ tuổi lao động phải dành nhiều thời gian chăm sóc cha mẹ, ông bà đã lớn tuổi, thì sẽ giảm bớt thời gian lao động, cống hiến cho xã hội. Điều này cho thấy sức lao động của toàn xã hội có thể bị ảnh hưởng, bởi phải dành một phần nguồn lực khá lớn để chăm sóc người già. Bốn là, người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay chủ yếu sống ở nông thôn. Đời sống của nhiều người cao tuổi rất khó khăn. Số người cao tuổi được hưởng lương hưu, trợ cấp xã hội rất 237
- thấp nên nhiều người cao tuổi sức khỏe kém vẫn phải tự lao động và kiếm sống hàng ngày. Tỷ lệ người nghèo ở người cao tuổi là 23,5%. Mặc dù có tuổi thọ trung bình khá cao, nhưng tuổi thọ khỏe mạnh của người cao tuổi ở nước ta (giai đoạn sống tích cực, sống tốt) lại khá thấp (chỉ khoảng 64 tuổi); đặc biệt, có 67,2% người cao tuổi có tình trạng sức khỏe yếu và rất yếu, nhiều người mắc bệnh nan y… Khoảng 95% người cao tuổi có bệnh, chủ yếu là bệnh mãn tính không lây truyền. Trung bình một người cao tuổi Việt Nam mắc 3 bệnh (T. H, 2021). Do đó, chất lượng sống của người cao tuổi là một trở ngại lớn đối với nhiều gia đình và xã hội hiện nay. Năm là, hệ thống chăm sóc sức khỏe, nhất là chăm sóc chuyên khoa cho người cao tuổi chưa đáp được nhu cầu ngày càng tăng. Đây là một thách thức đòi hỏi xã hội cần đầu tư tích cực để cải thiện sức khỏe người cao tuổi trong hiện tại và tương lai. Sáu là, một bộ phận xã hội còn có quan niệm sai lệch về người cao tuổi, cho rằng người cao tuổi không có đóng góp nhiều cho xã hội. Chính vì thế, vai trò của người cao tuổi trong các tổ thức dân sự, đoàn thể chưa thực sự được phát huy… Đây cũng là những khó khăn, thách thức đối với chất lượng sống của người cao tuổi (PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn và nnk, 2021). 3.3. Giải pháp thích ứng với vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII dự báo “Xu hướng già hoá dân số nhanh” và là một trong những thách thức lớn mà Việt Nam phải giải quyết; trong thời gian tới cần “chuẩn bị điều kiện thích ứng với già hoá dân số” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Do đó, Việt Nam cần nỗ lực để thích ứng với vấn đề già hóa dân số và chuẩn bị duy trì sự phát triển khi xã hội chính thức bước vào thời kỳ đó, với những giải pháp sau đây: 1) Tập trung tận dụng tối đa cơ cấu dân số vàng 5 hiện nay để thúc đẩy tăng trưởng, thúc đẩy phát triển đất nước. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động và áp dụng tối đa khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất để tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả xã hội. Tạo cho người lao động có thu nhập cao hơn mức bình quân hiện nay, thúc đẩy có tích lũy, tăng quỹ hưu trí, an sinh xã hội. 2) Tiếp tục nghiên cứu và thực hiện nhiều giải pháp để tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội, tăng các đối tượng hưu trí được hưởng chế độ trợ cấp từ quỹ này. Tính đến hết ngày 31/12/2021, số người tham gia bảo hiểm xã hội trên cả nước là hơn 16,5 triệu người, chiếm 33,77% lực lượng lao động trong độ tuổi (P.V, 2022). Bên cạnh đó, động viên người lao động hạn chế tối đa việc rút bảo hiểm xã hội một lần như hiện nay. Theo thống kê của ban thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, trong quý 1 năm 2022, cả nước có trên 208.000 người rút bảo hiểm xã hội một lần, tăng 1% so với cùng kỳ năm 2021. Đa phần người rút bảo hiểm xã hội một lần có độ tuổi trẻ, chủ yếu từ 20 đến 40 tuổi, tập trung nhóm mạnh nhất từ 20 - 30 tuổi (Hà Quân, 2022). Việc rút bảo hiểm xã hội một lần sẽ dẫn đến hệ quả là nhiều người khi hết tuổi lao động sẽ không còn trợ cấp hưu trí hoặc mức trợ cấp rất thấp, không bảo đảm được cuộc sống. Chính vì vậy, ngành bảo hiểm xã hội và ngành lao động - thương binh và xã hội đang chuẩn bị đề xuất Quốc hội về việc sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội với hướng giảm dần số năm 5 Cơ cấu dân số vàng được hiểu là số người trong độ tuổi lao động tăng gấp hai lần số người phụ thuộc. 238
- đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu từ 20 năm xuống còn 15 năm; xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng; tạo điều kiện để người lao động sớm hưởng lương hưu… 3) Từ tầm vĩ mô của Trung ương cho đến hoạt động quản trị địa phương, phải đặt vấn đề già hóa dân số là một trong những vấn đề ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Già hóa dân số có thách thức khá lớn đối với tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội. Mặt khác, nhóm dân số già cần được nhìn nhận như các chủ thể đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, thay vì chỉ như là các đối tượng hưởng trợ cấp của xã hội thuần túy. Cần nhìn nhận người cao tuổi, nhóm dân số già có vai trò, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hỗ trợ cuộc sống gia đình, là chỗ dựa cho các thế hệ trẻ. Thực tế ở Việt Nam, nhiều người lớn tuổi vẫn tham gia lao động với nhiều việc, nhiều hoạt động khác nhau. Thậm chí, có người lớn tuổi vẫn làm được những việc có tính kỹ thuật: soạn thảo văn bản trên máy tính, chế biến thức ăn, chăm sóc vật nuôi, cây trồng, sửa chữa máy móc, trang trí nhà cửa… Vì vậy, người lớn tuổi ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới vẫn là nguồn lực rất dồi dào cho sự phát triển kinh tế - xã hội. 4) Nhà nước cần có chính sách giảm tốc độ già hóa dân số bằng cách khuyến khích mức sinh, nhất là ở các đô thị đang có tình trạng mức sinh giảm sâu như TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Kinh nghiệm của Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác cho thấy nếu mức sinh đã xuống thấp sẽ rất khó để tăng sinh trở lại. Khi mức sinh thấp, thì dân số càng già với tốc độ nhanh hơn. Từ kết quả tổng điều tra dân số năm 2019, Tổng cục Thống kê cho dự báo theo phương án trung bình: Dân số Việt Nam năm 2029 là 104,5 triệu người, năm 2039 là 110,8 triệu người và đến năm 2069 là 116,9 triệu người. Trong 5 năm đầu của thời kỳ dự báo, 2019 - 2024, tỷ lệ tăng dân số hàng năm của nước ta là 0,93%. Trong tương lai, dự báo tỷ lệ tăng dân số sẽ tiếp tục giảm và đạt trạng thái “dừng” vào cuối thời kỳ dự báo, giai đoạn 2064 - 2069. Do đó, tăng tỷ suất sinh là một trong những giải pháp để kéo giảm tốc độ già hóa dân số một vài thập kỷ là việc rất cần thiết đối với điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay. 5) Đẩy mạnh việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới, đặc biệt là định hướng chuyển đổi từ dân số - kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, 2017). Nâng cao chất lượng dân số là một trong những giải pháp để vấn đề già hóa dân số không trở thành gánh nặng hoặc thách thức đối với môi gia đình và toàn xã hội. Vì vậy, hệ thống chính trị các cấp huy động toàn xã hội thực hiện Nghị quyết số 137/NQ- CP, của Chính phủ, ngày 31/12/2017, về kế hoạch thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới, Đề án chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến 2030 cần được xây dựng đồng bộ trong tổng thể của Chiến lược dân số Việt Nam đến 2030 và Chiến lược gia đình Việt Nam đến 2030. Các đề án, chiến lược này sẽ là cơ sở để Việt Nam vững tin thích ứng với vấn đề già hóa dân số trong các thập kỷ tiếp theo của thế kỷ XXI. 239
