BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM --------

Lê Sỹ Tuấn

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP (M&A) CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp.Hồ Chí Minh-Năm 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM --------

Lê Sỹ Tuấn

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP (M&A) CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - ngân hàng

Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS HOÀNG ĐỨC

Tp.Hồ Chí Minh-Năm 2011

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ và giúp

đỡ của người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Hoàng Đức. Các số liệu sử dụng

trong luận văn đều có nguồn gốc, trung thực và được phép công bố. Kết quả

nghiên cứu chưa được công bố tại bất kỳ công trình nào khác.

Tp.Hồ Chí Minh, năm 2011

Lê Sỹ Tuấn

2

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

: Máy rút tiền tự động 1. ATM

: Tỷ lệ an toàn vốn 2. CAR

: Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm 3. CAGR

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài 4. FDI

:Tổng sản phẩm quốc nội 5. GDP

: Hợp tác xã 6. HTX

: Quỹ tiền tệ quốc tế 7. IMF

: Merger and Acquisition: Sáp nhập và mua bán 8. M&A

:Ngân hàng 9. NH

: Ngân hàng nhà nước 10. NHNN

11. NPL :Nợ quá hạn

: Ngân hàng thương mại 12. NHTM

13. NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần

: Tỷ lệ sinh lời tài sản 14. ROA

: Quỹ tín dụng 15. QTD

16. QTDNDTƯ : Quỹ tín dụng nhân dân trung ương

17. QTDNDCS : Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở

: Tổ chức tín dụng 18. TCTD

: Đô la mỹ 19. USD

: Tổ chức thương mại thế giới 20. WTO

3

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

Bảng 1.1 :ROA và NPL của ngân hàng Hàn Quốc thời kỳ 1991-1997(đvt: %)

Bảng 1.2 :Nợ quá hạn của ngân hàng Hàn quốc từ 1998-2001(đvt: %)

Bảng 1.3 :Sở hữu nước ngoài trong các NH Hàn Quốc năm 1997&2003, (đvt:

%)

Bảng 1.4 :CARs của 24 ngân hàng Hàn Quốc cuối năm 1997

Bảng 1.5 :Số lượng ngân hàng sau khi M&A (tháng 1/1998 và tháng 10/2002)

Bảng 2.1 :Một số thương vụ M&A giữa ngân hàng nông thôn và ngân hàng

đô thị Việt Nam, giai đoạn 1999-2004

Bảng 2.2 :Các thương vụ mua cổ phần giữa nhà đầu tư nước ngoài và NHTM

CP Việt Nam

Bảng 2.3 :Một số thương vụ mua bán cổ phần giữa các ngân hàng Việt Nam

Bảng 2.4 : Số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam tính đến 31/12/2010

4

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng số liệu

Mục lục

Phần mở đầu

Các chương

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN ....................................................................... 12

1.1  Mua bán và sáp nhập (M&A) .................................................................. 12

1.1.1  Khái niệm về mua bán và sáp nhập ( M&A). ................................. 12

1.1.2  Phân loại mua bán và sáp nhập (M&A). ........................................ 15

1.1.3  Hình thức mua bán và sáp nhập ( M&A) NHTM. ......................... 16

1.2  Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A). ............................................................................................................... 16

1.3  Xu hướng tất yếu của hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) các NHTM tại Việt Nam. .......................................................................................... 18

1.3.1  Đáp ứng các quy định về vốn pháp định. ........................................ 18

1.3.2  Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế: .............................................. 20

1.3.3  Do yêu cầu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. ... 21

1.4  Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) NHTM .................................................................................................... 22

1.4.1  Đối với các NHTM. ............................................................................ 22

1.4.2  Đối với nền kinh tế:............................................................................ 23

1.4.3  Đối với khách hàng. ......................................................................... 24

1.5  Kinh nghiệm của Hàn Quốc về hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) các NHTM và bài học cho Việt Nam. ............................................. 25

1.5.1  Kinh nghiệm của Hàn Quốc về hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) các NHTM. ....................................................................................... 25

5

1.5.2  Bài học cho Việt Nam ...................................................................... 31

KẾT LUẬN CHƯƠNG I ................................................................................... 32

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP (M&A) CÁC NHTM Ở VIỆT NAM. ................................................... 33

2.1 Một số đặc điểm của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay. ................ 33

2.2 Những điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay. ............................................................................................................. 35

2.2.1 Những điểm mạnh. .............................................................................. 35

2.2.2 Những điểm yếu. .................................................................................. 37

2.3 Thực trạng hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) các NHTM tại Việt Nam. ............................................................................................................ 39

2.3.1  Diễn biến. .......................................................................................... 39

2.3.2  Những kết quả đạt được................................................................... 45

2.3.3  Những tồn tại .................................................................................... 46

2.3.4  Những nhân tố thúc đẩy và cản trở hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) các ngân hàng thương mại Việt Nam. .................................. 47

2.3.4.1 Những nhân tố thúc đẩy. ................................................................. 47

2.3.4.2 Những nhân tố cản trở. ................................................................... 51

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP (M&A) CÁC NHTM Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015. ......................................................................................................... 56

3.1 Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2015. ................. 56

3.2 Định hướng phát triển của hệ thống NH Việt Nam 2011- 2015 .............. 56

3.3 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) các NHTM Việt Nam đến 2015. .......................................................... 58

3.3.1 Nhóm giải pháp ở cấp vi mô. ..................................................................... 58

3.3.1.1 Đối với các NHTM phải mua bán và sáp nhập. ............................. 58

3.3.1.2 Đối với các cơ quan, đơn vị có liên quan. ..................................... 65

3.3.2 Nhóm giải pháp ở cấp vĩ mô mang tính chất kiến nghị ........................... 66

3.3.2.1 Đối với Quốc hội và Chính phủ ...................................................... 66

6

3.3.2.2 Đối với Ngân Hàng Nhà Nước ...................................................... 69

KẾT LUẬN CHƯƠNG III ................................................................................ 72

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 73

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 74

7

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm 90 của thế kỷ trước, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn

khá khép kín và bị chi phối bởi khu vực nhà nước. Bước sang thập niên đầu tiên

của thế kỷ 21, thị trường tài chính tiền tệ đã có bước tăng trưởng nhanh chóng

cùng với sự ra đời của thị trường chứng khoán và hàng loạt các ngân hàng

thương mại cổ phần tư nhân được thành lập. Mặc dù tăng nhanh về số lượng và

tổng tài sản, hệ thống ngân hàng vẫn chưa thực sự phát triển, một bộ phận ngân

hàng thương mại cổ phần là những ngân hàng quy mô nhỏ, quản trị rủi ro kém và

rất dễ bị tổn thương trước những cú sốc. Bên cạnh đó, hệ thống tài chính vẫn lấy

ngân hàng thương mại làm trung tâm, theo đó, tín dụng ngân hàng đóng vai trò

chủ chốt cung cấp vốn cho sự vận hành của nền kinh tế và gắn với khu vực

doanh nghiệp và các thị trường tài sản. Những đặc điểm này khiến hệ thống tài

chính – ngân hàng đang đối diện với một số rủi ro lớn như: Rủi ro thanh khoản;

rủi ro đạo đức đi kèm với rủi ro nợ xấu; rủi ro chéo với các thị trường tài sản….

Với những rủi ro trên hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay trở nên rất nhạy

cảm và dễ tổn thương trước những cú sốc vĩ mô bất lợi. Vì vậy, việc phát triển hệ

thống ngân hàng lành mạnh thông qua tạo môi trường thông tin minh bạch và cơ

chế thanh lọc những ngân hàng yếu kém, cương quyết xử lý những ngân hàng vi

phạm pháp luật, giảm thiểu rủi ro thông qua cơ chế giám sát an toàn hệ thống

ngân hàng và cảnh báo sớm có hiệu quả… nhằm xây dựng một hệ thống bền

vững và an toàn là nền tảng cơ bản về ổn định kinh tế vĩ mô…

Tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa XIII vừa qua, có không ít ý kiến đề

xuất Chính phủ rà soát toàn bộ hệ thống ngân hàng, giải thể những ngân hàng

yếu kém. Bởi lẽ, đây chính là tác nhân gây bất ổn và rủi ro cho toàn hệ thống. Có

đại biểu còn cho rằng, cần có những biện pháp mạnh đối với các NHTM. Các

8

ngân hàng này đua nhau tăng lãi suất huy động, đã tạo ra sự khan hiếm tiền mặt,

kìm hãm phát triển sản xuất….

Trong cuộc họp mới đây với lãnh đạo một số bộ, ngành trung ương và các

chuyên gia về kinh tế ngày 20/08/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng

định nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ từ nay đến cuối năm là tiếp tục thực hiện

quyết liệt, có hiệu quả Nghị quyết 11 về tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định

kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội gắn với đó là tái cấu trúc nền kinh tế.

Trước mắt, Chính phủ tập trung tái cấu trúc: Đầu tư công gắn với nợ công, doanh

nghiệp Nhà nước, hệ thống ngân hàng, thể chế (tài chính công, phân cấp, quy

hoạch), trong đó tiếp tục phân cấp mạnh mẽ tạo năng động sáng tạo của các địa

phương đồng thời phải đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước vĩ mô…

Theo thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Văn Bình: “Qua quá trình khủng

hoảng, chúng ta thấy được vai trò to lớn của chính sách tiền tệ và tài khóa, đã

góp phần giúp Chính phủ Việt Nam vượt qua được khủng hoảng. Tuy nhiên,

đứng trên bình diện quốc tế và từng nước, nếu không có cải cách hệ thống tài

chính và ngân hàng thì đó cũng là nguyên nhân gây ra những cuộc khủng hoảng

tiếp theo. Đây là việc thường xuyên phải tiến hành nhưng đặc biệt là phải tiến

hành mạnh mẽ ngay sau khủng hoảng. Việt Nam cần nhanh chóng củng cố lại vị

trí của ngân sách, giảm thâm hụt ngân sách để đảm bảo ổn định ngân sách giúp

cho quá trình tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống ngân hàng trong

nước cũng có những nét đặc thù hơn so với những nước trong khu vực do thị

trường vốn và chứng khoán chưa phát triển. Do vậy, ở chừng mực nào đấy các

chức năng đó do hệ thống ngân hàng đảm nhiệm. Trong hệ thống tài chính, hệ

thống ngân hàng Việt Nam chiếm tới 70%, đây là con số lớn, nên việc củng cố

khu vực ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng. Cần tái cấu trúc hệ thống ngân

hàng để làm trụ cột cho nền kinh tế trong thời gian tới”.

9

Tại lễ bế mạc hội nghị Trung ương 3 khóa XI ban chấp hành Trung ương

đảng, bài phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho thấy: ba lĩnh

lực tái cấu trúc then chốt, đó là: Tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công;

Cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

thương mại và các tổ chức tài chính; Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà

trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước. Trong đó cấu trúc

lại hệ thống NHTM theo hướng sáp nhập, hợp nhất các đơn vị nhỏ lẽ để có số

lượng các NHTM phù hợp, có quy mô, uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm

tính thanh khoản và an toàn hệ thống.

Như vậy, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại hiện đang được xem là

một nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Có nhiều giải pháp để cơ cấu lại hệ thống ngân

hàng, trong đó hoạt động mua bán sáp nhập (M&A) là một trong những giải pháp

quan trọng hiện nay. Hơn nữa giải pháp này được các nước trên thế giới thường

hay áp dụng. Cụ thể như Hàn Quốc, để cơ cấu lại hệ thống ngân hàng một trong

những giải pháp của Chính phủ Hàn Quốc lúc bấy giờ là chủ động thực hiện

M&A các ngân hàng yếu kém. Hiện hoạt động M&A các ngân hàng tại Việt Nam

tuy chưa theo thông lệ quốc tế, nhưng đã xuất hiện dưới các hình thức mua cổ

phần vốn góp để trở thành cổ đông lớn, cổ đông chiến lược. Với mong muốn tái

cấu trúc hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân

hàng thương mại tại Việt Nam, đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động

mua bán và sáp nhập (M&A) các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay” đã

được ra đời.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài tập trung làm rõ các vấn đề sau:

Thứ nhất: Tập trung làm rõ các khái niệm học thuật về hoạt động M&A,

phân loại M&A, các hình thức thực hiện. Đưa ra các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả

hoạt động M&A. Làm rõ xu hướng tất yếu của hoạt động M&A ngân hàng. Nêu

10

lên ý nghĩa của hoạt động M&A ngân hàng đối với nền kinh tế, hệ thống ngân

hàng và khách hàng, đồng thời xem xét trường hợp M&A các ngân hàng của

Hàn Quốc để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Thứ hai: Tìm hiểu, phân tích đánh giá thực trạng hoạt động M&A ngân hàng

để thấy những vấn đề được và chưa được, tìm ra nguyên nhân thúc đẩy và cản

trở hoạt động M&A các ngân hàng.

Thứ ba: xác định bối cảnh kinh tế, xu hướng phát triển của hệ thống NHTM

Việt Nam, đề xuất các nhóm giải pháp thúc đẩy hoạt động M&A các ngân hàng

thương mại Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động M&A ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động M&A các

ngân hàng thương mại Việt Nam, qua đó chỉ rõ bản chất, đặc điểm, cũng như

những khó khăn, thuận lợi để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt

động M&A các ngân hàng. Luận văn không đi vào vấn đề như: định giá ngân

hàng, quá trình đàm phán, tìm kiếm đối tác….

4. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp phương pháp thống kê, so

sánh, phân tích, tổng hợp… để làm rõ vấn đề nghiên cứu

Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu được thu thập từ báo cáo thường niên,

báo chí, internet, tạp chí…

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng số, danh mục

 Chương 1: Cơ sở lý luận.

 Chương 2: Thực trạng về hoạt động mua bán và sáp nhập ( M&A) các

tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày theo kết cấu ba chương:

NHTM ở Việt Nam.

11

 Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động mua bán và sáp

 Phần kết luận.

nhập (M&A)các NHTM ở Việt Nam đến năm 2015.

12

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 Mua bán và sáp nhập (M&A)

1.1.1 Khái niệm về mua bán và sáp nhập ( M&A).

Theo thuật ngữ tài chính thì Merger (sáp nhập) xảy ra khi hai công ty

(thường là các công ty có cùng quy mô) đồng ý tiến tới thành lập một công ty

mới mà không duy trì sở hữu và hoạt động của các công ty thành phần. Còn

Acquisition (Mua lại hay thâu tóm) là hoạt động thông qua đó các công ty tìm

kiếm lợi nhuận kinh tế nhờ quy mô, hiệu quả và khả năng chiếm lĩnh thị trường.

Khác với sáp nhập, các công ty thâu tóm sẽ mua công ty mục tiêu, không có sự

thay đổi về chứng khoán hoặc sự hợp nhất thành công ty mới.

Từ góc độ kinh tế: hoạt động M&A được hiểu như hoạt động tập trung kinh

tế gắn với quá trình mà số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị

trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập, mua lại. Bản chất của M&A

như hoạt động tập trung kinh tế là tăng thêm tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại

hoặc một tư bản này thu hút một tư bản khác.

Từ góc độ pháp lý: hoạt động M&A ở nghĩa kinh tế được xem xét dưới nhiều

góc độ: như một trong các hành vi tập trung kinh tế được điều chỉnh bởi pháp

luật cạnh tranh, như một trong những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp được

điều chỉnh theo pháp luật về doanh nghiệp và như một trong những hình thức

đầu tư trực tiếp được điều chỉnh theo pháp luật về đầu tư. Liên quan đến việc sáp

nhập, mua lại cổ phần của công ty đại chúng, công ty đã niêm yết trên sàn giao

dịch chứng khoán, hoạt động M&A còn được điều chỉnh bởi pháp luật về chứng

 Điều 16, 17 luật cạnh tranh thì các hình thức tập trung kinh tế bao gồm:

khoán, cụ thể như:

sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên

doanh và các hình thức khác, cụ thể:

13

+ Sáp nhập doanh nghiệp: là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển

toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một

doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp

+ Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn

nhập.

bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành

một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh

+ Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một

nghiệp bị hợp nhất.

phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc

 Khoản 5; 6 điều 21 luật đầu tư thừa nhận một số hoạt động M&A như là

một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.

hoạt động đầu tư trực tiếp, điều 25 quy định quyền đối với nhà đầu tư thực hiện

M&A, điều 26 tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện M&A thông qua các

 Điều 152, 153, 145 luật doanh nghiệp: quy định về hợp nhất doanh nghiệp,

giao dịch trên sàn chứng khoán.

+ Hợp nhất doanh nghiệp: Hai hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là

sáp nhập doanh nghiệp và bán doanh nghiệp, cụ thể:

công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi là

công ty hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi

ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các

+ Sáp nhập doanh nghiệp: Một hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là

công ty bị hợp nhất.

công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là

công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ

và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn

tại của công ty bị sáp nhập.

14

+ Bán doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp

của mình cho người khác. Chậm nhất mười lăm ngày trước ngày chuyển

giao doanh nghiệp cho người mua, chủ doanh nghiệp phải thông báo bằng

văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Thông báo phải nêu rõ tên, trụ

sở của doanh nghiệp; tên, địa chỉ của người mua; tổng số nợ chưa thanh

toán của doanh nghiệp; tên, địa chỉ, số nợ và thời hạn thanh toán cho từng

chủ nợ; hợp đồng lao động và các hợp đồng khác đã ký mà chưa thực hiện

xong và cách thức giải quyết các hợp đồng đó.

Như vậy, có thể thấy, thuật ngữ “sáp nhập” mergers theo nghĩa kinh tế bao

hàm chung cả “sáp nhập” và “hợp nhất” nhưng tiếp cận từ gốc độ pháp lý thì

 Khái niệm về M&A ngân hàng được quy định trong thông tư số

được phân biệt rất rõ ràng.

04/2010/TT-NHNN ngày 11 tháng 02 năm 2010 Quy định việc sáp nhập, hợp

+ Sáp nhập tổ chức tín dụng là hình thức một hoặc một số tổ chức tín dụng

nhất, mua lại tổ chức tín dụng, cụ thể như sau:

(sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ chức tín

dụng khác (sau đây gọi là tổ chức tín dụng nhận sáp nhập) bằng cách

chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín

dụng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của tổ chức tín dụng bị

+ Hợp nhất tổ chức tín dụng là hình thức hai hoặc một số tổ chức tín dụng

sáp nhập

(sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị hợp nhất) hợp nhất thành một tổ chức

tín dụng mới (sau đây gọi là tổ chức tín dụng hợp nhất) bằng cách chuyển

toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ chức tín dụng

hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín dụng bị hợp

nhất.

15

+ Mua lại tổ chức tín dụng là hình thức một tổ chức tín dụng (sau đây gọi là

tổ chức tín dụng mua lại) mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích

hợp pháp của tổ chức tín dụng khác (tổ chức tín dụng bị mua lại). Sau khi

mua lại, tổ chức tín dụng bị mua lại trở thành công ty trực thuộc của tổ

chức tín dụng mua lại.