- 6) Hoàn thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, mở rộng, nâng cao năng lực chăm sóc, khám chữa bệnh cho người cao tuổi, xây dựng môi trường sống thân thiện với người cao tuổi. Cần hướng tới sự phát triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến để quá trình già hóa dân số diễn ra một cách năng động, với sự đảm bảo sức khỏe cho người cao tuổi. Đồng thời, tăng cường đào tạo cán bộ chăm sóc và cán bộ chuyên môn y tế trong công tác chăm sóc người cao tuổi. Thêm vào đó, cần phải có sự hỗ trợ hơn nữa cho những người chăm sóc người cao tuổi từ các thành viên trong gia đình, từ các cán bộ cộng đồng của các khu dân cư, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu của người cao tuổi được quy định cụ thể trong Điều 13 của Luật Người cao tuổi và được hướng dẫn bởi Thông tư số 35/2011/TT-BYT của Bộ Y tế. Trạm y tế xã, phường, thị trấn là cơ sở y tế chính có trách nhiệm quản lý sức khỏe của người cao tuổi thông qua tuyên truyền giáo dục sức khỏe, lập hồ sơ theo dõi quản lý sức khỏe người cao tuổi, khám chữa bệnh (KCB) phù hợp với phân tuyến kỹ thuật và phối hợp với cơ sở KCB tuyến trên để tổ chức kiểm tra sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi. Nhu cầu chi tiêu cho sức khỏe của người cao tuổi chắc chắn ngày một gia tăng. Đời sống kinh tế của người dân cả nước có xu hướng được cải thiện, thì dịch vụ về chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi cũng sẽ phát triển theo. Xu thế này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các mô hình, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi. Phát triển mạng lưới cơ sở cung cấp, chăm sóc, điều dưỡng người cao tuổi gắn với chăm sóc tại gia đình, cộng đồng. Nhiều loại hàng hóa thực phẩm, dược phẩm, thời trang… phục vụ nhóm khách hàng này cũng sẽ có cơ hội phát triển không kém gì các loại hình dịch vụ đang “hót” trong xã hội hiện nay. Một trong các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi mà bất kỳ quốc gia phát triển nào cũng quan tâm đó là nhà/ viện dưỡng lão. Các cơ sở dưỡng lão tư nhân, tổ chức tự thiện, nhà nước đang mang lại một môi trường sống khá thoải mái và thuận lợi cho người cao tuổi và đang được nhiều gia đình lựa chọn. Nhà/viện dưỡng lão có thể tổ chức loại hình tập trung hoặc bán trú đáp ứng đa dạng dịch vụ chăm sóc người cao tuổi theo nhu cầu phát triển xã hội. Ngoài ra, việc chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng thông qua việc xây dựng và phát triển đội ngũ bác sĩ gia đình, nhân viên công tác xã hội; tổ chức hoạt động dạy tập thể dục dưỡng sinh, giao lưu văn hóa… 7) Nhà nước và xã hội chú ý bảo vệ người cao tuổi, đặc biệt là tránh cho người cao tuổi khỏi tổn thương vì bị bào hành, ngược đãi. Bạo hành, ngược đãi là một hành động đơn lẻ hay được lặp đi lặp lại, gây tổn hại hoặc đau khổ cho người cao tuổi. Các hình thức bạo hành, ngược đãi người cao tuổi: Bạo hành, ngược đãi thể chất, tinh thần hoặc cảm xúc; lạm dụng tình dục; bóc lột tài chính; sao lãng, bỏ mặc về quan tâm, chăm sóc. Bạo hành, ngược đãi người cao tuổi có thể gây ra bởi những người thân trong gia đình, người chăm sóc, hoặc cộng đồng, cơ quan, tổ chức xã hội... Ở Việt Nam chưa có thông kê đầy đủ và liên tục, nhưng đây là vấn đề không thể không được quan tâm. Theo kết quả điều tra quốc gia năm 2012 về người cao tuổi, có 11,6% người cao tuổi cho biết từng bị con cháu bạo hành, 38% số người trả lời từng bị nhục mạ và có mâu thuẫn trong vòng 12 tháng trở lại. Trong những năm gần đây, việc con cái chiếm nhà đất của cha mẹ, không chăm sóc phụng dưỡng, đánh đập cha mẹ già, xâm phạm đời sống riêng tư, đối xử bạc bẽo… là những hiện tượng không hiếm trong đời sống xã hội (PV, 2021). Phòng ngừa, lên án và xử lý nghiêm khắc các hành vị bạo hành, ngược đãi người cao tuổi là nghĩa vụ của mỗi gia đình, của từng cộng đồng và toàn xã hội, nhất là trách nhiệm của hệ 240
- thống chính trị cơ sở, ban điều hành khu dân cư. Người cao tuổi sống bình an, vui vẻ là biểu hiện của đời sống văn hóa - xã hội phát triển. 8) Xã hội hóa, huy động đa dạng các nguồn lực để đáp ứng nhu cầu của sự già hóa dân số. Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách vào hạ tầng y tế, văn hóa, xã hội cho người cao tuổi. Điều này góp phần thực hiện thành công mục tiêu Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam: Nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi phù hợp với tiềm năng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiện nay, cả nước mới có một bệnh viện chăm sóc cho người cao tuổi - Bệnh viện Lão khoa trung ương. Ở các tỉnh, có khoảng 20% các bệnh viện tỉnh có khoa lão khoa, chủ yếu tập trung ở tỉnh có dân số đông (Song Hoàng, 2021). Điều này cho thấy dịch vụ chăm sóc người cao tuổi còn là một tiềm năng rất lớn dành cho mọi tổ chức và cá nhân có thể tham gia. 4. KẾT LUẬN Với việc chất lượng cuộc sống xã hội ngày càng cải thiện, con người ngày càng sống thọ và vấn đề già hóa dân số không thể tránh khỏi. Đó là thực tế đang diễn ra ở Việt Nam. Già hóa dân số tác động rất lớn đến tốc độ phát triển kinh tế và kéo theo nhiều vấn đề xã hội. Chính vì vậy, Việt Nam cần chuẩn bị và có những giải pháp mạnh ngay từ bây giờ để kéo giảm tốc độ già hóa; sẵn sàng thích ứng với vấn đề này. Chủ động được trước vấn đề già hóa dân số sẽ giúp Việt Nam tiếp tục duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm ổn định xã hội, đặc biệt là đạt được mục tiêu phát triển đất nước bền vững mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra từ nay đến giữa thế kỷ XXI. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2017). Nghị quyết về công tác dân số trong tình hình mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá XII số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự Thật. 3. Song Hoàng (2021). Dịch vụ chăm sóc người già nhiều tiềm năng vẫn đang chờ nhà đầu tư. Vneconomy (Ngày 06/12/2021). https://vneconomy.vn/dich-vu-cham-soc-nguoi-gia-nhieu-tiem- nang-van-dang-cho-nha-dau-tu.htm. 4. Ngân hàng Thế giới (2021). Việt Nam: Thích ứng với Xã hội Già hóa. 5. Hà Quân (2022). ‘Trẻ hóa’ rút bảo hiểm xã hội một lần, số đông ở 20 - 30 tuổi. Báo Tuổi trẻ online (Ngày 28/4/2022). https://tuoitre.vn/tre-hoa-rut-bao-hiem-xa-hoi-mot-lan-so-dong-o-20-30-tuoi- 202204281. 6. Lê Ngọc (2021). Bức tranh thu nhập bình quân theo đầu người thế giới năm 2021. Báo điện tử VOV (Ngày 29/07/2021). https://vov.vn/kinh-te/buc-tranh-thu-nhap-binh-quan-theo-dau-nguoi-the-gioi- nam-2021-877806.vov. 7. Lưu Nguyên Sơn (2021). Thu nhập bình quân của Việt Nam khoảng 4,2 triệu đồng/người/tháng. Báo Tài nguyên và môi trường (Ngày 08/07/2021). https://baotainguyenmoitruong.vn/thu-nhap- binh-quan-cua-viet-nam-khoang-4-2-trieu-dong-nguoi-thang-327235.html. 241
- 8. Nguyễn Hồng Sơn và TS. Nguyễn Mạnh Hùng (2021). Về vấn đề già hóa dân số và vấn đề biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay. Hội đồng lý luận Trung ương (Ngày 13/05/2021). http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/ve-van-de-gia-hoa-dan-so-va-van-de-bien-doi-khi-hau-bao- ve-moi-truong-o-viet-nam-hien-nay.html. 9. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (2020). Từ xu hướng già hóa dân số nhanh ở Việt Nam - cơ hội và thách thức. Trang thông tin điện tử của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Ngày 01/09/2020). http://gopfp.