1.1.2 Phân loại mua bán và sáp nhập (M&A).

Dự vào mối liên hệ giữa các bên liên quan, hoạt động M&A có thể được

phân loại theo 3 nhóm.

M&A theo chiều ngang: Hoạt động M&A theo chiều ngang là sự kết hợp

giữa hai doanh nghiệp cùng kinh doanh và cùng cạnh tranh trực tiếp, chia sẻ

cùng dòng sản phẩm, cùng thị trường. Kết quả từ việc M&A theo hình thức này

sẽ mang lại cho bên sáp nhập cơ hội mở rộng thị trường, tăng hiệu quả trong việc

kết hợp thương hiệu, giảm chi phí cố định, tăng cường hiệu quả hệ thống phân

phối….Rõ ràng, khi hai đối thủ cạnh tranh trên thương trường kết hợp với nhau,

dù sáp nhập hay thâu tóm, họ không những giảm bớt cho nhau một đối thủ, mà

còn tạo nên một sức mạnh lớn hơn để đương đầu với các đối thủ còn lại.

M&A theo chiều dọc: Hoạt động M&A theo chiều dọc là sự kết hợp giữa hai

doanh nghiệp nằm trên cùng một chuỗi cung ứng, dẫn tới sự mở rộng về phía

trước hoặc phía sau của doanh nghiệp trên chuỗi giá trị đó. Hình thức M&A này

được chia làm hai nhóm nhỏ, gồm M&A tiến và lùi. Trong đó M&A tiến là

trường hợp doanh nghiệp mua lại doanh nghiệp là khách hàng của mình, ví dụ

doanh nghiệp giày dép mua lại cửa hàng bán lẻ giày dép. M&A lùi là trường hợp

doanh nghiệp mua lại nhà cung cấp của mình, ví dụ: doanh nghiệp sản phẩm

đông lạnh mua lại doanh nghiệp bao bì, đóng gói. M&A theo chiều dọc đem lại

cho doanh nghiệp tiến hành M&A lợi thế về đảm bảo và kiểm soát chất lượng

nguồn hàng hoặc đầu ra của sản phẩm, giảm chi phí trung gian, khống chế nguồn

hàng hoặc đầu ra của đối thủ cạnh tranh.

16

M&A tổ hợp: được chia thành 3 nhóm, gồm: M&A tổ hợp thuần túy là khi

hai doanh nghiệp không có mối quan hệ nào với nhau, như một công ty gỗ mua

một công ty thời trang. M&A tổ hợp bành trướng về địa lý là khi hai doanh

nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm nhưng tiêu thụ trên hai thị trường hoàn

toàn cách biệt về mặt địa lý, như công ty bia ở Hà Nội mua công ty bia tại

Tp.HCM. M&A đa dạng hóa sản phẩm khi hai doanh nghiệp sản xuất hai loại

hàng hóa khác nhau nhưng cùng ứng dụng một công nghệ sản xuất hoặc tiếp thị

gần giống nhau, như doanh nghiệp bột giặt mua doanh nghiệp sản xuất thuốc tẩy

vệ sinh.

1.1.3 Hình thức mua bán và sáp nhập ( M&A) NHTM.

Các hình thức M&A của các NHTM gồm:

Góp vốn trực tiếp vào ngân hàng thông qua việc góp vốn để tăng vốn điều lệ

hoặc mua cổ phần phát hành để tăng vốn điều lệ của ngân hàng.

Mua lại phần vốn góp hoặc cổ phần đã phát hành của thành viên hoặc cổ

đông của ngân hàng. Không giống như hình thức góp vốn trực tiếp vào vào ngân

hàng, đây là hình thức đầu tư không làm tăng vốn điều lệ của ngân hàng nhưng

có thể làm thay đổi cơ cấu sở hữu vốn góp/cổ phần của ngân hàng.

Ngân hàng, công ty tài chính, tổ chức tín dụng hợp tác sáp nhập vào một

ngân hàng.

Ngân hàng được hợp nhất với ngân hàng, công ty tài chính, tổ chức tín dụng

hợp tác để thành một ngân hàng.

1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động mua bán và sáp nhập

(M&A).

Để đánh giá hiệu quả hoạt động M&A cần sử dụng các báo cáo tài chính,

các báo cáo hàng năm của các ngân hàng những năm trước và sau khi thực

hiện M&A. Thông qua tính toán các nhóm chỉ tiêu như: chỉ tiêu lợi nhuận,

chỉ tiêu hiệu quả, chỉ tiêu hoạt động, chỉ tiêu thanh khoản, chi tiêu khả năng

17

thanh toán của những năm trước và sau hoạt động M&A. Trên cơ sở đó so

sánh các nhóm chỉ tiêu đã được tính toán để đánh giá hiệu quả hoạt động

M&A.

Dưới đây là các nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động hoạt động

M&A.

 Thứ nhất: Nhóm chỉ tiêu sinh lời - Tỷ lệ sinh lời vốn chủ (ROE), công thức tính: ROE = lợi nhuận sau

thuế/vốn chủ sở hữu bình quân

- Tỷ lệ sinh lời tài sản(ROA), công thức tính: ROA= lợi nhuận sau thuế/tổng

tài sản bình quân.

- Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản cộng với các khoản mục ngoại bảng, công

thức tính: = lợin huận sau thuế/tổng giá trị tài sản và các khoản mục ngoại

bảng bình quân.

- Hệ số biên lợi nhuận ròng (NPM), công thức tính: NPM = lợi nhuận sau

thuế/tổng doanh thu.

- Tỷ lệ lãi biên (NIM), công thức tính: NIM= doanh thu ròng từ lãi/tổng tài

sản có sinh lợi bình quân.

 Thứ hai: Nhóm chỉ tiêu hiệu quả - Tổng tài sản/tổng số lao động, công thức tính: = Tổng tài sản/tổng số lao

động.

- Lợi nhuận sau thuế/tổng số lao động, công thức tính: = Lợi nhuận sau

thuế/tổng số lao động.

- Tổng doanh thu/tổng dư nợ, công thức tính: = Tổng doanh thu/tổng dư nợ.

- Tỷ lệ phần trăm thay đổi tổng tài sản hàng năm, công thức tính: =(tổng tài

sản cuối kỳ-tổng tài sản đầu kỳ)/tổng tài sản đầu kỳ.

18

 Thứ ba: Nhóm chỉ tiêu hoạt động - Hiệu quả hoạt động tổng quát, công thức tính: = Tổng chi phí hoạt

động/tổng doanh thu hoạt động.

- Tổng doanh thu/chi phí quản lý và nhân viên, công thức tính: = Tổng

doanh thu/chi phí quản lý và nhân viên.

- Tổng chi phí/ chi phí quản lý và nhân viên, công thứ tính: = Tổng chi phí/

chi phí quản lý và nhân viên.

- Tổng chi phí/tổng tài sản, công thức tính: = Tổng chi phí/tổng tài sản.

- Tổng chi phí trả lãi/tổng tài sản, công thức tính: = Tổng chi phí trả lãi/tổng

tài sản.

- Tổng chi phí trừ chi phí trả lãi/tổng tài sản, công thức tính: = Tổng chi phí

trừ chi phí trả lãi/tổng tài sản.

 Thứ tư: Nhóm chỉ tiêu thanh khoản - Tổng cho vay/tổng tiền gửi, công thức tính: = Tổng cho vay/tổng tiền gửi.

- Tổng cho vay/tổng tài sản, công thức tính: = Tổng cho vay/tổng tài sản.

- Tỷ lệ tiền mặt cộng dự trữ cộng chứng khoán/tổng tài sản, công thức tính:

= Tiền mặt cộng dự trữ cộng chứng khoán/tổng tài sản.

 Thứ năm: Nhóm chỉ tiêu thanh toán - Tổng vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, công thức tính: = Tổng vốn chủ sở

hữu/tổng tài sản

1.3 Xu hướng tất yếu của hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) các

NHTM tại Việt Nam.

1.3.1 Đáp ứng các quy định về vốn pháp định.

Là một ngành đặc thù có ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế nên ngành ngân

hàng hoạt động dưới sự quản lý, giám sát chặt chẽ và thực hiện nghiêm ngặt các

quy định của nhà nước, trong đó có quy định về vốn pháp định.

Theo nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về việc ban

hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng thì các NHTMCP

19

phải đáp ứng mức vốn pháp định là 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và 3.000 tỷ

đồng vào năm 2010. Trong tiến trình cải cách và hoàn thiện hệ thống ngân hàng,

nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày

càng sâu, hàng rào bảo hộ trong hoạt động tài chính ngân hàng đã bị dở bỏ. Việc

tăng cường độ an toàn và bền vững trong hoạt động thì vốn điều lệ có vai trò

quan trọng không những đối với việc chống đỡ rủi ro mà còn đối với việc mở

rộng hoạt động kinh doanh. Do đó việc tăng vốn điều lệ là cần thiết nhằm nâng

cao năng lực tài chính là điều tất yếu.

Tuy nhiên trong vài năm qua nền kinh tế Việt Nam đã gặp những thách thức

lớn, không chỉ đối mặt với những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới, mà còn

phải đương đầu với những khó khăn nội tại như: lạm phát tăng mạnh, thâm hụt

cán cân thương mại lớn, năm 2008 là 14% của GDP, đây là mức cao kỷ lục trong

hơn 20 năm đổi mới. Thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm. Hệ thống ngân

hàng phải thích nghi với việc thay đổi chính sách lãi suất, tỷ giá của Nhà nước

nhằm kiềm chế lạm phát và đối phó với suy thoái kinh tế....Do đó yêu cầu tăng

vốn điều lệ đối với các ngân hàng có bề dầy hoạt động, vốn lớn thì yêu cầu nay

không quá khó khăn, nhưng đối với ngân hàng nhỏ thì đây thực sự là thách thức

lớn không dễ gì vượt qua, nhất là trong giai đoạn thị trường chứng khoán kém hấp

dẫn, các đợt phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng, phát hành bổ sung

tăng vốn...không hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư. Do đó để nâng cao

năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam, một trong các giải pháp được

đưa ra như: một là kêu gọi các nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước góp vốn

mua cổ phần để trở thành cổ đông chiến lược. Hai là cho phép sáp nhập, hợp nhất,

mua lại các ngân hàng nói chung, nhất là các ngân hàng nhỏ để tạo sức cạnh tranh,

gia tăng thị phần, qua đó hình thành ngân hàng lớn, thậm chí là các tập đoàn tài

chính ngân hàng Việt Nam đủ sức cạnh tranh trong nước và khu vực.

20

1.3.2 Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế:

Hiện này là xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã hội

nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới, ngành ngân hàng cũng không nằm

ngoài xu hướng trên, thậm chí còn là ngành tiên phong. Quá trình toàn cầu hóa

đã dẫn đến số lượng các ngân hàng nước ngoài tăng lên, đặc biệt theo cam kết

gia nhập WTO, Việt Nam đã chính thức tiến đến mức thực hiện đối xử quốc gia

giữa các ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài kể từ ngày 01 tháng 01 năm

2011, trong khi các tổ chức tài chính Việt Nam còn nhiều yếu kém, trình độ

chuyên môn và trình độ quản lý còn bất cập, hiệu quả hoạt động và sức cạnh

tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém. Vì thế, các

NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng và hệ

thống kênh phân phối. Do mức độ cạnh tranh tăng cao, sẽ làm giảm lợi nhuận

của ngân hàng.

Theo cuộc điều tra được thực hiện bởi nhóm tư vấn làm việc trong chương

trình phát triển Liên hợp quốc nhằm tìm hiểu về sở thích, quan điểm của khách

hàng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng và phản ứng của khách hàng khi có nhiều

lựa chọn hơn nhờ tự do hóa trong lĩnh vực ngân hàng, trong điều kiện các ngân

hàng nước ngoài được đối xử bình đẳng với ngân hàng trong nước. Thì có tới

45% khách hàng được hỏi gồm cả doanh nghiệp và cá nhân sẽ chuyển sang vay

vốn tại ngân hàng nước ngoài, nếu chọn sử dụng dịch vụ thì gần một nửa số

được hỏi sẽ chuyển sang sử dụng dịch vụ của ngân hàng nước ngoài, nếu được

lựa chọn gửi tiền thì hơn một nửa có ý định gửi tiền vào ngân hàng nước ngoài,

đặc biệt là tiền gửi bằng ngoại tệ. Rõ ràng trong một môi trường cạnh tranh như

vậy thì chỉ có các ngân hàng hoạt động có hiệu quả cao thì mới có thể tồn tại

trong dài hạn và hoạt động M&A là hệ quả tất yếu để tồn tại.

Mặt khác khi các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam họ thường chọn hoạt

động M&A để tiếp cận thị trường với các lý do như sau: Thứ nhất, việc thành lập

21

ngân hàng liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài còn gặp rất nhiều khó khăn về

thủ tục pháp lý, quy định vốn điều lệ tối thiểu, chứng minh tài sản và tiềm lực tài

chính. Thứ hai, ngay cả khi đã thành lập được các chi nhánh ngân hàng 100%

vốn nước ngoài, mặc dù được đánh giá là những tổ chức làm việc chuyên nghiệp,

nhưng các ngân hàng này chưa thực sự am hiểu tường tận thị trường nội địa, rất

khó khăn trong việc tiếp cận khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân. Thứ ba,

việc mở rộng mạng lưới chi nhánh cũng không dễ dàng để có thể nhanh chóng

chiếm được thị phần vốn là thế mạnh của các ngân hàng nội địa.

1.3.3 Do yêu cầu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế.

Một nội dung mới rất quan trọng được Hội nghị Trung ương Đảng khóa XI

xem xét và quyết định là phải tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình

tăng trưởng. Cũng theo Hội nghị trong năm năm tới, cần tập trung vào 3 lĩnh vực

quan trọng nhất: Tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị

trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và

các tổ chức tài chính; tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập

đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Trong đó để cơ cấu lại thị trường tài

chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức

tài chính, cần đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị

trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị

trường vàng và ngoại tệ, khắc phục tình trạng đô la hoá; kiểm soát chặt chẽ nợ

công, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước, vay trả nợ nước ngoài, các nguồn vốn

đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, thị trường chứng

khoán và các nguồn vốn nóng khác; từng bước giảm tỉ lệ cung cấp vốn cho đầu

tư phát triển từ hệ thống ngân hàng thương mại; nâng cao chất lượng các hoạt

động dịch vụ ngân hàng. Cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ

chức tài chính theo hướng sát nhập, hợp nhất các ngân hàng thương mại, các tổ

chức tài chính nhỏ để có số lượng phù hợp các ngân hàng thương mại và tổ chức

22

tài chính có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản

và an toàn hệ thống.

1.4 Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả hoạt động mua bán và sáp nhập

(M&A) NHTM.

1.4.1 Đối với các NHTM.

Hoạt động M&A mang lại các lợi ích sau cho các NHTM như:

Tăng hiệu quả hoạt động: Hoạt động M&A sẽ tăng hiệu quả hoạt động của

ngân hàng, khi thực hiện hoạt động M&A sẽ có nhiều biện pháp để giảm hoặc

hạn chế các bộ phận giống nhau hoặc các chức năng chồng chéo nhau, kém hiệu

quả. Việc giảm thiểu vị trí công việc, tinh giảm nhân sự cũng đồng thời với việc

đòi hỏi tăng năng suất lao động. Thêm vào đó, thông qua việc hoạt động M&A

ngân hàng có thể tận dụng công nghệ của nhau để tạo lợi thế cạnh tranh, nâng

cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ: Thông qua hoạt động M&A các ngân hàng

có thể kết hợp các sản phẩm, dịch vụ bổ sung nhằm mục đích đa dạng hoá các

sản phẩm và dịch vụ của mình.

Thâm nhập thị trường: Đây chủ yếu là lợi ích của các ngân hàng nước ngoài

khi muốn vào thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Thay vì thành lập ngân hàng

mới với chi phí thành lập, chi phí cơ hội cao do mất thời gian xây dựng hệ thống,

triển khai mạng lưới, có thể thực hiện chiến lược mua lại một ngân hàng trong

nước với hệ thống, con người sẵn có để đạt được mục tiêu. Đặc biệt, ở những thị

trường có sự điều tiết mạnh của Chính phủ, việc gia nhập thị trường đòi hỏi ngân

hàng phải đáp ứng nhiều điều kiện khắt khe, hoặc chỉ thuận lợi trong một giai

đoạn nhất định, thì những ngân hàng đến sau chỉ có thể gia nhập thị trường đó

thông qua thâu tóm những ngân hàng đã hoạt động trên thị trường. Như theo cam

kết của Việt Nam với WTO, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được lập ngân hàng con

100% từ tháng 4 năm 2007, lập chi nhánh nhưng không được lập chi nhánh phụ,

23

không được huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ người Việt Nam trong 5

năm. Vì vậy, nhiều ngân hàng nước ngoài, đã sử dụng chiến lược M&A.

Mở rộng thị phần và danh tiếng trong ngành: Khi thực hiện hoạt động M&A

các ngân hàng sẽ mở rộng thị trường, tăng thị phần, mở rộng các kênh marketing,

tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận. Bên cạnh đó, vị thế của ngân hàng mới sau

khi sáp nhập sẽ tăng lên trong mắt các nhà đầu tư, đặc biệt thuận lợi cho ngân

hàng nhỏ khi cần kêu gọi góp vốn đầu tư. Các nhà quản trị thực hiện các vụ mua

lại như một cách thức để gia tăng, mở rộng thị trường. Việc tăng cường áp dụng

các quy trình tối ưu trong các bộ phận khác nhau đã làm cho một tổ chức của ngân

hàng trở nên mạnh hơn và được thị trường đánh giá cao. Chiến lược “tập đoàn

hóa” của nhiều doanh nghiệp là động lực cho việc đi thâu tóm lại các doanh

nghiệp khác.

Hoạt động M&A ngân hàng khi có sự tham gia của ngân hàng nước ngoài thì

các hoạt động của ngân hàng trong nước sẽ được cải thiện tốt hơn.

Ngoài ra, hoạt động M&A còn giúp ngân hàng tiếp cận và có được một đội

ngũ nhân viên cùng với những bản quyền, sáng chế của các ngân hàng khác.

Giảm bớt đối thủ cạnh tranh trên thị trường: chắc chắn số lượng tham gia thị

trường sẽ giảm đi khi có một vụ sáp nhập vốn là đối thủ của nhau trên thương

trường.

1.4.2 Đối với nền kinh tế:

Hoạt động M&A ngân hàng với hình thức tập trung tư bản làm tăng cường

sức mạnh tài chính, quy mô hoạt động lớn hơn…, hình thành các tập đoàn tài

chính ngân hàng, góp phần làm cho hệ thống ngân hàng phát triển vững mạnh và

hiệu quả, có thể cạnh tranh trên thị trường khu vực và toàn cầu. Hơn nữa với một

vị trí quan trọng có thể nói là bậc nhất trong hệ thống tài chính của Việt Nam

hiện nay, sự lành mạnh và hiệu quả của hệ thống ngân hàng có vai trò to lớn

trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.

24

Hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam làm giảm nguy cơ Nhà nước phải

bỏ tiền ra để xử lý các ngân hàng yếu kém. Trước đây mỗi khi một tổ chức tín

dụng gặp khó khăn, Nhà nước phải bỏ tiền ra cho vay ưu đãi, thông thường với

lãi suất tượng trưng để họ trả cho người gửi tiền. Khoản vay đó lên tới hàng trăm

tỉ đồng và 4-5 năm sau vẫn chưa thu hồi hết được, như trường hợp của Ngân

hàng Việt Hoa đến này NHNN vẫn chưa xử lý xong. Đó là chưa kể ngân hàng

Nhà nước phải liên tục hỗ trợ họ cả về cơ chế và vốn để giải quyết nợ xấu. Khi

cho các ngân hàng hoạt động M&A thì khoản hỗ trợ đó Nhà nước sẽ không phải

gánh hoặc nếu có, thì chỉ là một phần nhỏ.

Hoạt động M&A ngân hàng sẽ thu hút các tổ chức tài chính- ngân hàng nước

ngoài tham gia, điều này đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu

tư nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài tăng lên sẽ trực tiếp khuyến khích tăng

trưởng kinh tế. Mặt khác các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ giúp tăng

hiệu quả và mức độ cạnh tranh của các ngân hàng trong nước, tiến tới có một hệ

thống NH đa năng thực hiện các chức năng của NH trong nền kinh tế, góp phần thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế.

1.4.3 Đối với khách hàng.

Hoạt động M&A giúp các ngân hàng tăng cường tiềm lực tài chính, đa dạng

hóa sản phẩm, đổi mới công nghệ..., tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng

tiện ích. Mặt khác hoạt động M&A ngân hàng làm gia tăng cạnh tranh từ đó sẽ

tạo ra các sản phẩm dịch vụ ngân hàng có mức giá hợp lý, chất lượng cao cho

khách hàng. Khách hàng của ngân hàng sẽ đón nhận được các sản phẩm, dịch vụ

tốt của ngân hàng cung cấp, từ đó tạo nên sự ngắn kết giữa khách hàng và ngân

hàng trong quá trình phát triển, thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng và của

khách hàng.

25

1.5 Kinh nghiệm của Hàn Quốc về hoạt động mua bán và sáp nhập

(M&A) các NHTM và bài học cho Việt Nam.

1.5.1 Kinh nghiệm của Hàn Quốc về hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A)

các NHTM.

Hàn Quốc bắt đầu cải cách kinh tề từ những năm 1960, bằng các chính sách

công nghiệp, các chính sách này đã giúp nền kinh tế của Hàn Quốc có tỷ lệ tăng

trưởng cao hơn 30 năm. Tăng trưởng kinh tế cao được duy trì chủ yếu dựa vào

hệ thống tài chính định hướng ngân hàng để phát triển các ngành công nghiệp

của đất nước. Chính phủ có quyền can thiệp vào các hoạt động ngân hàng bằng

cách phân bổ vốn cho các tập đoàn mà Chính phủ ủng hộ, mặc dù các tập đoàn

này có tỷ lệ sinh lợi thấp, thậm chí còn âm. Ngành ngân hàng đã không phát triển

tốt bởi vì sự thiếu minh bạch và các nguyên tắc thị trường bị lờ đi trong thời kỳ

cải cách kinh tế.

Thời kỳ từ năm 1960 đến giữa những năm 1990 Chính phủ Hàn Quốc tập

trung xây dựng các ngành công nghiệp nặng và được xem như là chiến lược tăng

trưởng. Năm ngành công nghiệp chính gồm: ngành đóng tàu, bán dẫn, sắt, ô tô

và hóa dầu. Kết quả là hơn 30 tập đoàn được ra đời và chiếm tới hơn 75% hoạt

động kinh tế của Hàn Quốc. Đã có nhiều mối quan hệ thân thiết bên trong giữa

các ngân hàng, tập đoàn và Chính phủ. Nói cách khác, hầu như các tập đoàn đều

được ủng hộ để nhận các khoản vay từ các ngân hàng nhà nước. Chính phủ Hàn

Quốc ủng hộ các tập đoàn này là vì Chính phủ tin rằng đầu tư lớn là cần thiết để

đạt được quy mô kinh tế lớn. Trong kế hoạch cải cách ngành tài chính 1993-

1997, Chính phủ Hàn Quốc đã trao nhiều quyền hơn cho các ngân hàng nhà nước

đưa ra các mức lãi suất và phân bổ các khoản vay. Theo kế hoạch trên thì Chính

phủ ủng hộ các tập đoàn được vay với lãi suất thấp. Một vài ngân hàng cho vay

tới 45% vốn của một tập đoàn trong khi giới hạn quy định là 15-25%. Thậm chí

một số ngân hàng còn cho vay lên đến 300% vốn của một tập đoàn. Vì vậy các

26

tập đoàn luôn thừa vốn cho hoạt động kinh doanh, nhưng không may là các tập

đoàn này thiếu sự minh bạch trong việc sử dụng vốn, các tập đoàn đã không có

lợi nhuận trong những năm 1990. Hơn nữa, đầu tư không hiệu quả, các tập đoàn

làm giảm hiệu quả và sự linh hoạt của nền kinh tế. Các khoản vay không hiệu

quả đã dẫn đến nợ quá hạn của các ngân hàng nhà nước tăng mạnh, nhưng Chính

phủ luôn xóa nợ cho các ngân hàng này vì Chính phủ lo sợ các khoản lỗ sẽ đe

dọa tính ổn định của hệ thống tài chính của Hàn Quốc. Để tránh các tập đoàn phá

sản, Chính phủ trực tiếp chỉ đạo các ngân hàng nhà nước cung cấp các khoản vay

cứu trợ. Ngân hàng trung ương cung cấp các khoản vay tái chiết khấu cho các

ngân hàng nhà nước. Dưới sự bảo hộ của Chính phủ và sự thiếu quy định thận

trọng, các ngân hàng nhà nước cho vay các tập đoàn tiếp tục tăng và tăng 17%

hàng năm từ năm 1990-1996, cao hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP danh nghĩa của Hàn

Quốc. Điều này tạo ra rủi ro lớn và đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính. Khi

nền kinh tế chậm tăng trưởng, vài tập đoàn đi đến phá sản năm 1997, Chính phủ

Hàn Quốc đã lâm vào hoàn cảnh bế tắc nghiêm trọng, giữ năm 1997 mười trong

số hai mươi sáu ngân hàng nhà nước thua lỗ. Cuối tháng mười năm 1997 tỷ lệ nợ

quá hạn của các ngân hàng nhà nước là 51%. Đầu tháng 11 năm 1997 khủng

hoảng tài chính nổ ra Chính phủ Hàn Quốc quyết định cải cách hệ thống ngân

hàng. Các biện pháp được Chính phủ Hàn Quốc sử dụng đó là: Xử lý nợ xấu và

phân bổ lại nguồn vốn bằng cách Chính phủ cung cấp thêm vốn vào hệ thống

ngân hàng, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng bằng cách tăng vốn FDI trong hệ

 Xử lý nợ xấu và phân bổ lại nguồn vốn: Hệ thống ngân hàng Hàn Quốc đã

thống ngân hàng và chủ động M&A, cụ thể:

cho các tập đoàn vay với số lượng vốn lớn trong khi các tập đoàn này sử dụng

không hiệu quả, và tất nhiên là các tập đoàn này sẽ không trả được nợ, nợ xấu

của hệ thống ngân hàng Hàn Quốc gia tăng, cụ thể như sau:

27

Bảng 1.1: ROA và NPL của ngân hàng Hàn Quốc thời kỳ 1991-1997(đvt: %)

Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997

Chỉ tiêu

ROA 0.55 0.68 0.51 0.54 0.34 0.27 -0.9

Tỷ lệ nợ quá hạn 6.6 6.7 7.0 5.6 5.2 3.9 6.0

Nguồn: Banking sector reform and economic growth

Qua bảng trên ta thấy giai đoạn 1991-1996 tỷ suất sinh lợi tài sản hầu như

giảm mỗi năm, ngoại trừ năm 1992 và 1994. Và tỷ lệ nợ quá hạn cao trong cùng

thời kỳ. Với việc tỷ lệ nợ quá hạn cao dẫn đến tăng chi phí trích lập dự phòng,

làm tăng chi phí của ngân hàng, dẫn đến vốn chủ sở hữu bị giảm, điều này dẫn

đến hệ số tỷ lệ an toàn vốn (CAR) thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế là 8%, nợ quá hạn

tăng cao là một trong những nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng tài

chính năm 1997. Để giảm bớt tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng, vào

tháng 7 năm 1997 Chính phủ Hàn Quốc đã bơm 4,4 nghìn tỷ Won vào hệ thống

ngân hàng, đến cuối năm 1998 là 64 nghìn tỷ Won, tương đương 15% GDP của

Hàn Quốc trong năm 1997. Một nửa trong số vốn này được sử dụng để giảm tỷ

lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn sau khi được xử lý được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 1.2: Nợ quá hạn của Ngân hàng hàng quốc từ 1998-2001(đvt: %)

Năm 1998 1999 2000 2001

Chỉ tiêu

Tỷ lệ nợ quá hạn 7.4 13.6 8.8 3.3

Nguồn: Banking sector reform and economic growth

Qua bảng trên ta thấy, tỷ lệ nợ quá hạn đạt đỉnh điểm năm 1999 là 13.6%,

nhưng đến năm 2000 và 2001 chỉ còn 8.8% và 3.3% chứng tỏ biện pháp của

Chính phủ Hàn Quốc đã có hiệu quả.

28

 Tăng nguồn vốn FDI trong hệ thống ngân hàng.

Chính phủ Hàn Quốc có kế hoạch thực hiện tự do hóa ngành ngân hàng từ

đầu những năm 1990, đến năm 1998 đạo luật thúc đẩy nguồn vốn FDI ra đời đã

tạo điều kiện mở cửa ngành ngân hàng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mục tiêu

của đạo luật là tạo ra môi trường minh bạch và mở cửa, làm thuận tiện hơn cho

cấu trúc ngành ngân hàng. Năm 1999 là năm có sự tăng trưởng lớn nguồn vốn

FDI vào ngành ngân hàng. Với việc tăng vốn FDI trong ngành ngân hàng đã dẫn

việc có nhiều ngân hàng được kiểm soát và quản lý bởi các nhà đầu tư nước

ngoài. Năm 2003, trong 7 ngân hàng lớn nhất Hàn Quốc lúc bấy giờ là Kookmin

bank; Woori bank; Hana bank; Shinhan bank; Korea exchange bank; Hanmi

bank; Korea first bank. Thì có đến 5 ngân hàng thuộc sở hữu của nhà đầu tư

nước ngoài, gồm là Kookmin bank, Shinhan bank, Korea first bank, Hanmi bank

và Korea exchange bank. Đây là năm ngân hàng mà nhà đầu tư nước ngoài

Bảng 1.3: Sở hữu nước ngoài trong các NH Hàn Quốc năm 1997&2003, đvt: %

chiếm ít nhất 50% cổ phần.

Cuối năm 1997 Cuối năm 2003 Ngân hàng

Hanmi bank 29.4 89.1

Kookmin bank 0 73.6

Korea exchange bank 2.7 71

Shinhan bank 23.4 51.8

Korea first bank 0.98 49.6

Hana bank 21.3 37.2

Woori bank 8.6 4.5

Trung bình 12.34 53.83

Nguồn: Banking sector reform and economic growth

29

Qua bảng trên ta thấy sự thay đổi rất lớn của sở hữu nước ngoài trong ngân

hàng Hàn Quốc năm 2003 so với trước khủng hoảng năm 1997. Vốn FDI vào hệ

thống ngân hàng giúp Chính phủ Hàn Quốc nhanh chóng đạt được mục tiêu tư

nhân hóa ngành ngân hàng, chẳng hạn như: Korea first bank và Seoul bank là hai

ngân hàng hoạt động kém nhất trong số các ngân hàng nhà nước trước khủng

hoảng, năm 1997 CAR của hai ngân hàng này lần lượt là 0.98% và 6.39% thấp

hơn 8% theo tiêu chuẩn quốc tế. Sau cuộc gặp giữa Chính phủ và Quỹ tiền tệ

quốc tế (IMF) vào tháng 12 năm 1998, Chính phủ đã bán phần lớn vốn điều lệ

của Korea first bank cho Newbrigde capital, một năm sau Chính phủ bán 51%

vốn cổ phần của Seoul bank cho HSBC holding. Chính phủ Hàn Quốc cũng đã

có một số thay đổi về cơ sở quản lý và quản trị đối với các ngân hàng có vốn

FDI. Như năm 1999 tại ngân hàng Woori bank có tới hai phần ba thành viên hội

đồng quản trị là người nước ngoài, đã có sáu trong bảy ngân hàng lớn thay đổi vị

trí quản lý cao nhất. Năm 2003 tại Korea exchange bank có một chủ tịch, một

phó chủ tịch kiểm soát quản lý và năm giám đốc là người nước ngoài. Sự tham

gia quản lý của các giám đốc người nước ngoài đã làm giảm sự rủi ro chuyên

quyền của chủ tịch trong vấn đề quản lý ngân hàng. Vốn FDI vào hệ thống ngân

hàng đã mang lại những ảnh hưởng tích cực lên sự minh bạch trong hoạt động

của các ngân hàng (trong khủng hoảng, do thiếu sự minh bạch mà đã dẫn đến tỷ

lệ nợ quá hạn cao, làm mất lòng tin của nhà đầu tư), đẩy mạnh phát triển dịch vụ

tài chính bằng cách cải tiến cơ hội sử dụng dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.

Các ngân hàng nước ngoài cải tiến chất lượng, giá, mức độ sẵn có của các dịch

vụ tài chính bằng cách áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật, công nghệ ngân hàng hiện

đại. Nhiều ngân hàng đã thuê kiểm toán nước ngoài để chứng tỏ sự độc lập và

chuyên nghiệp.

30

 Chủ động thực hiện M&A

Vào tháng 4 năm 1998, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập ủy ban giám sát tài

chính để thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Chức năng của cơ quan này

là thực hiện tái cấu trúc, đảm bảo an toàn của hệ thống, hướng dẫn đầy đủ về vốn

để đáp ứng và tăng cường quản lý rủi ro, thiết kế tiêu chuẩn kế toán. Trong cải

cách hệ thống ngân hàng Hàn Quốc, để thành lập nguyên tắc tự chịu trách nhiệm

và nâng cao hiệu quả. Đặc biệt, Chính phủ đã tư nhân hóa các ngân hàng gặp rắc

rối. Để thực hiện mục tiêu trên, Chính phủ đã giao ủy ban giám sát tài chính thực

hiện M&A các ngân hàng có CAR dưới 8%. Cuối năm 1997, ủy ban giám sát tài

chính đã hỗ trợ ngân hàng trung ương Hàn Quốc tập hợp sáu hãng kế toán trong

nước kết hợp với các kế toán viên có kinh nghiệm quốc tế để kiểm tra sự quản lý

tài sản và nợ, và thực hiện xem xét lại các ngân hàng gặp rắc rối.

Bảng 1.4: CARs của 24 ngân hàng Hàn Quốc cuối năm 1997

CAR lớn hơn Kookmin bank, Housing&Commercial bank, Shinhan

hoặc bằng bank, koram, Hana, Boram, Daegu, Pusan,

8%(12 banks) Kwangjoo, jeonbuk, Cheju, Kyongnam

CAR nhỏ hơn Chuhong, BOK, Hanil, Korea exchange bank,

8%(12banks) Chungchong, Kyungki, Donghwa, Deadong, Peace,

Chungbok.

Nguồn: Banking sector reform and economic growth

Năm 1998, Ủy ban giám sát tài chính theo yêu cầu tăng vốn của ngân hàng

trung ương Hàn Quốc đã đề nghị 5 ngân hàng có CAR nhỏ hơn 8% gồm:

Chungchong, Kyungki, Donghwa, Deadong, Peace bán cho 5 ngân hàng có CAR

lớn hơn 8% gồm: Kookmin bank, Housing&Commercial bank, Shinhan bank,

koram, Hana. Chính phủ tin rằng M&A làm tăng khả năng cạnh tranh trong ngành

ngân hàng nhờ tăng quy mô, loại bỏ sự không hiệu quả mà nguyên nhân là do có

quá nhiều ngân hàng tương đối nhỏ, do đó cải thiện hiệu quả ngành ngân hàng.

31

Chính phủ thúc đẩy mua bán hầu hết các ngân hàng thương mại. Chính phủ đã yêu

cầu Ủy ban giám sát tài chính hướng dẫn tiếp bảy ngân hàng còn lại trong số 12

ngân hàng có CAR nhỏ hơn 8 ở trên sáp nhập, thu hút đầu tư nước ngoài, hợp nhất

Bảng 1.5: Số lượng ngân hàng sau khi M&A(tháng 1/1998 và tháng 10/2002)

với các công ty con.

Số lượng Kiểu xử lý Số lượng ngân

ngân hàng(2002) Phá sản M&A

hàng(1998)

NHTM 16 3 4 6

NHTM Toàn

Quốc

NHTM 10 2 2 6

địa

phương

Các NH đặc biệt 7 0 2 5

Tổng số 33 5 8 17

Nguồn: Banking sector reform and economic growth

1.5.2 Bài học cho Việt Nam

Qua kinh nghiệm M&A các NHTM của Hàn Quốc, chúng ta có thể rút ra các

 Thứ nhất, thực hiện M&A các ngân hàng không đáp ứng được tiêu chuẩn

bài học sau:

hoạt động, như hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) nhỏ hơn quy định. Sử dụng các

 Thứ hai: Tăng tỷ lệ sở hữu của nước ngoài, thậm chí là hơn 50% vốn điều

ngân hàng mạnh để M&A các ngân hàng yếu.

lệ, trao thêm các vị trí quản lý, điều hành là người nước ngoài trong các ngân

hàng.

32

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

Tóm lại: Chương 1 cho thấy hoạt động M&A các ngân hàng tại Việt Nam là

xu hướng tất yếu, và đưa ra được bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động M&A.

Mặt khác, qua nghiên cứu trường hợp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Hàn

Quốc, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm như chủ động sử dụng các ngân hàng

có tình hình tài chính lành mạnh để thực hiện M&A các ngân hàng có hệ số CAR

nhỏ hơn 8%. Tăng tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài lên hơn 50% vốn điều

lệ đồng thời trao thêm nhiều vị trí quản lý cho họ.

33

 Thứ nhất: Quy mô vốn còn nhỏ so với các ngân hàng trong khu vực.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP (M&A) CÁC NHTM Ở VIỆT NAM. 2.1 Một số đặc điểm của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.

Trong những năm gần đây, mặc dù tăng nhanh về vốn và tổng tài sản, tuy

nhiên quy mô của các ngân hàng Việt Nam vẫn nhỏ so với các nước trong khu

vực. Hiện hai chỉ tiêu tổng tài sản và vốn chủ của các 8 ngân hàng đang niêm yết

tại Việt Nam lần lượt là 166.844 tỷ đồng và 12.574 tỷ đồng, thấp hơn mức trung

 Thứ hai: Tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng huy

bình của các nước trong khu vực như Thái Lan, Ấn Độ, Inđônêsia, Trung Quốc.

động, kỳ hạn nguồn và cho vay chệnh lệch quá lớn.

Việt Nam có độ tăng trưởng tín dụng cao trong những năm gần đây, tỷ lệ

cho vay/huy động năm 2010 lên đến 130,7%. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng giai

đoạn 2000-2010 là hơn 32%, trong khi tỷ lệ tăng trưởng huy động giai đoạn này

là 29% điều này gia tăng rủi ro thanh khoản cho các ngân hàng.

Một nguyên nhân khác ngây rủi ro thanh khoản là có sự chênh nhau lớn

giữa kỳ hạn nguồn và cho vay trong một thời gian dài. Theo quy định, ngân hàng

chỉ được dùng 30% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn nhưng

thực tế hầu hết các tổ chức tín dụng đều vượt xa con số này. Nhiều ngân hàng

 Thứ ba: Khó đánh giá chính xác chất lượng tín dụng.

cho vay tới 60 - 70%, thậm chí là 100%.

Do tăng trưởng tín dụng tăng cao, cụ thể: năm 2007: 2009: 2010 lần lượt

là 53,89%: 37,73%: 27,65%. Cộng với quản lý tín dụng không tốt đã dẫn đến nợ

xấu luôn là vấn đề lớn của hệ thống ngân hàng trong thời gian gần đây. Việc khó

đánh giá chính xác nợ xấu có hai lý do: Một là, do sự khác biệt trong cách phân

34

loại nợ theo tiêu chuẩn Việt Nam (VAS) và theo tiêu chuẩn quốc tế (IAS). Hai

là, một số ngân hàng biến nghiệp vụ gia hạn nợ, nó vốn là một nghiệp vụ bình

thường của ngân hàng, thành một hình thức để giảm tỷ lệ nợ xấu do gia hạn nợ

không được xem là nợ xấu.

Cách thức phân loại nợ theo VAS thì việc phân loại nợ dựa vào định lượng

mà thiếu đi phần định tính như tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh.

Điều này dẫn đến việc phân loại nợ không phản ánh thực chất các khoản nợ.

Đồng thời các ngân hàng chỉ xếp phần nợ đến hạn không trả được vào nợ quá

hạn, trong khi phần còn lại của khoản nợ vẫn là nợ đủ tiêu chuẩn. Trong khi theo

tiêu chuẩn quốc tế nếu phần nợ đến hạn không trả được nợ thì toàn bộ khoản nợ

phải sếp vào nợ quá hạn. Cụ thể: theo công bố của NHNN đến tháng 06/2011 nợ

quá hạn khoảng 3%, tăng so với mức 2,5% vào cuối năm 2009, chưa tính đến

con số của Vinashin chiếm khoảng 0,7% tổng dư nợ toàn ngành, theo đánh giá

của NHNN thì con số trên vẫn trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, theo tính toán

của tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings thì tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống

 Thứ tư: Cơ cấu thu nhập chưa đa dạng, chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động

là 13%, đây là con số đáng lo ngại.

tín dụng.

Thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của

hầu hết các ngân hàng thương mại trong nước, năm 2010 tỷ trọng thu nhập từ tín

dụng của 10 ngân hàng hàng đầu Việt Nam là 76,8%. Đối với một số ngân hàng

có quy mô nhỏ, tỷ trọng này thậm chí còn lớn hơn 90%, cụ thể: NH Liên Việt

92,2%. Do nguồn thu không đa dạng, chủ yếu dựa vào tín dụng nên thu nhập của

các ngân hàng bị ảnh hưởng đáng kể khi tín dụng bị thắt chặt.

35

2.2 Những điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.

 Thứ nhất: Tốc độ tăng trưởng nhanh

2.2.1 Những điểm mạnh.

Về số lượng ngân hàng: Đến 31/12/2010 Việt Nam có 37 NHTMCP, 05

NHNN, 05 NH 100% vốn nước ngoài, 05 NH liên doanh, 48 chi nhánh NH nước

ngoài. Số lượng ngân hàng tăng từ 78 ngân hàng và chi nhánh năm 2006 lên 100

ngân hàng trong năm 2010. Theo đánh giá của ngân hàng thế giới thì số lượng

ngân hàng như trên là nhiều đối với nền kinh tế như Việt Nam. Cùng với số

lượng các ngân hàng tăng nhanh thì mạng lưới của các ngân hàng cũng tăng lên

nhanh chóng.

Về tổng tài sản ngân hàng: Quy mô của các ngân hàng Việt Nam đã tăng

đáng kể trong thời gian gần đây. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế thì tổng tài sản của

ngành đã tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn 2007-2010, từ 1.097 nghìn tỷ đồng

(khoảng 52,4tỷ USD) lên 2.690 nghìn tỷ đồng (khoảng 182,7 tỷ USD). Việt Nam

nằm trong danh sách 10 nước có tốc độ tăng trưởng tài sản ngành nhanh nhất

trên thế giới theo thống kê của The Banker, đứng vị trí thứ 2 sau Trung Quốc.

Về Tăng trưởng tín dụng và huy động: với đặc trưng của nền kinh tế mới

nổi, tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động của Việt Nam luôn ở mức cao hơn

20% hàng năm trong suốt giai đoạn 2000-2010, mức tăng trung bình tín dụng và

huy động giai đoạn này là 31%/năm và 29%/năm, cá biệt là năm 2007 mức tăng

gần 35%/năm và 48%/năm.

Về số lượng máy ATM và thẻ: cùng với sự phát triển về số lượng, mạng

lưới thì số lượng máy ATM và thẻ phát hành cũng tăng lên đáng kể. Số lượng

máy ATM tăng từ 1.800 máy năm 2005 lên 11.700 máy năm 2010, trong khi đó

thẻ tín dụng và ghi nợ đã phát hành tăng lên gấp đôi giai đoạn 2008-2010 đạt

31,7 triệu thẻ.

36

 Thứ hai: Thị trường ngân hàng rất tiềm năng.

Theo ngân hàng phát triển Châu Á Việt Nam là nước có tầng lớp trung lưu

lớn mạnh với tốc độ tăng trưởng chỉ sau Trung Quốc và Armenia. Cộng với tình

trạng chưa phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, khi mà chỉ có 20% dân

số có tài khoản ngân hàng, khiến cho Việt Nam trở thành một thị trường đầy hứa

hẹn.

Theo khảo sát của Công ty nghiên cứu thị trường Nielsen thì người tiêu

dùng Việt Nam sử dụng các sản phẩm tiện ích của NH ngoài sản phẩm tiết kiệm

rất thấp so với các nước trong khu vực, cụ thể chưa tới một nửa số người tiêu

dùng được hỏi (42%) có biết về dịch vụ thẻ tín dụng, và chỉ 1% có sử dụng thẻ

tín dụng. Trong khi đó, ở Indonesia, quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương

đương Việt Nam, tỷ lệ sử dụng thẻ tín dụng là 5%; số lượng thẻ tín dụng tại

Indonesia đã tăng trung bình 10% và giá trị thanh toán tăng tới 28% mỗi năm;

cửa hàng tạp hóa là nơi người Indonesia quẹt thẻ nhiều nhất, chủ yếu thanh toán

các vật dụng trong gia đình và chi tiêu cá nhân. Cũng theo khảo sát, hơn 1/3

(36%) số người được hỏi cho rằng mình không có nhu cầu sử dụng thẻ tín dụng,

19% hoàn toàn không biết sử dụng như thế nào và 18% cho rằng thẻ tín dụng

phức tạp và bất tiện. Đối với các dịch vụ cơ bản của NH như tài khoản giao dịch,

tài khoản tiết kiệm, ATM/thẻ ghi nợ và dịch vụ cho vay, nhiều người tiêu dùng

biết về các dịch vụ này nhưng số người sử dụng vẫn còn hạn chế: 32% số người

được hỏi có duy trì một tài khoản giao dịch NHTM và 31% có sử dụng thẻ

 Thứ ba: Thị trường NH đã được rộng mở đối với các NH nước ngoài kể từ

ATM; 12% số người được hỏi có tài khoản tiết kiệm ở NHTM.

khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007.

Theo các cam kết khi gia nhập WTO thì thị trường ngân hàng của Việt

Nam đã rộng mở hơn đối với các ngân hàng nước ngoài, cụ thể: thì kể từ tháng

11/01/2007 các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập ngân hàng liên doanh, từ

37

01/04/2007 thì được thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoại tại Việt Nam.

Cho phép các ngân hàng nước ngoài thành lập chi nhánh và văn phòng đại diện

tại Việt Nam. Việc hạn chế nhận tiền gửi từ cá nhân của các chi nhánh ngân hàng

nước ngoài cũng sẽ được bãi bỏ từ ngày 01/01/2011. Cũng theo cam kết gia nhập

WTO thì các ngân hàng nước ngoài cũng được thiết lập và vận hành các máy

ATM, và phát hành thẻ tín dụng như các ngân hàng Việt Nam. Và cung cấp các

 Thứ tư: Vai trò của các NHTMNN đang giảm dần

dịch vụ ngân hàng khác như đối với các NH Việt Nam.

Khối NHTMCP có hoạt động linh hoạt và đang dần chiếm lĩnh thị phần

của khối NHTMNN, do các NHTMCP có cơ cấu cổ đông đa dạng hơn các

NHTMNN, tập trung cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và hoạt động ngân

hàng bán lẻ. Thị phần của khối này tăng nhanh trong những năm gần đây do

chiếm lĩnh được từ khối NHTMNN. Cụ thể: đối với huy động, từ 17,8% năm

2005 lên 43,4% trong năm 2010, trong khi khối NHTMNN giảm từ 74,2% trong

năm 2005 xuống còn 47,7% trong năm 2010; đối với cho vay, từ 16,4% năm

2005 lên 31,7% trong năm 2010, trong khi khối NHTMNN giảm từ 74,2% năm

2005 xuống còn 49,3% trong năm 2010.

 Thứ nhất: Các NH trong nước có quy mô vốn nhỏ và quản trị yếu trong

2.2.2 Những điểm yếu.

khi duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng cao.

Với việc tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân hơn 30%/năm giai đoạn

2000-2010, trình độ quản trị yếu. Dẫn đến việc kiểm soát chất lượng tín dụng sẽ

không đảm bảo, nợ xấu gia tăng cao. Nợ xấu tăng cao làm tăng nguy cơ làm

giảm vốn chủ của ngân hàng, ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn, từ đó ảnh hưởng

đến rủi ro cho hệ thống ngân hàng.

38

 Thứ hai: Minh bạch hóa thông tin chưa cao

Đến 31/12/2010 Việt Nam có 37 NHTMCP, 05 NHTMNH nhưng mới chỉ

có 08 ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán đó là: NH Á Châu, NH Công

Thương, NH Nhà Hà Nội, NH Eximbank, NH Nam Việt, NH Sài Gòn-Hà Nội,

NH Sacombank, NH Vietconbank. Nên thông tin về các ngân hàng trong hệ

thống còn thiếu và yếu, các ngân hàng chưa niêm yết chỉ công bố thôn tin theo

định kỳ chưa chủ động công bố thông tin, đặc biệt là những thông tin bất thường.

Hơn nữa các số liệu công bố đơn giản, chưa phong phú như dư nợ, tổng tài sản,

số dư huy động nên rất khó đánh giá chính xác tình hình tài chính của các ngân

 Thứ ba: Các NH nhỏ cho vay quá nhiều vào bất động sản và chứng khoán.

hàng.

Trong những năm qua, các ngân hàng liên tục tăng trưởng tín dụng phi sản

xuất, trong đó chủ yếu là bất động sản và chứng khoán. Đến nỗi NHNN đã phải

liên tục đưa ra các cảnh báo và các quy định để ngăn chặn, cụ thể: vào năm 2008

đưa ra quy định tỷ lệ cho vay chứng khoán tối đa là 20% vốn điều lệ. Đầu năm

2011 NHNN đã yêu cầu tỷ lệ cho vay phi sản xuất giảm xuống 22% vào tháng

6/2011 và 16% vào cuối năm 2011. Tuy nhiên đến hạn vẫn cho 5 ngân hàng

không cán được đích. Có ngân hàng tỷ lệ dư nợ phi sản xuất lên đến 50%.

Tính đến hết tháng 6/2011, dư nợ bất động sản là 245 ngàn tỷ đồng, tương

đương với khoảng 10% tổng dư nợ, nợ xấu bất động sản chiếm khoảng 3%,

trong đó nợ thuộc nhóm 5 khoảng 4%. Đáng chú ý là nợ xấu bất động sản lại tập

trung ở một số ngân hàng nhỏ. Một số ngân hàng nhỏ thường có tổng tín dụng

bất động sản lên tới 30-40% và thậm chí là cao hơn. Các ngân hàng này thường

cho vay nội bộ, đây là rủi ro lớn nhất, tức là các cổ đông lớn của ngân hàng

thương mại thường là chủ của dự án bất động sản và họ thường sử dụng vốn tín

dụng của ngân hàng mình hoặc ngân hàng bạn làm nguồn đầu tư chủ yếu cho dự

án của mình.

39

Theo NHNN, trong hoạt động đầu tư tài chính, một số ngân hàng cổ phần

đã thực hiện đầu tư vào chứng khoán, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp với số

dư và tỷ trọng lớn, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao. Trong đó, nhiều khoản đầu tư tài

chính không có tài sản bảo đảm hoặc chưa thực hiện trích lập dự phòng rủi ro.

Tại thời điểm 31-5-2011, tổng giá trị đầu tư tài chính của 19 ngân hàng cổ phần

nhỏ và vừa (mỗi ngân hàng có tổng tài sản dưới 80.000 tỉ đồng) mà NHNN đã

làm việc là 88.635 tỉ đồng, chiếm 15,2% so với tổng tài sản của cả 19 ngân hàng,

tăng tăng 2,1% tức gần 1.800 tỉ đồng so với thời điểm cuối 2010, nhưng so với

cùng kỳ năm trước tăng đến 93,9%. Trong đó, đầu tư vào chứng khoán do tổ

chức kinh tế phát hành gần 42.700 tỉ đồng, chiếm 48% tổng giá trị đầu tư tài

chính và chiếm tỷ lệ 17,9% tổng dư nợ của 19 ngân hàng. Một số ngân hàng đầu

tư vào chứng khoán do tổ chức kinh tế phát hành với số dư và tỷ trọng lớn, có

ngân hàng chiếm đến hơn 80% dư nợ cho vay.

2.3 Thực trạng hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) các NHTM tại

Việt Nam.

2.3.1 Diễn biến.

Nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mức độ cạnh

tranh trong nền kinh tế ngày càng lớn. Ngành ngân hàng Việt Nam cũng không phải

là ngoại lệ, với tính chất đặc thù riêng của mình, hoạt động ngân hàng đi kèm với đòi

hỏi ngày càng cao về quy mô vốn, tỷ lệ an toàn vốn, nhân sự, công nghệ, chiến

lược… để đáp ứng yêu cầu của pháp luật, các tiêu chuẩn của quốc tế về hoạt động

ngân hàng và đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Một mặt các ngân

hàng phải tự mình vươn lên hoặc thông qua hoạt động M&A. Hoạt động M&A ngân

hàng là xu hướng tất yếu, nó không chỉ đơn thuần là kết hợp các ngân hàng nhỏ thành

ngân hàng lớn, mà ngay cả các ngân hàng lớn cũng có thể kết hợp với nhau để tạo

thành các ngân hàng lớn hơn nữa, tạo sức mạnh cạnh tranh mới lớn hơn. Vì vậy hoạt

động M&A đóng vai trò tích cực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.

40

Hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam từ trước đến nay chưa thực sự đúng

nghĩa theo thông lệ quốc tế, nhưng đã có những yếu tố hoạt động M&A theo thông lệ

quốc tế. Hoạt đông M&A ngân hàng tại Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn như

sau:

Giai đoạn trước năm 2005

Bối cảnh kinh tế xã hội cho thương vụ M&A ngân hàng Việt Nam đầu tiên chính

là giai đoạn từ năm 1986 - 1988, còn gọi là “tiểu” giai đoạn khủng hoảng nghiêm

trọng của nền kinh tế Việt Nam sau sai lầm của cuộc tổng điều chỉnh Giá - Lương -

Tiền năm 1985. Hầu hết các hợp tác xã tín dụng nông thôn (trên 7.000 HTX) và các

Quỹ tín dụng (QTD) Đô thị (500 QTD) đều lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả.

Đây thực sự là một giai đoạn sóng gió của “cơn lốc” đổ bể hàng loạt các Hợp tác xã

tín dụng và cũng chính là hoàn cảnh cho thương vụ M&A đầu tiên trong ngành Ngân

hàng Việt Nam.

Cụ thể, NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) được thành lập theo Quyết

định số 05/GP-UB ngày 3/1/1992 của Ủy ban Nhân dân TPHCM và hoạt động theo

Quyết định số 06/NH-GP ngày 05/12/1991 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Sacombank chính thức đi vào hoạt động từ ngày 21/12/1991, trên cơ sở chuyển thể

Ngân hàng Phát triển Kinh tế Gò Vấp và sáp nhập 3 Hợp tác xã tín dụng Tân Bình -

Thành Công - Lữ Gia. Vào thời điểm đó, cả 4 đơn vị này đều trong giai đoạn cực kỳ

khó khăn về tài chính.

Vào những năm 1989-1993, Việt Nam có 46 ngân hàng thì có đến 10 ngân hàng

buộc phải sáp nhập, đây là những ngân hàng yếu, mất khả năng thanh toán, càng hoạt

động càng thua lỗ, vốn điều lệ của những ngân hàng này thấp, khoảng 5tỷ đồng đến 7

tỷ đồng, nợ xấu có tỷ trọng lớn, có ngân hàng tỷ lệ nợ xấu chiếm 40%-50% tổng dư

nợ. Nếu các ngân hàng này phá sản sẽ kéo theo nhiều hệ lụy cho cả hệ thống, trong

khi thời gian này Việt Nam chưa có bảo hiểm tiền gửi và quỹ bù đắp rủi ro. Vì vậy

thống đốc NHNN Việt Nam đã yêu cầu các ngân hàng lớn như ngân hàng ngoại

41

thương Việt Nam, Ngân hàng đầu tư, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông

thôn…tiếp nhận, hỗ trợ, sáp nhập các ngân hàng này, đồng thời tiếp tục cho vay các

khách hàng có khả năng trả nợ.

Trước tình hình trên, Đề án ‘chấn chỉnh và sắp sếp lại các NHTM cổ phần Việt

Nam’ được Thủ tướng phê duyệt tại quyết định số 212/1999/QĐ-TTg ngày

29/10/1999 với mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.

Hơn nữa Quy chế 241/1998/QĐ-NHNN5 ngày 15/07/1998 về sáp nhập, hợp nhất,

mua lại tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam ra đời đã tạo điều kiện cho một số NHTM

cổ phần nông thôn thực hiện sáp nhập và/hoặc chuyển thành NHTM cổ phần đô thị,

cụ thể như sau :

Bảng 2.1 : Một số thương vụ M&A giữa ngân hàng nông thôn và ngân hàng

đô thị Việt Nam, giai đoạn 1999-2004.

Năm Ngân hàng nông thôn Ngân hàng đô thị

1999 Ngân hàng Đại Nam NHTM CP Phương Nam

2001 Ngân hàng Tứ Giác Long Xuyên(An NHTM CP Đông Á

Giang)

2001 Ngân hàng Châu Phú(An Giang) NHTM CP Phương Nam

2002 Quỹ tín dụng Định Công (Hà Nội) NHTM CP Phương Nam

2002 Ngân hàng Thạnh Thắng(Cần Thơ) NHTM CP Sài Gòn

2003 Ngân hàng Cái Sắn(Cần Thơ) NHTM CP Phương Nam

2003 NHTM CP Tây Đô NHTM CP Phương Đông

2003 Ngân hàng Nam Đô Ngân hàng Đầu tư và

phát triển

2003 Ngân hàng Quế Đô NHTM CP Sài Gòn

2004 Ngân hàng CP Nông thôn Tân Hiệp NHTM CP Đông Á

Nguồn : www.sbv.com.vn

42

Như vậy hoạt động M&A ngân hàng từ trước năm 2005 có những đặc điểm

và tác động tích cự như : Một số ngân hàng nhỏ do quá trình hình thành và hoạt

động còn rất mới mẻ, ít kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh và quản lý rủi

ro. Nên đã gặp phải khó khăn lớn về thanh khoản, và phải sáp nhập vào các ngân

hàng lớn. Các ngân hàng nhỏ không tuân thủ quy định về quản lý rủi ro và các hệ

số an toàn. Do đó NHNN đã bắt buộc các ngân hàng này sáp nhập vào các ngân

hàng lớn hoặc là giải thể, phá sản. Việc sáp nhập, mua lại này diễn ra dưới áp lực

của Chính phủ liên quan đến cơ cấu, sắp sếp lại các NHTM cổ phần theo quyết

định số 96/1998/ QĐ-TTg ngày 19/05/1998 của Thủ tướng Chính phủ chứ không

phải xuất phát từ nhu cầu phát triển lớn mạnh tự thân của các ngân hàng, không

phải dựa trên nền tảng chiến lược kinh, mở rộng thị phần và nâng cao khả năng

cạnh tranh.

Giai đoạn từ năm 2005

Từ năm 2005 trở lại đây, việc sáp nhập ngân hàng trong nước ít đi, và thay

vào đó là hoạt động góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư trong và ngoài

nước thông qua việc trở thành đối tác chiến lược. Đặc biệt là các đối tác nước

ngoài trong hoạt động của các ngân hàng Việt Nam, nhất là khi Việt Nam gia

nhập WTO. Hoạt động mua cổ phần giữa nhà đầu tư nước ngoài và NHTM CP

Việt Nam, được thể hiện dưới bảng sau :

Bảng 2.2 : Các thương vụ mua cổ phần giữa nhà đầu tư nước ngoài và NHTM

CP Việt Nam

Đối tác nước ngoài Ngân hàng mục tiêu Tỷ lệ cổ Năm

phần mua

lại(%)

Ngân hàng HSBC NHTM CP Kỹ Thương 20% 2005

Deutsche Bank NHTM CP Nhà Hà Nội 20% 2007

43

International Finance 15% 2010

Corporation NHTM CP An Bình Ngân hàng 15% 2008

Berhard(Maybank)

Oversea Chinese Banking NHTM CP Ngoài Quốc 15% 2006

Corporation Doanh

Sumitomo Mitsui Banking NHTM CP Xuất Nhập 15% 2008

Corporation Khẩu Việt Nam

Vinacapital và Quỹ Mira 10% 2007

Asset

hàng BNP NHTM CP Phương 10% 2007 Ngân

Paribas(pháp) Đông

Ngân hàng United Overseas NHTM CP Phương Nam 10% 2007

Bank

ANZ NHTM CP Sài Gòn 9,83% 2005

Thương

Tín(Sacombank)

Standard Charter NHTM CP Á Châu 15% 2005

Nguồn : www.sbv.com.vn

Bên cạnh việc các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các NHTM Việt

Nam, các ngân hàng Việt Nam cũng muốn tăng tiềm lực tài chính bằng cách bán

cổ phần cho các tổ chức tài chính, ngân hàng lớn, có uy tín và thương hiệu mạnh

trong nước. Thực chất đây là vấn đề sở hữu chéo của các NHTM cổ phần trong

nước. Từ đây các ngân hàng trong nước có thể hỗ trợ nhau về nhiều mặt trong

quá trình hoạt động và phát triển. Hoạt động sở hữu chéo này được thể hiện dưới

bảng sau :

44

Bảng 2.3 : Một số thương vu mua bán cổ phần giữa các ngân hàng Việt Nam

Năm Ngân hàng bên mua Ngân hàng bên bán

2007 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam NHTM CP Gia Định

2007 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam NHTM CP Phương Đông

2007 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam NHTM CP Quốc Tế

2007 NHTM CP Sài Gòn Thương Tín NHTM CP Quân Đội

2007 NHTM CP Nhà Hà Nội

NHTM CP Á Châu NHTM CP Việt Nam Thương 2008 Tín

2008 NHTM CP Đại Á

2008 NHTM CP Kiên Long

NHTM CP Á Châu NHTM CP Xuất Nhập Khẩu 2007 Việt Nam

2009 NHTM CP Dầu khí toàn cầu NHTM CP Đại Dương

Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam NHTM CP Xuất Nhập Khẩu 2007 Việt Nam

Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam NHTM CP Sài Gòn Công 2010 Thương

2007 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam NHTM CP Quân Đội

Nguồn : www.sbv.com.vn

Ngoài ra, ngày 29/07/2011, ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt công

bố tên gọi mới, sau khi hoàn tất kế hoạch sáp nhập với Công ty Tiết kiệm Bưu

điện. Đây là thương vụ sáp nhập chưa có tiền lệ trong ngành ngân hàng, khi một

tổng công ty nhà nước góp vốn vào một ngân hàng cổ phần bằng cả tiền và giá

trị của một công ty thành viên (Công ty Tiết kiệm Bưu điện gia nhập Ngân hàng

Liên Việt với số vốn góp 997 tỷ đồng để tạo ra ngân hàng mới có tên gọi Ngân

hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt. Số vốn nói trên tương đương

45

14,99% vốn điều lệ ngân hàng, trong đó 360 tỷ đồng là giá trị của chính Công ty

Tiết kiệm Bưu điện, phần còn lại sẽ được Tổng công ty Bưu chính Việt Nam góp

nhiều lần bằng tiền mặt.). Thương vụ đặc biệt này cũng cho ra đời mô hình ngân

hàng bưu điện đầu tiên tại Việt Nam - kết hợp giữa ngân hàng thương mại truyền

thống với dịch vụ tiết kiệm bưu điện. Và ngày 11/11/2011, Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam đã có Quyết định số 2470/QĐ-NHNN về việc sáp nhập Ngân hàng

liên doanh Shinhan Vina (liên doanh giữa Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và

ngân hàng Shinhan Hàn Quốc) vào Ngân hàng TNHH một thành viên Shinhan

Việt Nam.

Như vậy hoạt động M&A đã mang lại những tác động tích cực như góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao hệ số an toàn vốn, chất lượng công nghệ

và năng lực quản trị rủi ro.

2.3.2 Những kết quả đạt được.

Hoạt động M&A ngân hàng Việt Nam chưa thực sự đúng nghĩa theo thông lệ

quốc tế, nhưng hoạt động M&A ngân hàng cũng đã thu được những kết quả đáng

khích lệ, mười năm trước nhiều ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn với

quy mô nhỏ đã được M&A với các ngân hàng đô thị, như Ngân hàng Thương

mại cổ phần Phương Nam đã M&A hàng loạt các ngân hàng thương mại khác

như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn Đồng Tháp, Châu Phú, Đại

Nam, Nông thông Cái Sắn; Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á đã M&A

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tứ giác Long Xuyên; Sacombank M&A Ngân

hàng Thạnh Thắng; Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Đông M&A với

Ngân hàng Nông thôn Tây Đô....

Hiện nay hoạt động M&A các ngân hàng diễn ra dưới hình thức nhà đầu tư

nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng trong nước để trở thành cổ đông

chiến lược, các nhà đầu tư chiến lược tại thị trường ngân hàng Việt Nam là

những tổ chức tài chính lớn, có uy tín trên phạm vi toàn cầu như: HSBC, ANZ,

46

Sumit-Ormo Mitsui Banking, VOF Investment Limited Bristish Virgin Island,

IFC, Mirae Asset, Deutscher Bank AG, OCBC, Maybank, BNP Paribas..., hình

thức này một mặt giúp tăng tiềm lực tài chính các ngân hàng trong nước, được

hỗ trợ nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm quản lý điều hành…, một mặt sự hiện

diện của các nhà đầu tư này tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu nước ngoài khác

tham gia thị trường ngân hàng Việt Nam từ đó sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư nước

ngoài hơn nữa, làm gia tăng nguồn vốn FDI cho Việt Nam và đây cũng là nguồn

ngoại hối quan trọng giúp NHNN có thêm nguồn để điều hành tỷ giá. Ngoài hình

thức nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần để trở thành cổ đông chiến lược còn

diễn ra hoạt động các ngân hàng trong nước mua cổ phần chéo với nhau, điều

này giúp hỗ trợ nhau trong quá trình hoạt động và phát triển.

Những kết quả khác đạt được như: các quy định M&A đã được quy định tại

luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, ngoài ra Việt Nam đã có quy định

pháp luật riêng để điều chỉnh hoạt động M&A ngân hàng. Các chủ thể tham gia

hoạt động M&A ngân hàng đã có những nhận thức đầy đủ hơn về hoạt động

M&A ngân hàng. Trên thị trường Việt Nam đã hình thành các công ty tư vấn,

môi giới chuyên về hoạt động M&A.

2.3.3 Những tồn tại

Ngoài những kết quả đạt được ở trên, hoạt động M&A ngân hàng tại thị trường

Việt Nam cò có những tồn tại như: hoạt động M&A mới chỉ dừng lại ở Việc mua

cổ phần, vốn gốp, hoạt động M&A ngân hàng chưa theo thông lệ quốc tế. Từ trước

đến nay, Việt Nam đã có nhiều trường hợp sáp nhập, nhưng không phải cơ chế sáp

nhập, mà là chuyển giao quyền lực, ví dụ như thay thế chủ tịch hội đồng quản trị.

Còn việc các ngân hàng lớn như Vietcombank trước đây nhận một số ngân hàng

nhỏ chỉ là nhận vào để giải quyết hậu quả tồn đọng, không phải là do chủ động

M&A. Pháp luật để điều chỉnh hoạt động M&A nói chung và M&A ngân hàng nói

riêng đã có nhưng chưa được quy định rõ ràng, cụ thể, mới chỉ quy định về mặt

47

hình thức hồ sơ. Vấn đề định giá các ngân hàng cũng là một khó khăn lớn gây cản

trở hoạt động M&A ngân hàng, cũng chính vì lí do này mà Vietcombank và

Vietinbank đến giờ vẫn chưa tìm được đối tác chiến lược. Ngoài ra còn một số vấn

đề như: vấn đề nguồn nhận lực cho hoạt động M&A còn thiếu và yếu, vấn đề nhận

thức của các chủ thể tham gia hoạt động M&A và vấn đề thiếu minh bạch thông tin

liên quan đến hoạt động M&A ngân hàng. Những tồn tài này cũng chính là những

nhân tố cản trở hoạt động M&A ngân hàng, và sẽ được nêu chi tiết dưới đây.

2.3.4 Những nhân tố thúc đẩy và cản trở hoạt động mua bán và sáp nhập

(M&A) các ngân hàng thương mại Việt Nam.

2.3.4.1 Những nhân tố thúc đẩy.

Các NH Việt Nam đã thực hiện hoạt động M&A từ đầu những năm 1990, tuy

nhiên hoạt động M&A này chưa theo thông lệ quốc tế. Hiện thị trường tài chính

đã rộng mở cho các nhà đầu từ nước ngoài thì hoạt động M&A ngân hàng trở

nên là vấn đề sôi động, thị trường ngân hàng Việt Nam đã có những yếu tố thúc

 Thứ nhất: Số lượng ngân hàng tại thị trường Việt Nam nhiều, nhưng chất

đẩy hoạt động M&A ngân hàng sau:

lượng chưa cao:

Đến 31/12/2010 thị trường Việt Nam có 52 NHTM, trong đó: 47 ngân hàng

nội địa và 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài; 48 chi nhánh ngân hàng nước

ngoài; Ngoài ra còn có 31 tổ chức tín dụng phi ngân hàng; 01 quỹ tín dụng nhân

dân trung ương; 1053 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Theo IMF thì GDP bình quân

theo đầu người của Việt Nam sếp thứ hạng 123/180 quốc gia và vùng lãnh thổ

trên thế giới. Là nước có dân số khoảng 85 triệu người, nhưng GDP của Việt

Nam chỉ khoảng 65 tỷ đô la mỹ, trong khi dân số của Hàn Quốc chỉ khoảng gần

50 triệu dân, nhưng GDP của họ đạt gần 1.000 tỷ đô la Mỹ. Mặc dù GDP thấp

hơn 15 lần, nhưng số lượng ngân hàng tại thị trường Việt Nam lại gấp hơn 8 lần

số lượng ngân hàng của Hàn Quốc. Tuy số lượng ít nhưng quy mô và chất lượng

48

hoạt động của các ngân hàng tại Hàn Quốc tốt nên các ngân hàng của họ là trụ

cột của nền kinh tế đứng thứ 12 trên thế giới.

Bảng 2.4: số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam tính đến 31/12/2010

Khối Ngân hàng Số lượng

Khối NHTMNN 5

Khối NHTMCP 37

53 Khối NH có yếu tố nước ngoài

Nguồn : www.sbv.com.vn

Dù gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế và tài chính, nhưng trong vài

năm qua các ngân hàng vẫn chạy đua mở rộng mạng lưới, số điểm giao dịch hiện

đã lên tới hơn 1000 điểm giao dịch. Nhưng các địa điểm phân bố không đồng đều,

địa điểm giao dịch thường tập trung ở những khu vực đô thị sầm uất, mật độ điểm

giao dịch cao, cạnh tranh khốc liệt. Đặc biệt là thị trường Hà Nội và Tp.HCM.

Điều đáng nói là mở rộng mạng lưới nhưng vốn điều lệ không cao, việc mở rộng

mạng lưới để chiếm lĩnh thị trường là điều không sai, hơn nữa khi mà mức độ áp

dụng khoa học công nghệ vào sản phẩm ngân hàng chưa cao. Tuy nhiên, mở rộng

mạng lưới mà vốn không nhiều, hoạt động không hiệu quả sẽ tạo ra sự không lành

mạnh và ẩn chứa nhiều nguy cơ cho hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thì có nhiều biện

pháp, trong đó hoạt động M&A là xu hướng đúng đắn, bởi hoạt động M&A sẽ

mang lại nhiều lợi thế như: cắt giảm chi phí, mở rộng thị trường, phát triển

thương hiệu…từ đó nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động để có thể

 Thứ hai: Áp lực tăng vốn

cạnh tranh với các tập đoàn tài chính nước ngoài.

Các ngân hàng nhỏ sẽ bị áp lực tăng vốn theo quy định và để đạt được quy

mô như các tập đoàn tài chính ngân hàng trong khu vực. Theo Nghị định số

141/2006/NĐ-CP, đến 31/12/2008 vốn điều lệ của các NHTM cổ phần tại Việt

49

Nam phải là 1.000 tỷ đồng và đến 31/12/2010 phải đạt mức 3.000 tỷ đồng, đến

31/12/2010 mới chỉ có 28/37 NHTMCP tăng vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng trở

lên. Mười ngân hàng còn lại có vốn điều lệ từ 1.500 – 2.800 tỷ đồng và không

thể tăng vốn đúng thời hạn do thị trường chứng khoán diễn biến không thuận lợi,

mười ngân hàng chưa đạt được mức vốn 3.000 tỷ đồng, như: NH Phương Đông

(OCB), NH phát triển nhà TP.HCM(HDB), NH Nam Á, NH Đệ Nhất(FCB), NH

Nam Việt(NVB), NH Gia Định(GDB), NH Phương Tây (WEB), Sài Gòn Bank

(SGB) và NH Bảo Việt (BVB). Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính

trong và ngoài nước, việc tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng là thách thức lớn

cho các ngân hàng, trong khi đó hoàn cảnh ra đời nghị định 141 là vào năm 2006

lúc đó tình hình kinh tế Việt Nam và thế giới đang rất khả quan, chính vì vậy

việc tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng vào 31/12/2010 đã được Chính phủ cho

gia hạn thêm 1 năm. Việc tăng vốn là cần thiết phải thực hiện vì sự an toàn của

chính mỗi ngân hàng và hệ thống ngân hàng.

Hiện tại quy mô vốn của các NH Việt Nam là rất thấp so với các ngân hàng

trong khu vực và trên thế giới, nên việc tăng vốn điều lệ chắc chắn không chỉ

dừng lại ở mức 3.000 tỷ đồng mà còn phải cao hơn nữa để đạt được mức vốn của

các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Có như vậy thì các ngân hàng Việt

 Thứ ba: Chính phủ, NHNN đã có chủ trương M&A các ngân hàng để

Nam mới có tiềm lực mạnh để có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.

nâng cao năng lực tài chính cũng như hiệu quả hoạt động.

Trước đây, các đề án chấn chỉnh, sắp sếp lại NHTM được ban hành đã góp

phần tạo những bước đi đầu tiên cho hoạt động M&A các ngân hàng Việt Nam.

Bằng việc ban hành thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11 tháng 02 năm 2010

về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD, gồm: NHTM, công ty tài chính,

công ty cho thuê tài chính, tổ chức hợp tác xã. Và nghị định số 69/2007/NĐ-CP

ngày 20/04/2007 về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTM Việt

50

Nam và thông tư số 07/2007 để hướng dẫn nghị định trên. Cho thấy Chính phủ

cũng như NHNN đã có những động thái cụ thể cho hoạt động M&A các ngân

 Thứ tư: Tham gia hoạt động M&A trong ngành ngân hàng tại Việt Nam là

hàng tại Việt Nam.

một trong những chiến lược của các tập đoàn tài chính ngân hàng nước ngoài.

Khi thâm nhập vào thị trường ngân hàng Việt Nam, các tổ chức tài chính

ngân hàng nước ngoài thường chọn các đối tác là các ngân hàng lớn, có uy tín và

làm ăn có hiệu quả của Việt Nam để trở thành cổ đông lớn, cổ động chiến lược.

Động lực để các tập đoàn tài chính ngân hàng nước ngoài trở thành đối tác chiến

lược của các ngân hàng có uy tín là vì: thứ nhất, việc thành lập ngân hàng liên

doanh hoặc 100% vốn nước ngoài còn gặp rất nhiều khó khăn về thủ tục pháp lý,

quy định vốn điều lệ tối thiểu, chứng minh tài sản và tiềm lực tài chính; Thứ hai,

ngay cả khi đã thành lập được các chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài,

mặc dù được đánh giá là những tổ chức làm việc chuyên nghiệp, nhưng các ngân

hàng này chưa thực sự am hiểu tường tận thị trường nội địa, rất khó khăn trong

việc tiếp cận khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân; Thứ ba, việc mở rộng

mạng lưới chi nhánh cũng không dễ dàng để có thể nhanh chóng chiếm được thị

phần vốn là thế mạnh của các ngân hàng nội địa. Việc lựa chọn làm đối tác của

những ngân hàng thương mại lớn là một lựa chọn chiến lược cho kế hoạch thâm

nhập tài chính Việt Nam, đây là một khoản đầu tư lâu dài, đảm bảo sinh lời cao

và an toàn. Các ngân hàng được lựa chọn đều là những thương hiệu hàng đầu

trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, có uy tín, có kết quả làm ăn tốt.

Tuy nhiên, với tiềm lực tài chính lớn, kỹ năng quản trị chuyên nghiệp và hiện

đại, không loại trừ khả năng các ngân hàng nước ngoài muốn thực hiện các vụ

M&A đối với các ngân hàng trong nước đang là những khúc dạo. Các ngân hàng

nước ngoài đều tin triển vọng dài hạn của kinh tế Việt Nam là sáng sủa, cho nên

sẽ không ngạc nhiên nếu họ tiếp tục tìm cách mua các ngân hàng trong nước.

51

 Thứ năm: Các tổ chức tư vấn và hỗ trợ hoạt động M&A tại Việt Nam

Sự ra đời của nhiều tổ chức tư vấn hoạt động M&A là tất yếu hỗ trợ cần thiết

nhằm đáp ứng nhu cầu M&A của các doanh nghiệp và ngân hàng thực hiện hoạt

động M&A. Vì khi tiến hành hoạt động M&A thì vai trò của tổ chức tư vấn là

hết sức quan trọng để đảm bảo cho giao dịch đúng giá trị, đúng pháp luật, bảo vệ

được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Hiện nay, Việt Nam có hơn 50 tổ

chức đang cung cấp dịch vụ M&A. Nhiều công ty đã có sàn giao dịch M&A trên

Website với mục đích kết nối các doanh nghiệp có nhu cầu M&A. Sàn giao dịch

M&A trực tuyến cung cấp doanh mục các cơ hội mua và bán doanh nghiệp, qua

đó doanh nghiệp cũng có thể đăng tin mua hoặc bán, giúp tiết kiệm thời gian và

chi phí cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm đối tác. Đồng thời các sàn giao

dịch này còn cung cấp các thông tin về hoạt động M&A mới nhất trong nước và

quốc tế. Một số tổ chức tư vấn, hỗ trợ hoạt động M&A chuyên nghiệp tại Việt

Nam như: Công ty cổ phần đầu tư tài chính quốc tế và phát triển doanh nghiệp,

công ty cổ phần mua bán doanh nghiệp và kết nối đầu tư quốc tế, công ty đầu tư

tài chính Việ Nam…

 Thứ nhất: Môi trường pháp lý

2.3.4.2 Những nhân tố cản trở.

Các hoạt động M&A ngân hàng diễn ra chưa theo khuôn mẫu định sẵn của

khung pháp lý mà theo từng sự vụ cụ thể. Hoạt động M&A tại Việt Nam được

điểu chỉnh bởi các luật như: Luật cạnh tranh năm 2004, Luật doanh nghiệp năm

2005, có nhắc đến ở luật đầu tư năm 2005. Tuy nhiên luật đầu tư chỉ đề cập đến

hoạt động mua bán, sáp nhập như là hoạt động đầu tư, còn luật cạnh tranh năm

2004, luật doanh nghiệp năm 2005 mới chỉ dừng lại ở việc đề cập đến hoạt động

M&A ở các khái niệm. Mặt khác cả ba luật trên đều chỉ đề cập đến việc mua

bán, sáp nhập doanh nghiệp chứ chưa nói đến trường hợp doanh nghiệp đặc biệt

là ngân hàng.

52

Gần đây, NHNN mới ban hành thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày

11/02/2010 về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD để thay thế cho quyết

định 241 ngày 15/07/1998 về quy chế sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD cổ

phần Việt Nam.

Các khái niệm mua bán, sáp nhập, hợp nhất được đề cập đến các văn bản

pháp luật trên chưa thống nhất, chẳng hạn luật doanh nghiệp 2005 không đề cập

đến khái niệm mua lại. Trong quá trình xây dựng các văn bản luật, hoạt động

M&A chưa đạt được sự thống nhất giữa các cơ quan quản lý Nhà nước. Thể hiện

ở chỗ, các quy định điều chỉnh hoạt động M&A của các cơ quan quản lý nhà

nước còn chưa rõ ràng, thống nhất, dẫn tới xung đột về cách hiểu, cách giải thích

của các cơ quan quản lý nhà nước. Ngoài ra thẩm quyền quản lý của các đơn vị

chủ quản đối với từng loại hình doanh nghiệp cũng khác nhau, như: M&A liên

quan đến doanh nghiệp niêm yết do ủy ban chứng khoán, liên quan đến đầu tư

trực tiếp nước ngoài do Bộ kế hoạch và đầu tư. Thêm vào đó các cơ quan nhà

nước vẫn chưa thống nhất được M&A là hoạt động đầu tư trực tiếp hay gián tiếp.

Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau, giữa các cấp với

nhau trong việc quản lý nhà nước hoạt động M&A và hướng dẫn thực hiện các

thương vụ M&A chưa được tốt, thể hiện ở chỗ, cùng một thương vụ, nhưng

doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ, tiến hành thủ tục ở các cấp và cơ quan nhà

nước khác nhau do nhiều luật cùng quy định về một hành vi và nhiều cơ quan

quản lý nhà nước cùng giám sát.

Khái niệm tập trung kinh tế trong luật cạnh tranh chưa thật rõ ràng để có thể

hạn chế tác động bất lợi của hoạt động M&A ngân hàng và doanh nghiệp, chẳng

hạn, luật cạnh tranh cấm các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị

trường liên quan từ 30% trở lên là rất khó thực hiện trong thực tiễn, vì trong thực

tiễn chúng ta chưa có cơ chế phù hợp để xác định giao dịch vi phạm tỷ lệ này.

53

Thông tư 04/2010/TT-NHNN ngày 11/02/2010 chỉ đề cập đến các yếu tố

liên quan đến giấy tờ bao gồm: trình tự, thủ tục, điều kiện, hồ sơ sáp

nhập….Những vấn đề quan trọng khác như: định giá, phương pháp định giá,

quyền và nghĩa vụ các bên tham gia, nhân sự, các vấn đề hậu sáp nhập… lại

không được đề cập đến. Điều này dẫn đến tình trạng tuy đã có hành lang pháp lý

nhưng các ngân hàng muốn thực hiện M&A chẳng dễ để thực hiện được. Do đó

muốn thực hiện hoạt động M&A các ngân hàng phải tự dò dẫm đường đi, tự học

 Thứ hai: Vấn đề định giá trong hoạt động M&A ngân hàng

hỏi kinh nghiệm từ các vụ sáp nhập ngân hàng trên thế giới.

Vấn đề định giá là vấn đề rất khó đối với các bên tham hoạt động M&A, vì

tại Việt Nam hiện thiếu các kỹ thuật và kinh nghiệm để định giá. Phương pháp

phổ biến hiện nay là phương pháp dựa vào giá trị tài sản, tuy nhiên phương pháp

này gặp nhiều khó khăn vì ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, phần lớn tài

sản của ngân hàng là các khoản cho vay, các khoản cho vay này có mức độ rủi ro

khác nhau. Nếu chỉ dựa vào bảng cân đối kế toán thì cũng không chính xác, vì

giá trị của ngân hàng còn thể hiện ở thương hiệu, thị phần…, giá trị tại bảng cân

đối kế toán mới chỉ là giá trị sổ sách. Hơn nữa giá trị thương hiệu và thị phần…

cũng rất khó định giá. Do đó để định giá chính xác giá trị thị trường của ngân

hàng cần nhiều thời gian và chi phí.

Mặt khác hiện nay mức độ minh bạch của các ngân hàng tại Việt Nam không

cao, các quy định về bảo đảm an toàn các khoản cho vay và chế độ kế toán chưa

thống nhất và chặt chẽ. Thực tế có nhiều trường hợp không thể tiến đến hoạt

động M&A do không thống nhất được cách thức định giá, như trường hợp ngân

hàng Sài Gòn Công Thương và ngân hàng Gia Định, ngân hàng Sài Gòn Thương

Tín và ngân hàng Sông Kiên (Kiên Giang).

54

 Thứ ba: Mức độ nhận thức và quân tâm của các bên tham gia hoạt động

M&A.

Tâm lý các nhà lãnh đạo sợ mất đi lợi ích và địa vị nên không muốn tham gia

hoạt động M&A. Hiểu biết của lãnh đạo, cổ đông của ngân hàng về hoạt động

M&A còn nhiều hạn chế, chưa hiểu hết được lợi ích to lớn mà hoạt động M&A

mang lại. Vì vậy ít có trường hợp các ngân hàng tự tìm đối tác để thực hiện hoạt

động M&A, mà thông thường là theo sự chỉ đạo bắt buộc của Chính Phủ, NHNN.

Mặt khác, các bên cũng ngại tham gia hoạt động M&A, vì môi trường văn

hóa khác nhau khi kết hợp lại với nhau sẽ dễ phát sinh vấn đề như: xung đột

trong cách làm việc, phong cách làm việc, mâu thuẫn giữa các nhà lãnh đạo các

 Thứ tư: Nhân lực trong quá trình thực hiện hoạt động M&A.

bên khi làm việc chung….

M&A là một nghiệp vụ tài chính rất phức tạp, đặc biệt là M&A trong lĩnh

vực ngân hàng tài chính. Một thương vụ thường có nhiều bên tham gia như kiểm

toán, pháp lý, tài chính…, thường kéo dài nhiều năm, do đó cần rất nhiều nhân

lực khi tham gia. Hơn nữa đây là một ngành mới, nên chịu sự cạnh tranh khốc

liệt của các doanh nghiệp cùng ngành nghề và các lĩnh vực khác. Hiện nhân sự

có trình độ tay nghề cao trong lĩnh vực M&A đang rất khan hiếm. Nguồn nhân

lực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường về hoạt động M&A.

Mặt khác, việc phân bổ và đào tạo nguồn nhân lực của ngân hàng hậu M&A

như thế nào cũng là một vấn đề khó khăn, vì khi một vụ M&A thành công sẽ

 Thứ năm: Minh bạch thông tin liên quan đến hoạt động M&A.

thay đổi cơ chế, chính sách, quy trình làm việc của ngân hàng.

Vấn đề minh bạch hóa thông tin tài chính của các ngân hàng vẫn còn chưa

tốt, nhiều ngân hàng chưa tham gia vào thị trường chứng khoán gây khó khăn

cho việc tìm hiểu về hoạt động, tài chính….Đây là những cản trở không nhỏ cho

việc thực hiện hoạt động M&A các ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra tìm hiểu về

55

các điều kiện, thủ tục M&A doanh nghiệp cũng như ngân hàng đang là một khó

khăn lớn. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này chưa được quy định cụ thể rõ

 Thứ sáu: Lĩnh vực tài chính, ngân hàng chưa mở cửa hoàn toàn cho nhà

ràng.

đầu tư nước ngoài và suy thoái kinh tế toàn cầu.

Hoạt động tài chính ngân hàng vẫn chưa mở cửa hoàn toàn đối với nhà đầu

tư nước ngoài, như không cho phép tổ chức cá nhân mua quá 30% tổng số vốn

cổ phần của các ngân hàng thương mại, trừ khi pháp luật có quy định khác hoặc

được sự chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc quy định như

trên chủ yếu để phòng tránh sự đỗ vỡ hoặc thôn tính trong lĩnh vực ngân hàng.

Hiện nay hầu hết các hoạt động M&A ngân hàng chỉ là mua cổ phiếu hay mua

lại phần vốn góp trong vốn điều lệ. Mặt khác do khủng hoảng kinh tế tài chính

toàn cầu đã làm cho tiềm lực tài chính của các nhà đầu tư nước ngoài không còn

tiềm lực như trước, điều này hạn chế khả năng tham gia hoạt động M&A của các

nhà đầu tư nước ngoài.

KẾT LUẬN CHƯƠNG II

Tóm lại: hoạt động M&A các ngân hàng tại Việt Nam trước năm 2005 là

theo chủ trương của Chính phủ, NHNN không phải theo sự chủ động, tự thân của

các ngân hàng. Sau 2005 đến nay là thời gian sôi động của những thương vụ mua

cổ phần giữa nhà đầu tư nước ngoài và các ngân hàng trong nước để trở thành

nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư chiến lược. Và sự sở hữu chéo cổ phần giữa các ngân

hàng trong nước với nhau. Đây chưa phải là hoạt động M&A đúng nghĩa. Tuy

nhiên trong năm 2011 đã xuất hiện những thương vụ M&A đúng nghĩa. Mặt

khác chương 2 cũng đã chỉ ra được những nhân tố cản trở và thúc đẩy hoạt động

M&A tại Việt Nam.

56

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP (M&A) CÁC NHTM Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015.

3.1 Định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2015.

Nhiệm vụ chủ yếu của kinh tế Việt Nam đến 2015 là ổn định kinh tế vĩ

mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng,

hiệu quả, phát triển bền vững; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn

lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể

chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Từ nay đến 2015 kinh tế Việt Nam phấn đấu đạt các chỉ tiểu chủ yếu

như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011-2015: 7,0-

7,5%/năm. Năm 2015 GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD; Cơ

cấu GDP: nông nghiệp 17-18%, công nghiệp và xây dựng 41-42%, dịch vụ

41-42%; sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao

đạt 35% tổng GPD; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%. Kim ngạch xuất

khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020

cân bằng được xuất nhập khẩu. Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm

đạt 40% GDP. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 23-24% GDP;

giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015.

3.2 Định hướng phát triển của hệ thống NH Việt Nam 2011- 2015

Trải qua hơn 24 năm đổi mới và phát triển, khu vực ngân hàng Việt

Nam mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, song trong giai đoạn

phát triển tới, cần phải tập trung phấn đấu nâng cao năng lực tài chính và

năng lực hoạt động bắt kịp tốc độ phát triển của ngân hàng một số nước

phát triển trong khu vực. Việt Nam đến năm 2015 phải đảm bảo phát triển

một hệ thống ngân hàng vững mạnh, cạnh tranh và năng động, hỗ trợ và

57

đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, phải

hướng tới một nền tảng công nghệ ngân hàng sẵn sàng đối mặt với những

thách thức của tự do hóa và toàn cầu hóa.

Từ nay đến 2015, hệ thống ngân hàng Việt Nam tiếp tục tạo ra những

bước đột phá mới, xây dựng một hệ thống ngân hàng phát triển ổn định

bền vững với qui mô ở mức trung bình thế giới và khu vực, đảm bảo sự ổn

định thị trường tài chính.

Ngân hàng Nhà nước tập trung xây dựng và phát triển thành một ngân

hàng trung ương với tầm nhìn, triển vọng vì lợi ích của khu vực tài chính,

củng cố và nâng cao niềm tin của dân chúng đối với những động thái

chính sách của Ngân hàng Nhà nước; thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả,

chủ động với các công cụ của chính sách tiền tệ (lãi suất, tỷ giá) mang tính

thị trường; từng bước tiến tới tự do hóa thị trường tài chính; nâng cao

năng lực thanh tra giám sát ở một cấp độ mới.

Các tổ chức tín dụng, nhất là các NHTM trong nước, có những đổi mới

mạnh mẽ trong mô hình tổ chức, mở rộng các hoạt động xuyên quốc gia và

nếu đủ mạnh có thể từng bước thành lập một số tập đoàn tài chính; đổi

mới và nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực quản trị kinh doanh, quản

trị rủi ro, năng lực tài chính; xây dựng những điều kiện tín dụng mới, tạo

điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và

nhỏ tiếp cận nguồn vốn; phát triển tín dụng vi mô, các phương thức mới

để đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn và những những dịch vụ tài chính của nền

kinh tế. Điều này vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính

vừa điều chỉnh được cấu trúc của thị trường tài chính.

58

3.3 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) các NHTM Việt Nam đến 2015.

3.3.1 Nhóm giải pháp ở cấp vi mô.

3.3.1.1 Đối với các NHTM phải mua bán và sáp nhập.

Sau 5 năm gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đang được kỳ vọng vươn ra

biển lớn hoà nhập cùng kinh tế thế giới, tận dụng thời cơ để phát triển. Thành

quả thu được rất đáng kể nhưng những tác động xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế

toàn cầu cùng những bài học đắt giá từ những thất bại cũng không phải là nhỏ.

Điều quan trọng chính là đánh giá đúng tình hình hiện tại và xu hướng trong

tương lai từ đó nhận diện sát sao những thời cơ và thách thức có thể gặp phải

trong quá trình hội nhập. Với hoạt động M&A ngân hàng, tổ chức tín dụng cũng

vậy, đây không chỉ là trách nhiệm của Chính phủ, các nhà làm luật, Ngân hàng

Nhà nước mà còn là ở chính bản thân các ngân hàng có thể chọn lựa M&A là

một trong những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững

 Thứ nhất: Xây dựng mục tiêu và chiến lược, quy trình cụ thể cho hoạt động

trong hội nhập quốc tế. Vì vậy các NHTM cần:

M&A tại các NHTM

Khi các ngân hàng được sáp nhập, mua lại điều đó cũng có nghĩa là các

thương hiệu của họ sẽ là một, sẽ có một thương hiệu tiếp tục được chăm sóc và

một thương hiệu chuẩn bị sẽ bị mất đi. Thương hiệu không phải là tất cả mọi thứ

đối với một ngân hàng, nhưng đó là thứ duy nhất giúp ngân hàng khác biệt.

Thương hiệu tạo ra sự yêu mến và sự khác biệt trong trái tim và suy nghĩ của

khách hàng. Đó là lý do vì sao khách hàng chọn ngân hàng này mà không phải là

ngân hàng kia.

Mục đích của hoạt động M&A là tăng giá trị của ngân hàng bằng cách này

hoặc cách khác. Vì thế, chiến lược thương hiệu của các ngân hàng M&A cũng

59

phải được đặt mục tiêu làm tăng giá trị thương hiệu lên hàng đầu. Các ngân hàng

tham gia M&A nên quyết định chọn một chiến lược thương hiệu tiềm năng ngay

trong quá trình thương lượng sáp nhập, mua lại. Các nhà quản lý ngân hàng, đặc

biệt là chủ tịch hội đồng quản trị phải thực hiện nhiệm vụ của một người định

hướng thương hiệu, đó là phải thuyết phục ngân hàng đánh giá lại tài sản cả 2

thương hiệu hiện tại và lợi ích của thương hiệu tương lai. Để lựa chọn chiến lược

nào là phù hợp nhất cần có một cuộc nghiên cứu định tính gồm những nhóm cổ

đông chính được phân ra riêng rẽ bao gồm: khách hàng hiện tại, lãnh đạo ngân

hàng, cổ đông và phía bên ngân hàng đối tác.

Các ngân hàng cần chú ý các vấn đề trong quá trình thực hiện trước trong và

+ Cần phải xây dựng một chiến lược M&A có tính khả thi tránh sự dàn trải và

sau M&A như sau:

thiếu hiệu quả. Để thực hiện bước đi này, các ngân hàng cần tự kiểm tra lại

tình hình tài chính của mình để có thể hiểu rõ nhất các điểm mạnh cần phát

huy và điểm yếu cần khắc phục, các ngân hàng cũng cần làm việc với các

nhà phân tích và tư vấn trong lĩnh vực kinh doanh để hình thành một chiến

+ Tiếp vào đó, M&A không tránh khỏi phải đối mặt với những vấn đề khá

lược phát triển rõ ràng và thích hợp.

phức tạp như thuế, kế toán, chuyển đổi tài sản, phân chia lợi nhuận, trách

nhiệm giải quyết các khoản nợ chưa thanh toán của các ngân hàng tham gia

M&A, giải quyết lao động dôi dư, môi trường văn hóa ngân hàng, bảo vệ

môi trường, tính toán các vấn đề hậu sáp nhập làm sao cho giá trị ngân hàng

ngày càng tăng... để hấp dẫn các nhà đầu tư, do vậy các ngân hàng trước khi

thực hiện sáp nhập và mua lại cần phải thuê các nhà tư vấn có kinh nghiệm

về sáp nhập và mua lại để tiến trình được diễn ra một cách hiệu quả và

nhanh chóng.

60

+ Xây dựng một kế hoạch thời hậu sáp nhập và mua lại: Một cuộc mua lại và

sáp nhập không dễ dàng và còn rất nhiều vấn đề phát sinh có thể khiến tiến

trình sáp nhập và mua lại trục trặc hay thậm chí sụp đổ bất cứ lúc nào. Vì

vậy, điều quan trọng là cần có sự tham gia tích cực của các cấp lãnh đạo cao

nhất trong công ty từ việc việc lập kế hoạch, tài chính, chuyên gia tư vấn

 Thứ hai: Phối kết hợp với luật sư, các công ty tư vấn trong hoạt động M&A

cho đến quản lý thời hậu sáp nhập

Các giao dịch M&A không chỉ là phép cộng đơn thuần các doanh nghiệp,

ngân hàng lại với nhau, mà một giao dịch M&A kéo theo hàng loạt các vấn đề về

tư cách pháp nhân, vấn đề tài chính, thương hiệu, thị phần, thị trường, kiểm soát

tập trung kinh tế, kiểm soát giao dịch cổ phiếu... Do đó, khi ngân hàng có ý định

giao dịch M&A thì vai trò của các công ty tư vấn là rất quan trọng góp phần hỗ

+ Xác định chính xác loại giao dịch M&A của ngân hàng dự định tiến hành là

trợ, tư vấn cho ngân hàng các vấn đề trên, cụ thể như:

loại giao dịch nào, có thể là: Sáp nhập, mua lại chủ yếu theo quy định của

pháp luật về doanh nghiệp; Sáp nhập, mua lại như một hình thức đầu tư trực

tiếp nước ngoài chủ yếu theo quy định của pháp luật về đầu tư; Sáp nhập,

mua lại như một hình thức tập trung kinh tế chủ yếu chịu sự điều chỉnh chủ

yếu của pháp luật cạnh tranh; Mua cổ phần chủ yếu theo các quy định của

pháp luật chứng khoán; Sáp nhập, mua lại doanh nghiệp nhằm mục đích

phát triển thương hiệu chủ yếu chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu

trí tuệ....Việc thông qua tổ chức tư vấn xác định loại giao dịch M&A sẽ giúp

cho các bên xác định, nhận thức cụ thể loại giao dịch mà mình tiến hành;

luật điều chỉnh chủ yếu trong giao dịch M&A; cơ chế, quy trình tiến hành

giao dịch; định hướng việc thiết lập các điều khoản trong hợp đồng M&A;

và xác định nghĩa vụ thông tin, thông báo đến cơ quan quản lý của các

bên...

61

+ Tổ chức tư vấn có thể hỗ trợ ngân hàng thẩm định pháp lý và thẩm định tài

chính của ngân hàng bị sáp nhập, mua lại là một trong các công việc quan

trọng. Thẩm định pháp lý của ngân hàng giúp cho bên mua hiểu rõ tư cách

pháp lý, các quyền và nghĩa vụ pháp lý, chế độ pháp lý đối với các loại tài

sản, hợp đồng đối với người lao động, hồ sơ đất đai, xây dựng, đầu tư... để

trên cơ sở xác định tình trạng và các rủi ro pháp lý đưa ra quyết định mua

ngân hàng. Thẩm định pháp lý thường do các luật sư thực hiện thay mặt cho

ngân hàng bên bán. Vì vậy, luật sư tư vấn M&A đóng vai trò rất quan trọng

và kết luận về hồ sơ pháp lý của ngân hàng bị mua, bị sáp nhập là cơ sở để

các bên đưa ra quyết định mua bán, sáp nhập hay từ chối mua bán, sáp

nhập. Sau thẩm định pháp lý, ngân hàng bị mua, bị sáp nhập cũng có thể

tiến hành các thủ tục nhằm tái cấu trúc ngân hàng nhằm đáp ứng các yêu

cầu của bên mua. Thẩm định tài chính thường do các công ty kiểm toán hay

kiểm toán viên độc lập thực hiện. Về nguyên lý thì các bên trong giao dịch

M&A thường có mục đích kinh tế trái chiều nhau và điều này có thể ảnh

hưởng đến việc nâng và hạ giá doanh nghiệp. Ngân hàng bên mua muốn

mua với giá rẻ, ngân hàng bên bán muốn bán với giá cao và có thể che giấu

những vấn đề hay rủi ro tài chính của ngân hàng. Bởi vậy trong một thương

vụ M&A, vai trò kiểm toán viên cũng rất quan trọng để thẩm định và đưa ra

kết luận về giá trị thực tế doanh nghiệp (cả hữu hình và vô hình) và giúp

cho hai bên tiến lại gần nhau để đi đến thống nhất nhanh hơn là để ngân

+ Ngân hàng bị mua, bị sáp nhập là một thực thể pháp lý “sống” với đầy đủ

hàng tự giao dịch.

các nhân tố riêng như chế độ quản trị, nguồn nhân lực, văn hoá doanh

nghiệp, lĩnh vực kinh doanh, khách hàng... Các ngân hàng trong mỗi thương

vụ M&A đều có những nét khác biệt đặc biệt về yêu cầu, lợi ích, sự ràng

buộc bởi vậy không thể có hợp đồng mẫu nào chung cho tất cả các giao

62

dịch M&A. Thông qua hỗ trợ của tổ chức tư vấn các bên ngân hàng sẽ thỏa

thuận các quy định, các điều khoản cơ bản liên quan đến giao dịch M&A

đưa vào hợp đồng đầy đủ các đặc điểm yêu cầu, lợi ích, sự ràng buộc riêng

biệt của ngân hàng. Nếu hợp đồng M&A chỉ dừng lại ở các nội dung cơ

bản, không bao quát hết sẽ dẫn đến những mâu thuẫn nội tại ngay bên trong

khi quá trình M&A kết thúc. Điều đó rất bất lợi cho ngân hàng mua, sáp

nhập sau này. Ngoài ra, các bên ngân hàng cũng sẽ được tư vấn về các vấn

đề cần lưu tâm của “hậu” M&A, bởi vì không giống như việc mua bán hàng

hoá thông dụng khác, ngân hàng bị sáp nhập, bị mua sẽ chuyển giao toàn bộ

 Thứ 3: Định giá và lựa chọn phương pháp định giá phù hợp

các giá trị, các hoạt động vào ngân hàng mua, sáp nhập.

Định giá là một trong những nhân tố cản trở hoạt động M&A các ngân hàng

tại Việt Nam do tính chất đặc thù ngành và vấn đề minh bạch thông tin. Do đó

khi tham gia hoạt động M&A các ngân hàng cần thuê các tổ chức định giá có uy

tín, hoặc nếu chủ động thực hiện định giá thì phải sử dụng nhiều phương pháp

định giá, bởi vì mỗi phương pháp định giá đều có những ưu và nhược điểm .

+ Phương pháp chiết khấu theo dòng tiền, phương pháp này chỉ chính xác khi

Dưới đây là hai phương pháp định giá để các ngân hàng có thể tham khảo:

áp dụng với các ngân hàng đã có sự tăng trưởng ổn định và dễ dự đoán như

ở các nền kinh tế phát triển, tuy nhiên lại không phù hợp với tình hình và

bối cảnh của nước ta hiện nay. Phương pháp này phụ thuộc rất nhiều vào

các yếu tố giả định về thị trường cũng như khả năng tăng trưởng trong

tương lai. Mặt khác, các số liệu kế toán trong quá khứ của doanh nghiệp và

ngân hàng cũng chưa đủ độ tin cậy và chi tiết để có thể thực hiện việc phân

+ Phương pháp hệ số nhân doanh thu/lợi nhuận, phương pháp này thường

tích một cách chính xác.

được nhà đầu tư lựa chọn thay thế, hoặc sử dụng cùng với phương pháp

63

chiết khấu dòng tiền. Với phương pháp này, nhà đầu tư sử dụng các số liệu

về doanh thu hay lợi nhuận, hoặc EPS của ngân hàng nhân với một hệ số

nhân mà có thể chấp nhận được trên thị trường. Tuy nhiên, phương pháp

này cũng có những hạn chế nhất định khi mà thị trường chứng khoán Việt

Nam đang phát triển thì hệ số nhân này thường được nhà đầu tư trên thị

trường chấp nhận ở mức cao. Ngoài ra, phương pháp này chỉ sử dụng các số

liệu về lợi nhuận hiện tại cho các chỉ số P/E hiện tại, còn với các chỉ số P/E

tương lai thì cũng phải dùng phương pháp dự đoán tài chính như phương

 Thứ 4: Lựa chọn thời điểm giao dịch M&A và minh bạch thông tin

pháp chiết khấu dòng tiền.

Mua bán sáp nhập doanh nghiệp, ngân hàng hiện đang là xu thế chung trên

thế giới trong tất cả các lĩnh vực, càng sôi động với khu vực có tính chi phối cao

như khu vực tài chính. Các NHTM Việt Nam cần có thái độ tích cực và chủ động

tham gia vào xu hướng này, cần có quan điểm tích cực, xem sáp nhập và mua lại

giữa các ngân hàng với các ngân hàng và các doanh nghiệp phi ngân hàng trong

và ngoài nước là một tất yếu, khách quan, nên được nghiên cứu, sử dụng phù

hợp với chiến lược phát triển và kinh doanh của từng ngân hàng;

Không kể đến những thương vụ mua bán, sáp nhập theo kiểu thâu tóm. Mua

bán, sáp nhập nếu có sự chủ động, chuẩn bị kỹ lưỡng và sự phù hợp giữa hai bên

đối tác sẽ dễ dàng tạo ra hiệu quả cộng hưởng của định chế tài chính có ảnh

hưởng lớn trên thị trường.

Với các NHTM Việt Nam đã có thương hiệu, có thị phần vững chắc, đương

nhiên sẽ có tính chủ động cao trong việc tìm kiếm con đường đi của riêng mình.

Việc các đối tác chiến lược nước ngoài nắm giữ tới 10 - 15%, thậm chí 20% cổ

phần chưa thể có sức chi phối hoàn toàn với các hoạt động của ngân hàng. Các

đối tác sẽ mang lại cho ngân hàng những giá trị mới về quản trị tài chính, quản

64

trị rủi ro, những kinh nghiệm và kỹ năng quốc tế - vốn là điểm yếu và rất cần

thiết với các NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập.

Với các NHTM nhỏ, mua bán, sáp nhập là giải pháp nên cân nhắc và xem xét

khi việc tạo dựng uy tín và chiếm giữ thị phần trong thời gian ngắn một cách độc

lập là rất khó khăn. Việc tăng vốn điều lệ đồng nghĩa phải gắn liền với các dự án

và hoạt động giải ngân hợp lý. Bên cạnh đó là áp lực cạnh tranh sẽ buộc các ngân

hàng này phải xích lại gần với nhau hơn, hoặc kết hợp hoàn toàn với một ngân

hàng lớn. Vấn đề là lựa chọn đối tác nào cho phù hợp với tiêu chí hoạt động của

ngân hàng mà thôi.

Về mặt kiến thức, các ngân hàng cần có sự nghiên cứu, đào sâu về hoạt động

sáp nhập và mua lại ngân hàng và học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng trên

thế giới đã thực hiện sáp nhập và mua lại nhằm mục đích chuẩn bị tốt cho hoạt

động sáp nhập và mua lại trong tương lai nếu ngân hàng có thể tiến hành và có

thể phòng vệ tốt trước nguy cơ bị thâu tóm.

Để tạo được sự tin cậy cho các đối tác thì thông tin về ngân hàng cần phải

được minh bạch, rõ ràng. Các ngân hàng cần tích cực hơn nữa trong việc minh

bạch hóa các thông tin tài chính. Và cách tốt nhất đó là định kỳ cung cấp các

thông tin tài chính về hoạt động của mình trên các phương tiện thông tin đại

chúng và nhanh chóng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán tập trung.

Hiện nay mới chỉ có cổ phiếu của 8 ngân hàng được niêm yết trên sàn giao dịch

chứng khoán tập trung, đó là NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Mã chứng khoán

STB), NHTMCP Ngoại thương Việt Nam (Mã chứng khoán VCB), NHTMCP

Công thương Việt Nam (Mã chứng khoán CTG) niêm yết tại Sở Giao dịch

chứng khoán TPHCM, NHTMCP Á Châu (Mã chứng khoán ACB) và NHTMCP

Sài Gòn - Hà Nội (Mã chứng khoán SHB) niêm yết tại Trung tâm giao dịch

chứng khoán Hà Nội, Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Mã chứng

khoán EIB), NHTMCP Nhà Hà Nội (mã chứng khoán HBB) và NHTMCP Nam

65

Việt (NAV). Còn lại cổ phiếu của hơn 30 ngân hàng khác vẫn chủ yếu được giao

dịch trên thị trường tự do (OTC). Do không phải chịu áp lực công bố thông tin

như khi niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung, phần lớn các ngân

hàng có cổ phiếu chưa niêm yết đều chưa thực hiện đầy đủ việc công bố thông

tin định kỳ về hoạt động của mình, có chăng mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp

các số liệu về doanh thu, lợi nhuận, dư nợ, huy động vốn... Còn phần lớn những

thông tin biến động khác về hoạt động kinh doanh trong kỳ lại ít được công bố.

Do đó sẽ rất khó cho phía các ngân hàng hay các tổ chức tài chính đối tác đang

trong quá trình tìm kiếm đối tác hợp tác trong thương vụ M&A.

Vì vậy, khi việc minh bạch hóa thông tin được thực hiện tốt, các nhà đầu tư,

các ngân hàng khác sẽ dễ dàng tiếp cận và cùng ngân hàng bàn thảo kế hoạch sáp

nhập cho một sự liên kết lớn hơn và có hiệu quả hơn.

3.3.1.2 Đối với các cơ quan, đơn vị có liên quan.

Ngoài NHNN, bản thân các NHTM còn có các cơ quan, đơn vị có liên quan

như: các cơ quan quản lý nhà nước tham gia quản lý, các đơn vị hỗi trợ, cổ đông,

người sở hữu ngân hàng. Cụ thể như:

Mỗi cơ quan quản lý liên quan đến hoạt động M&A cần quy định rõ ràng, cụ

thể các quy trình, quy định liên quan đến hoạt động M&A mà mình quản lý,

tránh quy định chung chung, dễ gây hiểu lầm cho các bên tham gia và cũng tránh

tình trạng mỗi nơi hiểu một kiểu. Mặt khác các cán bộ của các cơ quan quản lý

nhà nước tham gia hoạt động M&A cũng cần phải được đào tạo bài bản để trực

tiếp quản lý được trôi chảy. Đồng thời các cơ quan này phải có sự phối hợp nhịp

nhàng với các cơ quan quản lý khác.

Các các đơn vị hỗ trợ như: tư vấn, kiểm toán, luật sư…, các đơn vị hỗ trợ

đóng vai trò lớn đối với sự thành công của thương vụ M&A, do đó việc nâng cao

trình độ, hiệu quả hoạt động của các đơn vị này là việc hết sức quan trọng. Để

66

nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị này trước hết phải bắt đầu từ nguồn

nhân lực, hiện nguồn nhân lực cho lĩnh vực này vừa thiếu vừa yếu.

Đối với các cổ đông, người sở hữu ngân hàng: Hoạt động M&A ngân hàng

có tác động lớn đến lợi ích và rủi ro đối với cổ đông, người sở hữu, là người

tham gia quyết định việc có tham gia hoạt động M&A hay không. Vì vậy cổ

đông và người sở hữu cần nâng cao mức độ hiểu biết về hoạt động M&A.

3.3.2 Nhóm giải pháp ở cấp vĩ mô mang tính chất kiến nghị

 Thứ nhất: Ban hành đạo luật riêng cho hoạt động M&A các NHTM.

3.3.2.1 Đối với Quốc hội và Chính phủ

Hiện nay, vấn đề cần thiết đối với hoạt động M&A chính là hoàn thiện hành

lang pháp lý về M&A. Với việc ban hành đạo luật riêng cho hoạt động M&A các

NHTM sẽ tạo điều kiện để xác lập giao dịch, địa vị của bên mua, bên bán, hậu

quả pháp lý sau khi kết thúc giao dịch. Đạo luật ra đời cần phải giải quyết được

các vấn đề mà hiện hành lang pháp lý về lĩnh vực này còn thiếu, cụ thể như sau:

Cần chú trọng đến quy định về nội dung liên quan đến M&A hơn là việc xác

lập về mặt hình thức: Hiện nay, các quy định liên quan đến hoạt động M&A để

xác lập giao dịch đã được hình thành trong các quy định của Bộ luật Dân sự,

Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh... Tuy nhiên, các quy định này

mới chỉ dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động M&A, trong khi

đó, các vấn đề về mặt nội dung cần phải được quy định đầy đủ hơn nữa, bởi vì

hoạt động M&A còn có nhiều nội dung liên quan đến định giá, giải quyết các

vấn đề tài chính, cổ phần, cổ phiếu, người lao động, thuế, phí... trong và sau khi

M&A. Do vậy, cần phải nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường của nước ta hiện

nay nhằm đổi mới hệ thống luật pháp sao cho phù hợp để hoạt động M&A có thể

phát triển mạnh hơn.

67

Các quy định về thủ tục pháp lý khi thực hiện M&A cần phải thông thoáng

và giám sát thời gian xét duyệt: Điều này góp phần hạn chế những thủ tục hành

chính nặng nề gây lãng phí thời gian và chi phí thực hiện, cần quan tâm đến quy

định về thời gian xử lý, hoạt động này cần được giám sát tránh trường hợp quy

định thì ghi rõ thời hạn nhưng cấp có thẩm quyền cứ kéo dài thời gian xem xét

nhưng không có cơ chế rõ ràng quy định chế tài về kéo dài thời gian xét duyệt hồ

sơ nhưng không giải thích rõ lý do. Đây là điểm yếu rất lớn về thủ tục hành

chính, nếu có quy định và chế tài rõ ràng sẽ tiết kiệm được thời gian và các chi

phí phát sinh, điều này cũng góp phần thúc đẩy hoạt động M&A ngân hàng.

Hoàn thiện khung pháp lý nhằm kiểm soát, hạn chế các tác động tiêu cực của

hoạt động M&A: Theo Luật Cạnh tranh ban hành năm 2004, hành vi mua lại, sáp

nhập, hợp nhất có thể dẫn tới tập trung kinh tế, dẫn đến những tiêu cực do độc

quyền sau hoạt động M&A. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh, Quy định sáp nhập, hợp

nhất, mua lại mới ban hành chưa làm rõ các vấn đề về tập trung kinh tế, đặc biệt

liên quan đến ngành Ngân hàng. Nếu các ngân hàng tập trung kinh tế có thị phần

kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì phải thông báo cho cơ quan

cạnh tranh biết trước khi tiến hành tập trung kinh tế, và trường hợp tập trung

kinh tế chiếm trên 50% thị phần trên thị trường có liên quan là hoàn toàn bị cấm.

Tuy nhiên, hiện nay, các ngân hàng đang cung cấp các dịch vụ trọn gói rất phổ

biến. Một ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng một gói dịch vụ bao gồm

nhiều dịch vụ như cho vay, bảo lãnh, thư tín dụng, chiết khấu hối phiếu... Vì vậy,

cần quy định rõ cách tính thị phần là theo từng dịch vụ hay theo gói dịch vụ, để

tránh trường hợp áp dụng sai có thể dẫn đến không thể tiến hành hoạt động

M&A thành công do vi phạm quy định về tập trung kinh tế của Luật Cạnh tranh.

Vì tính đặc thù của ngành Ngân hàng trong cạnh tranh từng loại dịch vụ, nên quy

định của pháp luật về M&A nên quy định cụ thể, việc sử dụng phương pháp tính

thị phần theo từng dịch vụ riêng biệt thường sẽ cho kết quả chính xác hơn, nhằm

68

tránh trường hợp ngân hàng lợi dụng cách tính tính để gây nên tình trạng độc

quyền. Bên cạnh đó, để có thể kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế, đặc biệt là

của ngành Ngân hàng, vai trò quan trọng không chỉ thuộc về Cơ quan quản lý

cạnh tranh, NHNN mà còn cần có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan chức

năng như Ủy ban Chứng khoán, Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư...

Cần quy định về loại hình M&A đa dạng hơn: Luật Cạnh tranh mới chỉ quy

định về loại hình sáp nhập theo chiều ngang, vì vậy, cần nghiên cứu bổ sung

thêm quy định về loại hình sáp nhập theo chiều dọc để tạo điều kiện cho sự phát

triển thành tập đoàn tài chính...

Quy định rõ về ràng buộc trách nhiệm giữa các đối tượng tham gia hoạt động

M&A và trách nhiệm của NH đối với quyền lợi của người lao động, cổ đông:

Các đối tượng tham gia vào hoạt động M&A bên cạnh chủ thể chính là các ngân

hàng thì các tổ chức tư vấn (công ty môi giới, Công ty kiểm toán, chuyên gia,

luật sư...) cũng đóng vai trò quan trọng, sự thiếu trách nhiệm và chuyên môn của

người tư vấn có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng mà ngân hàng có thể

phải gánh chịu. Vì vậy, quy định về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ ràng buộc

họ đối với hoạt động M&A là cần thiết để giúp tăng thêm mức độ an toàn cho

ngân hàng khi tham gia vào loại hình này. Bên cạnh đó, các quy định về trách

nhiệm, quyền và nghĩa vụ ràng buộc của ngân hàng đối với người lao động và cổ

 Thứ hai: Cho phép nâng mức độ tỷ lệ sở hữu trên 50% vốn cổ phần của

đông cũng là vấn đề cần thiết để mang lại sự thành công trước và sau M&A.

nhà đầu tư nước ngoài trong các NHTM Việt Nam.

Hiện nay tổng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không quá 30% vốn

điều lệ của một NHTM Việt Nam. Chính phủ quy định tỷ lệ này nhằm bảo vệ hệ

thống ngân hàng Việt Nam, tuy nhiên nó cũng hạn chế việc tham gia sâu, rộng

hơn của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường ngân hàng Việt Nam. Bài học kinh

nghiệm rút ra từ hoạt động M&A các ngân hàng của Hàn Quốc cho thấy, nước

69

này đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu cổ phần chiếm trên 50% vốn

điều lệ, và có những ngân hàng mà chức danh quản lý và điều hành chủ yếu là

người nước ngoài. Và như chúng đã thấy hiện Hàn Quốc có khoảng 12 ngân

hàng nhưng đã trở thành trụ cột của nền kinh tế đứng thứ 12 trên thế giới, một

 Thứ ba: Thành lập một bộ phận chuyên biệt thuộc cơ quan chủ trì tái cấu

đất nước mà GDP khoảng 1.000 tỷ đô la Mỹ.

trúc hệ thống ngân hàng, để tổ chức thực hiện hoạt động M&A các NHTM.

Hiện Chính phủ đã giao NHNN chủ trì, phối với hợp các Bộ, cơ quan liên

quan xây dựng đề án tái cơ cấu hoạt động ngân hàng. NHNN cần thành lập một

bộ phận chuyên biệt để tổ chức thực hiện hoạt động M&A các NHTM. Thành

phần của bộ phận này nên là những người am hiểu về hoạt động M&A thuộc các

cơ quan như: ủy ban giám sát tài chính, bộ kế hoạch và đầu tư, bộ tài chính,

NHNN, bộ công an, bộ tư pháp…, có như vậy thì khi tiến hành hoạt động M&A

trên thực tế sẽ được thông suốt.

3.3.2.2 Đối với Ngân Hàng Nhà Nước

Với vai trò là người quản lý trực tiếp đối với hệ thống NHTM Việt Nam,

 Thứ nhất: Tăng cường hoạt động truyền thông về M&A ngành Ngân hàng

NHNN cần thực hiện các giải pháp sau để nâng cao hiệu quả hoạt động M&A.

thông qua hội thảo, diễn đàn.

Với vai trò là người quản lý trực tiếp và định hướng cho hệ thống NHTM nói

chung và các NHTM cổ phần nói riêng, NHNN cần chủ động hơn nữa trong việc

phổ biến rộng rãi các kiến thức về hoạt động M&A, thường xuyên tổ chức các

buổi tọa đàm, hội thảo chuyên đề với sự tham gia của các lãnh đạo các ngân

hàng để chia sẻ các kiến thức, kinh nghiệm về M&A đã diễn ra trên thế giới,

đồng thời phổ biến những kinh nghiệm của những thương vụ M&A đã diễn ra tại

Việt Nam trong thời gian qua. Bởi vì tại Việt Nam hiện nay, hoạt động M&A

70

vẫn còn tương đối mới mẻ và chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về vấn đề này.

NHNN phải hỗ trợ cho các ngân hàng trong quá trình tìm hiểu về M&A để nâng

cao nhận thức của các chủ thể ngân hàng, từ đó các ngân hàng sẽ có bước chuẩn

bị dần dần về mọi mặt cho các thương vụ mua bán sáp nhập trong tương lai.

Mặt khác, Việt Nam đã gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài cũng đang

hiện diện dần tại Việt Nam, làn sóng mua lại các ngân hàng trong nước của họ

chắc chắn sẽ diễn ra trong tương lai nhằm tăng cường sự hiện diện. Do đó sự hỗ

trợ về mặt thông tin từ phía NHNN còn có tác dụng giúp các NHTM không bị

yếu thế trong việc đàm phán mua bán sáp nhập hoặc có thể hạn chế, ngăn ngừa

 Thứ hai: Nâng cao vai trò của NHNN Việt Nam trong định hướng và lộ

hoạt động sáp nhập mang tính chất thôn tính của các ngân hàng nước ngoài.

trình thúc đẩy hoạt động M&A ngân hàng.

Mục tiêu hướng đến của ngành Ngân hàng Việt Nam là hệ thống NHTM Việt

Nam nâng cao năng lực quản trị điều hành, nâng cao năng lực tài chính để đủ sức

cạnh tranh bình đẳng với ngân hàng nước ngoài, đảm bảo an toàn hệ thống và

hạn chế rủi ro có tính dây chuyền. Hoạt động M&A đối với các ngành nói chung

và ngành Ngân hàng nói riêng về lâu dài là hoạt động tự nguyện vì lợi ích mang

lại đối với các chủ thể tham gia. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện mục tiêu nói

trên và giảm thiểu nguy cơ bị xâm nhập thâu tóm khi mà các giới hạn đối với nhà

đầu tư vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng tại Việt Nam dần được nới lỏng đi đến

xóa bỏ giới hạn thì vai trò của NHNN Việt Nam trong định hướng và lộ trình

thúc đẩy hoạt động M&A ngân hàng là vô cùng quan trọng trong dàn xếp, trung

gian các hoạt động M&A ngân hàng giữa các TCTD Việt Nam, trước khi có sự

+ NHNN cần có các cơ chế chính sách để thúc đẩy hoạt động M&A nhằm

tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể như:

nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng. Hiện tại Việt Nam đang

có rất nhiều NHTM cổ phần quy mô nhỏ hoạt động kém hiệu quả, thiếu

71

nhà quản trị điều hành cấp cao có chiến lược, có tầm nhìn; nếu cứ tiếp tục

để các ngân hàng này tồn tại thì NHNN sẽ phải liên tục chạy theo để trợ

giúp vì những yếu kém của họ và nguy cơ đe dọa đến sự an toàn hoạt động

của cả hệ thống ngân hàng nữa. Do đó để thúc đẩy các ngân hàng nhỏ tìm

đến sáp nhập, hợp nhất với nhau, NHNN phải là đầu mối nối kết các

TCTD Việt Nam trong hoạt động M&A, có các chính sách ưu đãi như hỗ

trợ về mặt thủ tục hành chính khi sáp nhập, về việc ưu đãi khi tham gia các

giao dịch với NHNN, về dự trữ bắt buộc... Có như vậy mới tạo ra động lực

mạnh mẽ thúc đẩy sự liên kết các ngân hàng Việt Nam nhỏ, lớn lại với

+ NHNN cần sửa đổi, bổ sung các quy định về việc thành lập mới các ngân

nhau.

hàng theo hướng chặt chẽ và nghiêm ngặt hơn, nhằm đảm bảo cho các

ngân hàng ra đời sau này có được quy mô vốn lớn hơn, năng lực tài chính

cao hơn và an toàn hơn, tránh được tình trạng đua nhau thành lập ngân

hàng như đã diễn ra trong thời gian qua, đồng thời nhằm định hướng các

luồng vốn đầu tư trong nền kinh tế khi đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng thay

vì để thành lập ngân hàng mới sẽ hướng đến đầu tư vào các ngân hàng

hiện có để củng cố sức mạnh cho các ngân hàng này, nâng cao tiềm lực tài

chính giúp các ngân hàng lớn có thể mua lại các ngân hàng nhỏ hơn để

+ NHNN cần đặt ra các quy định khắt khe hơn cho việc sáp nhập bắt buộc.

nâng cao sức cạnh tranh.

Theo quy định hiện nay, chỉ những ngân hàng bị đặt vào diện kiểm soát

đặc biệt, có nguy cơ đổ vỡ và ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống ngân

hàng hoặc có vốn điều lệ thấp hơn quy định mới bị bắt buộc sáp nhập,

trong đó vốn điều lệ tối thiểu áp dụng cho đến hết năm 2008 là 1000 tỷ

đồng và hết năm 2010 là 3000 tỷ đồng. Để nâng cao sức cạnh tranh cho hệ

thống ngân hàng, NHNN nên kiến nghị Chính phủ ban hành những quy

72

định khắt khe hơn về các tỷ lệ an toàn vốn, về tỷ suất lợi nhuận, về xếp

hạng ngân hàng... Nếu ngân hàng nào có thực trạng hoạt động thấp hơn

những tiêu chuẩn được đưa ra thì bắt buộc phải sáp nhập. NHNN cần

mạnh tay hơn nữa trong việc đề ra các quy định cho sáp nhập bắt buộc,

chứ không nên để sáp nhập theo hình thức tự nguyện là chủ yếu như các

 Thứ ba: NHNN Việt Nam cần tăng cường hơn nữa trong việc nghiên cứu,

quy định hiện nay.

xây dựng hệ thống văn bản quy định và hướng dẫn tạo hành lang pháp lý đồng

bộ và hợp lý.

NHNN cần quy định một cách cụ thể về thủ tục, quyền lợi và trách nhiệm

của các bên liên quan trong hoạt động M&A. Việc quy định rõ ràng cụ thể hơn

về trách nhiệm và quyền lợi của các chủ thể tham gia trong giai đoạn hậu sáp

nhập và mua lại sẽ giúp tránh được những mâu thuẫn nội bộ giữa các chủ thể sau

khi sáp nhập và mua lại. Có như vậy sẽ tạo điều kiện cho việc cơ cấu lại tổ chức

và nâng cao chất lượng hoạt động M&A của các NHTM.

KẾT LUẬN CHƯƠNG III

Qua phân tích định hướng phát triển kinh tế xã hội và ngành ngân hàng đến

2015, căn cứ trên các nhân tốt cản trở và thúc đẩy hoạt động M&A đã được làm

rõ tại chương 2 để đưa ra hai nhóm giải pháp ở cấp vi mô và vĩ mô để thúc đẩy

hoạt động M&A các NHTM Việt Nam.

73

PHẦN KẾT LUẬN

Tóm lại hoạt động M&A các NHTM Việt Nam là xu hướng tất yếu do phải

đáp ứng các yêu cầu về vốn pháp định, do xu hướng toàn cầu hóa và do yêu cầu

của tái cấu trúc.

Luận văn đã đưa ra được bộ chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt động M&A

các NHTM trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu này trước và sau khi thực hiện M&A.

Đồng thời chỉ ra được các nhân tố thúc đẩy và cản trở hoạt động M&A. Cộng với

việc phân tích định hướng phát triển kinh tế xã hội, định hướng phát triển ngành

ngân hàng, trên cơ sở đó để đưa ra 02 nhóm giải pháp vi mô và vĩ mô.

Như vậy mua bán và sáp nhập M&A là xu hướng tất yếu và cũng là một

trong những giải pháp chính để tái cơ cấu hệ thống ngân hàng hiện nay. Tuy

nhiên, để tái cơ cấu hệ thống ngân hàng cần phải có lộ trình thích hợp, do đó

trước mắt hoạt động mua bán sáp nhập sẽ chưa diễn ra mạnh mẽ vì cần phải có

thời gian để phân loại ngân hàng, tìm ra các ngân hàng có vấn đề và đưa ra các

giải pháp xử lý, trong đó có giải pháp mua bán sáp nhập. Để chuẩn bị cho hoạt

động mua bán sáp nhập, chúng ta cần làm tốt các khâu chuẩn bị như: hoàn thiện

về mặt pháp luật, đào tạo nhân lực, minh bạch hóa thông tin…. Việc cơ cấu

hướng đến đảm bảo nâng cao tính an toàn, lành mạnh của hệ thống và việc mua

bán và sáp nhập nên được thực theo nguyên tắc tự nguyện, xu hướng mua bán và

sáp nhập có thể xảy ra giữa các NH lớn với nhau, giữa NH lớn và NH nhỏ hay

giữa các NH nhỏ với nhau.

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Báo đầu tư (2010), Toàn cảnh thị trường mua bán - sáp nhập doanh

nghiệp Việt Nam 2011, Công ty in báo Nhân Dân Tp.HCM, Tp.HCM.

2. Chính phủ (2006), Nghị định về ban hành danh mục mức vốn pháp định

của tổ chức tín dụng, Hà Nội.

3. Chính Phủ (2007), Nghị định về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần

của ngân hàng thương mại Việt Nam, Hà Nội.

4. Công ty chứng khoán ngân hàng ngoại thương Việt Nam (2011), Báo cáo

ngành ngân hàng, Hà Nội.

5. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

6. Đặng Hữu Mẫn (2010), “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân

hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí khoa học và công nghệ, đại học Đà

Nẵng, (5), tr.194-205.

7. Hội đồng bộ trưởng(1990), pháp lệnh ngân hàng nhà nước, Hà Nội

8. Hội đồng bộ trưởng (1988), Nghị định về tổ chức bộ máy ngân hàng nhà

nước Việt Nam, Hà Nội.

9. Hội đồng nhà nước (1990), pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và

công ty tài chính, Hà Nội.

10. J.Galpin Jimothy và hernden mark (2009), Cẩm nang hướng dẫn mua

bán và sáp nhập (Nguyễn Hữu Chỉnh dịch), Nhà xuất bản tổng hợp

Tp.HCM, Tp.HCM.

11. Nguyễn Hòa Nhân (2009), “M&A ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp

căn bản”, Tạp chí khoa học và công nghệ, đại học Đà Nẵng,(5), tr.145-

151.

75

12. NHNN (2010), Thông tư Quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ

chức tín dụng, Hà Nội.

13. Phạm Trí Hùng và Đặng Thế Đức (2011), Sáp nhập và mua lại doanh

nghiệp ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lao Động – Xã Hội. Hà Nội.

14. Quốc Hội (2004), Luật cạnh tranh, Hà Nội.

15. Quốc Hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.

16. Quốc Hội (2005), Luật đầu tư, Hà Nội.

Tiếng anh

17. Business Monitor international (2011), Vietnam Commercial Banking

Report Q1 2011, London UK.

18. Cho Hyekyung (2010), South Korea’s Experience With Banking Sector

Liberalization, Stichting Onderzoek Multinationale Ondernemingen,

The Netherlands.

19. PricewaterhouseCoopers(VietNam)Ltd (2011), Vietnam M&A Activity

Review 2010, Ho Chi Minh City.

20. Yu Miao & Liu Chenshuang (2007), Banking Sector Reform And

Economic Growth, Yonkoping International Business School.

Websites

http://adb2011.vn

http://www.cpv.org.vn

http://www.google.com.vn

http://www.qlct.gov.vn

http://www.sbv.gov.vn

http://tailieu.vn

http://tuoitre.vn

http://www.vnba.org.vn

76