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/tu-xu-huong-gia-hoa-dan-so-nhanh-o-viet- nam-co-hoi-va-thach-thuc-10505-3601.html. 10. T. H (2021). Người cao tuổi muốn sống thọ, khỏe mạnh hãy áp dụng ngay chế độ ăn này. Sức khỏe & đời sống (Ngày 14/12/2021). https://suckhoedoisong.vn/nguoi-cao-tuoi-muon-song-tho-khoe- manh-hay-ap-dung-ngay-che-do-an-nay-169211213214655742.htm. 11. Viết Tuân (2021). Bốn thách thức với dân số già ở Việt Nam. Báo điện tử VNExpress (Ngày 24/4/2021). https://vnexpress.net/bon-thach-thuc-voi-dan-so-gia-o-viet-nam-4266063.html. 12. PV (2021). Có hay không “Ngược đãi và lạm dụng Người cao tuổi”?. Tạp chí Ngày mới online (Ngày 16/06/2021). https://ngaymoionline.com.vn/co-hay-khong-nguoc-dai-va-lam-dung-nguoi- cao-tuoi-25008.html. 13. P.V (2022). BHXH Việt Nam triển khai nhiệm vụ công tác năm 2022. Trang thông tin điển tử Bảo hiểm xã hội Việt Nam (Ngày 10/01/2022). https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/hoat-dong- bhxh-viet- nam.aspx?ItemID=17916&CateID=52#:~:text=Trong%20n%C4%83m%202021%2C%20ng%C3 %A0nh%20BHXH,d%C6%B0%E1%BB%A1ng%20s%E1%BB%A9c%20ph%E1%BB%A5c%2 0h%E1%BB%93i%20s%E1%BB%A9c. 14. Thanh Xuân (2021). Thuế thu nhập cá nhân tăng từ nguồn nào?. Báo Thanh niên (Ngày 09/12/2021). https://thanhnien.vn/thue-thu-nhap-ca-nhan-tang-tu-nguon-nao- post1409610.html#:~:text=T%C4%83ng%20h%C6%A1n%208.300%20t%E1%BB%89%20%C4 %91%E1%BB%93ng,n%C3%A0y%20l%C3%A0%20107.796%20t%E1%BB%89%20%C4%91 %E1%BB%93ng. 242
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Vấn đề môi trường ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thực trạng và giải pháp - Huỳnh Đức Thiện
10 p | 119 | 19
-
Xây dựng nông thôn mới chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và gắn với quản lý rủi ro thiên tai: Thực trạng, định hướng và giải pháp
14 p | 77 | 11
-
Nghiên cứu các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu để bảo vệ và phòng, chống hoang mạc hoá, phòng hạn, phòng chống suy thoái tài nguyên nước ở Ninh Thuận và Bình Thuận
6 p | 109 | 11
-
Duy trì và bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn mũi Cà Mau trong bối cảnh biến đổi khí hậu - thực trạng và giải pháp
7 p | 137 | 8
-
sổ tay sản phẩm xanh: giải pháp tối ưu của các doanh nghiệp nhằm thích ứng khí hậu và công trình sử dụng năng lượng hiệu quả ở việt nam
72 p | 98 | 7
-
Nghiên cứu hiện trạng công tác quản lý môi trường và đề xuất giải pháp thích hợp đối với hoạt động khai thác Titan-Zircon vùng mỏ Thiện Ái, tỉnh Bình Thuận
10 p | 78 | 6
-
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp xanh, bền vững, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu trong thiết kế và xây dựng các tuyến đường đô thị ở Việt Nam
5 p | 16 | 4
-
Biến đổi khí hậu toàn cầu: Giải pháp thích ứng ở nước ta
3 p | 85 | 4
-
Tác động của biến đổi khí hậu đến ngành nông nghiệp Việt Nam
4 p | 231 | 4
-
Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu tới sức khỏe cộng đồng tại huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định và đề xuất giải pháp thích ứng
7 p | 91 | 4
-
Biến đổi khí hậu và giải pháp cho ngành nông nghiệp Campuchia
3 p | 33 | 3
-
Đánh giá một số biểu hiện biến đổi khí hậu và các giải pháp thích ứng giảm nhẹ thiên tai ở khu vực Tây Bắc
6 p | 29 | 3
-
Đạo đức môi trường sinh thái tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
7 p | 5 | 2
-
Tác động của mưa axit tới hệ thống cây trồng nông nghiệp của Việt Nam và châu Á
16 p | 23 | 2
-
Quản trị khí hậu ở Việt Nam: Những vấn đề cần xem xét
5 p | 68 | 2
-
Một số giải pháp thoát nước chống ngập thành phố các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ thích ứng biến đổi khí hậu
5 p | 40 | 2
-
Giải pháp giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững ở Việt Nam
7 p | 6 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn