BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phan Thị Phương Thúy
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC SẢN XUẤT CỦA NÔNG SẢN HÀNG HOÁ TỈNH VĨNH LONG GIAI ĐOẠN 2010-2020
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phan Thị Phương Thúy
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC SẢN XUẤT CỦA NÔNG SẢN HÀNG HOÁ TỈNH VĨNH LONG GIAI ĐOẠN 2010-2020
Chuyên ngành
: Địa lý học (trừ Địa lý Tự nhiên)
Mã số
: 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐẶNG VĂN PHAN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
LỜI CÁM ƠN
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đặng Văn Phan, Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh trường Đại học Cửu Long đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Xin chân thành cám ơn Khoa Địa Lý, Phòng Sau Đại học trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc học tập, trang bị kiến thức để có thể hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các cán bộ ở các Chi cục, phòng ban của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Long, Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Vĩnh Long, Sở Công Thương tỉnh Vĩnh Long, Cục thống kê tỉnh Vĩnh Long đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tư liệu, số liệu tham khảo quý báu, hữu ích để tác giả hoàn thành tốt luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã bên cạnh, động viên, giúp đỡ tác
giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn
Phan Thị Phương Thuý
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Lời cám ơn Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục biểu bảng MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN HÀNG HÓA ............................................................... 8 1.1. Lý luận về cạnh tranh ....................................................................................... 8 1.1.1. Khái niệm cạnh tranh ................................................................................. 8 1.1.2. Phân loại cạnh tranh ................................................................................. 10 1.1.3. Tác động của cạnh tranh đối với nền kinh tế ........................................... 11 1.1.4. Một số quan niệm về năng lực cạnh tranh................................................ 12 1.1.5. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh................................................ 14 1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá 20 1.2. Khái niệm về nông sản hàng hóa, nông sản chủ lực ....................................... 23 1.2.1. Khái niệm về nông sản hàng hóa ............................................................. 23 1.2.2. Khái niệm nông sản chủ lực ..................................................................... 24 1.2.3. Vai trò của sản phẩm chủ lực đối với phát triển kinh tế xã hội địa phương . 27 Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN HÀNG HÓA TỈNH VĨNH LONG THỜI GIAN QUA ........................................ 30 2.1. Khái quát nguồn lực ảnh hưởng đến sản xuất nông sản của tỉnh Vĩnh Long . 30 2.1.1. Vị trí địa lý kinh tế ................................................................................... 30 2.1.2. Nguồn lực tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ......................................... 31 2.1.3. Điều kiện kinh tế -xã hội .......................................................................... 37 2.1.4. Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến sản xuất hàng hoá ........................ 47 2.1.5. Đánh giá chung ......................................................................................... 49 2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông sản hàng hoá tỉnh Vĩnh Long thời gian qua ........................................................................................ 51 2.2.1. Khái quát ngành nông nghiệp của tỉnh Vĩnh Long thời gian qua ............ 51 2.2.2. Tình hình xuất khẩu nông –thuỷ sản Vĩnh Long thời gian qua ................ 54 2.2.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh Vĩnh Long ................................................................................................... 56
2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá tỉnh Vĩnh Long ................................................................................................... 80 2.3. Kết luận chung về năng lực cạnh tranh một số sản phẩm nông sản của tỉnh Vĩnh Long .............................................................................................................. 87 2.3.1. Những điểm mạnh về năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá của tỉnh Vĩnh Long thời gian qua ............................................................................. 87 2.3.2. Những hạn chế về năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá tỉnh Vĩnh Long thời gian qua .............................................................................................. 89 2.3.3. Nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của tỉnh Vĩnh Long ......................................................... 91 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC SẢN XUẤT CỦA NÔNG SẢN HÀNG HÓA TỈNH VĨNH LONG ĐẾN NĂM 2020 95 3.1. Quan điểm trong thời kì hội nhập về nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá tỉnh Vĩnh Long ................................................................................. 95 3.1.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản dựa trên tiềm năng lợi thế của tỉnh ............................................................................................................... 95 3.1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản dựa trên phát triển các lợi thế cạnh tranh mới (chiến lược, quy hoạch, chính sách) .................................... 95 3.1.3. Xử lý tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh ............................................... 97 3.1.4. Kết nối các chủ thể tạo sức mạnh tổng hợp nâng cao sức cạnh tranh (nông dân, doanh nghiệp, Nhà nước, hiệp hội). ........................................................... 98 3.2. Mục tiêu và định hướng phát triển sản xuất nông sản hàng hoá tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020 ............................................................................................... 98 3.2.1. Mục tiêu phát triển sản xuất nông sản hàng hoá của Vĩnh Long ............. 98 3.2.2. Định hướng phát triển sản xuất nông sản hàng hoá của tỉnh Vĩnh Long . 99 3.3. Giải pháp nâng cao năng lực sản xuất của nông sản hàng hóa tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020 ....................................................................................................... 101 3.3.1. Các giải pháp trực tiếp ............................................................................ 101 3.3.2. Giải pháp hỗ trợ ...................................................................................... 119 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 126 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 128 PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN : Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
ĐNB : Đông Nam bộ
EU : Liên minh Châu Âu
GAP : Good Agricultural Practices (Nông nghiệp bền vững)
GTSX : Giá trị sản xuất
NN & PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
HTX : Hợp tác xã
TT : Thị trường
KNXK : Kim ngạch xuất khẩu
XK : Xuất khẩu
UBND : Ủy ban nhân dân
XK : Xuất khẩu
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BIỂU BẢNG
Trang Bảng 2.1 : Đơn vị hành chính tỉnh Vĩnh Long ..................................................... 31
Bảng 2.2 : Tổng sản phẩm trên địa bàn theo khu vực kinh tế 2001-2010 ........... 37
Bảng 2.3 : Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001-2010 (ĐVT: %) ............. 38
Bảng 2.4 : Diễn biến cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long .......... 51
Bảng 2.5 : Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt (Giá HH) .............................. 52
Bảng 2.6 : Trị giá hàng hoá xuất khẩu tỉnh Vĩnh Long (ĐVT: Triệu USD) ........ 54
Bảng 2.7 : Cơ cấu giá trị xuất khẩu tỉnh Vĩnh Long (ĐVT: %) ........................... 55
Bảng 2.8 : Diện tích, năng suất lúa cả năm tỉnh Vĩnh Long (2005-2011) ............ 57
Bảng 2.9 : Sản lượng lúa cả năm, sản lượng lúa hàng hoá của tỉnh ..................... 57
Bảng 2.10 : Giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo của tỉnh Vĩnh Long (2007-2011) .... 59
Bảng 2.11 : Diện tích bưởi Năm roi qua các năm .................................................. 64
Bảng 2.12 : Năng suất cây ăn trái qua các năm (ĐVT: tấn/ha) .............................. 65
Bảng 2.13 : Sản lượng cây ăn trái qua các năm ...................................................... 65
Bảng 2.14 : Diện tích năng suất, sản lượng khoai lang .......................................... 71
Bảng 2.15 : Đóng góp của thuỷ sản trong cơ cấu tổng sản phẩm tỉnh Vĩnh Long
(giá hiện hành) ..................................................................................... 74
Bảng 2.16 : Diện tích nuôi cá tra thâm canh ở các huyện GĐ 2005-2010 ............. 75
Bảng 2.17 : Năng suất trung bình NTTS tỉnh Vĩnh Long (ĐVT: tấn/ha) ............... 76
Bảng 2.18 : Sản lượng NTTS tỉnh Vĩnh Long (ĐVT: tấn) ..................................... 76
Bảng 2.19 : Sản lượng và kim ngạch cá tra xuất khẩu ........................................... 77
Bảng 2.20 : Dự báo khối lượng nông sản hàng hóa ra khỏi tỉnh Vĩnh Long .......... 99
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ Sản lượng gạo xuất khẩu tỉnh Vĩnh Long .............................. 58
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu gạo tỉnh Vĩnh Long .............................. 59
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có nhiều lợi thế và tiềm năng về đất đai,
lao động và điều kiện sinh thái cho phép phát triển sản xuất nhiều loại nông sản xuất
khẩu có giá trị kinh tế lớn. Hiện nay, trước xu thế hội nhập, nông nghiệp Việt Nam
đang đứng trước những thách thức lớn về sản xuất và xuất khẩu nông sản. Nông sản
là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, hằng năm thu về một
lượng ngoại tệ lớn, tạo việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần bảo đảm an sinh
xã hội. Mặc dù chúng ta đã tạo ra được sản lượng nông sản khổng lồ trên cơ sở quy
mô sản xuất nhỏ, đưa Viêt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông
sản lớn trên thế giới nhưng thời gian qua việc điều hành xuất khẩu các mặt hàng
nông sản gặp không ít khó khăn, giá trị kim ngạch thu về chưa xứng với tiềm năng.
Năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam còn nhiều vấn đề phải giải quyết.
Vĩnh Long là một tỉnh nông nghiệp có vị trí quan trọng trong chiến lược phát
triển khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Được bao bọc bởi hai con sông lớn Tiền
Giang và Hậu Giang nên Vĩnh Long có nguồn nước ngọt dồi dào quanh năm, nhiều
cùng đất màu mỡ, trù phú thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Lúa gạo là sản phẩm nông sản chủ lực hàng đầu của tỉnh Vĩnh Long, bình
quân lương thực đầu người ở Vĩnh Long là 1.007 kg/người/năm (2011) trong khi cả
nước là 535 kg/người/năm. Vĩnh Long là tỉnh được đánh giá là có số lượng trái cây
đa dạng, phong phú về chủng loại và có chất lượng được người tiêu dùng đánh giá
cao, với nhiều chủng loại đặc sản có uy tín trên thị trường như: bưởi Năm roi, cam
sành, nhãn và chôm chôm An Bình, mận An Phước,… Sản phẩm rau màu của tỉnh
khá đa dạng như: khoai lang, bắp, đậu nành, mè, dưa hấu… và các loại rau màu
khác rất được ưa chuộng trên thị trường. Sản phẩm rau màu của tỉnh được tiêu thụ
tại nhiều tỉnh, thành trong nước mà còn được xuất khẩu như: khoai lang, đậu bắp
xanh.
Hằng năm toàn tỉnh sản xuất một lượng nông sản hàng hóa rất lớn bán ra
ngoài tỉnh và xuất khẩu. Hàng hóa nông sản chất lượng cao cung cấp cho xuất khẩu
2
không ngừng tăng chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Song, nhìn trên tổng
thể nông nghiệp Vĩnh Long còn nhiều hạn chế và thách thức cam go, nhất là khi hội
nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Đa phần các mặt hàng nông sản của tỉnh
Vĩnh Long (trái cây, thủy sản, lúa gạo, nấm rơm, khoai lang, rau sạch…) đều là sản
phẩm thô vì nông dân còn đang sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chưa có cùng nguyên
liệu tập trung, chưa chú trọng đúng mức đến sản xuất các mặt hàng này theo tiêu
chuẩn GAP để xuất khẩu. Hiện các mặt hàng nông sản của Vĩnh Long thiêu sự liên
kết cả hệ thống từ khâu sản xuất đến chế biến, bảo quản, tiêu thụ, xuất khẩu. Công
nghệ sau thu hoạch ở tỉnh chưa theo kịp tốc độ phát triển của khu vực. Nông dân,
doanh nghiệp tự tìm khách hàng, thiếu sự hỗ trợ nên cũng không có khả năng cung
ứng theo hợp đồng với số lượng lớn, trừ mặt hàng gạo, nên năng lực cạnh tranh còn
rất yếu.
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, nhất là khi Việt Nam là thành viên
của tổ chức thương mại thế giới thì nông nghiệp là lĩnh vực bị sức ép cạnh tranh rất
lớn. Do đó, việc nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa có ý nghĩa quan
trọng. Nâng cao năng lực cạnh tranh các mặt hàng nông sản của tỉnh Vĩnh Long là
một vấn đề cấp thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu mà
còn đối với nhà nước, các cấp ngành liên quan và đối với người nông dân. Từ thực
tế đó tôi đã quyết định chon đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực sản xuất của
nông sản hàng hóa tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2010-2020” để nghiên cứu trong Luận
văn tốt nghiệp của mình nhằm tìm ra những giải pháp thích hợp để nâng cao hơn
nữa năng lực cạnh tranh cho nông sản tỉnh Vĩnh Long góp phần nâng cao giá trị và
hiệu quả kinh tế cho nền nông nghiệp tỉnh nhà trong thời gian sắp tới, đồng thời góp
phần đưa tỉnh Vĩnh Long hội nhập thực sự với nền kinh tế thế giới.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình xuất khẩu các mặt hàng nông sản hàng hóa
chủ lực của tỉnh Vĩnh Long, luận văn tìm ra các giải pháp để nông sản hàng hóa của
tỉnh có thể có một thị phần đáng kể trên thị trường và có thể được cạnh tranh với
3
các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long và các nước xuất khẩu tương
đồng trong khu vực.
Đề xuất và kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực sản xuất
của nông sản hàng hóa chủ lực tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2010-2020.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận tổng quan về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh
tranh của nông sản hàng hóa trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực tỉnh Vĩnh Long và những vấn đề đặt ra.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của một số mặt hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực của tỉnh Vĩnh Long.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực sản xuất của một số
mặt hàng nông sản hàng hóa chủ lực của tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2010 – 2020.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn tập trung chủ yếu vào phân tích năng lực sản xuất của nông sản
hàng chủ lực tỉnh Vĩnh Long. Đối tượng nghiên cứu chính là các mặt hàng nông sản
chủ lực (lúa gạo, bưởi năm roi, khoai lang, cá tra) về các giải pháp chủ yếu trong
sản xuất, chế biến, môi trường kinh doanh xuất khẩu nhằm thúc đẩy xuất khẩu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao
năng lực sản xuất của nông sản hàng hoá tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2010 – 2020.
Nghiên cứu một số nông sản được xác định là những mặt hàng chủ lực đã có khối
lượng, kim ngạch xuất khẩu cao trong những năm gần đây và có tiềm năng lợi thế
để phát triển.
4. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu năng lực cạnh
tranh của một số loại hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam trước những thai đổi trong thị
trường trong nước và quốc tế, trong đó phải kể đến: “Tính cạnh tranh, quan niệm về
4
các khuôn khổ phân tích”(Võ Trí Thành 1999); “ Khảo sát sức cạnh tranh của
hàng hóa” (Vụ Kế Hoạch , Bộ Thương Mại, 1999); “ Nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam” ( Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc
tế, 2002); “ Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia” (Viện nghiên cứu quản lý kinh
tế Trung Ương 2002);…
Đề tài cấp Bộ, mã số 98-98-36 về “Những giải pháp nhằm phát huy có hiệu
quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào thị trương khu
vực và thế giới”(2000) của Viên Nghiên cứu Khoa học thị trường giá cả. Đề tài này
nghiên cứu diễn biết khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo, ngành xi măng
và ngành mía đường cho đến năm 1999. Các giải pháp đưa ra chủ yếu nhằm phát
huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam.
Đề án “Chiến lược phát triển nông nghiệp – nông thôn trong công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thời kỳ 2001-2010” (2000) của Bộ NN & PTNN. Đề án này đã
được phân chia khả năng cạnh tranh một số mặt hàng nông sản của Việt Nam thanh
3 nhóm: nhóm có khả năng cạnh tranh cao (gạo, hạt điều, cà phê), cạnh tranh trung
bình (chè, cao su, lạc), cạnh tranh yếu (đường, sữa, bông).
Báo cáo khoa học về “Nghiên cứu những giải phát chủ yếu nhằm phát huy
lợi thế năng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản
trong thời gian tới: “cà phê, gạo, cao su, chè, điều” (2001), của Bộ NN & PTNT,
do TS.Nguyễn Đình Long làm chủ nhiệm đề tài.
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu khoa học khác đã nghiên cứu
từng loại nông sản xuất khẩu nông sản riêng biệt của nước ta trong thời gian qua
như: “Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỉ mới - hướng xuất khẩu” của TS.
Nguyễn Trung Vãn; “Cung cầu hàng hóa gạo và những giải pháp chủ yếu phát
triển thị trường lúa gạo Việt Nam” của TS. Đinh Thiện Đức: “Cà phê Việt Nam và
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới” của TS. Nguyễn Tiến Mạnh; Cây chè
Việt Nam: “Năng lực cạnh tranh xuất khẩu và phát triển” của TS. Nguyễn Hữu
Khải…
5
5. Hệ quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Hệ quan điểm
5.1.1. Quan điểm hệ thống
Địa lý kinh tế học nghiên cứu tổng hợp thể lãnh thổ sản xuất trong một hệ
thống các mối quan hệ tác động qua lại với môi trường xung quanh. Vì vậy khi
nghiên cứu vấn đề này tỉnh Vĩnh Long được xem là một hệ thống kinh tế - xã hội
thống nhất, được xem xét đánh giá quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và
sự kết hợp hài hòa với vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước.
5.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Địa lý kinh tế - xã hội là một khoa học tổng hợp nghiên cứu không gian lãnh
thổ kinh tế-xã hội liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, khi nghiên cứu
các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Long chúng ta phải
xem xét nó trong một chỉnh thể chung của vùng và của cả nước; giải quyết mối
quan hệ giữa sự phát triển với việc nâng cao chất lượng, bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Đồng thời tìm kiếm những mặt tối ưu, định ra các biện pháp cụ thể
nhằm phát huy lợi thế của ngành nông nghiệp dưới cái nhìn khách quan và tổng hợp
tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
5.1.3 .Quan điểm lịch sử - phát triển
Sản xuất nông sản cũng như bao ngành kinh tế khác, nó luôn luôn vận động
và phát triển không ngừng theo thời gian. Tùy theo từng giai đoạn nhất định mà nó
có các nguồn lực và thế mạnh khác nhau tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của ngành. Đánh giá đúng chiều hướng phát triển, sự thay đổi của ngành
qua từng giai đoạn trong quá khứ, hiện tại đó là một tiền đề thuận lợi cho phép
chúng ta dự báo viễn cảnh cho sự phát triển của ngành trong tương lai.
5.1.4. Quan điểm kinh tế và phát triển bền vững
Quan điểm kinh tế được coi trọng trong nghiên cứu địa lý kinh tế - xã hội.
Quan điểm này thể hiện thông qua một chỉ tiêu kinh tế cụ thể như tốc độ tăng
trưởng, hiệu quả kinh tế,… Trong cơ chế thị trường, sản xuất phải đem lại lợi nhuận
song cần tránh xu hướng phải đạt cái mục tiêu kinh tế bằng mọi giá.
6
Kinh tế nông nghiệp không nằm ngoài mục tiêu trên chúng ta thúc đẩy sự
phát triển nông sản hàng hoá nhằm góp phần phát triển kinh tế tỉnh nhà nói riêng và
cả nước nói chung. Nhưng chúng ta cần phải tính đến mục tiêu lâu dài, sự phát triển
bền vững trong tương lai chứ không phải vì mục tiêu trước mắt mà bất chấp tất cả.
Quán triệt quan điểm phát triển bền vững đòi hỏi phải đảm bảo cho sự bền
vững về cả 3 mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp tổng hợp
Khi thu thập tài liệu, các tài liệu được phân tích tổng hợp để thấy được
những đặc điểm cần nghiên cứu cho đề tài. Tuy nhiên, do mức độ thu thập tài liệu
còn hạn chế, nhiều số liệu cần cho đề tài nhưng không có trực tiếp do đó cần phải
phân tích tổng hợp. Vì vậy, phương pháp tổng hợp tỏ ra rất hiệu quả, giúp chúng ta
rút ra được qui luật phát triển, biến đồi của sự vật hiện tượng cần nghiên cứu.
5.2.2. Phương pháp bản đồ- biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của địa lý học. Bản đồ thể hiện các đặc trưng
về không gian địa lý, giúp ta khái quát cụ thể hóa đối tượng và phản ánh kết quả
nghiên cứu. Biều đồ thể hiện các đối tượng nghiên cứu một cách trực quan giúp cho
việc phân tích, so sánh, đánh giá các đối tượng được rõ ràng và gây ấn tượng mạnh
bằng biểu tượng.
5.2.3. Phương pháp so sánh
Các nguồn thông tin thu thập được sắp xếp, phân loại, so sánh. Sử dụng
phương pháp này ít tốn kém nhưng phức tạp bởi số liệu không đồng nhất do thu
thập từ nguồn khác nhau. Đồng thời đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng.
5.2.4. Phương pháp thống kê
Đây là một phương pháp quan trọng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Từ các
số liệu thu thập từ các nguồn như: Niên giám Thống kê, Sở Thủy sản, Sở Tài
nguyên và môi trường,…qua tổng hợp, phân tích, xử lý,… làm cơ sở cho việc
nghiên cứu đề tài. Đồng thời dựa vào các lý luận, quan điểm kinh tế, tài chính và
7
định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, xuất phát từ thực tiễn để làm
sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, cấu trúc của luận văn được chia
làm 3 chương.
Chương 1: Một số lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của nông sản
hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hóa tỉnh Vĩnh
Long thời gian qua.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực sản xuất của nông
sản hàng hóa tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020.
8
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH,
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN HÀNG HÓA
1.1. Lý luận về cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và có ý nghĩa
quan trọng đối với phát triển kinh tế ở các quốc gia. Cạnh tranh là sản phẩm tất yếu
của sự phát triển nền kinh tế. Môi trường hoạt động kinh doanh ngày nay đầy biến
động và cạnh tranh hiện nay là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể
kinh tế tham gia vào thị trường nhằm giành giật nhiều các lợi ích kinh tế hơn về
mình. Việc nghiên cứu hiện tượng cạnh tranh đã xuất hiện từ rất sớm với các các
trường phái nổi tiếng như: lý thuyết cạnh tranh cổ điển, lý thuyết cạnh tranh tân cổ
điển và lý thuyết cạnh tranh hiện đại.
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Tuy cạnh tranh là vấn đề phổ biến và được nghiên cứu từ rất lâu, nhưng cho
đến nay trên thế giới vẫn chưa có khái niệm thống nhất về cạnh tranh, ở mỗi giai
đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội khái niệm về cạnh tranh được nhiều tác giả
trình bày dưới những góc độ khác nhau. Do vậy, để đưa ra khái niệm này một cách
có căn cứ, cần điểm lại một số quan điểm về cạnh tranh:
Dưới thời kỳ Chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển vượt bậc, Mác đã quan
niệm: “Cạnh tranh chủ nghĩa tư bản là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà
tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. CNTB phát triển đến đỉnh điểm chuyển
sang chủ nghĩa đế quốc rồi suy vong và cho đến ngày nay nền kinh tế thế giới đã
dần đi vào qũy đạo của sự ổn định và xu hướng chính là hội nhập, hoà đồng giữa
các nền kinh tế, cơ chế hoạt động là cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của
Nhà nước thì khái niệm cạnh tranh mất hẳn tính giai cấp, tính chính trị nhưng về
bản chất thì vẫn không thay đổi. Cạnh tranh vẫn là sự đấu tranh gay gắt, sự ganh
đua giữa các tổ chức, các doanh nghiệp nhằm đạt được những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và kinh doanh để đạt được những mục tiêu của tổ chức, doanh nghiệp
đó.
9
Theo lý thuyết tổ chức doanh nghiệp công nghiệp thì một doanh nghiệp được
coi là có sức cạnh tranh khi nó có thể đứng vững cùng với các nhà sản xuất khác,
với các sản phẩm thay thế, hoặc bằng cách đưa ra các sản phẩm tương tự với mức
giá thấp hơn cho sản phẩm cùng loại, hoặc bằng cách cung cấp các sản phẩm có
cùng đặc tính nhưng với dịch vụ ngang bằng hay cao hơn.
Một định nghĩa khác về cạnh tranh như sau: “Cạnh tranh có thể định nghĩa
như là một khả năng của doanh nghiệp nhằm đáp ứng và chống lại các đối thủ cạnh
tranh trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ một cách lâu dài và có lợi nhuận”.
Còn theo cuốn từ điển kinh doanh (Xuất bản năm 1992 ở Anh) cạnh tranh
trong cơ chế thị trường được định nghĩa là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh
doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình.
Như vậy dù có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh nhưng nhìn chung lại đều
thống nhất ở các điểm:
+ Mục tiêu cạnh tranh: Tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao vị thế của doanh
nghiệp trên thương trường đồng thời làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
+ Phương pháp thực hiện: Tạo ra và vận dụng những lợi thế so sánh trong
việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác.
+ Thời gian: Trong bất kỳ tuyến thị trường hay sản phẩm nào, vũ khí cạnh
tranh thích hợp thay đổi theo thời gian. Chính vì thế cạnh tranh được hiểu là sự liên
tục trong cả quá trình.
Do đó quan điểm đầy đủ về cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là cuộc đấu tranh
gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh với nhau dựa trên những chế
độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được những điều kiện sản xuất và
tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Cạnh tranh
trong kinh tế là cuộc chạy đua “Marathon kinh tế” nhưng không có đích cuối cùng,
ai cảm nhận thấy thì người đó sẽ trở thành nhịp cầu cho các đối thủ khác vươn lên
phía trước.
Cạnh tranh là một điều tất yếu, khách quan của nền kinh tế thị trường. Các
doanh nghiệp bắt buộc phải chấp nhận cạnh tranh, ganh đua với nhau, phải luôn
10
không ngừng tiến bộ để giành được ưu thế tương đối so với các đối thủ. Nếu như lợi
nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh thì cạnh tranh buộc họ phải tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một
cách có hiệu quả cao nhất nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Kết quả là cạnh tranh sẽ
loại bỏ được các doanh nghiệp yếu kém, giúp phát triển các doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả.
Ở Việt Nam, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, cạnh tranh được thừa nhận là
một quy luật kinh tế, khách quan và được coi như là một nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức, điều khiển nền kinh tế quốc dân nói chung và trong tổ chức, điều hành kinh
doanh trong các doanh nghiệp nói riêng. Cạnh tranh không những là môi trường của
sự phát triển mà còn là một yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội,
tạo động lực cho sự phát triển.
1.1.2. Phân loại cạnh tranh
Căn cứ vào các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường gồm có:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua.
Là cuộc cạnh tranh giữa người bán và người mua diễn ra theo quy luật mua
rẻ bán đắt trên thị trường. Cả hai bên đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Giá
cuối cùng là giá thống nhất giữa người mua và người bán sau một quá trình mặc cả
với nhau mà theo đó hoạt động mua bán được thực hiện.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau.
Là cuộc cạnh tranh xảy ra khi cung nhỏ hơn cầu. Khi lượng cung một loại
hàng hoá, dịch vụ nào đó quá thấp so với nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh giữa
những người mua sẽ trở nên quyết liệt. Lúc đó giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng vọt
nhưng do hàng hoá khan hiếm nên người mua vẫn sẵn sàng trả giá cao cho hàng hoá
mình cần. Kết qủa là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua thì bị thiệt.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau.
Đây là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất, chiếm đa số trên thị trường.
Các doanh nghiệp luôn phải ganh đua, loại trừ lẫn nhau để dành cho mình những ưu
thế về thị trường và khách hàng nhằm mục tiêu tồn tại và phát triển. Cuộc ganh đua
11
này diễn ra ở các góc độ: giá cả, chất lượng, dịch vụ khách hàng… Kết quả của
cuộc cạnh tranh này là kẻ mạnh (cả về khả năng vật chất và trình độ chuyên môn )
sẽ là người chiến thắng, còn những doanh nghiệp nào không đủ tiềm lực sẽ bị thua
cuộc và đào thải khỏi thị trường.
Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế gồm có:
- Cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành
kinh tế khác nhau nhằm thu được lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với
vốn đầu tư bỏ ra đầu tư vào ngành khác. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến
doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp chuyển sang
kinh doanh ở ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất
và tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này các
doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau, doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi
hoạt động của mình trên thị trường, doanh nghiệp thua sẽ thu hẹp phạm vi kinh
daonh thậm chí phá sản.
1.1.3. Tác động của cạnh tranh đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa, khái niệm cạnh tranh hầu như không tồn tại,
song từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi, vận động theo cơ chế thị trường cũng là
lúc cạnh tranh và quy luật cạnh tranh được thừa nhận. Vai trò của cạnh tranh ngày
càng được thể hiện rõ nét:
- Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh là điều bất khả kháng trong nền kinh tế thị trường. Các doanh
nghiệp, các nhà kinh doanh khi tham gia thị trường buộc phải chấp nhận sự cạnh
tranh. Cạnh tranh có thể coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh nghiệp không
thể lẩn tránh mà phải tìm mọi cách vươn lên chiếm ưu thế.
Như vậy, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn phải tìm cách nâng cao chất
lượng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng, của thị
12
trường. Cạnh tranh gây ra sức ép đối với các doanh nghiệp, qua đó làm cho các
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.
- Đối với người tiêu dùng
Nhờ có cạnh tranh, người tiêu dùng nhận được các sản phẩm, dịch vụ ngày
càng đa dạng phong phú hơn. Chất lượng của các sản phẩm, dịch vụ tăng lên trong
khi đó chi phí bỏ ra ngày càng thấp hơn. Cạnh tranh cũng làm cho quyền lợi của
người tiêu dùng được tôn trọng và quan tâm hơn nhiều.
- Đối với nền kinh tế - xã hội
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng và
trong lĩnh vực kinh tế nói chung:
+ Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng dịch vụ xã
hội.
+ Cạnh tranh tạo ra sự đổi mới, mang lại sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn giúp
xóa bỏ các độc quyền bất hợp lý, bất bình đẳng trong kinh doanh.
+ Cạnh tranh giúp tăng tính chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp, tạo ra
các doanh nghiệp mạnh hơn – một đội ngủ người làm kinh doanh giỏi và chân chính.
+ Cạnh tranh còn là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách hợp lý
giữa các lợi ích của các doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã hội.
1.1.4. Một số quan niệm về năng lực cạnh tranh
Từ trước tới nay, khái niệm năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trong
phạm vi toàn cầu nhưng đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao giữa các học giả, các
nhà chuyên môn về khái niệm cũng như cách đo lường, phân tích năng lực cạnh
tranh ở cấp quốc gia, cấp ngành và cấp doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh cần phải
đặt vào điều kiện, bối cảnh phát triển của đất nước trong từng thời kỳ. Đồng thời
năng lực cạnh tranh cũng cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh giành giữa các
doanh nghiệp và cần được thể hiện ra bằng phương thức cạnh tranh phù hợp
Thế giới đã có một số quan niệm đáng chú ý về năng lực cạnh tranh như:
Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là
doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả
13
thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa
với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập
cho người lao động và chủ doanh nghiệp”. Định nghĩa này cũng được nhắc lại trong
“Sách trắng về năng lực cạnh tranh của Vương quốc Anh” (1994).
Năm 1998, Bộ thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với
doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định
đúng giá cả và vào đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách
hàng với hiệu suất và hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác”
Theo Buckley (1988), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần được gắn
kết với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp với 3 yếu tố: các giá trị chủ yếu
của doanh nghiệp, mục đích chính của doanh nghiệp và các mục tiêu giúp các
doanh nghiệp thực hiện chức năng của mình.
Hội đồng Chính sách năng lực cạnh tranh của Mỹ đưa ra định nghĩa: năng
lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế giới…
Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế có trích dẫn khái niệm năng lực cạnh tranh theo
Từ điển Thuật Ngữ chính sách thương mại (1997), theo đó, năng lực cạnh tranh là
năng lực của một doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực
kinh tế”. Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính chất định tính, khó
có thể định lượng.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các
yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Còn theo M.Porter- (Giáo sư Đại học Harvard Hoa Kỳ), tác giả cuốn sách
“ Lợi thế cạnh tranh- tạo dựng và duy trì ưu thế hoạt động của doanh nghiệp”, khi
bàn về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, cho rằng năng lực cạnh tranh phụ
thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của mình để tạo sản phẩm có giá
phí thấp và sự dị biệt của sản phẩm, điều đó có nghĩa là trong cạnh tranh cần phải
tạo ra lợi thế cạnh tranh của sản phẩm, ở đó các sản phẩm có hoặc có thể huy động
14
để đạt thắng lợi trong cạnh tranh. Dựa vào các học thuyết truyền thống và hiện đại,
cũng như theo quan điểm của M.Porter, các nhà nghiên cứu và quản lý các nước đã
có những nghiên cứu cụ thể để phát huy hoặc tạo dựng cho ngành, cho doanh
nghiệp những sản phẩm độc đáo được xem là chủ lực và mũi nhọn cho định hướng
phát triển kinh doanh.
Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh tranh vẫn chưa được hiểu
thống nhất. Để có thể đưa ra quan niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù
hợp, cần lưu ý những đặc thù khái niệm này như Henricsson và các cộng sự (2004)
chỉ ra: đó là tính đa nghĩa (có nhiều định nghĩa), đa trị (có nhiều cách đo lường), đa
cấp (với các cấp độ khác nhau), phụ thuộc, có tính quan hệ qua lại, tính chất động
và là một quá trình.
Trên cơ sở các quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh đó tiến sĩ
Nguyễn Hữu Thắng tác giả của cuốn “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay” đã đưa ra định
nghĩa về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như sau:
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi
thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và
sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.”
Năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần
của đồng nghiệp (Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học). Khi đánh giá năng lực cạnh tranh,
các nghiên cứu thường tập trung phân tích năng lực cạnh tranh ở ba cấp độ: năng
lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh
tranh của sản phẩm.
1.1.5. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh
Có rất nhiều tiêu chí có thể dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh tùy thuộc
vào từng ngành, từng lĩnh vực hoat động. Có thể khái quát thành một số chỉ tiêu
điển hình và cụ thể như sau:
15
- Khả năng duy trì và mở rộng thị trường:
Hoạt động trong cơ chế thị trường cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp
phải luôn luôn đối mặt với các rủi ro thách thức trong quá trình cạnh tranh khốc liệt.
Và khả năng duy trì và mở rộng thị trường là một trong những tiêu chí quan trọng
để đánh giá năng lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp. Bởi lẽ, thị trường vừa
được coi là điểm xuất phát cũng vừa là điểm kết thúc quá trình sản xuất kinh doanh,
là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Có thể nói một doanh nghiệp chỉ làm ăn có
hiệu quả khi nó xuất phát từ thị trường, tận dụng một cách linh hoạt, năng động các
cơ hội trên thị trường. Vì thế duy trì và mở rộng thị trường được coi là một trong
những nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của doanh nghiệp đặc biệt trong quá trình hội nhập
nền kinh tế đất nước với nền kinh tế thế giới nhằm góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh cho chính doanh nghiệp cũng như cho đất nước.
- Chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm dịch vụ ngày càng đóng vai trò đặc biệt quan trọng khi
mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đời sống của người dân ngày càng được
nâng cao. Có thể nói rằng chất lượng sản phẩm, dịch vụ là vấn đề sống còn đối với
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường khi mà họ luôn phải đối mặt với rất nhiều
các đối thủ cạnh tranh có thế lực mạnh. Một khi chất lượng sản phẩm, dịch vụ
không được đảm bảo thì cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ mất đi khách
hàng, mất đi thị trường, nhanh chóng suy yếu và phá sản.
- Khả năng đổi mới doanh nghiệp:
Môi trường kinh doanh luôn ẩn chứa những biến động khó lường. Nó có thể
đem đến cho doanh nghiệp những cơ hội kinh doanh mới nhưng cũng có thể mang
đến nhiều mối đe dọa, thách thức khó khăn. Để có thể làm ăn kinh doanh trong môi
trường ấy, doanh nghiệp phải thích nghi được với sự thay đổi không ngừng ấy, biết
tận dụng những cơ hội và hạn chế đến mức tối thiểu những thách thức do môi
trường đem lại. Để làm được điều đó thì bản thân doanh nghiệp phải luôn chuẩn bị
cho mình những đổi mới phù hợp. Doanh nghiệp luôn linh hoạt trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, phù hợp với những thay đổi của môi trường sẽ nâng cao được khả
16
năng cạnh tranh của mình, ngược lại, doanh nghiệp cứng nhắc không chịu thay đổi
sẽ sớm bị loại khỏi cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
- Khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng:
Trong kinh doanh, khách hàng là thượng đế chính vì vậy mà doanh nghiệp
phải bán cái thị trường (khách hàng) cần chứ không phải bán cái mình có. Ngày nay,
khi khoa học công nghệ ngày càng tiên tiến thì những yêu cầu của khách hàng ngày
càng cao. Doanh nghiệp phải luôn luôn tìm hiểu và đáp ứng các nhu cầu ngày càng
cao ấy. Doanh nghiệp có khả nằng đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng sẽ nhanh
chóng chiếm được lòng tin của khách hàng, nhanh chóng mở rộng thị trường thu hút
ngày càng nhiều khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị
trường.
- Khả năng tiếp cận và khai thác có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho quá
trình sản xuất:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp cần rất nhiều nguồn
lực đầu vào tùy thuộc vào ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh như: nhân lực,
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị v.v… Doanh nghiệp muốn làm ăn có hiệu quả thì
trước hết phải biết tiếp cận và khai thác có hiệu quả các nguồn lực này. Bởi lẽ, một
khi đã tiếp cận và khai thác tốt các nguồn lực đầu vào sẽ giúp doanh nghiệp giảm
được đáng kể chi phí cho sản xuất kinh doanh từ đó hạ được giá thành sản phẩm,
nhờ vậy mà nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Thương hiệu, uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh:
Thương hiệu, uy tín và hình ảnh là một nhân tố đặc biệt quan trọng để đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp đã tạo dựng được
thương hiệu, uy tín và hình ảnh của mình trên thị trường thì cũng có nghĩa là doanh
nghiệp đã xây dựng được một chỗ đứng vững chắc trên thị trường cũng như trong
tâm trí khách hàng.
Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá
Các tiêu chí định lượng kết hợp với các tiêu chí định tính để đo lường và
đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng nông sản bao gồm:
17
+ Năng lực sản xuất
Năng lực sản xuất của nông sản thể hiện thông qua việc khai thác và tận
dụng có hiệu quả các lợi thế về nguồn lực để tạo ra sản phẩm có năng suất cao và
sản lượng lớn trên một đơn vị diện tích. Nông sản phải có năng suất, sản lượng lớn
đảm bảo nguồn hàng cung cấp ổn định đáp ứng nhu cầu của thị trường. Nông sản có
sản lượng lớn mới mang tính hàng hoá cao, có khả năng mở rộng thị trường.
+ Chi phí và giá xuất khẩu nông sản.
- Chi phí sản xuất (giá thành) nông sản là chỉ tiêu quyết định năng lực cạnh
tranh nhờ giá cả. Thông thường, giá thành nông sản được tính riêng biệt nhất là tách
bạch rõ giá thành nông sản ở khâu nông nghiệp và giá thành nông sản ở khâu chế
biến – lưu thông. Điều này thường xuất phát từ hai lý do: Thứ nhất, các khâu của
quá trình tạo ra nông sản hàng hoá thường do các chủ thể độc lập tiến hành như
kinh tế hộ nông dân, trang trại, các doanh nghiệp chế biến nông sản, các công ty thu
mua xuất nhập khẩu, tiêu thụ nông sản. Cũng có trường hợp một doanh nghiệp đảm
nhiệm cả 3 khâu trên nhưng rất hiếm hoi. Thứ hai, làm rõ nguyên nhân làm tăng hay
giảm giá thành để tìm biện pháp khắc phục.
Năng lực cạnh tranh về chi phí sản xuất hàng nông sản xuất khẩu thường
được đánh giá bằng Hệ số chi phí nguồn lực nội địa Domestic Resource Cost
Coefficient: DRCC).
Hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRCC) giúp đánh giá lợi thế so sánh khi
sản xuất một loại hàng hoá dựa trên hiệu quả sử dụng các đầu vào nội địa để sản
xuất hàng hoá đó. Chỉ tiêu này liên quan đến chi phí cơ hội của việc sử dụng các
đầu vào nội địa. Hệ số này được sử dụng chủ yếu cho hàng nông sản vì việc sản
xuất chúng sử dụng nhiều nguồn lực nội địa.
DRCC = DRC/ (NV*EX)
Trong đó:
+ DRC: Chi phí sử dụng các nguồn lực nội địa; nó thể hiện tổng chi phí cơ
hội của việc sử dụng tất cả các nguồn trong nước cần thiết để sản xuất ra một đơn vị
thu nhập;
18
+ NV: Giá trị gia tăng của hàng hoá dựa vào giá ở biên giới;
+ EX: Tỷ giá.
Nếu DRCC < 1 thì việc sản xuất tạo ra thu nhập cao hơn chi phí bỏ ra do đó một
nước có lợi thế so sánh về sản xuất sản phẩm đó nếu DRCC > 1 thì ngược lại.
+ Chất lượng hàng nông sản
Ngày nay, yêu cầu đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp, quốc gia là phải cung
ứng những sản phẩm có chất lượng cao để thỏa mãn nhu cầu ngày càng khắt khe
của người tiêu dùng. Người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho những sản phẩm,
dịch vụ cùng loại nhưng có chất lượng cao hơn. Do vậy, chất lượng sản phẩm, dịch
vụ là tiêu chí quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định tới sức cạnh tranh của hàng
nông sản xuất khẩu. Chất lượng sản phẩm với tư cách là nhân tố nâng cao sức cạnh
tranh bao gồm:
- Hàng hoá sản xuất ra phải bảo đảm chất lượng theo chuẩn mực. Hàng hoá
nông sản xuất khẩu phải bảo đảm được chất lượng theo các tiêu chuẩn an toàn của
quốc tế và phải được các tổ chức quốc tế duyệt và cấp chứng chỉ. Có như vậy nông
sản hàng hoá mới giữ được thị phần, giữ được vị thế trên thị trường, bảo đảm đủ độ
tin cậy cho người tiêu dùng.
- Điều quan trọng hơn là hàng hoá phải đem lại cho người tiêu dùng những
tác dụng đặc biệt. Vì vậy, vấn đề không chỉ là việc bảo đảm chất lượng chuẩn mực
của sản phẩm mà là ở việc phấn đấu một chất lượng vượt trội thể hiện ở sự khác
biệt của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế. Muốn vậy
phải thực hiện sự đổi mới sản phẩm để tạo ra sự khác biệt so với sản phẩm của các
đối thủ cạnh tranh. Sản phẩm đắt khách trên thị trường luôn luôn thu hút sự cạnh
tranh. Do đó, đổi mới liên tục sản phẩm là để đón đầu các đối thủ cạnh tranh và
cũng là cách để tự mình cạnh tranh với chính mình. Thực hiện điểm này, chiến lược
phát triển của ngành sản xuất nông sản xuất khẩu là không phải tìm mọi cách để kéo
dài chu kỳ sống của sản phẩm mà luôn ở tư thế rút ngắn chu kỳ sống đó và thay thế
bằng một chu kỳ sống khác. Đây chính là một bí quyết để nâng cao sức cạnh tranh.
19
Ngày nay, trên thị trường các nước phát triển, xu hướng cạnh tranh không
chỉ bằng chất lượng mà còn gắn với các yếu tố về môi trường và an toàn sản phẩm,
đặc biệt đối với hàng nông sản. Để có thể cạnh tranh được trên các thị trường lớn
như EU, Mỹ và Nhật Bản, các mặt hàng nông sản vừa phải đáp ứng các yêu cầu về
chất lượng, vừa phải thỏa mãn các yêu cầu liên quan đến đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm như dư lượng kháng sinh và chất bảo vệ thực vật trong sản phẩm, các
quy định về bảo vệ môi trường, các điều kiện tiêu chuẩn đối với cơ sở chế biến xuất
khẩu v.v..
+ Thương hiệu hàng nông sản
Vấn đề thương hiệu đã trở thành tất yếu để bảo đảm hiệu quả kinh doanh
trong điều kiện kinh tế hiện đại. Phần lớn hàng hoá xuất khẩu trên thị trường quốc
tế đều có gắn với thương hiệu, tạo nên uy tín, tiếng tăm cho sản phẩm hàng hoá nó
có tác dụng củng cố lòng tin cho khách hàng. Đây là điều cực kỳ quan trọng đối với
hàng hoá nông sản khi mà chất lượng sản phẩm không thể kiểm chứng trước khi tiêu
dùng hoặc kể cả trong và sau khi tiêu dùng. Tuy vậy, một khi tất cả hàng hoá đều có
thương hiệu thì điều quan trọng là yếu tố chất lượng thương hiệu. Cấu thành chất
lượng thương hiệu bao gồm các yếu tố:
- Yếu tố tiếng tăm của thương hiệu: thương hiệu sau khi được công nhận đã
được thời gian kiểm chứng, được khẳng định trên thực tế trên thị trường là nó thực
sự đem lại giá trị nhất định cho khách hàng. Khi tiếng tăm của thương hiệu đã hình
thành thì sẽ lôi cuốn được khách hàng tìm đến các sản phẩm của đơn vị cung cấp,
sức cạnh tranh được thực hiện.
- Một yếu tố khác giúp tạo nên sức cạnh tranh ngày một cao đó là thương
hiệu đã tạo nên sự hãnh diện cho khách hàng từ việc quan hệ với thương hiệu, tạo
được niềm tự hào và danh tiếng cho chính khách hàng, điều đó đồng nghĩa với việc
mang đến cho khách hàng một sức cạnh tranh đặc biệt và cũng tạo cho nhà cung cấp
một lợi thế cạnh tranh đặc biệt.
20
1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nông sản hàng
hoá
Các yếu tố tác động trực tiếp:
- Điều kiện sản xuất:
Tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự nhiên(đất, nước, chế độ thuỷ văn, khí hậu,
sinh vật,…) là nhân tố quyết định trực tiếp đến sản xuất nông sản. Việc khai thác
triệt để lợi thế so sánh của từng vùng, miền khác nhau sẽ góp phần tạo ra những
nông sản đặc trưng có lợi thế cạnh tranh cao.
- Giống, phương thức canh tác
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hàng nông sản xuất khẩu thì
giống được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu và có tính chất quyết định. Đối với
các mặt hàng nông sản như gạo, trái cây, rau củ,... giống có ảnh hưởng đến năng
suất chất lượng màu sắc, kích cỡ, độ thơm ngon của hạt, hạt nguyên hay hạt vỡ, khả
năng phòng chống sâu bệnh. Để có giống tốt cần phải đầu tư hơn nữa cho công tác
nghiên cứu lai tạo ra và áp dụng những giống cây con có năng suất, chất lượng và
giá trị kinh tế cao phù hợp với các vùng, có cơ chế phù hợp, giải quyết thỏa đáng
các quan hệ lợi ích giữa viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp, hỗ trợ
nông dân thông qua các chương trình cụ thể.
Phương thức canh tác có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng
nông sản, việc nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ canh tác mới hoặc phương
thức canh tác hữu cơ bền vững với một quy trình khép kín từ khâu làm đất, trồng,
chăm sóc, quản lý các dư lượng có hại đối với sản phẩm đến khâu thu hoạch, bảo
quản sẽ góp phần tạo ra khối lượng nông sản hàng hoá lớn, với chi phí thấp và chất
lượng cao.
- Năng suất, sản lượng: Trong cơ chế thị trường khi có một cây trồng có năng
suất, chất lượng cao, sản lượng lớn và nếu có giá thành thấp thì sản phẩm ấy có sức
cạnh tranh cao có khả năng kiểm soát cung- cầu trên thị trường.
21
- Giá nông sản: Chi phí sản xuất (giá thành) nông sản là chỉ tiêu quyết định
năng lực cạnh tranh nhờ giá cả. Cạnh tranh bằng giá cả là chiến lược hiệu quả của
DN, được áp dụng rộng rãi trong việc giành thị phần và tăng doanh thu sản phẩm.
- Chất lượng: Yêu cầu về chất lượng nông sản ngày càng nâng cao, bên cạnh
tiêu chuẩn về phẩm chất, hương vị thì tiêu chuẩn về vệ sinh, an toàn thực phẩm
ngày càng được chú trọng. Ở các nước phát triển, các chính phủ và các hội nghề
nghiệp, hội bảo vệ người tiêu dùng đều rất quan tâm đến tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn
nông sản. Vì thế, tiêu chuẩn về chất lượng - nhất là tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn
thực phẩm trở thành bộ phận cấu thành sức cạnh tranh của hàng nông sản. Từ đó đòi
hỏi việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản phải gắn liền với yêu cầu nâng cao
chất lượng, sản xuất sạch từ khâu sản xuất đến bảo quản, chế biến, lưu thông nông sản.
- Công nghệ bảo quản sau thu hoạch: Nông sản là sản phẩm tươi sống. Đặc
điểm nổi bật của sản xuất nông nghiệp là quá trình diễn ra các biến đổi về sinh học
gắn với sự tác động của tự nhiên. Trong nhiều trường hợp, khi kết thúc quá trình sản
xuất nông nghiệp, do những tác nhân bên ngoài có thể làm biến đổi nhanh chóng
phẩm chất của nông sản. Vì thế, hiện nay việc tiêu dùng nông sản của con người
thường diễn ra dưới hai dạng: dạng nông sản tươi sống và nông sản được chế biến.
Dù theo dạng nào cũng phải giữ được chất lượng nông sản, bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm đến tay người tiêu dùng là yêu cầu cấp bách. Do đó sức cạnh tranh của
hàng nông sản không chỉ phụ thuộc vào chất lượng của sản xuất nông nghiệp mà
còn phụ thuộc rất lớn vào trình độ, hiệu quả của công nghệ sau thu hoạch, chế biến
bảo quản nông sản.
Các nhân tố gián tiếp
- Tính hợp lý của viêc hoạch định chủ trương, chính sách phát triển nông
Kinh nghiệm của một số quốc gia và vùng lãnh thổ đi lên từ nông nghiệp ở
nghiệp của nhà nước và địa phương trong từng thời kỳ:
châu Á như Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc ... cho thấy, việc xác định đúng vai
trò của nông nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội từng thời kỳ có vai
trò rất quan trọng. Trên cơ sở xác định đúng vai trò của nông nghiệp từng thời kỳ,
22
Nhà nước hoạch định hệ thống chính sách tương thích để phát triển nông nghiệp và
nền kinh tế như chính sách đầu tư, chính sách đất đai, chính sách thương mại nông
sản,...
- Hệ thống kết cấu hạ tầng nhất là hệ thống giao thông vận tải:
Ảnh hưởng của hệ thống kết cấu hạ tầng nhất là hệ thống giao thông vận tải
đến sức cạnh tranh của hàng nông sản. Hệ thống kết cấu hạ tầng không chỉ tạo điều
kiện cho sự vận động của hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ một cách nhanh
chóng mà còn trực tiếp tham gia cung ứng yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp.
Ở nước ta, trình độ phát triển của hệ thống giao thông, hệ thống điện, thuỷ lợi,... và
phí sử dụng của chúng đã chi phối rõ rệt đến sức cạnh tranh của hàng nông sản.
Không những thế, trình độ phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng và khoa học công
nghệ còn có khả năng mở rộng không gian của sản xuất nông nghiệp.
- Hệ thống luật pháp và chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải
quyết vấn đề nông dân:
Hệ thống luật pháp và chính sách có vai trò ngày càng tăng đối với sản xuất
nông nghiệp. Luật pháp và chính sách của Nhà nước, như: chính sách đầu tư, chính
sách đất đai, chính sách thuế xuất nhập khẩu, chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần... có tác động rõ rệt đến việc nâng cao sức cạnh tranh của nước ta. Khi
Việt Nam trở thành thành viên của WTO, các chính sách của Nhà nước, như: chính
sách thuế, chính sách kiểm dịch động thực vật, chính sách cạnh tranh, chính sách
bảo hộ hợp lý nông nghiệp trong nước... có tác động rất to lớn đến sức cạnh tranh
của hàng nông sản.
- Trình độ và hiệu quả của các ngành kinh tế liên quan đến sản xuất nông
nghiệp hàng hóa:
Trước đây vào những năm 60,70 của thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu đã tính
toán rằng, trong 100% giá trị cuối cùng của nông sản đưa ra thị trường thì phần của
nông nghiệp đóng góp khoảng 70%, phần của công nghiệp và dịch vụ liên quan chỉ
đóng góp khoảng 30%. Ngày nay, trong nhiều mặt hàng nông sản, phần đóng góp
của nông nghiệp chỉ khoảng 22-30%, còn lại là phần của công nghiệp và dịch vụ có
23
liên quan. Đặc trưng cơ bản của nền nông nghiệp hàng hoá trong điều kiện hiện tại
là sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ
nông sản.
- Trình độ khoa học, công nghệ của sản xuất nông nghiệp và của công nghiệp,
dịch vụ có liên quan:
Trình độ khoa học, công nghệ nông nghiệp là “khâu có tính đột phá” trong
việc đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta.
Khoa học, công nghệ ở đây được xem xét theo nghĩa rộng bao gồm cả khoa học kỹ
thuật và khoa học xã hội nhân văn. Ngoài việc hoạch định luật pháp, chính sách như
ở trên đã phân tích, trình độ khoa học, công nghệ còn được thể hiện ở việc xác định
cơ cấu, chiến lược kinh doanh của các đơn vị kinh doanh nông nghiệp và các nội
dung quản trị khác.
1.2. Khái niệm về nông sản hàng hóa, nông sản chủ lực
1.2.1. Khái niệm về nông sản hàng hóa
Trong hoạt động của kinh tế nông nghiệp, sản phẩm được sản xuất ra không phải
để thoã mãn nhu cầu cá nhân của người sản xuất mà là để trao đổi trên thị trường thì
được gọi là sản hàng hoá (hay nông sản hàng hoá). Nông sản hàng hoá là tế bào
kinh tế của nền nông nghiệp hàng hoá. (Theo TS. Trần Xuân Châu, Phát triển nền
nông nghiệp hàng hoá ở Việt Nam thực trạng và giải pháp)
Nông sản hàng hóa là những sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong nước cũng như quốc tế. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đánh giá
thông qua các tiêu chí: chất lượng, giá cả, thương hiệu, thị trường và sự khác biệt
của sản phẩm…và nó là nhân tố quan trọng tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp về cơ bản được xây dựng trên năng
lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ do mình cung cấp và nó là điều kiện để duy trì,
củng cố và phát triển năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp được đánh giá bởi các nhân tố như: Tiềm lực của doanh nghiệp (vốn,
hạ tầng, trình độ công nghệ, nhân lực); năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ
doanh nghiệp cung ứng; thị trường và thương hiệu của doanh nghiệp…Các yếu tố
24
trên đều có vai trò cấu thành nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và chúng
thể hiện những vai trò khác nhau trong đó con người (nhân lực) đóng vai trò quyết
định.
1.2.2. Khái niệm nông sản chủ lực
Khái niệm về sản phẩm chủ lực
Theo QĐ số 712/QĐ/TTg ngày 21.5.2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
chương trình quốc gia “ Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020” và Thông tư của Bộ Khoa học- Công nghệ
số 20/2010/TT-BKHCN ngày 29.12.2010. Định nghĩa sản phẩm chủ lực như sau:
“Sản phẩm, hàng hóa chủ lực là sản phẩm, hàng hóa đóng vai trò quan trọng với
nền kinh tế, ngành kinh tế địa phương được lựa chọn dựa trên các tiêu chí: giá trị
gia tăng, hàm lượng khoa học và công nghệ cao; kim ngạch xuất khẩu cao; có tiềm
năng xuất khẩu lớn; sản phẩm, hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu; sử dụng nguồn
nguyên liệu trong nước”.
Xác định sản phẩm chủ lực thường dựa vào các tiêu chí sau:
- Tỉ trọng của sản phẩm trong GDP phải cao;
- Đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách;
- Phải gây được hiệu quả tốt theo phản ứng dây chuyển đến sự phát triển
các ngành khác hoặc có tác động lôi kéo các ngành khác phát triển theo;
- Góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu;
- Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động;
- Khả năng cạnh tranh cao;
- Tiềm năng thị trường tương đối lớn;
- Hiệu quả kinh tế cao
Nông sản chủ lực là sản phẩm của ngành nông- lâm-ngư nghiệp đóng vai trò
quan trọng với nền kinh tế, ngành kinh tế địa phương được lựa chọn dựa trên các
tiêu chí: giá trị gia tăng, hàm lượng khoa học và công nghệ cao; kim ngạch xuất
khẩu cao; có tiềm năng xuất khẩu lớn; sản phẩm, hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu;
sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước hoặc địa phương.
25
Sản phẩm có khả năng cạnh tranh
Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững trên thị trường
khi có mức giá thấp hơn các sản phẩm tương tự với chất lượng ngang bằng hay cao
hơn.
Theo lý thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh được xem xét qua
lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động.
Theo M.Porter, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng
lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có giá thành thấp và sụ dị biệt của sản
phẩm.
Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải xác định lợi thế
cạnh tranh của mình. Lợi thế cạnh tranh của sản phẩm được hiểu là những thế mạnh
mà sản phẩm có hoặc có thể huy động để chiến thắng trong cạnh tranh. Có hai
nhóm lợi thế cạnh tranh:
+ Lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh.
Các nhân tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động thường được xem là nguồn lực để
tạo lợi thế cạnh tranh.
+ Lợi thế về sự khác biệt hóa: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá
trị cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính
hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức
giá thậm chí cao hơn đối thủ.
Thông thường việc xác định khả năng cạnh tranh của sản phẩm dựa vào 4 tiêu
chí:
- Tính cạnh tranh về chất lượng và mức độ đa dạng hóa sản phẩm.
- Tính cạnh tranh về giá cả.
- Khả năng thâm nhập thị trường mới.
- Khả năng khuyến mãi, lôi kéo khách hàng và phương thức kinh doanh.
Nhìn chung đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm phải xem xét các mặt:
chất lượng sản phẩm, chủng loại sản phẩm, tính đa dạng, mẫu mã, bao bì của sản
26
phẩm, uy tín thương hiệu của sản phẩm, nguồn hàng cung cấp ổn đinh, giá cả sản
phẩm và công tác tiếp cận thị trường của sản phẩm.
Tiêu chí chọn lựa các sản phẩm chủ lực
Để hình thành và phát triển các sản phẩm chủ lực có khả năng cạnh tranh một
cách cơ bản các sản phẩm này phải đạt được những tiêu chí đặt ra:
- Sử dụng tốt nhất những lợi thế hiện có;
- Có chỉ số giá thành thấp, chi phí sản xuất thấp;
- Chất lượng sản phẩm cao;
- Năng lực sản xuất lớn;
- Góp phần quan trọng trong việc phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế;
- Có khả năng góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác động
dây chuyền đến sự phát triển các ngành kinh tế khác;
- Gia tăng doanh số cho xuất khẩu;
- Tạo thêm việc làm.
Tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực của tỉnh Vĩnh Long
* Năng lực sản xuất:
- Sản phẩm đủ lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa, chế biến, xuất khẩu;,
có khả năng áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, quy mô lớn đáp ứng nhu cầu
nguyên liệu an toàn cho công nghiệp chế biến và tiêu thụ tươi, sản phẩm có tốc độ
tăng trưởng nhanh. Quy trình sản xuất, công nghệ hiện đại, tiên tiến.Ưu tiên sản
phẩm mang tính đặc thù, đặc sản của tỉnh.
* Thị trường tiêu thụ :
- Đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, tăng trưởng nhanh, ổn
định.
- Nhu cầu thị trường đối với sản phẩm còn cao.
- Thương hiệu có uy tín trong và ngoài nước.
- Sản phẩm có tham gia vào thị trường xuất khẩu từ 15% sản lượng trở lên (hoặc
doanh thu).
* Chất lượng sản phẩm:
27
- Sản phẩm áp dụng và đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, khu vực.
- Sản phẩm áp dụng và đạt tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam
- Sản phẩm tự công bố tiêu chuẩn cơ sở, hài hoà tiêu chuẩn Việt Nam hoặc tiêu
chuẩn quốc tế, khu vực.
* Chiến lược phát triển sản phẩm
- Doanh nghiệp sản xuất phải có chiến lược phát triển sản phẩm.
- Các cơ quan quản lý địa phương tỉnh, huyện có chiến lược phát triển ngành,
sản phẩm của địa phương.
* Hiệu quả kinh tế xã hội
- Sản phẩm có giá thành bằng hoặc thấp hơn sản phẩm cùng loại trên thị trường.
- Thu nhập của người lao động phải bằng hoặc cao hơn thu nhập trung bình của
vùng hay của tỉnh.
- Sản phẩm thu hút được nhiều lao động
- Sản phẩm áp dụng qui trình sản xuất sạch hoặc có biện pháp bảo vệ môi trường.
- Đóng góp cho ngân sách đia phương.
Các nông sản chủ lực của tỉnh Vĩnh Long được xác định bao gồm:
Căn cứ vào các tiêu chí xác định sản phẩm chủ lực của tỉnh, Sở NN&PTNT
tỉnh Vĩnh Long đã xác định các nông sản chủ lực dựa mức độ đóng góp trong GDP
của tỉnh, giá trị xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng, sử dụng lao động, có lợi thế cạnh
tranh hay nói cách khác là ngành phát huy được các thế mạnh của tỉnh về các điều
kiện tự nhiên, các điều kiện kinh tế - xã hội của tỉn trong đó có 4 nhóm mặt hàng
nông sản có khả năng tăng trưởng nổi bật nhất, đó là:
1. Lúa gạo
2. Trái cây
3. Rau củ
4. Thuỷ sản
1.2.3. Vai trò của sản phẩm chủ lực đối với phát triển kinh tế xã hội địa
phương
28
Sản phẩm chủ lực đóng vai trò chủ đạo đối với tăng trưởng kinh tế
Tùy thuộc vào vị trí địa lý, điều kiện về kinh tế và thế mạnh riêng của mỗi
địa phương, mỗi quốc gia, họ ưu tiên đầu tư mạnh vào những sản phẩm có lợi thế
cạnh tranh, lợi thế so sánh và có khả năng chiếm ưu thế ngay tại thị trường trong
nước cũng như khả năng mở rộng và phát triển thị trường quốc tế. Chính vì vậy,
những sản phẩm chủ lực này sẽ là những ngành có khả năng tạo ra giá trị gia tăng
cao và ổn định, đây sẽ là nguồn đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế của đất
nước/tỉnh, thành phố cũng như đảm bảo sự phát triển bền vững. Nhờ những lợi thế
mà những đối thủ cạnh tranh khác không có hoặc năng lực cạnh tranh yếu hơn.
Những doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra những sản phẩm có tính đặc trưng
riêng với trình độ và chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh về giá và chất lượng
sản phẩm. Ưu thế này giúp những sản phẩm đó có khả năng phát triển và mở rộng
trên thị trường quốc tế, nhất là trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên của tổ
chức thương mại WTO.
Giúp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sản phẩm chủ lực là những sản phẩm dựa vào việc khai thác tiềm năng và lợi
thế của từng vùng, từng quốc gia. Chính vì vậy, sản phẩm chủ lực đóng vai trò quan
trọng đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Phát triển kinh tế
được thực hiện thông qua hai con đường chủ yếu là mở rộng tái sản xuất bằng loại
hình phát triển theo chiều rộng và loại hình tái sản xuất phát triển theo chiều sâu.
Nhưng từ sự hạn chế về không gian của địa phương nhất là các đô thị, sự chuyển
dịch.
29
30
Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NÔNG SẢN HÀNG HÓA TỈNH VĨNH LONG THỜI GIAN QUA
2.1. Khái quát nguồn lực ảnh hưởng đến sản xuất nông sản của tỉnh Vĩnh Long
2.1.1. Vị trí địa lý kinh tế
Vĩnh Long nằm kẹp giữa sông Tiền, sông Hậu và sông Cổ Chiên, nằm ở vị
trí trung tâm của ĐBSCL; đồng thời có quốc lộ 1A là tuyến giao thông huyết mạch
nối ĐBSCL với ĐNB chạy qua huyện Bình Minh, Tam Bình, Long Hồ và thành
phố Vĩnh Long dài 46 km, với cầu Mỹ Thuận kết nối với Tiền Giang; cầu Cần Thơ
kết nối với thành phố Cần Thơ và các tỉnh phía Tây tạo cho Vĩnh Long có điều kiện
thuận lợi giao lưu kinh tế với các tỉnh trong khu vực và cả nước. Ngoài ra còn có
các tuyến quốc lộ 53, 54, 57, 80 góp phần đưa Vĩnh Long đến gần với Trà Vinh,
Đồng Tháp…Đặc biệt Vĩnh Long có hệ thống giao thông thuỷ rất thuận lợi cả trong
nước và quốc tế thong ra biển Đông và ngược lên Campuchia.
Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, nhất là phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hoá theo cơ chế thị trường, thì vị trí địa lý đã tạo cho Vĩnh Long lợi thế vượt
trội so với các tỉnh khác của ĐBSCL là có thể chủ động sản xuất ra nông, thuỷ sản
gần như quanh năm (có nước ngọt quanh năm, chịu ảnh hưởng của lũ nhẹ hơn vùng
Đồng Tháp Mười). Hàng hoá nông sản (kể cả giống cây trồng, vật nuôi và thuỷ sản)
từ Vĩnh Long toả đi toàn vùng rất thuận lợi và Vĩnh Long rất có cơ hội trở thành
một trung tâm bảo quản-chế biến và giao dịch nông sản hàng hoá lớn của ĐBSCL,
nhất là các loại rau, trái cây đặc sản,…
Tuy nhiên, Vĩnh Long lại Nằm kế cận thành phố Cần Thơ (thành phố trực
thuộc Trung ương), một cực tăng trưởng của Nam Bộ và cách thành phố Hồ Chí
Minh (khoảng 135 km)-một đô thị lớn, là trung tâm công nghiệp-dịch vụ- khoa học
công nghệ lớn của cả nước, nên khă năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước
đến với Vĩnh Long bị phân cực. Mặt khác, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông
nghiệp và đời sống khu vực nông thôn thiếu đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực
còn hạn chế, thiếu những doanh nghiệp đủ điều kiện làm đối tác liên doanh, khó thu
hút vốn đầu tư về với Vĩnh Long.
31
Gắn vị trí địa lý với các nguồn tài nguyên thiên nhiên ưu đãi thì tỉnh Vĩnh
Long có thế mạnh hình thành nền nông nghiệp toàn diện, đa canh, thâm canh có
hiệu quả cao với các nông sản chiến lược là: trái cây đặc sản, lúa, rau màu-thực
phẩm, cá tôm nước ngọt, thịt heo, thịt bò, thịt gia cầm với chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Bảng 2.1: Đơn vị hành chính tỉnh Vĩnh Long
Địa Phương Dân số Đơn vị hành chính
Diện tích (km2) (người) Thi trấn Phường Xã
Toàn tỉnh 1.504,90 1.028.550 6 7 94
48,01 138.299 7 4 1.TP. Vĩnh Long
193,17 161.270 1 - 14 2.Long Hồ
159,85 99.378 1 - 12 3.Mang Thít
294,43 159.453 1 - 19 4.Vũng Liêm
290,60 153.985 1 - 16 5.Tam Bình
96,63 87.807 1 - 5 6.Bình Minh
267,14 134.951 1 - 13 7.Trà Ôn
158,07 97.407 - - 11 8.Bình Tân
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vinh Long 2011
2.1.2. Nguồn lực tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
2.1.2.1. Tài nguyên đất
Đất đai của tỉnh Vĩnh Long được hình thành do kết quả trầm tích biển lùi
Holocene (cách nay khoảng 5.000-11.200 năm) dưới tác động của sông Mê Kông.
Theo kết quả điều tra khảo sát thổ nhưỡng của Chương trình Đất tỉnh Vĩnh Long
năm 1990-1994, Vĩnh Long có 4 nhóm đất chính: nhóm đất xáo trộn (đất líp) có
diện tích 50.613 ha (chiếm 33.81% diện tích tự nhiên) xếp thứ 2 sau Tiền Giang
thích hợp cho trồng cây ăn trái đặc sản và dưới mương vườn có thể nuôi thủy sản
nước ngọt., nhóm đất phèn: 59.505 ha (chiếm 39,75%), nhóm đất phù sa: 20.844 ha
(chiếm 13,95%) và nhóm đất cát chỉ có: 147ha (chiếm 0,1%).
32
Theo số liệu thống kê, tính đến ngày 1/1/2010, tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh
có 147.912,7 ha được chia ra 5 loại đất sử dụng như sau (tỉnh không có đất lâm
nghiệp): Đất nông nghiệp 116.180,6 ha, chiếm 78,6%; Đất chuyên dùng 9.163,9 ha,
chiếm 6,2%; Đất ở nông thôn 5.502,3 ha, chiếm 3,7%; Đất ở đô thị 656,8 ha, chiếm
0,44%; Đất chưa sử dụng, 105,3 ha, chiếm 0,07%.
Đất Vĩnh Long có độ phì nhiêu cao bao gồm: đất líp, đất phù sa,đất phèn tiềm
tàng sâu có diện tích 121.992 ha, chiếm 81,5% diện tích tự nhiên đây là tỉ lệ cao
nhất ở ĐBSCL. Đặc biệt đất ở các cù lao và ven sông Tiền, sông Hậu, sông Cổ
Chiên hoàn toàn chủ động nước ngọt, ngập nông nên thích hợp cho trồng cây ăn trái
đặc sản, nuôi tôm, cá dưới mương vườn và trồng luân canh lúa- rau màu, đây chính
là thế mạnh của Vĩnh Long.
Nhìn chung đất của Vĩnh Long có độ phì nhiêu tiềm tàng khá cao, nhất là tầng
canh tác cho phép áp dụng kỹ thuật thâm canh cây trồng, phát triển trồng trọt toàn
diện, đa canh, luân canh hợp lý đem lại hiệu quả kinh tế cao.
2.1.2.2. Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt:
Vĩnh Long thuộc hạ lưu sông Mê Kông, nằm ở vị trí trung tâm ĐBSCL, được
bao bọc bởi sông Hậu (ranh giới phía Tây Nam dài 43 km), sông Tiền (ranh giới
phía Bắc dài 20 km) và sông Cổ Chiên (ranh giới phía Đông Bắc dài 52 km); ngoài
ra còn có hệ thống sông, kênh, rạch chằng chịt dẫn nước từ sông chính vào nội đồng.
Do vậy, tài nguyên nước ở Vĩnh Long rất dồi dào và chất lượng rất tốt phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp, có ưu thế nhất so với các tỉnh thành trong cả nước.
Với 91 sông, kênh, rạch trên địa bàn nguồn nước mặt của Tỉnh Vĩnh Long được
phân bổ đều khắp trong tỉnh. Ba con sông lớn cung cấp nước cho hệ thống kênh
rạch này là:
- Sông Cổ Chiên nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh, có chiều rộng từ 800-2500m,
sâu từ 20-40m với khả năng tải nước cực đại lên tới 12.000-19.000m³/s.
- Sông Hậu chảy theo hướng Đông Bắc Tây Nam, song song với sông Cổ Chiên,
chạy dọc theo phía Tây Nam của Tỉnh, sông có chiều rộng từ 1500-3000m, sâu từ
33
15-30m, khả năng tải nước cực đại lên tới 20.000-32.000m³/s.
- Sông Măng Thít : gồm 1 phần kênh thiên nhiên, 1 phần kênh đào nối từ sông
Cổ Chiên tại Quới An sang sông Hậu tại Trà Ôn, sông dài 47km, có bề rộng trung
bình từ 110-150m, lưu lượng cực đại chảy ra và vào tại 2 cửa sông như sau:
Phía sông Cổ Chiên: 1500-1600m³/s; Phía sông Hậu: 525-650m³/s.
Chất lượng nước tại 3 con sông lớn này hoàn toàn ngọt, chế độ thuỷ văn điều
hoà, lưu lượng dòng chảy thay đổi theo mùa, ít chịu chi phối của thuỷ triều, tuy bị ô
nhiễm nhẹ nhưng hoàn toàn dùng cho sinh hoạt được khi đã qua công trình xử lý
nước, như vậy với tất cả các đô thị, khu dân cư có 3 con sông này chảy qua đều có
thể lấy nước mặt (xử lý đạt tiêu chuẩn) để phục vụ cho nhu cầu nước ăn uống, sinh
hoạt, phục vụ cho sản xuất công nghiệp, du lịch, đây là những thuận lợi lớn mà ít
tỉnh nào có được.
Nguồn nước ngọt dồi dào về số lượng và phân bố quanh năm, chất lượng nước
tốt (pH : 6,8-7,0) riêng mùa lũ hàm lượng phù sa trong nước từ 250 – 450 gram/m3).
Đảm bảo đủ nước cung cấp cho sản xuất trong lĩnh vực trồng. Ngập lũ cũng mang
lại nguồn phù sa vào cải tạo và làm giàu dinh dưỡng cho đất lúa.
Nước ngầm:
Theo kết quả nghiên cứu của một số công trình thăm dò thì nguồn nước ngầm ở
Vĩnh Long rất hạn chế và chỉ phân bố ở một số khu vực nhất định. Các tầng nước
ngầm của Vĩnh Long như sau:
- Tầng nước ngầm ở độ sâu trung bình 86,4 m, nước nhạt phân bổ chủ yếu ở
vùng ven sông Hậu và sông Tiền, bề dày tầng chứa nước không lớn. Trữ lượng khai
thác tiềm năng khoảng 46.169 m3/ngày.
- Tầng chứa nước phân bổ ở độ sâu trung bình 150 m, nước nhạt phân bổ khu
vực ven sông Hậu và một số xã phía Nam tỉnh Vĩnh Long. Bề dầy tầng chứa nước
khá lớn. Trữ lượng khai thác tiềm năng khoảng 86.299 m3/ngày.
- Tầng chứa nước phân bổ ở độ sâu trung bình 333,2 m, chất nước kém không
thể khai thác.
34
- Tầng chứa nước phân bổ ở độ sâu trung bình 425 m. Bề dầy tầng chứa nước
khá lớn. Đây là tầng chứa nước đang được khai thác nhiều bằng các giếng khoan
công nghiệp. Trữ lượng khai thác tiềm năng khoảng 31.669 m3/ngày.
- Tầng chứa nước phân bổ ở độ sâu trung bình từ 439 m trở xuống. Nước nhạt
chỉ phân bổ ở khu vực thành phố Vĩnh Long (ven sông Tiền). Bề dầy tầng chứa
nước khá lớn. Đây là tầng chứa nước đang được khai thác nhiều bằng các giếng
khoan công nghiệp. Đặc biệt đây là tầng chứa nước khoáng. Trữ lượng khai thác
tiềm năng khoảng 19.520 m3/ngày
Chế độ thủy văn
Toàn tỉnh chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông, thông
qua 2 sông chính là sông Cổ Chiên (cửa Cung Hầu) và sông Hậu (của Đinh An,
Trần Đề), trong một ngày có hai đỉnh triều và hai chân triều không đều nhau, biến
động qua các tháng trong năm.
Biên độ triều trên sông Hậu (tại Cần Thơ) dao động từ 104-172 cm, đỉnh triều
104-161 cm, chân triều thấp nhất -22cm đến -178cm; Trên sông Tiền (Mỹ Thuận)
biên độ giao động từ 75-142 cm ( tương ứng đỉnh triều 79 – 159cm, chân triều thấp
nhất -4cm đến -169cm), tại một số điểm trên sông Mang Thít như Quới An có biên
độ triều cực đại 224cm, Trà Ôn 221cm, Trà Ngoa 220, Long Dức 222cm. Đặc biệt,
cường độ truyền triều qua 2 sông Hậu Giang và Sông Cổ Chiên xếp vào loại nhất
nước ta (tốc độ 18-24 km/giờ), tốc độ dòng chảy ngược cao. Mực nước và biên độ
triều khá cao, cường độ truyền triều mạnh, biên độ triều vào mùa lũ khoảng 70-90
cm và vào mùa khô dao động từ 114 – 140cm, kết hợp với hệ thống kênh rạch khá
chằng chịt (mật độ 67,5 m/ha) nên tiềm năng tưới tự chảy cho cây trồng khá lớn,
giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm năng lượng điện cũng như xăng, dầu. Khả năng tiêu
rút nước tốt hơn so với các tỉnh khác của khu vực ĐBSCL, tạo lợi thế cạnh tranh
cho sản phẩm hàng hoá. Song gần cuối mùa lũ, đặc biệt vào tháng 10, do cường độ
lũ mạnh, triều dâng cao kết hợp với mưa nhiều trong nội đồng đã có ảnh hưởng
ngập úng gây khó khăn trong việc bảo vệ vườn cây ăn trái và vụ lúa Thu Đông.
35
Vĩnh Long không phải đối mặt với lũ ở mức cao như các tỉnh An Giang, Đồng
Tháp, Long An,...phải ngừng trệ sản xuất. Một nơi ít ảnh hưởng lũ như Vĩnh Long
sẽ là cơ hội để tập trung vào sản xuất tạo ra sản phẩm mà thị trường cần, đặc biệt là
sản xuất giống: cây trồng, vật nuôi, thuỷ sản cho phát triển sản xuất nông nghiệp
ngay sau lũ và nông sản hàng hoá cung cấp cho thị trường cho các tỉnh bị lũ cũng
như vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, xây dựng nông nghiệp Vĩnh Long thành
hậu phương vững chắc, khai thác tối đa quy luật cung- cầu của thị trường.
2.1.2.3. Khí hậu
Vĩnh Long nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, quanh năm nóng ấm, có chế độ
nhiệt tương đối cao và bức xạ dồi dào. Theo Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long
năm 2007 (Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Long), tình hình khí hậu của tỉnh như sau:
* Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình cả năm từ 27 – 280C, Nhiệt độ tối cao 37,20C,
nhiệt độ thấp 19,4oC. Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm bình quân 7- 80C.
* Bức xạ: Bức xạ tương đối cao, bình quân số giờ nắng/ngày là 7,5 giờ. Bức xạ quang hợp/năm 79.560 kcal/m2. Bức xạ quang hợp/tháng 6.630 cal/cm2. Thời gian
chiếu sáng bình quân năm đạt 2.181 – 2/676 giờ/năm. Điều kiện dồi dào về nhiệt và
nắng là tiền đề cho sự phát triển nông nghiệp trên cơ sở thâm canh, tăng vụ.
* Ẩm độ: ẩm độ không khí qua các tháng trong năm biến thiên từ 74 -83%,
trong đó năm 2002 và 2003 có tháng ẩm độ xuống chỉ còn 74%, ẩm độ không khí
cao nhất tập trung vào tháng 9 và tháng 10 giá trị đạt trung bình 86 – 87% và tháng
thấp nhất là tháng 3 ẩm độ trung bình 74 – 79%.
* Lượng bốc hơi: Lượng bốc hơi bình quân, hàng năm của tỉnh khá lớn khoảng
1.400 – 1.500 mm/năm, trong đó lượng bốc hơi/ tháng vào mùa khô là 116 – 179
mm/tháng.
* Lượng mưa và sự phân bố mưa: Lượng mưa bình quân qua các năm từ 2000
đến 2007 chênh lệch khá lớn và có xu hướng giảm dần qua cách năm ( năm 2000 là
1.893 mm, năm 2004 là 1.186 mm, năm 2007 là 1.518 mm). Do đó ảnh hưởng lớn
đến sự thay đổi các đặc trưng của đất đai cũng như điều kiện phát triển sản xuất
nông nghiệp. Mặt khác, lượng mưa năm của tỉnh phân bố tập trung vào tháng 5-11
36
dương lịch, và nhiều nhất vào tháng 8-10 dương lịch, kết hợp với chế độ triều
cường trên sông thường gây ra tình trạng ngập úng kéo dài.
So với khí hậu cả nước, Vĩnh Long có nhiều ưu đãi về điều kiện khí hậu, rất ít
khi có khí hậu cực đoan ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Các yếu tố khí hậu
nói chung thuận lợi cho nông nghiệp trong điều kiện đủ nước tưới, phân bón và
giống cây trồng tốt cho phép sản xuất trồng trọt áp dụng kỹ thuật thâm canh, tăng
vụ để đạt năng suất cao, đáp ứng yêu cầu hàng hóa suốt 12 tháng trong năm của thị
trường; vấn đề là bố trí cơ cấu mùa vụ sao cho đạt hiệu quả quang hợp tối ưu nhất.
Đặc biệt với Vĩnh Long là làm vụ lúa Đông Xuân sớm và vụ màu Xuân- Hè sao cho
vừa tận dụng được điều kiện đất-nước-khí hậu, vừa tranh thủ được thời điểm thị
trường rất cần, mà ở vùng khác không sản xuất được do lũ lụt ở ĐBSCL hoặc chưa
vào mùa mưa là vụ sản xuất chính ở Đông Nam Bộ.
Tuy nhiên do lượng mưa thường tập trung vào mùa mưa, trùng với mùa lũ, tạo
ra ngập úng ở nơi có địa hình thấp trũng (vùng phía Bắc Quốc lộ 1A), gây hạn chế
và thiệt hại đối với sản xuất nông nghiệp (sản xuất 3 vụ lúa, phát triển cây ăn quả).
2.1.2.4. Tài nguyên sinh vật
Quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) thông qua chọn
lọc tự nhiên, đã tạo thành một hệ thống cây trồng phong phú, một số chủng loại cây
thích nghi lâu đời có khả năng chống chịu tốt với ngoại cảnh, cho năng suất và chất
lượng cao đã trở thành cây đặc sản truyền thống của tỉnh Vĩnh Long.
- Lúa là cây trồng có số lượng giống nhiều nhất, theo báo cáo của Trung tâm
Khuyến nông tỉnh các giống lúa phổ biến hiện nay trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long: OM
4900, OM 6162, OM 5472, MTL 547, OM 2514, MTL 232, OM 6976,OMCS
2000,…đồng thời với giống lúa thơm Jasmin 85,…v.v.
- Khoai lang: giống chủ lực hiện nay của tỉnh là giống khoai tím Nhật, ngoài ra
còn có các giống: Tàu ngạn, Bí đường, Dương Ngọc, Bí nghệ, Bí sữa,…
- Giống cây lâu năm: Ngoài các giống dừa (dâu xanh, dâu vàng, dừa lửa, dừa bị,
dừa xiêm), Vĩnh Long có nhiều loại cây ăn trái nổi tiếng, trước hết là bưởi năm roi,
cam sành, nhãn có 17 giống (nổi tiếng là xuồng cơm vàng, tiêu lá bầu), sầu riêng có
37
15 giống (nổi tiếng là sầu riêng hạt lép và sầu riêng Mon Thong, Ri 6), xoài 5 giống
(nổi tiếng là xoài cát Hoà Lộc và xoài cát Chu). Ngoài ra còn có cam giấy, quýt tiều,
quýt hồng, quýt đường, chanh, mận, Sapoche, ổi, đu đủ, táo, chuối, măng cụt, bòn
bon,…
Tóm lại, cây trồng vật nuôi Vĩnh Long rất đa dạng, một số có đặc tính tốt, sản
phẩm hàng hoá có chất lượng cao và thị trường chấp nhận tiêu thụ. Đây là nguồn
cây con đầu dòng rất quan trọng để chọn lọc, bình tuyển các cây con tốt cung cấp
vật liệu lai tạo giống hoặc nhân ra cho sản xuất đại trà. Đặc biệt nông nghiệp Vĩnh
Long phải xem công tác giống vừa là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát
triển vừa là ngành dịch vụ quan trọng, tận dụng điều kiện ít ảnh hưởng lũ để sản
xuất cây con giống cung cấp cho vùng lũ (1,8 triệu ha với hơn 10 triệu dân), như
Nghị quyết VIII Đảng bộ Vĩnh Long nhiệm kỳ 2005- 2010 đã chọn giống nông
nghiệp là một trong những chương trình trọng điểm.
2.1.3. Điều kiện kinh tế -xã hội
2.1.3.1. Tổng quan về kinh tế giai đoạn (2001-2010)
Tăng trưởng tổng sản phẩm (GDP):
Tổng sản phẩm (GDP) giá so sánh 1994 năm 2009: 7.018 tỷ đồng (gấp 2,3 lần so
với năm 2000), năm 2010 đạt 7.813 tỷ đồng, năm 2011 đạt 8.595 tỷ đồng trong đó
nông-lâm- ngư nghiệp đạt 2.998 tỷ đồng.
Bảng 2.2: Tổng sản phẩm trên địa bàn theo khu vực kinh tế 2001-2010
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Các chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010
Tổng GDP(giá 94) 3.035 4.583 7.813
1.634 2.149 2.914 Nông-lâm-ngư nghiệp
412 816 1.991 Công nghiệp-xây dựng
988 1.618 2.906 Dịch vụ
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2010
- Tốc độ tăng GDP giai đoạn 2001-2005 đạt 8,59%, đến giai đoạn 2006-2010
tốc độ tăng trưởng đạt 11,26%/ năm, bình quân 10(2001-2010) năm là 9,92%.
38
- Tốc độ tăng GDP nông-lâm-ngư nghiệp 2001-2005 là 5,63%/năm, giai
đoạn 2006-2010 tăng 6,28%/năm; bình quân 10 năm(2001-2010) là 5,96%/năm.
- Tốc độ tăng GDP công nghiệp –xây dưng giai đoạn 2001-2005 đạt
14,65%/năm, đến giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng đạt 19,53%/ năm, bình quân 10
năm(2001-2010) năm là 17,06%/năm.
- Tốc độ tăng GDP ngành dịch vụ giai đoạn 2001-2005 là 10,37%/năm, đến
giai đoạn 2006-2010 tăng 12,43%/ năm, bình quân 10 năm (2001-2010) tăng
11,40%/năm.
- GDP bình quân/người 2005 đạt: 8,05 triệu đồng/người/năm, năm 2010 là
21,3 triệu đồng/người/năm (theo giá hiện hành).
Những thành quả đạt được về tăng trưởng kinh tế là đáng phấn khởi, thể hiện
tinh thần đổi mới, phấn đấu liên tục, bền bỉ của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh
Long, thực hiện thắng lợi chiến lược 10 năm phát triển kinh tế xã hội do Đại hội
Đảng lần thứ IX và X Đảng Cộng Sản việt Nam đề ra. Tốc độ tăng GDP bình quân
10 năm khá cao (9,92%), xu thế tăng GDP theo hướng tăng dần là điều tích cực, tuy
nhiên tính liên hoàn lại thể hiện sự không ổn định qua các năm.
2.1.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001-2010:
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vĩnh Long là đúng hướng, nhưng
mức độ còn chậm, số liệu thống kê qua 10 năm được thể hiện như sau:
Bảng 2.3: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001-2010 (ĐVT: %)
Cơ cấu GDP (giá HH) Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 Tăng,
giảm
59,2 55,6 50,6 - 8,6 Nông lâm nghiệp, thuỷ sản
11,9 14,1 15,8 +3,9 Công nghiệp –xây dựng
28,9 30,4 33,6 +4,7 Dịch vụ
* Nguồn: Cục Thống kê và Sở kế hoạch-Đầu tư tỉnh Vĩnh Long (theo gia thực tế)
- Sau 10 năm tỷ trọng GDP nông lâm ngư nghiệp đã giảm: -8,6%, công
nghiệp –xây dựng tăng 3,9% và dịch vụ tăng 4,7%. Như vậy, kinh tế Vĩnh Long chủ
39
yếu vẫn là nông nghiệp, công nghiệp còn rất nhỏ và dịch vụ chưa phát triển tương
xứng với tiềm năng của một tỉnh ở vị trí trung tâm của ĐBSCL.
2.1.3.3. Thu, chi ngân sách và đầu tư phát triển
- Nguồn thu ngân sách hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch, tổng thu
ngân sách trên địa bàn tỉnh năm 2001 là: 471 tỷ đồng, năm 2005 là 931 tỷ, năm
2009 thu 1.663 tỷ đồng, năm 2010 đạt 2.293 tỷ đồng. Số liệu thu thực tế năm 2010
đạt 2.293 tỷ đồng cao gấp 4,87 lần so với năm 2001, tỷ lệ huy động GDP vào ngân
sách năm 2009 đạt 9,3%, năm 2010 đạt 10,5%.
- Tổng chi ngân sách địa phương năm 2005 chi 1.033 tỷ đồng, năm 2009 chi
2.304 tỷ đồng, năm 2010 chi 3.087 tỷ đồng. Như vậy, tính đến năm 2010 Vĩnh Long
là một trong số các tỉnh thành phố trong cả nước ”thu không đủ chi”, đây là vấn đề
khó khăn cho đầu tư phát triển.
- Vĩnh Long đã hướng chi ngân sách vào đầu tư và phát triển, năm 2009 là:
917 tỷ đồng (chiếm 37,6% so với tổng chi ngân sách trên địa bàn), chi thường
xuyên là: 1.494 tỷ đồng (chiếm 61,3% tổng chi ngân sách), chi chương trình mục
tiêu: 53 tỷ đồng chiếm 2,2%. Nếu xem đây là một trong những khó khăn mà nền
kinh tế Vĩnh Long cần phải khắc phục là thiếu vốn đầu tư phát triển từ ngân sách.
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản khu vực nông lâm ngư nghiệp (do địa phương
quản lý) chiếm tỷ trọng thấp. So sánh cơ cấu đầu tư cho các ngành năm 2001:Nông-
lâm-ngư nghiệp chiếm 12%, năm 2005 tăng lên14%, đến năm 2010 đạt 16,2%,
trong khi GDP nông lâm ngư nghiệp đóng góp đến 50,5% năm 2010, như vậy mức
đầu tư có phần chưa tương xứng, trong đầu tư xây dựng cơ bản cho nông nghiệp lại
tập trung vào thuỷ lợi (chiếm 40%).
Tóm lại, trong đầu tư phát triển vừa thiếu vốn, lại quá tập trung vào lĩnh vực
xây dựng cơ sở hạ tầng, cần có sự điều chỉnh lại cho hợp lý hơn nếu muốn thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng hàng hoá, phát
huy các lợi thế mà nông nghiệp Vĩnh Long có được trong kinh tế thị trường.
40
2.1.3.4. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nông nghiệp
Thuỷ lợi
Trong thời gian qua, trên địa bàn tỉnh đã đầu tư nâng cấp các công trình thủy
lợi nhằm đảm bảo tốt cho việc tưới tiêu, hạn chế tối đa thiệt hại về thiên tai lũ lụt và
hạn hán xảy ra. Theo kết quả báo cáo của Chi cục thủy lợi thuộc Sở NN&PTNN
tỉnh Vĩnh Long đến năm 2007 toàn tỉnh có 4.728 tuyến kênh mương với tổng chiều
dài 4.904.842m và mật độ phân bố kênh mương 32,6 m/ha. Hệ thống công trình
thủy lợi đã khép kín 98.000 ha đất nông nghiệp, chiếm 84,35% diện tích đất nông
nghiệp, diện tích chủ động tưới tiêu chiếm trên 51% diện tích canh tác, diện tích có
khả năng ngăn lũ lớn chiếm 72% diện tích.
Nhìn chung, hệ thống kênh mương, cống bọng được đầu tư đều khắp các
huyện. Năm 2007, toàn tỉnh có 94.000 ha đất nông nghiệp chiếm 80,35% tổng diện
tích đất nông nghiệp, 55.95% diện tích cây lâu năm và 98% diện tích cây hàng năm
được tưới tiêu. Tuy nhiên, để thực hiện tốt việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu
sản xuất trong nông nghiệp cần phải đầu tư hệ thống các công trình thủy lợi để nâng
cao khả năng kiểm soát lũ và chủ đông tưới tiêu phục vụ cho phát triển cơ cấu
chuyên màu, lúa -màu, lúa -thủy sản và cây ăn quả. Đặc biệt, trong tương lai cần
tăng cường đầu tư cho thủy lợi do nước biển dâng.
Giao thông
- Quốc lộ:Vĩnh Long có quốc lộ 1A tuyến giao thông huyết mạch của
ĐBSCL, đoạn chạy qua Vĩnh Long dài 35 km, đã được nâng cấp (tiêu chuẩn đường
cấp I đồng bằng), đặc biệt cầu Mỹ Thuận và cầu Cần Thơ đã làm cho giao thông
đường bộ Vĩnh Long nối liền với các tỉnh bờ Nam sông Hậu và Bắc sông Tiền với
vùng Đông Nam bộ, nhất là thành phố Hồ Chí Minh trở nên rất thuận lợi. Ngoài ra
còn có quốc lộ 53 dài 47 km, quốc lộ 54 dài 49km, quốc lộ 57 dài 7,5 km, ngoài ra
còn có đoạn quốc lộ 80 dài 3,7 km, đã và đang được nâng cấp, tổng chiều dài các
tuyến quốc lộ là: 142,2 km.
- Đường tỉnh: có 10 tuyến (ĐT: 901 ,902, 903, 904, 905, 906, 907, 908,909,
910) với tổng chiều dài: 222,6 km đã và đang được nâng cấp, lưu thông vận chuyển
41
tương đối thuận lợi. Trên các tuyến có 107 cầu, với tổng chiều dài các cầu là: 4.856
m. Đến năm 2010 đã cơ bản hoàn thành nâng cấp trải nhựa các tuyến đường tỉnh
(212 km) còn 10 km cấp phối đá.
- Đường huyện: tổng chiều dài 87 tuyến đường huyện là 372 km, với 165
chiếc cầu trên các tuyến có chiều dài 6.494 m. Nhìn chung đường huyện đã có nâng
cấp song về cấp kỹ thuật chưa đảm bảo, bề mặt đường còn hẹp, cần được đầu tư
nâng cấp và mở rộng, phục vụ tốt vận chuyển sản phẩm và hành khách.
- Đường xã: có 1.600 km có kết cấu mặt đường là đá, đan, nhựa, chủ yếu cho
xe hai bánh lưu thông dễ dàng. Theo thống kê đến 31 tháng 12 năm 2010 toàn tỉnh
có 94 xã có đường ô tô đến trung tâm xã đạt 100%, cơ bản xoá hết cầu khỉ. Hiện tại,
giao thông nông thôn đã có nhiều cải thiện, đáp ứng ngày một tốt hơn cho các
phương tiện tham gia giao thông ; nhưng về mùa mưa lũ còn khó khăn vì đường bị
xuống cấp, nhất là lũ tháng 10. Đây là vấn đề tồn tại, cần tiếp tục đầu tư trong
những năm tới để phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn mới.
Đường thuỷ:
- Vĩnh Long có các sông lớn: sông Tiền, sông hậu, sông Cổ Chiên và sông
Mang Thít, là các tuyến giao thông thuỷ quốc gia, quốc tế do Bộ Giao thông vận tải
quản lý với tổng chiều dài 215 km; tỉnh quản lý các tuyến còn lại, trong đó Sở giao
thông vân tải quản lý 25 tuyến với tổng chiều dài 179 km, UBND các huyện, thành
phố quản lý các tuyến còn lại ước chiều dài khoảng 1.500 km. Ngoài ra, còn có trên 500 km kênh cấp I và 1.100 km kênh cấp II (mật độ đường thuỷ 4,2km/km2) hợp
thành hệ thống giao thông thuỷ rất tiện lợi, có cước phí vận chuyển thấp, đã hỗ trợ
tích cực cho giao thông bộ, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Bến cảng: Vĩnh Long hiện có 3 cảng chính là:
- Cảng Vĩnh Long (bờ phải sông Cổ Chiên, thuộc phường 9 TP Vĩnh Long,
năng lực 450 ngàn tấn/năm, tiếp nhận tàu 3000 tấn.Theo kết quả hoạt động thì Cảng
mới khai thác khoảng 60% công suất; vị trí của cảng rất thuận lợi, tuy nhiên ở trong
nội ô thành phố Vĩnh Long nên ảnh hưởng tới môi trường khi trung chuyển hàng
hoá.
42
- Cảng Bình Minh (bờ trái sông Hậu, thuộc xã Mỹ Hoà, huyện Bình Minh)
hiện tại chủ yếu là vật liệu xây dựng, năng lực 250 ngàn tấn/năm.
- Cảng An Phước (bờ phải sông Cổ Chiên, xã An Phước huyện Mang Thít),
năng lực 250 ngàn tấn/năm, đã giao cho UBND huyện Mang thít quản lý và khai
thác.
Điện khí hoá nông thôn:
Đến tháng 12 năm 2010 toàn tỉnh đã có 94/94 xã đã có điện sử dụng, tổng số
hộ sử dụng điện 269.000 hộ, chiếm 98,5%. Điện thương phẩm tiêu thụ bình quân:
295/KWh/người/năm và chủ yếu dùng cho sinh hoạt (60%), công nghiệp và xây
dựng (25%), dịch vụ thương mại (3%), điện dùng cho sản xuất nông nghiệp khoảng
2% tổng lượng điện tiêu thụ, chủ yếu do nông nghiệp chưa có những nhu cầu lớn về
điện, đặc biệt là nhu cầu bơm tưới dùng máy bơm dầu cơ động và quản lý dễ dàng
hơn là đầu tư các trạm bơm điện, vì quy mô bình quân ruộng đất của nông hộ thấp.
2.1.3.5. Nguồn nhân lực và mức sống dân cư:
Nguồn nhân lực:
- Dân số trung bình năm 2010 là:1.026.521 người (chiếm 6,1% dân số ĐBSCL
và 1,3% dân số cả nước), trong đó người Khơ me: 21.670 người (chiếm 2,1% dân số toàn tỉnh),với mật độ 686 người/km2 ( đứng thứ 2 về mật độ bình quân trong
vùng ĐBSCL, chỉ sau Cần Thơ) nên Vĩnh Long được xếp là nơi đất chật người
đông.
- Vĩnh Long là tỉnh có dân số trẻ (68% trong độ tuổi lao động), khu vực nông
thôn 868.527 người (chiếm 84,6%), tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,9%/năm, nên áp
lực về dân số là gánh nặng cho nền kinh tế, khu vực nông thôn cơ sở hạ tầng chưa
thật đồng bộ, kinh tế thuần nông chậm chuyển đổi, nông dân không có đất và thiếu
đất sản xuất, thiếu việc làm có chiều hướng tăng thêm.
- Lao động và chất lượng lao động: Tổng số người trong độ tuổi lao động đến
năm 2010 là: 698.030 người (chiếm 68% dân số). Lao động đang làm việc trong các
ngành kinh tế: 604.095 người (chiếm 86,54% lao động trong độ tuổi.
43
- Lao động trong ngành nông lâm nghiệp, thuỷ sản: 352.033 người ( chiếm
58,3% lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế), với số lao động này hiện
nay chỉ sử dụng 82% năng lực, tỷ lệ số ngày nhàn rỗi trong năm lên đến 18% tổng
quỹ thời gian. Lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, nhưng trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ còn hạn chế.
Tổng số lao động chuyển môn kỹ thuật hiện nay của tất cả các ngành là 35%
(theo số liệu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long nhiệm kỳ 2010-2015).
Trong quá trình sản xuất người lao động đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, nhạy
bén với khoa học-kỹ thuật, có sự đầu tư thâm canh khá cao; đồng thời, thông qua
hoạt động khuyến nông đã tập huấn chuyển giao kỹ thuật cho hàng chục ngàn lao
động. Đây là nguyên nhân làm cho năng suất cây trồng và tăng vụ ở Vĩnh Long cao
so với cả nước.
Do vậy, để tăng tỷ trọng lao động có chuyên môn và hiểu biết khoa học kỹ thuật
mới trong nông nghiệp, cần một chiến lược tổng thể đào tạo nguồn nhân lực (đào
tạo nghề và hướng nghiệp) để đến năm 2020 có ít nhất 55% lao động trong độ tuổi
được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ với chất lượng đảm bảo cho quá trình đổi mới
nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Thu nhập và mức sống dân cư:
- GDP bình quân/đầu người đã tăng từ 8 triệu đồng/người năm 2005 lên 17,5
triệu đồng/người năm 2009, năm 2010 là 21,3 triệu đồng/người; so với ĐBSCL thì
Vĩnh Long đang ở mức trung bình và đang xếp hạng thứ 6/13 tỉnh thành, tuy nhiên
do ảnh hưởng của tình hình lạm phát trong những năm gần đây đã ảnh hưởng đến
đời sống vật chất của người dân.
- Công tác xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm đã được các ngành các cấp
quan tâm thực hiện. Năm 2010, giảm hộ nghèo toàn tỉnh xuống còn 16.385 hộ
(chiếm 6%, theo tiêu chí hiện tại). Thực hiện Quyết định số 09/2011/QĐ- TTg về
việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015,
chắc chắn hộ nghèo trong những năm tới sẽ tăng lên.
44
- Ở khu vực nông thôn, 100% số xã có trạm y tế và đã đạt chuẩn quốc gia,
98,5% hộ dân sử dụng điện, 90% số hộ dân dùng nước sạch phổ thông, trong đó có
55% số hộ sử dụng nước sạch từ hệ thống cấp nước sạch tập trung; 74% số hộ dân
có nhà kiên cố, bán kiên cố,...cho thấy đời sống nông dân từng bước được cải thiện,
bộ mặt nông thôn mới đã và đang thay đổi từng ngày dưới sự lãnh đạo toàn diện,
sáng tạo của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Vĩnh Long, đời sống người dân sẽ được
nâng cao hơn nữa.
2.1.3.6. Vai trò tác động của công nghiệp và dịch vụ thương mại đến sản xuất
nông nghiệp
Vai trò tác động của công nghiệp đến sản xuất nông nghiệp
Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa mạnh, các cơ sở sản xuất
có quy mô nhỏ và vừa, thiết bị và công nghệ chưa được đầu tư cải tiến, chất lượng
sản phẩm chưa cao, nên giảm sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Tổng
GTSX công nghiệp (giá năm 1994) năm 2010 là 5.518 tỷ đồng, trong đó công
nghiệp chế biến 5.479 tỷ đồng; công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản, công
nghiệp sản xuất công cụ phục vụ nông nghiệp phát triển chưa mạnh.
- Công nghiệp sản xuất máy móc, tư liệu sản xuất cho nông nghiệp: Đáng kể
nhất là sản xuất máy tuốt lúa, song nhu cầu không biến động lớn nên sản lượng
hàng năm từ 100-150 máy. Năm 2000 là 145 chiếc, đến năm 2005 cũng chỉ có 147
chiếc, năm 2009 chỉ còn 98 chiếc. Ngoài ra, tiểu thủ công nghiệp chỉ sản xuất công
cụ cầm tay và sữa chữa các thiết bị cơ khí trong nông nghiệp như máy làm đất, máy
bơm,..v.v.
- Công nghiệp chế biến nông, thuỷ sản:công nghiệp chế biến nông, thuỷ sản
đã có tác động rất lớn đến sản xuất nông nghiệp, là đầu ra cho một số sản phẩm
nông nghiệp, thuỷ sản bởi đây là ngành có nhiều cơ sở sản xuất, năm 2010 có 2.976
cơ sở sản xuất thực phẩm và đồ uống (chiếm 26,7% tổng số cơ sở ngành công
nghiệp chế biến).
Những lĩnh vực công nghiệp tác động tích cực cho nông nghiệp là xay xát
gạo phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu (năm 2000 sản lượng xay xát: 566
45
ngàn tấn, đến năm 2005 là: 853 ngàn tấn, năm 2009 là 920 ngàn tấn, năm 2010 đạt
1.030 ngàn tấn), kế đến là thuỷ sản đông lạnh, thức ăn chăn nuôi,...Các sản phẩm
công nghiệp có nguyên liệu từ nông nghiệp tăng là: gạo xuất khẩu và tiêu thụ nội
địa, hàng thuỷ sản đông lạnh, thức ăn gia súc, các sản phẩm khác giảm về sản
lượng và chỉ có thị phần tiêu thụ nội tỉnh là chính. Một lĩnh vực công nghiệp quan
trọng còn bỏ trống là chế biến trái cây, rau, thịt nên tỷ lệ hao hụt các sản phẩm này
ở mức cao (rau, trái cây 25-30% sản lượng) vì thế khó tiêu thụ, rất dễ mất giá,..
- Công nghiệp thu hút lao động từ nông nghiệp: theo số liệu thống kê hàng
năm, tổng số lao động trong ngành công nghiệp năm 2001 là; 40.590 người, đến
năm 2010 tăng lên 68.020 người (tăng 27.430 người); trong đó lao động trong
ngành công nghiệp chế biến tăng mạnh nhất 24.646 người, trong khi đó lao động
nông nghiệp, thuỷ sản năm 2010 là 352.030 người, giảm 50.450 người so với năm
2001. Rõ ràng, đây là sự chuyển đổi tích cực góp phần thực hiện chuyển đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vai trò tác động của dịch vụ, thương mại đến sản xuất nông nghiệp:
- Hệ thống thương mại (Nhà nước và tư nhân) đã cung ứng kịp thời và đầy
đủ các loại vật tư nông nghiệp như: phân bón,thuốc trừ sâu, xăng, dầu, thức ăn gia
súc, thuốc thú y,...hệ thống các đại lý có ở hầu khắp các địa bàn trong tỉnh,... đã góp
phần quan trọng trong thâm canh, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Đây chính là mặt tích cực của thương mại đối với sản xuất nông nghiệp. Song, vấn
đề hiện nay là giá vật tư nông nghiệp còn cao và không ổn định, một số chủng loại
vật tư (thuốc, phân, thức ăn gia súc) chưa thật đảm bảo chất lượng, ảnh hưởng đến
quyền lợi của người nông dân.
- Xúc tiến thương mại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp đã có những hoạt
động thiết thực: Hàng năm đều tham gia các gian hàng tại các hội chợ được tổ chức
trong tỉnh và khu vực. Năm 2010, ngành nông nghiệp đã phối hợp với Sở công
thương tổ chức hội chợ giới thiệu sản phẩm và thương hiệu của nông nghiệp Vĩnh
Long như: bưởi Năm Roi (Bình Minh), cam sành (Tam Bình), thuỷ sản xuất khẩu,
thu hút đông đảo khách hàng trong và ngoài nước. Đây là bước đánh dấu nỗ lực
46
trong việc xây dựng, giữ vững và phát triển thương hiệu sản phẩm trên đường hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, số lượng thương hiệu mạnh còn ít và
chất lượng thương hiệu đang là mối quan tâm cho doanh nghiệp mở rộng thị trường
tiêu thụ, thâm nhập thị trường khu vực và quốc tế.
2.1.3.7. Tác động của dịch vụ nông nghiệp đến sản xuất nông nghiệp
Dịch vụ giống nông nghiệp
Dịch vụ nông nghiệp có tỷ trọng thấp trong cơ cấu GTSX nông nghiệp và có
chiều hướng giảm, năm 2005 chỉ còn 3,2%, năm 2010 là 4,3%.
Về giống lúa: Trại giống lúa của tỉnh hàng năm vừa tiến hành nhân giống
cấp nguyên chủng, vừa trình diễn một số giống lúa mới, vừa làm khảo nghiệm so
sánh năng suất từ 10-20 bộ giống với hơn 100 giống lúa cao sản, từ các bộ giống đã
được tuyển chọn của trường Đại học và Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL. Về xã hội hoá
công tác giống, hiện nay toàn tỉnh có 150 cơ sở nhân giống lúa, trong đó có 2 HTX
nông nghiệp, 18 câu lạc bộ khuyến nông, 44 tổ sản xuất giống lúa và 104 hộ tham
gia sản xuất lúa giống. Tổ chức cung ứng giống nguyên chủng sản xuất được
4.250ha giống xác nhận, sản lượng 21.500 tấn, phục vụ sản xuất 125.000 ha, chiếm
74% diện tích sản xuất lúa, tăng trên 20 lần so với năm 2001.
Về giống cây ăn trái: toàn tỉnh hiện có 1 trại giống qui mô 3,73 ha (xã Tân
Hội TP Vĩnh Long) và 47 cơ sở sản xuất kinh doanh giống cây ăn trái quy mô sản
xuất 1.520.000 cây/năm, vượt nhu cầu từ 10-15%. Riêng trại giống của tỉnh cung
ứng 250.000 cây/năm chủ yếu là cây có múi sạch bệnh và một số chủng loại khác
như: xoài, sầu riêng, măng cụt chất lượng ngày càng tăng
Về giống thuỷ sản: Toàn tỉnh có 475 cơ sở sản xuất và kinh daonh cá giống,
cung cấp cho nhu cầu nuôi thuỷ sản mà chủ yếu là giống cá tra. Tỉnh có 1 trại giống
thuỷ sản, diện tích 6,8 ha, quy mô 7.000 kg cá bố mẹ, năng lực sản xuất 300 triệu cá
bột và 2 triệu cá giống mỗi năm. Chủng loại cá chép, mè, rô phi,...thừa gần 180
triệu con, đảm bảo 100% nhu cầu giống sản xuất trong năm.
Dịch vụ về giống là một lợi thế của nông nghiệp Vĩnh Long không chỉ sản
xuất đủ cho thị trường trong tỉnh mà còn cung cấp cho các tỉnh khác thuộc ĐBSCL,
47
trước hết là giống lúa, giống cây ăn trái, giống gia cầm, giống thuỷ sản cho các địa
phương vùng lũ.
Dịch vụ cơ giới hoá nông nghiệp:
Theo thông kê đến năm 2010 toàn tỉnh có: 1.260 máy kéo lớn, 4.580 máy
kéo nhỏ, 22.620 động cơ dầu và xăng công suất 12 mã lực/máy.Toàn tỉnh hiện nay
có 510 máy gặt đâp liên hợp, 119 máy gặt xếp dãy, 4.340 máy tuốt lúa đảm bảo gần
100% cơ giới hoá khâu tuốt lúa. Ngoài ra, có 6.500 máy bơm nước, 476 máy sấy
với công suất 890 tấn/mẽ, đảm nhiệm 50% sản lượng lúa hè Thu và Thu Đông, 890
máy phun thuốc có động cơ phục vụ xử lý sâu rầy có hiệu quả. Một số khaauu cần
trang bị thêm là máy gieo sạ, trạm bơm điện,... để từng bước hiện đại hoá sản xuất
nông nghiệp.
2.1.4. Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến sản xuất hàng hoá
Ảnh hưởng của kinh tế thị trường trong nước
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam, đã
mang lại nhiều thành tựu to lớn trong mọi lĩnh vực. Kinh tế Việt Nam nói chung và
kinh tế Vĩnh Long nói riêng có bước tăng trưởng đáng kể trên nhiều lĩnh vực; trong
đó sản xuất nông nghiệp liên tục tăng dưới tác động của các quy luật kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, kinh tế thị trường có cả mặt
tích cực và mặt hạn chế cần phải biết vận dụng để khắc phục đưa nông nghiệp phát
triển một cách bền vững.
Ảnh hưởng tích cực:
Sản xuất nông sản hàng hoá theo quy luật cung- cầu, lợi nhuận và thu nhập
cao sẽ hấp dẫn người nông dân tăng vụ, thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
tăng chất lượng sản phẩm, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường
hàng hoá vốn luôn cạnh tranh quyết liệt. Cụ thể ở Vĩnh Long là việc tăng diện tích
cây ăn quả đặc sản (nhãn, xoài, bưởi, cam, quýt), trồng rau thực phẩm chuyên canh
hoặc luân canh lúa- khoai lang, tăng đàn heo, đàn bò, vịt chuyên trứng. Giờ đây,
người nông dân có ý thức chọn sản phẩm hàng hoá là các loại cây trồng có lợi
nhuận, thu nhập cao trên một đơn vị diện tích để sản xuất và biết tính toán kinh tế
48
khi sản xuất, biết đầu tư tiến bộ khoa học-kỹ thuật và tư liệu sản xuất để tăng năng
suất và hiệu quả của đồng vốn.
Thông qua hoạt động kinh tế thị trường trong sản xuất nông nghiệp, nhiều hộ
nông dân và trang trại sản xuất giỏi đã trở nên giàu có, phân công lại lao động xã
hội theo hướng chuyên môn hoá (các dịch vụ nông nghiệp ra đời: làm đất, tuốt lúa,
bơm nước, bảo hiểm cây trồng vật nuôi, sản xuất cây con giống ngày một phát triển
hơn) và phân vùng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Quá trình sản xuất người nông dân đã cần đến thông tin thị trường để bố trí
cơ cấu mùa vụ, tạo sản phẩm ra trái vụ, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của thị trường,
đồng thời từng bước hình thành các vùng cây trồng, vật nuôi chuyên canh (nhãn ở
cù lao 4 xã huyện Long Hồ, bưởi ở Bình Minh, cam sành, quýt đường ở Tam Bình
và một số xã huyện Trà Ôn, khoai lang, rau ở huyện Bình Tân,...)
- Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới (Việt Nam là thành viên thứ
150 của tổ chức thương mại thế giới WTO), tạo môi trường cạnh tranh khốc liệt, đòi
hỏi người sản xuất phải cải tiến quy trình, mẫu mã, xây dựng thương hiệu sản phẩm,
đẩy mạnh xúc tiến thương mại...nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, có như thế
mới mong đem lại hiệu quả cao cho sản xuất.
Những mặt hạn chế của kinh tế thị trường:
- Do thông tin thị trường không đầy đủ, một bộ phận nông dân chưa tiếp cận
được nên sản xuất một số cây trồng, vật nuôi còn theo ” phong trào” dễ dẫn đến dư
thừa, ”được mùa, dội chợ, mất giá”. Gia tăng tích tụ đất đai, phân hoá giàu nghèo
trong nông thôn sẽ tăng mạnh hơn, tình hình lao động thiếu việc làm sẽ gay gắt hơn,
xuất hiện tình trạng kinh doanh cạnh tranh thiếu lành mạnh (hạ cấp nông sản, ép giá)
gây thiệt hại cho nông dân khi thị trường cung vượt cầu...v.v.
Tóm lại, sản xuất nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường đã tác động
mạnh mẽ đến việc hình thành và phát triển cơ cấu nông sản hàng hoá. Chúng ta phải
đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị, thu thập phân tích sâu sắc những thông tin về
thị trường, lợi thế cạnh tranh của các nông sản ở thị trường trong nước và quốc tế để
có phương án sản xuất kinh doanh tối ưu, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro do thị
49
trường gây ra. Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ dân trí và kiến
thức khoa học, mạnh dạn đầu tư công nghệ mới, đa dạng hoá sản phẩm, để sản
phẩm hàng hoá có tính cạnh tranh cao, chủ động hội nhập vào kinh tế thị trường.
2.1.5. Đánh giá chung
2.1.5.1. Lợi thế và cơ hội
Những lợi thế
Vĩnh Long nằm ở vùng giữa châu thổ ĐBSCL rất phù hợp cho phát triển
nông nghiêp hàng hoá theo cơ chế thị trường. Khai thác tổng hợp tài nguyên thiên
nhiên trong kinh tế thị trường thì Vĩnh Long có ưu thế nhất so với các tỉnh ĐBSCL
về đa dạng hoá cây trồng.
Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, nhất là phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hoá theo cơ chế thị trường, thì vị trí địa lý đã tạo cho Vĩnh Long lợi thế vượt
trội so với các tỉnh khác của ĐBSCL là có thể chủ động sản xuất ra nông, thuỷ sản
gần như quanh năm (có nước ngọt quanh năm, chịu ảnh hưởng của lũ nhẹ hơn vùng
Đồng Tháp Mười). Hàng hoá nông sản (kể cả giống cây trồng, vật nuôi và thuỷ sản)
từ Vĩnh Long toả đi toàn vùng rất thuận lợi và Vĩnh Long rất có cơ hội trở thành
một trung tâm bảo quản-chế biến và giao dịch nông sản hàng hoá lớn của ĐBSCL,
nhất là các loại rau, trái cây đặc sản,…
Tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự nhiên ở Vĩnh Long (đất, nước, chế độ
thuỷ văn, khí hậu, sinh vật,…) ít chịu tác động cực đoan, nên việc đưa khoa học-
công nghệ mới vào sản xuất, nhất là công nghệ sinh học sẽ có tác động một cách
sâu rộng đến sản xuất nông nghiệp, có đủ điều kiện phát triển một nền nông nghiệp
đa canh, đa dạng hoá sản phẩm theo hướng thâm canh, tăng năng suất và tạo ra
nhiều sản phẩm hàng hoá quanh năm, nhất là giống cây trồng, gia súc và thuỷ sản;
thoả mãn tốt nhu cầu của thị trường. Đây là lợi thế vượt trội của Vĩnh Long so với
các tỉnh vùng ĐBSCL.
Quá trình phát triển kinh tế- xã hội nói chung và sản xuất nông nghiệp nói
riêng đã giúp nông dân Vĩnh Long có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất lúa gạo và
phát triển sản xuất cây ăn trái, tiếp thu ứng dụng sáng tạo tiến bộ kĩ thuật vào nông
50
nghiệp, đã tạo ra các cây trồng đặc sản truyền thống nổi tiếng: bưởi Năm roi, cam
sành, quýt đường, khoai lang, …được coi là tài sản quý hiếm trong nhân giống cũng
như tạo ra các nông sản hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Cơ sở vật chất phục vụ sản xuất nông nghiệp (thuỷ lợi, giao thông, điện, cơ
giới hoá nông nghiệp) đã được đầu tư khá tốt, đã và đang phát huy tác dụng. Nếu
tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh sẽ nâng cao hiệu quả trong việc tăng năng suất và chất
lượng nông sản, giảm chi phí sản xuất, thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu cây
trồng- vật nuôi một cách vững chắc.
Khoa học và công nghệ mới bước đầu được ứng dụng vào thực tế sản xuất
nông nghiệp đã đem lại kết quả khả quan. Đã hình thành được một số vùng chuyên
canh lúa, khoai lang, bưởi, cam, nhãn, rau thực phẩm…có quy mô khá lớn, với chất
lượng ngày càng được cải thiện. Đồng thời xuất hiện nhiều mô hình canh tác đem
lại hiệu quả kinh tế cao, đây là tiền đề quan trọng cho việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi, chuyển dịch kinh tế nông nghiệp.
Nhiều năm qua, Vĩnh Long đã cố gắng trong công tác xúc tiến thương mại,
xây dựng thương hiệu sản phẩm nên đã tạo cho sản xuất nông nghiệp có được
những kết quả khả quan trong tiêu thụ sản phẩm và uy tín chất lượng hàng nông sản.
2.1.5.2. Những khó khăn, thách thức đối với sản xuất nông nghiệp
Những thách thức đối với sản xuất nông nghiệp
Vĩnh Long có tỷ lệ dân cư nông thôn cao (84,6%), bình quân đất nông nghiệp
thấp và đang có chiều hướng giảm, trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và kinh tế thuần nông còn khá phổ biến. Để thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp-nông thôn, thì các yếu tố trên là thách thức
lớn.
Giá thành của nhiều loại nông sản như: lúa, trái cây,...ở mức cao, những sản
phẩm hàng hoá chính: trái cây, rau thực phẩm, thịt heo, gà, vịt, thuỷ sản...sẽ chịu sự
cạnh tranh quyết liệt hơn của nhiều nơi khác cùng sản xuất (Đông Nam bộ). Nếu
nông nghiệp Vĩnh Long không nhanh chóng ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng, giảm giá thành sẽ khó cạnh
51
tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trong giai đoạn tới, trên phạm vi cả nước nói chung và khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long nói riêng vẫn trong tình trạng thiếu vốn đầu tư cho nhu cầu xây dựng và
phát triển kinh tế. Hơn nữa, điều kiện tự nhiên, xã hội của các tỉnh trong vùng khá
tương đồng; nghĩa là, các hướng đầu tư được lựa chọn cũng tương đối giống nhau.
Do đó, giữa Vĩnh Long với các tỉnh trong vùng sẽ có sự cạnh tranh mạnh mẽ trong
việc thu hút các luồng vốn đầu tư từ ngoài tỉnh, ngoài nước và thậm chí, nếu không
có chính sách khuyến khích đầu tư hợp lý, Vĩnh Long sẽ có nguy cơ bị chảy vốn
đầu tư ra các tỉnh lân cận.
Xu hướng giảm lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm dựa trên tài nguyên đất
nông nghiệp và nguồn lao động giản đơn giá rẻ. Do vậy, nếu không có những giải
pháp hữu hiệu để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thì hàng hóa Vĩnh Long sẽ
gặp khó khăn trong xuất khẩu cũng như tiêu thụ tại sân nhà.
2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông sản hàng hoá tỉnh
Vĩnh Long thời gian qua
2.2.1. Khái quát ngành nông nghiệp của tỉnh Vĩnh Long thời gian qua
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, sản xuất nông nghiệp luôn
giữ vai trò quan trọng. Năm 2009, tổng sản phẩm (GDP) nông lâm nghiệp và thuỷ
sản chiếm 51,87%; năm 2010 đạt 50,58% tổng GDP toàn tỉnh (theo giá hiện
hành).Tốc độ tăng (GDP) nông lâm ngư nghiệp bình quân giai đoạn 2001-2010 là
5,96%/năm. Trong nông nghiệp hình thành một số vùng chuyên canh cây trồng có
diện tích lớn, đạt năng suất và chất lượng cao, điển hình là cây đặc sản truyền thống
như: Bưởi Năm roi ở Bình Minh, cam sành Tam Bình, khoai lang Bình Tân,...v.v.
Bảng 2.4: Diễn biến cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long
(Giá thực tế) ĐVT: %
2007 2006
2008 2005 72.89 77.80 73.45 69.76 24.01 18.62 22.75 26.97 3.28 3.58 3.10 3.81 2011 2010 2009 69.36 69.85 68.41 26.86 25.85 27.38 4.21 4.30 3.77 Cơ cấu GTSX Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ NN
* Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2011
52
- Trồng trọt vẫn giữ vai trò quan trọng nhất trong nông nghiệp, giá trị sản
xuất năm 2005 là 72,89%, năm 2010 giảm xuống còn 69,85% so với tổng giá trị sản
xuất nông nghiệp, tỷ trọng trồng trọt giảm 4,48% từ năm 2005-2011.
- Chăn nuôi chưa thật sự là ngành sản xuất chính, tỷ trọng giá trị sản xuất
năm 2005 là 24,01%, đến năm 2011 tăng lên 27,38%. Trong điều kiện đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp, tăng vụ đã tới ” ngưỡng” thì sự mất cân đối kéo dài
giữa trồng trọt và chăn nuôi được xem là nguyên nhân làm chậm tốc độ tăng trưởng
kinh tế nông nghiệp.
- Dịch vụ nông nghiệp chiếm tỷ trọng 3.10% năm 2005, đến năm 2010 tăng
lên 4.30%, năm 2011giảm xuống 4,21%. Dịch vụ nông nghiệp có tỷ trọng thấp nhất
trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp cũng cho thấy nông nghiệp Vĩnh Long
đang mất dần lợi thế và thời cơ được thiên nhiên ưu đãi.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển dịch đúng hướng, hình thành
nhiều mô hình sản xuất mới có hiệu quả kinh tế cao.Trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng
lớn trên 50% giá trị sản xuất nông nghiệp, nhưng đã có xu hướng giảm.Tuy nhiên,
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp diễn ra chậm và còn nhiều yếu tố chưa
bền vững, trong đó nổi lên vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản, thiên tai, dịch bệnh
cần phải được dự báo và giải quyết kịp thời tạo bước đi vững chắc cho nền nông
nghiệp hàng hoá; đặc biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại thế giới WTO.
Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt (Giá HH)
2006 2008 2009
2005 100 49.30 0.06 3,89 4.39 33.86 7.32 0.02 1.16 100 44.8 0.061 4.17 4.56 34.39 10.60 0.23 1.18 100 52.24 0.062 4.44 4.16 25.80 11.39 1.04 0.86 100 48.91 0.07 4.77 4.26 27.05 12.94 1.20 0.81 2010 100 46.58 0.07 5.75 4.51 28.14 14.25 1.24 0.74 2011 100 47.08 0.074 9.59 6.43 21.47 13.68 1.0 0.68
Năm Tổng số(%) Lúa Bắp Cây chất bột có củ Cây công nghiệp Cây ăn quả Rau, đậu, gia vị Cây lâu năm khác Sản phẩm phụ trồng trọt
* Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2011
53
Khai thác tổng hợp tài nguyên thiên nhiên trong kinh tế thị trường thì Vĩnh
Long có ưu thế nhất so với các tỉnh ĐBSCL về đa dạng hoá cây trồng. Song, trên
thực tế lúa nước luôn chiếm vị trí số một, năm 2000 chiếm 58,43% GTSX ngành
trồng trọt, đến năm 2005 còn 49,3%, năm 2009 là 48,91%, năm 2010 là 45,32%.
Tuy nhiên, từ năm 2006 khi khả năng xuất khẩu được khơi dậy thì giá lúa đã tăng
lên, hiện naytrên 5000 đồng/kg, người nông dân đã phần nào yên tâm hơn. Đây
cũng chính là lý do tại sao quá trình giảm diện tích lúa vụ 3(Thu Đông), thực hiện
luân canh tăng diện tích rau màu bị chậm lại.
Sau lúa phải kể đến cây ăn trái, chiếm tỷ trọng đáng kể trong trồng trọt, nếu
năm 2000 chiếm 27,70%và năm 2005 tăng lên 33,86%, năm 2009 chỉ còn 27,1%,
năm 2010 đạt 28,14%. Tổng giá trị sản xuất cây ăn quả năm 2010 đạt 2.611.036
triệu đồng, tăng 3 lần so với năm 2000. Sản lượng các loại cây ăn trái chủ yếu năm
2005 đạt 306 ngàn tấn, năm 2009 là 355 ngàn tấn, năm 2010 tăng lên 412 ngàn tấn.
Cây rau, đậu thực phẩm đã có sự phát triển, giá trị sản xuất năm 2010 chiếm
14,3%, cao hơn năm 2000 là 9,6%, cây công nghiệp ngắn ngày chiếm tỷ trọng rất
nhỏ (1,3%).
Tiềm năng luân canh cây màu trên đất lúa là khá lớn, song những năm qua
chưa thực hiện được nhiều, đặc biệt là có tiến bộ kỹ thuật về giống đậu nành, đậu đỗ,
rau các loại. Nguyên nhân chính do thiếu thị trường nên phát triển không ổn định,
cần sớm có tác đồng bộ từ xây dựng cơ bản (thuỷ lợi) đến giống và kỹ thuật canh
tác cũng như bảo quản, chế biến đối với các loại cây như: rau, khoai lang, bắp, đậu
nành,... đưa tỷ trọng cây màu lên khoảng 16-17% trong tổng giá trị sản xuất ngành
trồng trọt.
Tóm lại, giá trị sản xuất nông nghiệp, đều có xu thế tăng về giá trị; trong đó
tốc độ tăng cao là trái cây, rau đậu, thực phẩm. Song, cơ cấu giá trị sản xuất nông
nghiệp còn mất cân đối và chậm chuyển đổi, chưa tận dụng tốt các cơ hội và khai
thác tối ưu các tiềm năng, trong trồng trọt chỉ có cây ăn trái và lúa đang hoán đổi
diện tích và tỷ trọng sản xuất cho nhau. Do vậy, chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp phải được xem là việc làm cấp thiết và không thể thiếu trong phát
54
triển nông nghiệp giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua phát triển với tốc độ khá nhưng
thiếu tính bền vững, thị trường tiêu thụ khó khăn, nông dân chưa yên tâm đầu tư.
Doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản, kho trử nông
sản, cơ hội cho người nông dân bán nông sản theo giá có lợi còn thấp. Việc thực
hiện Quyết định 80 của Chính phủ chưa mạnh và đều khắp, hợp đồng giữa doanh
nghiệp và nông dân về tiêu thụ nông sản chưa nhiều. Thương hiệu cho sản phẩm
nông nghiệp Vĩnh Long chưa nhiều, thiếu liên kết. Lĩnh vực công nghiệp chế biến
nông sản còn bỏ ngõ.
2.2.2. Tình hình xuất khẩu nông –thuỷ sản Vĩnh Long thời gian qua
Tình hình xuất khẩu hàng hoá của tỉnh Vĩnh Long có sự tăng trưởng vượt
bậc thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng liên tục từ 157.613 triệu USD
năm 2005, tăng lên 384.240 triệu USD năm 2011, kim ngạch xuất khẩu năm 2011
tăng gấp 2,4 lần so với năm 2005. Năm 2011, tỉnh Vĩnh Long đạt kim ngạch xuất
khẩu 390 triệu USD, vượt 39% kế hoạch năm và tăng 45,46% so với cùng kỳ năm
2010. Là một tỉnh nông nghiêp, hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của Vĩnh Long chính là
hàng nông sản, đây là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu giá
trị xuất khẩu, chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Năm 2005 chiếm
84.63%, đến năm 2011 giá trị xuất khẩu nông sản giảm xuống còn 55.41% kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản có xu hướng giảm xuống do quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, gia tăng giá trị xuất khẩu của hàng hoá
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thuỷ sản.
Bảng 2.6: Trị giá hàng hoá xuất khẩu tỉnh Vĩnh Long (ĐVT: Triệu USD)
2005 157.613 18.509
2006 155.516 31.725
2008 207.349 82.289
2009 278.210 102.401
2010 254.317 95.816
2011 384.240 141.299
Năm Tổng KNXK Hàng CN nhẹ và TTCN Hàng nông sản Hàng thuỷ sản Hàng khác
133.381 4.206 1.517
118.272 2.978 2.541
117.375 4.912 2.773
162.910 11.154 1.745
133.718 22.648 2.135
212.919 28.777 1.245
* Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2011
55
Nông sản mà chủ yếu là gạo chính là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh,
đây là mặt hàng đóng vai trò quyết định trong việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu
của tỉnh. Năm 2011 giá trị xuất khẩu gạo đạt 202.917 triệu USD chiếm 52,8% kim
ngạch xuất khẩu của tỉnh. Bên cạnh gạo, các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực
khác của tỉnh Vĩnh Long như: thuỷ sản đông lạnh, trứng muối, nấm rơm- trái cây
chế biến,...cũng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của tỉnh.
Bảng 2.7: Cơ cấu giá trị xuất khẩu tỉnh Vĩnh Long (ĐVT: %)
Năm 2005 2006 2008 2009 2010 2011
100 100 100 100 100 100 Tổng KNXK
11.74 20.40 39.69 36.81 37.68 36.77 Hàng CN nhẹ và
TTCN
Hàng nông sản 84.63 76.05 56.61 58.56 52.58 55.41
2.67 1.91 2.37 4.01 8.91 7.49 Hàng thuỷ sản
0.96 1.63 1.33 0.62 0.84 0.33 Hàng khác
* Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2011
Để phát triển thị trường xuất khẩu, Sở Công Thương tỉnh Vĩnh Long kết hợp
với Trung tâm Xúc tiến thương mại - đầu tư hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt
động xúc tiến thương mại, xây dựng, phát triển thương hiệu và đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa chủ lực của tỉnh. Tỉnh tổ chức cho các doanh nghiệp thực hiện khảo sát,
tìm kiếm thị trường xuất khẩu và tham gia các Hội chợ triển lãm thương mại trong
và ngoài nước nhằm giúp doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, quảng bá sản
phẩm, xây dựng chiến lược phân khúc thị trường phù hợp, đồng thời đẩy mạnh công
tác thông tin, dự báo phân tích thị trường, diễn biến giá cả, các thông tin về hàng rào
kỹ thuật, thương mại của các nước đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh
như thủy sản, nông sản…. Cùng với phát huy năng lực mới tăng thêm của các dự án
sản xuất trong khu công nghiệp Hòa Phú, khu công nghiệp Bình Minh, tỉnh Vĩnh
Long tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua các dự án vay vốn Quỹ đầu tư phát
triển, vốn tín dụng, giúp doanh nghiệp thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất
khẩu.
56
2.2.3. Đánh giá năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm nông sản chủ
lực của tỉnh Vĩnh Long
So với các tỉnh khác thuộc ĐBSCL, Vĩnh Long có lợi thế rất lớn về vị trí địa
lý và tài nguyên thiên nhiên là điều kiện hình thành nhiều sản phẩm nông nghiệp
truyền thống nổi tiếng, thể hiện được lợi thế của địa phương, cho năng suất, chất
lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã chuyển dịch theo hướng da dạng
hoá, định hướng theo thị trường.Trong quá trình tham gia vào nền kinh tế hàng hoá,
ngành nông nghiệp của tỉnh đã hình thành những sản phẩm nông sản chủ lực, có lợi
thế cạnh tranh trên thị trường như: lúa gạo, trái cây (bưởi năm Roi), thuỷ sản (cá
tra), khoai lang. Đề tài sẽ phân tích tình hình sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu các
nông sản chủ lực trên của tỉnh trong quá trình tham gia vào nền kinh tế thị trường để
đánh giá năng lực cạnh tranh của các nông sản trên nhằm tìm ra những giải pháp để
phát huy lợi thế cạnh tranh và khắc phục những hạn chế làm giảm sức cạnh tranh
của các nông sản chủ lực, để nông sản hàng hoá của tỉnh phát triển theo hướng bền
vững, nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường.
2.2.3.1. Lúa gạo
Năng lực sản xuất
Lúa là sản phẩm có vị trí quan trọng đối với nông nghiệp cũng như kinh tế của
tỉnh Vĩnh Long, chiếm trên 40% giá trị sản xuất ngành trồng trọt của tỉnh.Tính đến
ngày 01/01/2012 diện tích đất trồng lúa chiếm 58,98% diện tích đất nông nghiệp.
Tận dụng lợi thế về điều kiện tự nhiên, sản xuất lúa hằng năm cho năng suất và chất
lượng cao đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Đây là nguồn nguyên liệu cho công
nghiệp xay sát gạo để có được sản phẩm gạo chất lượng cao cung ứng cho xuất
khẩu. Lúa gạo là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu, chiếm tỷ
trọng gần 55% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Với lợi thế về năng lực sản
xuất và đem lại giá trị sản phẩm cao do đó lúa gạo đươc tỉnh xác định là sản phẩm
nông sản chủ lực đứng vị trí hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh Vĩnh
Long.
57
Bảng 2.8: Diện tích, năng suất lúa cả năm tỉnh Vĩnh Long (2005-2011)
ĐVT: Diện tích- ha; năng suất-tạ/ha
Năm 2005 2006 2008 2009 2010 2011
203.084 196.492 177.414 176.680 169.979 181.593 Diện tích
47.9 47.4 50.5 51.6 54.7 56.9 Năng suất
* Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long năm 2011
Diện tích gieo trồng lúa cả năm của tỉnh đã giảm trong những năm trở lại đây,
bình quân 5 năm (2005-2010) giảm 3,5 %/năm. Năm 2005 là 203.084 ha giảm
xuống còn 169.979 ha năm 2010, năm 2011 tăng lên 181.593 ha. Mặc dù diện tích
có giảm, nhưng lúa vẫn là sản phẩm chủ yếu của nông nghiệp Vĩnh Long thể hiện
qua năng suất và sản lượng lúa liên tục tăng. Năng suất lúa trung bình của tỉnh trong
5 năm trở lại đây luôn đạt trên 45-50 tạ/ha. Nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật trong
sản xuất năng suất lúa của tỉnh ngày càng tăng. Năm 2005 năng suất lúa đạt 47,9 tạ
/ha, sản lượng đạt 973.017 tấn, đặc biệt từ năm 2007- 2011 năng suất lúa luôn đạt
trên 50 tạ/ha.
Từ năm 2006 khi khả năng xuất khẩu gạo được khơi dậy nhờ vậy giá lúa đã
tăng lên, hiện nay trên 5.000 đồng/kg, người nông dân cũng yên tâm sản xuất lúa
hơn. Sản lượng lúa qua các năm đạt cao, dao động khoảng 900.000 tấn/năm, góp
phần đưa sản lượng lúa hàng hoá của tỉnh tăng nhanh cung cấp cho chế biến phục
vụ nhu cầu xuất khẩu gạo của tỉnh. Trung bình hàng năm sản lượng lúa hàng hoá
của tỉnh khoảng dao động khoảng 400- 500 ngàn tấn.
Bảng 2.9: Sản lượng lúa cả năm, sản lượng lúa hàng hoá của tỉnh
Vĩnh Long (ĐVT: Sản lượng- tấn)
Năm 2005 2006 2008 2009 2010 2011
SL lúa 973.017 932.299 895.884 911.375 928.972 1.032.272
Lúa hàng hoá 552.887 508.370 489.699 503.454 519.951 608.368
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long năm 2011 và xử lý số liệu của tác giả
Tỉnh Vĩnh Long hiện có 4 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện
hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo là Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Vĩnh Long,
58
Công ty cổ phần Lượng thực – thực phẩm Vĩnh Long, Công ty Lương thực Vĩnh
Long và Công ty cổ phần Thương mại Hồng Trang.
Ngành công nghiệp xay xát chế biến gạo là một trong những thế mạnh của Vĩnh
Long với tốc độ tăng trưởng bình quân từ 15 -18%/năm. Theo Sở Công nghiệp Vĩnh
Long, hiện nay, trên địa bàn hiện tỉnh Vĩnh Long có gần 650 nhà máy, cơ sở xay xát,
lau bóng gạo tập trung ở 3 huyện Long Hồ, Trà Ôn và Tam Bình. Các dây chuyền
chế biến lúa gạo có khả năng xay xát từ 1,2 - 1,3 triệu tấn/năm, trong đó nhiều dây
chuyền được tự động hóa hoàn toàn góp phần nâng cao giá trị hạt gạo xuất khẩu,
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Vĩnh Long. Bên cạnh thúc
đẩy xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp Vĩnh Long cũng đầu tư, đa dạng sản phẩm gạo
chế biến hướng đến thị trường nội địa, tăng năng lực cạnh tranh trên các thị trường.
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của tỉnh như Công ty cổ phần
lương thực phẩm Vĩnh Long (VINHLONG FOOD), Công ty cổ phần xuất nhập
khẩu IMEX Cửu Long tập trung nâng chất lượng mặt hàng gạo lắp đặt mới hệ thống
bồn chứa nguyên liệu, thành phẩm, hệ thống lọc bụi, dây chuyền sấy cám…để nâng
chất lượng chế biến gạo. Xây dựng kế hoạch cụ thể, chủ động xây dựng nguồn
nguyên liệu chất lượng tốt, tích cực đầu tư nâng cấp nhà máy xay xát, mở rộng hệ
thống kho chuyên dùng, hệ thống lò sấy công nghiệp theo Nghị định 109 của Chính
phủ. Đẩy mạnh thu mua hàng hoá trong dân, tổ chức mạng lưới mua lúa tại ruộng
của nông dân đưa về sấy khô, chế biến nhằm đảm bảo các hợp đồng xuất khẩu.
59
Biểu đồ 2.1: Sản lương gạo xuất khẩu tỉnh Vĩnh Long
600
537.262
500
440.308
440.241
421.024
400
317.859
300
Sản lượng gạo
220.815
200
100
Năm
0
2005
2006
2008
2009
2010
2011
Đơn vị: Nghìn tấn Nghìn tấn
- Từ năm 2005 đến năm 2011, mặt hàng gạo vẫn đóng vai trò chủ yếu trong thu
nhập ngoại tệ từ xuất khẩu của Vĩnh Long. Sản lượng gạo xuất khẩu hàng năm với
khối lượng lớn nhưng không ổn định, năm 2005 là 537.000 tấn (năm cao nhất), đến
năm 2008 giảm xuống còn: 220.815 tấn, từ năm 2009 sản lượng gạo xuất khẩu tăng
trở lại đạt 421.000 tấn, đến năm 2011 đạt: 440.308 tấn. Đây là một trong những lý
do thúc đẩy nông nghiệp tập trung sản xuất lúa với hệ số quay vòng đất 2,78
lần/năm.
Bảng 2.10: Giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo của tỉnh Vĩnh Long (2007-2011)
ĐVT: Nghìn USD
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
166.500 207.349 278.210 254.317 384.240 Tổng KN XK
92.238 92.503 162.750 125.528 202.917 KNXK Gạo
55.4 44.6 58.5 49.4 52.8 Tỷ trọng(%)
317.000 220.815 421.024 317.859 440.308 SL gạo XK (tấn)
Nguồn: Thống kê của Sở Công thương Vĩnh Long
60
USD
450
Đ VT: Nghìn USD
400
384.240
350
300
278.210
254.317
250
Gạo
207.349
202.917
200
Tổng kim ngạch XK
166.500
162.750
150
125.528
92.238
100
92.503
50
Năm
0
2007
2008
2009
2010
2011
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu gạo tỉnh Vĩnh Long
- Kim ngạch xuất khẩu gạo của Vĩnh Long liên tục tăng, đặc biệt từ năm 2009
đến nay. Năm 2009, Vĩnh Long đã xuất khẩu được 421.024 tấn gạo, đạt kim ngạch
162.750 triệu USD, tăng hơn 1,8 lần so với năm 2008 và chiếm tỷ lệ trên 58,5%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Đa số các thị trường xuất khẩu gạo của
Việt Nam năm 2010 đều giảm về lượng và kim ngạch so với năm 2009. Năm 2010,
do sản lượng gạo xuất khẩu giảm nên kim ngạch xuất khẩu giảm xuống còn 125.528
triệu USD.
Năm 2011 là một năm thắng lợi trong việc đưa hàng xuất khẩu sang thị trường
thế giới. Lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt mức cao nhất từ trước đến
nay với gần 390 triệu USD, tốc độ tăng trưởng cao hơn bình quân của khu vực
ĐBSCL và của cả nước, trong đó lúa gạo là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong kim
ngạch xuất khẩu, gần 55% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Xuất khẩu gạo
của tỉnh trong năm 2011 đạt thắng lợi lớn, thể hiện sự phát triển trên nhiều mặt,
đáng kể là sản lượng gia tăng, chất lượng gạo ngày càng ổn định và năng lực cạnh
61
tranh lành mạnh của các doanh nghiệp xuất khẩu được nâng cao, củng cố các thị
trường truyền thống và đáp ứng nhu cầu thị trường mới. Ngoài số lượng, giá trị gạo
xuất khẩu cũng được gia tăng, nâng cao hiệu quả xuất khẩu, góp phần tăng thu nhập
cho người trồng lúa.
Hiện nay tỷ trọng xuất khẩu gạo của Vĩnh Long chiếm khoảng 6 – 7% tổng gạo
xuất khẩu cả nước. Mặc dù có những biến động trong thời gian qua, giá gạo có xu
hướng lên xuống nhưng lượng xuất khẩu vẫn ổn định do năng lực kinh doanh xuất
khẩu của 4 doanh nghiệp của tỉnh có khả năng từ 500.000 tấn đến 600.000 tấn
gạo/năm. Với năng suất lúa bình quân 5,6 tấn/ ha, giá lúa trong tỉnh nói riêng và
trong khu vực nói chung liên tục ở mức cao nên bảo đảm nông dân có lãi trên 30%
theo định hướng của chính phủ và đưa Vĩnh Long trở thành một trong những tỉnh
xuất khẩu gạo lớn của cả nước.
Chi phí sản xuất lúa gạo
Chi phí sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn tới khả năng
cạnh tranh của sản phẩm. Theo nghiên cứu khảo sát chi phí sản xuất lúa của Tỉnh
Vĩnh Long có chi phí khoảng 2.600- 2.900 đồng/kg (Cục Thống Kê Tỉnh Vĩnh
Long, tháng 12/2011), ở ĐBSH là 3.600-3.800 đồng/kg, bình quân từ 152,5
USD/tấn đến 180 USD/tấn. Chi phí sản xuất lúa của các nước trong khu vực khoảng
175 – 201 USD/tấn, cao hơn chi phí sản xuất lúa của nước ta từ 12-15% (nguồn Báo
cáo khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập AFTA của Trung Tâm Phát triển Nông Thôn, tháng 8/2005).
- Chi phí sản xuất lúa gạo dựa trên Hệ số nguồn lực nội địa (DRC)
Theo kết quả điều tra bổ sung các tiêu chí xây dựng xã nông thôn mới và hiệu
quả nuôi trồng một số cây, con chủ yếu năm 2011 của Cục Thống Kê Vĩnh Long
( tháng 12/2011), chi phí sản xuất lúa cho 3 vụ ( hè thu – thu đông – đông xuân) như
sau: Chi phí nội lực sản suất lúa gạo bình quân năm 2010 là: 3.100.000 đồng/tấn
Hệ số chi phí nguồn lực nội địa ( DRC) là chỉ tiêu đánh giá lợi thế so sánh của
sản xuất lúa gạo. Có thể xác định DRC của sản lúa gạo ở Vĩnh Long như sau:
62
Giá trị xuất khẩu lúa gạo được quy ra tiền đồng là 395 USD x 19.495 đồng(tỷ
giá tháng 12/2010) = 7.700.525 đồng /tấn.
Như vậy DRC = 3.100.000/7.700.525= 0,4025 < 1 cho thấy sản xuất lúa gạo ở
Vĩnh Long có lợi thế so sánh.
Chất lượng sản phẩm gạo
Nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh tại thị trường trong nước và nước ngoài,
các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Vĩnh long đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2008 trong sản xuất và kinh doanh.
Theo khảo sát của Sở nông nghiệp Vĩnh Long, hàng năm tuy sản lượng lúa hàng
hoá nhiều, nhưng chỉ có từ 15 - 20% đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, nguyên nhân do
khâu chọn giống, kỹ thuật sản xuất, công nghiệp xay xát chế biến... Điều này ảnh
hưởng đến hiệu quả xuất khẩu của mặt hàng gạo do lượng hàng xuất khẩu chủ yếu
là loại gạo 25%, 15 % chiếm tỷ lệ 40 - 50%, riêng loại gạo cao cấp Supper 100%,
gạo 5 % chỉ chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số lượng gạo xuất khẩu.
Quá trình sản xuất - thu mua - chế biến - tiêu thụ chưa có sự gắn kết. Khâu yếu
nhất trong đầu ra lúa gạo ĐBSCL nói chung và của Vĩnh Long là chất lượng sản
phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ, nhất là trong sản xuất, công nghệ sau thu
hoạch, kênh phân phối lưu thông còn nhiều bất cập.
Thương hiệu gạo xuất khẩu
Do nằm trong hệ thống xuất khẩu của Hiệp Hội Lương Thực Việt Nam,Tổng
Công Ty Lương Thực II nên thương hiệu gạo xuất khẩu của tỉnh chủ yếu sử dụng
thương hiệu của 2 đơn vị trên và có chú thích xuất xứ tên 4 công ty xuất khẩu gạo
của tỉnh đả được Bộ Công Thương cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
xuất khẩu gạo theo quy định của Nghị định 109/2010/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
04 tháng 11 năm 2010 về kinh doanh xuất khẩu gạo.
Gạo xuất khẩu của Vĩnh Long chưa có thương hiệu, đây cũng là tình trạng
chung của ĐBSCL, gạo xuất khẩu gắn với tên của doanh nghiệp xuất khẩu. Gạo
Việt Nam chưa có thương hiệu mà nguyên nhân chủ yếu chính là do chất lượng
chưa đạt tiêu chuẩn. Việc xây dựng thương hiệu lúa gạo vì thế gặp nhiều khó khăn
63
và rất yếu sức cạnh tranh, trước hết là với gạo Thái Lan.
Kết luận về năng lực cạnh tranh của lúa gạo
Điểm mạnh
Lúa là sản phẩm có vị trí quan trọng đối với nông nghiệp cũng như kinh tế của
tỉnh Vĩnh Long, chiếm trên 40% giá trị sản xuất ngành trồng trọt của tỉnh. Tận dụng
lợi thế về điều kiện tự nhiên, sản xuất lúa hằng năm cho năng suất và chất lượng cao
đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Cùng với năng suất lúa cao, chi phí sản xuất lúa ở Vĩnh Long thấp hơn các tỉnh
vùng ĐBSH và các nước trong khu vực.Theo kết quả tính toán hệ số chi phí nguồn
lực nội địa (DRC) thì sản xuất lúa gạo ở Vĩnh Long có lợi thế so sánh. Đây là
những yếu tố thuận lợi để nâng cao sức cạnh tranh của gạo xuất khẩu Vĩnh Long.
Hạn chế
- Quy mô đất cho sản xuất nhỏ và phân tán hạn ứng dụng cơ giới hóa trong sản
xuất chưa đồng bộ, hệ thống máy móc thiết bị sau thu hoạch như: máy sấy, kho
dùng bảo quản tồn trữ, chế biến lương thực còn nhiều bất cập, chưa bảo đảm yêu
cầu, tổn thất trong khâu thu hoạch và sau thu hoạch lúa còn rất cao nhất là vụ Hè
Thu: 12 đến 15%.(Viện lúa ĐBSCL).
- Hệ thống sản xuất giống, công tác quản lý chất lượng giống lúa còn nhiều bất
cập, giá lúa giống còn đắt nên nông hộ thường dùng giống tự chọn từ vụ thu hoạch
trước, dẫn tới chất lượng nông sản không đảm bảo, rất khó đáp ứng đồng bộ về
chủng loại và phẩm cấp của hàng xuất khẩu qui mô lớn.
- Chưa có chính sách ổn định giá cả, kênh tiêu thụ chưa hiệu quả, gạo xuất khẩu
chưa có thương hiệu. Điểm yếu của xuất khẩu gạo Vĩnh Long là do đầu tư chưa
đúng mức nên chất lượng gạo chưa cao ảnh hưởng đến tính cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.
2.2.3.2. Trái cây: Bưởi Năm roi
Trái cây là một trong những sản phẩm của thiên nhiên ban tặng cho Vĩnh Long
nói riêng và ĐBSCL nói chung mà các địa phương khác trong cả nước không có
được. Vĩnh Long có nhiều loại cây ăn trái có năng suất và chất lượng cao đã trở
64
thành đặc sản của tỉnh như: bưởi Năm roi, cam sành, nhãn… được khách hàng trong
và ngoài nước ưa chuộng. Giá trị sản xuất hàng năm của trái cây khá cao, chiếm
21.47% (2011) trong cơ cấu giá trị trồng trọt. Mặt khác, chi phí sản xuất trái cây
thấp cho hiệu quả kinh tế cao do đó có sức cạnh tranh trên thị trường. Vĩnh Long có
lợi thế rất lớn về cây có múi, trong tỉnh có hơn 50 nhà lưới sản xuất cây có múi và 2
vùng chuyên canh cây có múi nổi tiếng: bưởi Năm roi Bình Minh và cam sành Tam
Bình, trong đó bưởi năm roi có triển vọng xuất khẩu rất lớn do chất lượng ngon, sản
lượng lớn, được ưa chuộng, thời gian bảo quản kéo dài. Vĩnh Long được xem có thế
mạnh, tiềm năng phát triển cây ăn trái, diện tích và sản lượng vườn cây đặc sản ở
Vĩnh Long ha đứng thứ 2 vùng ĐBSCL, sau Tiền Giang.
Năng lực sản xuất
Vĩnh Long là tỉnh có diện tích bưởi Năm roi lớn nhất ở ĐBSCL. Diện tích
trồng bưởi tăng ổn định qua các năm, năm 2005 diện tích trồng bưởi là 6.467 ha
nhưng đến năm 2006 là 7.510 ha và đạt được 7.865 ha, đến năm 2011 là 7.706 ha.
Tốc độ tăng diện tích bưởi là 21,65%/năm. Chiếm trên 16% diện tích đất cây lâu
năm toàn tỉnh, trồng tập trung chủ yếu tuyến ven sông Hậu thuộc 2 huyện Bình
Minh, Tam Bình và trồng phân tán tại các huyện Long Hồ, Mang Thít, Trà Ôn,
Vũng Liêm và thị xã Vĩnh Long.
Bảng 2.11: Diện tích bưởi Năm roi qua các năm
Năm 2005 2006 2008 2009 2010 2011
Tổng diện tích 36.356 38.019 38.293 38.603 38.928 39.098
Cây bưởi 6.467 7.510 7.865 7.799 7.847 7.706
* Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long năm 2011
Bình Minh hiện có 3.400 ha bưởi Năm Roi, sản lượng bình quân hàng năm
ước đạt 30.000 tấn. Tính chung cả tỉnh Vĩnh Long, diện tích bưởi đến gần 8000 ha,
chiếm 46% diện tích bưởi cả nước và chiếm đến 54% sản lượng(Theo Sở
NN&PTNT Vĩnh Long).
Năng suất các loại cây ăn trái đạt được tương đối cao so với mức trung bình
trong toàn quốc, đặc biệt cam sành, bưởi Năm roi và chôm chôm.
65
Bảng 2.12: Năng suất cây ăn trái qua các năm (ĐVT: tấn/ha)
Loại cây 2005 2006 2008 2009 2010 2011
9.7 10.1 10.2 10.2 10.2 7.7 Cây nhãn
7.0 7.5 8.1 8.5 9.1 9.7 Cây cam
7.7 8.8 8.5 9.1 9.2 9.1 Cây quýt
15.4 14.5 14.7 14.8 15.1 15.6 Cây chôm chôm
9.6 10.3 10.4 10.7 10.9 10.8 Cây xoài
4.3 5.4 5.9 6.9 6.9 7.0 Cây sầu riêng
Cây bưởi 8.8 11.8 14.8 15.1 15.4 14.0
* Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long năm 2011
Diện tích cây bưởi của Vĩnh Long ngày càng được mở rộng, cùng với đó là
năng suất bưởi không ngừng được nâng cao năm 2005 đạt 8.8 tấn/ha và tăng liên
tục đến 15.4 tấn/ha năm 2010, năm 2011 do diện tích giảm và sản lượng bưởi có sụt
giảm nên năng suất giảm xuống còn 14 tấn/ha.
Bảng 2.13: Sản lượng cây ăn trái qua các năm (ĐVT: tấn)
Năm 2005 2006 2008 2009 2010 2011
Cây bưởi 56.832 64.329 79.677 83.074 85.023 81.703
* Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long năm 2011
Diện tích ngày càng mở rộng cùng năng suất ngày càng tăng, sản lượng bưởi của
Vĩnh long tăng mạnh trong thời gian gần đây. Sản lượng bưởi năm 2005 đạt 56.832
tấn đến năm 2008 sản lượng bưởi tăng lên 79.677 tấn và sản lượng năm 2011 lên
đến 81.703 tấn. Như vậy, sản lượng bưởi năm 2011 gấp 1,5 lần so với năm 2005,
điều này chứng tỏ trái bưởi Năm roi Vĩnh Long đã và đang khẳng định vị thế của
mình trên thị trường.
Như vậy, hoàn toàn có thể khẳng định, bưởi Năm roi là cây trồng đặc sản có thế
mạnh đặc thù của Bình Minh nói riêng và Vĩnh Long nói chung. Do vậy, bưởi Năm
roi đươc xác định là sản phẩm chủ lực của tỉnh Vĩnh Long, cần có một chiến lược
xây dựng thương hiệu và qui hoạch phát triển bưởi Năm Roi lâu dài.
66
Tình hình tiêu thụ
Hiện nay, ngoài việc mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa,Vĩnh Long đang có 3
đơn vị tổ chức thu mua và xuất khẩu bưởi Năm Roi là HTX bưởi Năm Roi Mỹ Hòa,
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) chế biến rau quả xuất khẩu Hoàng Gia ở huyện
Bình Minh và công ty The Fruit Republic LTD(Hà Lan).
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) chế biến rau quả xuất khẩu Hoàng Gia
Công ty Hoàng Gia là đơn vị đăng ký độc quyền kinh doanh thương hiệu bưởi
Năm roi Hoàng Gia và lập trang Web www.5roi.com. Doanh nghiệp xây dựng vùng
nguyên liệu và đăng ký thương hiệu bưởi Năm Roi Hoàng Gia ở các nước Âu, Mỹ
theo quy định quốc tế. Có thương hiệu, bưởi Năm Roi Hoàng Gia tiêu thụ mạnh
trong nước, xuất khẩu sang Mỹ và nhiều nước châu Âu. Cho đến nay, công ty này
đứng đầu tỉnh trong việc xuất khẩu bưởi, không chỉ qua Mỹ mà còn các thị trường
châu Âu (Pháp, Đức), và châu Á (Hồng Kông, Singapore).
HTX bưởi Năm roi Mỹ Hoà
Được chứng nhận Global Gap từ ngày 18/09/2008, Hợp tác xã (HTX) Bưởi Năm
Roi Mỹ Hòa, huyện Bình Minh được ghi tên vào danh sách các HTX theo tiêu
chuẩn nổi tiếng toàn cầu tại Việt Nam. HTX đã bắt tay vào việc nâng cao chất
lượng sản phẩm và tăng cường số lượng để hướng tới thị trường xuất khẩu. Nhờ
thực hiện sản xuất bưởi Năm Roi theo tiêu chuẩn GlobalGAP, vùng chuyên canh
bưởi Năm Roi xã Mỹ Hòa đã củng cố thương hiệu và mở hướng xuất khẩu trực tiếp
vào thị trường các nước châu Âu như: Đức, Canada, Hà Lan, Anh, Nga,
Ucraina…Đây là tín hiệu đáng mừng cho hướng đi của Bưởi Năm Roi ở Vĩnh Long
vì đã có nhiều thị trường tiêu thụ ưa chuộng. Bình quân hàng tháng các doanh
nghiệp mua xuất khẩu từ 300-400 tấn bưởi Năm Roi.
Công ty The Fruit Republic LTD
Năm 2010, ngoài HTX Mỹ Hoà, công ty The Fruit Republic LTD đầu tư hỗ trợ
cho nông dân với diện tích khoảng 18 ha làm theo tiêu chuẩn GlobalGAP để xuất
khẩu sang thị trường châu Âu. Công ty cam kết bao tiêu sản phẩm cao hơn so với
67
giá bưởi ngoài thị trường khoảng 20-30%, hướng tới mở rộng hơn 100 ha bưởi Năm
roi của xã Mỹ Hoà và vùng lân cận.
Công ty đã xây dựng nhãn hiệu Meko Star, với hình cô gái Việt đội nón, là
thương hiệu bưởi Năm Roi dành cho thị trường Việt Nam và Wildboi là thương
hiệu được đăng ký bản quyền trên toàn cầu. Bưởi Năm roi được xuất khẩu có mặt
tại các siêu thị lớn ở Hà Lan, Nga, Hong Kong, Philippines...với nhãn hiệu mới
Wildboi (hoang dại) xuất xứ từ Việt Nam và có hương vị ngon nhất châu Á do
Công ty Fruit Republic thu mua XK nhờ vậy giá bưởi được nâng cao bưởi có trọng
lượng trái 1,2 kg trở lên, mẫu mã đẹp được thu mua với mức giá 17.000 – 19.000
đồng/kg; loại 900 gam/trái trở lên được thu mua với giá 12.000 – 14.000 đồng/kg.
Đây là mô hình liên kết có hiệu quả gắn kết lợi ích giữa doanh nghiệp xuất khẩu
và HTX , giá trị xuất khẩu của sản phẩm sẽ được nâng cao và có tính bền vững hơn.
Từ nay đến năm 2020, Vĩnh Long xác định cây bưởi Năm Roi vẫn là cây ăn quả
đặc sản chủ lực của tỉnh trong việc chuyển dịch cơ cấu cây ăn quả trong ngành nông
nghiệp. Cùng với việc duy trì thị trường xuất khẩu ở các nước châu Âu, cây ăn quả
của Vĩnh Long đang hướng tới các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore và
Mỹ.
Chi phí sản xuất bưởi Năm roi dựa trên Hệ số nguồn lực nội địa
(DRC)
Theo kết quả điều tra của Cục Thống Kê Vĩnh long về hiệu quả nuôi trồng một
số cây, con chủ yếu năm 2011, đối với cây bưởi năm roi có chi phi sản xuất năm
2010 như sau: Chi phí nội lực sản xuất bưởi năm roi bình quân năm 2010 là
2.321.629 đồng/tấn
- Có thể xác định DRC của sản xuất bưởi năm roi ở Vĩnh Long như sau:
Giá trị xuất khẩu bưởi năm roi được quy ra tiền đồng là 1.050 USD/tấn x
19.495 đồng (tỷ giá tháng 12/2010) = 20.469.750 đồng /tấn.
Như vậy DRC = 2.321.269/20.469.750 = 0, 1134 < 1 cho thấy sản xuất bưởi
năm roi ở Vĩnh Long có lợi thế so sánh.
68
Chất lượng bưởi Năm Roi
Bưởi Năm roi là loại cây ăn trái đặc sản nổi tiếng của Vĩnh Long, một trong
những loại bưởi ngon, được người tiêu dùng đánh giá cao, và có giá trị kinh tế lớn.
Bưởi Năm roi Bình Minh- Vĩnh Long đã được chứng nhận thực hành nông
nghiệp tốt theo tiêu chuẩn Global GAP chất lượng trái bưởi năm roi được người tiêu
dùng tin tưởng và giá mua cao hơn. HTX Bưởi năm roi Mỹ Hòa được tổ chức đánh
giá thẩm định tiêu chuẩn chất lượng quốc tế chi nhánh Việt Nam ( SGS) cấp giấy
chứng nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn GlobalGap và ghi tên vào danh sách HTX theo
tiêu chuẩn nổi tiếng toàn cầu tại Việt Nam. Đến nay nhiều công ty như DNTN
Hoàng gia Metro&Cast, CoopMart, The Fruit Republic LTD hổ trợ đầu tư cho nông
dân thực hành theo tiêu chuẩn GlobalGap.Đây là cơ hội cho các nhà vườn trồng đặc
sản này đưa sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng của thế giới.
Tuy nhiên, bưởi đạt chất lượng cho xuất khẩu đạt chỉ chiếm 5% sản lượng, do
nguyên nhân diện tích trồng bưởi năm theo Global GAP, Viet GAP chưa được mở
rộng chỉ tập trung ở huyện Bình Minh và Bình Tân, còn các huyện khác trong tỉnh
chủ yếu là trồng cây phân tán nên chăm sóc, phòng ngừa dịch bệnh, thu hoạch
không đồng bộ nên chất lượng không đồng nhất.
Việc tái cấp chứng nhận tiêu chuẩn đòi hòi chi phí và tư vấn lớn nên có nhiều hộ
rút ra không đăng ký do thiếu sự hỗ trợ tài chính từ các đơn vị kinh doanh xuất khẩu
trên địa bàn, bên cạnh đó các đơn vị này có quy mô nhỏ nên thiếu vốn đầu tư kho
mát bảo quản bưởi và chưa có đơn vị chiếu xạ nông sản ở khu vực nên việc xuất
khẩu chưa được nâng cao và mở rộng cho những thị trường mới do vậy chất lượng
bưởi chưa được cải thiện và nâng cao.
Thương hiệu của sản phẩm bưởi Năm roi
Hiện nay, bưởi Năm Roi đã là một thương hiệu khá nổi tiếng trong và ngoài
nước, được các nhà khoa học đánh giá không chỉ là giống bưởi ngon của Việt Nam
mà còn là giống bưởi ngon của thế giới.
Thương hiệu bưởi Năm Roi đã được hai đơn vị là Hợp tác xã bưởi Năm Roi Mỹ
Hòa và Doanh nghiệp tư nhân Hoàng Gia xây dựng thành công thương hiệu và
69
được Cục Sở Hữu trí tuệ, Bộ Khoa học-Công nghệ cấp chứng nhận nhãn hiệu hàng
hóa cho "Bưởi năm roi Hoàng Gia Bình Minh Vĩnh Long " và ”Bưởi Năm Roi Mỹ
Hòa”. Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) chế biến rau quả xuất khẩu Hoàng Gia đã xây
dựng trang web “www.5roi.com” giúp quảng bá rộng rãi cho loại trái cây này ra thế
giới. Các sản phẩm xuất khẩu và tiêu thụ của công ty Hoàng Gia, HTX Bưởi Mỹ
Hòa cho đến hiện nay đều có dán nhãn ”Năm Roi Hòang Gia” và “ Năm Roi Mỹ
Hòa”. Từ khi có thương hiệu, bưởi Năm Roi được xuất khẩu sang nhiều nước trên
thế giới, nâng cao giá trị cho loại trái cây này và nhà vườn cũng được hưởng lợi
đáng kể.
Kết luận về năng lực cạnh tranh của bưởi Năm roi
Điểm mạnh
- Bưởi Năm roi Vĩnh Long chi phí sản xuất thấp, có lợi thế so sánh. Điều kiện tự
nhiên, sinh thái thích hợp nên cho năng suất, sản lượng cao, đã hình thành vùng
chuyên canh bưởi ở Bình Minh nổi tiếng trong và ngoài nước.
- Chính sách ưu tiên của tỉnh và các doanh nghiệp trong và ngoài nước, hình
thành vùng chuyên canh với quy mô lớn, tiêu chuẩn chất lượng và hội nhập.
- Lợi thế mà không nơi nào có được là Vĩnh Long có thể chủ động rải vụ thu
hoạch quanh năm.Ví dụ: Bưởi ở các tỉnh chỉ thu hoạch vụ 1 vào tháng 9 và vụ 2 vào
tháng 12, tháng 1; cam ở các tỉnh phía Bắc chỉ thu hoạch vào tháng 12, tháng 1,…
trong khi nhu cầu tiêu dùng thì quanh năm đây chính là lợi thế của Vĩnh Long.
- Bưởi Năm Roi Bình Minh đã xây dựng được thương hiệu và sản xuất theo tiêu
chuẩn GlobalGAP, qua đó thị trường xuất khẩu được mở rộng, tăng thêm sự tin cậy
và an tâm về chất lượng, nâng cao giá trị và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Điểm yếu
- Quy mô đất cho sản xuất nhỏ và phân tán, diện tích trồng theo tiêu chuẩn GAP
còn nhỏ, chưa đáp ứng đủ nhu cầu thị trường.Chi phí sản xuất theo tiêu chuẩn GAP
lớn, liên kết 4 nhà chưa chặt chẽ, chưa kiểm soát toàn diện, chặt chẽ dịch bệnh.
- Cơ sở hạ tầng, kho lạnh bảo quản, bao bì đóng gói còn thủ công. Công nghệ
chế biến trái bưởi còn hạn chế, giá trị gia tăng thấp. Chất lượng xuất khẩu trực tiếp
70
chiếm tỷ lệ thấp.Viêc giữ vững thương hiệu còn han chế do thiếu vốn.
2.2.3.3. Khoai lang
Khoai lang là cây trồng truyền thống trên vùng đất Bình Tân (Tân Quới, Tân
lược) cách đây hơn 60 năm, với lợi thế về yếu tố thổ nhưỡng phù hợp cho sự phát
triển của rau màu, đặc biệt là khoai lang. Hiện nay, thực hiện phong trào đưa cây
màu xuống ruộng, phá thế độc canh cây lúa đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người
nông dân đã thúc đẩy diện tích trồng khoai lang của tỉnh tăng lên nhanh chóng. Mô
hình luân canh 2 lúa- 1 khoai đem lại hiệu cao trong cơ cấu luân canh gấp 2 lần sản
xuất 2-3 vụ lúa . Giá trị sản xuất cây chất bột có củ (chủ yếu là khoai lang) không
ngừng tăng lên năm 2005 chiếm 3,89% GTSX ngành trồng trọt đến năm 2011
chiếm 9,89% xếp hàng thứ tư sau lúa, cây ăn quả và rau đậu. Vĩnh Long là tỉnh có
diện tích và sản lượng khoai lang nhiều nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm
2011 toàn tỉnh trồng gần 8.500 ha (chiếm 45% diện tích toàn vùng), năng suất bình
quân đạt 29.3 tấn/ ha. Năng suất khoai lang của Vĩnh Long luôn cao nhất nước nhờ
thổ nhưỡng nơi đây đặc biệt thích hợp để trồng và trình độ thâm canh khoai lang
của nông dân đạt cao. Giống khoai tím Nhật trồng tại Vĩnh Long cho năng suất từ
30 – 36 tấn/ ha nhưng hiệu qủa kinh tế cao gần gấp đôi các giống khoai khác nhờ
giá cao. Với lợi thế về đất đai, năng suất, sản lượng đứng đầu khu vực ĐBSCL
khoai lang được xác định là nông sản chủ lực có lợi thế cạnh tranh cao trên thị
trường trong nước và tiềm năng xuất khẩu lớn.
Trong cơ chế thị trường khi có một cây trồng có năng suất, chất lượng cao,
sản lượng lớn và nếu có giá thành thấp thì sản phẩm ấy có sức cạnh tranh cao có
khả năng kiểm soát cung- cầu trên thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế khoang lang
Vĩnh Long vẫn chưa phát huy được lợi thế này.
71
Năng lực sản xuất
Bảng 2.14: Diện tích năng suất, sản lượng khoai lang
ĐVT: Diện tích-ha; Năng suất: tạ/ha; Sản lượng: tấn
Năm 2005 2006 2008 2009 2010 2011
Diện tích 5.210 5.952 4.955 5.110 5.845 8.463
Năng suất 201.82 298.39 287.68 291.24 292.12 293.23
Sản lượng 152.037 177.616 142.541 148.830 170.732 248.153
* Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long năm 2011
Diện tích khoai lang từ năm 2005 đến 2011 tăng bình quân 2,35%/năm và trong
đó từ năm 2010 tăng 14,38%/năm và năm 2011 tăng 40%/năm. Đây cũng là năm có
giá bán đạt mốc cao nhất, có lúc lên tới trên 19.000đ/kg. Năm 2010, Vĩnh Long đã
sản xuất được 5.845 ha khoai lang. Sang năm 2011, sản xuất gần 8.500 ha trong đó
huyện Bình Tân là 7994 ha, 8 tháng đầu năm 2012 đã sản xuất được gần 9.800 ha
trong đó riêng huyện Bình Tân là 9.000 ha. Diện tích khoai lang tăng mạnh trong
những năm qua, nhìn chung đúng với quy hoạch đưa cây màu xuống ruộng lúa của
tỉnh. Năng suất bình quân từ 29,1 tấn/ha – 29,3 tấn/ha; sản lượng năm 2011 đạt
248.153 tấn so với năm 2005 tăng 96.116 tấn,bình quân hàng năm tăng 27,20%/năm.
Vào thời điểm cuối năm 2011 khoai lang được giá, nông dân trồng khoai lang có
lãi cao, đặc biệt là khoai lang Tím Nhật vào thời điểm tháng 10 năm 2011 giá lên
đến 1.050.000 đồng/tạ (1 tạ khoai = 60 kg). Tuy nhiên từ đầu năm 2012 đến nay giá
thành khoai lang giảm đột ngột, đầu năm giá 800.000đ/1 tạ (60kg) nhưng đến nay
chỉ còn 280.000đ/1 tạ (60kg). Do lượng khoai sản xuất chủ yếu là khoai lang tím,giá
cả cao hơn các loại khoai tiêu thụ trong nước và mang lại lợi nhuận nhiều hơn.Tuy
nhiên do xuất khẩu bằng đường tiểu ngạch, không ký kết hợp đồng kinh tế để có
chế tài khi vi phạm,giá mua do người mua áp đặt gây khó cho người bán là các hộ
trồng khoai lang trong tỉnh, sản phẩm khoai lang tím đối với thị trường trong nước
không ưa chuộng nên rất khó tiêu thụ với sản lượng lớn nên tạo sức ép, khó khăn
đối với hộ trồng khoai lang trong 6 tháng đầu năm 2012.
72
Thị trường tiêu thụ
Theo PGS TS Nguyễn Ngọc Đệ (Khoa NN-PTNT, Trường Đại học Cần Thơ),
qua nghiên cứu phân tích chuỗi giá trị khoai lang tại Vĩnh Long thì có hơn 85% sản
lượng XK và hơn 14% thông qua kênh tiêu thụ nội địa.
Thị trường tiêu thụ lớn nhất của khoai lang Vĩnh Long là Trung Quốc. Phòng
Nông nghiệp huyện Bình Tân, hiện nay các doanh nghiệp, hợp tác xã tại Vĩnh Long
xuất khẩu khoai lang chủ yếu xuất khẩu thô theo đường tiểu ngạch sang thị trường
Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan hoặc cung ứng nguyên liệu cho các doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc.
Do nông dân trồng khoai quy mô nhỏ, tự phát, thiếu liên kết và thách thức lớn
nhất là đầu ra bấp bênh.Việc mua bán giữa người nông dân với các thương lái từ
trước tới nay chỉ theo mùa vụ và giá cả tuỳ vào tình hình tiêu thụ chứ không có hợp
đồng bao tiêu sản phẩm nên tình trạng nông dân bị thương lái ép giá là khó tránh
khỏi. Mặt khác, về quản lý Nhà nước cũng chưa chặt chẽ, còn những kẽ hở trong
việc kinh doanh khoai lang của thương lái Trung Quốc; để họ nắm rất rõ về các
vùng trồng khoai ở ĐBSCL nên dễ dàng thao túng giá cả.
Việc xuất khẩu khoai lang hiện nay chưa có thị trường ổn định, thương lái chỉ
mua theo thời vụ, không ký hợp đồng bao tiêu với hộ nông dân. Khoai lang Bình
Tân cần xây dựng thương hiệu, quy họach ổn định diện tích chuyên canh và gắn kết
giữa thương lái – doanh nghiệp – người trồng khoai để tìm đầu ra ổn định, bền vững
Chi phí sản xuất dựa trên Hệ số nguồn lực nội địa (DRC)
cho vùng chuyên canh khoai lang.
Theo kết quả điều tra của Cục Thống Kê Vĩnh long về hiệu quả nuôi trồng
một số cây, con chủ yếu năm 2011, đối với cây khoai lang có chi phi sản xuất năm
2011 như sau: Chi phí nội lực sản xuất khoai lang bình quân năm 2011 là 2.826.230
đồng/tấn
- Có thể xác định DRC của sản xuất khoai lang ở Vĩnh Long như sau:
- Giá trị bán bình quân là 7.723.000 đồng/tấn với tỷ giá là 20.450 đ/USD (tỷ
giá tháng 12/2011), giá bán bằng USD là 378 USD/Tấn.
73
- Như vậy DRC = 2.826.260/378 USD = 7.477 đ/USD, so với tỷ giá thì hệ số
DRC = 7.477/20.450 = 0,3656 < 1 cho thấy sản xuất khoai lang ở Vĩnh Long có lợi
thế so sánh cao.
Chất lượng khoai
Khoai lang xuất khẩu chủ yếu là loại khoai lang tím Nhật với trọng lượng dưới
300gr/củ, còn lại là loại 2. Tiêu chuẩn nầy là tự thỏa thuận giửa người bán và người
mua; chưa tổ chức thực hiện tiêu chuẩn VietGap do chưa có sự quan tâm và nhận
thức rõ về tầm quan trọng của hệ thống quản lý nầy cho sự phát triển thị trường ổn
định và bền vững của nhà nông.
Khoai lang của vùng ĐBSCL đặc biệt là Vĩnh Long được đánh giá cao về chất
lượng. Tuy nhiên, tỷ lệ sản phẩm đủ chuẩn xuất khẩu còn rất khiêm tốn do nông dân
chưa nắm vững kỹ thuật canh tác, thu hoạch chưa đúng cách nên củ khoai còn bị
bong tróc, trầy xước, phải để lại tiêu thụ nội địa. Người nông dân còn trồng khoai
theo phương pháp truyền thống, thói quen sử dụng tùy tiện thuốc bảo vệ thực vật
chưa chu ý đến chất lượng sản phẩm và sản xuất theo hướng sạch bệnh, an toàn.
Thương hiệu
Cho đến nay, thương hiệu khoai lang chưa đăng ký với Cục Sở Hữu Trí Tuệ.
Hiện khoai lang Vĩnh Long đang trong quá trình xây dựng thương hiệu. Sở Công
Thương Vĩnh Long kết hợp với ngành nông nghiệp xây dựng nhãn hiệu tập thể
“Khoai lang Bình Tân” để tiến tới xây dựng thương hiệu, thực hiện dự án chứng
nhận thương hiệu VietGAP cho khoai lang ở Bình Minh và Bình Tân. Xây dựng
thương hiệu cho khoai lang, mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng nông sản là
điều kiện cần thiết để đưa vùng chuyên canh này phát triển theo hướng bền vững.
Kết luận về năng lực cạnh tranh của khoai lang
Điểm mạnh
- Điều kiện tự nhiên, sinh thái thích hợp cho cây khoai lang so với các loại
rau củ khác. Có nhiều kinh nghiệm trồng và phát triển khoai lang từ luân canh sang
chuyên canh.Với lợi thế về đất đai, khoai lang Vĩnh Long có năng suất, sản lượng
đứng đầu khu vực ĐBSCL được xác định là nông sản chủ lực có lợi thế cạnh tranh
74
trên thị trường trong nước và tiềm năng xuất khẩu lớn.
- Chi phí sản xuất thấp, lợi nhuận khá cao so với trồng lúa .Thị trường xuất
khẩu theo con đường tiểu ngạch và tiêu thụ trong nước ổn định. Chính sách hổ trợ
của tỉnh về khuyến nông, hạ tầng cơ sở hỗ trợ sản xuất, huấn luyện đào tạo….
Hạn chế
- Quy mô đất cho sản xuất tập trung ở 2 huyện (Bình Tân, Bình Minh) nhưng
còn nhỏ và phân tán mở rộng ở các huyện khác trong tỉnh. Lao động sản xuất còn
thủ công trong gieo trồng và thu hoạch.
- Chi phí sản xuất có xu thế tăng do chi phí đầu vào tăng, kênh thị trường
chưa hiệu quả. Liên kết 4 nhà chưa chặt chẻ nên dể tác động đến người nông dân
sản xuất khoai lang.
- Chưa áp dụng tổ chức sản xuất theo hệ thống quản lý chất lượng và các
biện pháp vệ sinh thực phẩm, bảo vệ thực vật. Chưa có công nghệ chế biến hóa
khoai lang nên chưa nâng cao giá trị cây khoai lang.
- Giá cả chưa ổn định lệ thuộc vào người mua theo kiểu truyền thống. Thị
trường xuất khẩu tiểu ngạch không ổn định. Chưa có thương hiệu
2.2.3.4. Thuỷ sản: Cá Tra
Vĩnh Long có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt, diện
tích mặt nước nuôi trồng thủy sản của tỉnh còn khá lớn và đa dạng: đất lúa, đất vườn,
đất bãi bồi đều có thể nuôi kết hợp hoặc nuôi chuyên các giống loài thủy sản nước
ngọt. Bên cạnh đó hệ thống sông rạch trên địa bàn tỉnh có thể bố trí nuôi thủy sản
lồng bè. Môi trường nước trên hệ thống sông rạch chính của tỉnh còn khá trong sạch,
sẽ rất thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thủy và giảm được các chi phí đầu tư.
Tình hình sản xuất và xuất khẩu
Bảng 2.15: Đóng góp của thuỷ sản trong cơ cấu tổng sản phẩm
tỉnh Vĩnh Long (giá hiện hành)
Năm
2006 100 53,4 5,4 2005 100 55,6 4,5 2009 100 51,9 7,6 2010 100 49,0 7,1 2011 100 49,9 6,8 GDP(%) Nông-lâm nghiệp,TS Thuỷ sản
2008 100 53,8 7,3 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2011
75
Năm 2005, ngành nông lâm-thuỷ sản chiếm 55,6% tổng GDP(giá hiện hành)của
toàn tỉnh, trong đó ngành thuỷ sản đóng góp khoảng 4,5% tổng GDP toàn tỉnh. Năm
2010, GTSX thuỷ sản giá hiện hành đạt 2.643 tỷ đồng, trong đó ngành nuôi trồng
thuỷ sản đạt 2.463 tỷ đồng (chiếm 7,1 % GDP), với mức tăng trưởng bình quân
34,1%/năm, có xu hướng tăng dần qua các năm và tương đối ổn định. Ngành NTTS
vẫn là ngành kinh tế chủ lực đóng góp cho GDP của tỉnh.
Cá tra là sản phẩm chính trong nuôi trồng thủy sản của tỉnh, sản lượng ngày
càng gia tăng do nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Việc phát triển thủy sản
dọc theo sông Tiền và sông Hậu do nước ngọt quanh năm thích hợp cho nuôi trồng
cá tra, gian sinh trưởng nhanh so với giống cá khác, nguồn giống chủ động do đã
cho thụ tinh nhân tạo thành công.
Diện tích nuôi cá tra công nghiệp tăng mạnh trong giai đoạn trước năm 2008, từ
năm 2008 đến nay diện tích tăng chậm trở lại. Sự tăng nhanh về diện tích giai đoạn
đầu, sự ổn định diện tích trong vài năm gần đây chủ yếu là do biến động về giá cả
và hiệu quả sản xuất.
Bảng 2.16: Diện tích nuôi cá tra thâm canh ở các huyện GĐ 2005-2010
ĐVT: Tấn/ha
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010
4,7 12,7 16,9 15,4 13,2 2,7 TP.Vĩnh Long
64,2 150,6 187,3 181,5 182,5 26,0 Long Hồ
12,0 22,6 53,2 88,9 92,3 72,9 Mang Thít
7,0 16,8 48,6 51,3 77,7 70,7 Vũng Liêm
0,0 2,8 19,5 29,2 36,6 43,4 Trà Ôn
0,0 0,0 0,6 7,8 21,6 30,5 Tam Bình
9,4 8,3 8,8 43,4 68,5 112,3 Bình Minh
138 139,5 110,5 Bình Tân
Tổng DT 91,1 179,6 397,5 530,3 571,4 532,5
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Vĩnh Long
76
Diện tích nuôi cá tra đã mở rộng ở toàn bộ 8 huyện và thành phố Vĩnh Long,
song tập trung chủ yếu ở các huyện Long Hồ, Bình Tân, Vũng Liêm, Mang Thít.
Năm 2010, diện tích nuôi lớn nhất ở Long Hồ, với 182,5 ha, chiếm 34,3% tổng diện
tích nuôi cá tra của toàn tỉnh, kế đến là Bình Tân với 110,5 ha chiếm 20,7% và thấp
nhất là Bình Minh với 8,8 ha.
Vĩnh Long là một trong những tỉnh có năng suất trung bình NTTS cao nhất
trong cả nước. Năng suất NTTS bình quân toàn tỉnh năm 2010 là 58,35 tấn/ha trong
khi năng suất trung bình của vùng ĐBSCL là 2,62 tấn/ha, của cả nước là 2,64 tấn/ha
(theo tổng cục thống kê). Năng suất nuôi của hầu hết các hình thức nuôi đều khá cao.
Trong đó, năng suất bình quân cao nhất đạt được với nuôi cá tra công nghiệp
khoảng 282 tấn/ha mặt nước năm 2010.
Bảng 2.17 : Năng suất trung bình NTTS tỉnh Vĩnh Long (ĐVT: tấn/ha)
NSTB 2005 2006 2007 2008 2009 2010
15,69 19,79 42,95 47,47 58,35 42,46 Toàn tỉnh
Cá tra 180,6 173,9 158,8 168,5 215,7 197,3
1,55 1,73 2,34 2,46 2,62 2,08 ĐBSCL
1,47 1,69 2,44 2,53 2,64 2,11 Cả nước
Nguồn: Cục thống kê Vĩnh Long, NGTK 2005-2010
Do đầu tư nuôi cá tra hình thức công nghiệp tăng mạnh trong những năm gần
đây, bên cạnh đó tỉ trọng diện tích nuôi theo hình thức quảng canh của tỉnh không
lớn đã đưa năng suất trung bình của tỉnh lên rất cao( chỉ đứng sau năng suất trung
bình của An Giang và Đồng Tháp).
Cùng với việc gia tăng diện tích nuôi, sản lượng NTTS cũng gia tăng đáng kể.
Năm 2005 đạt 29.014 tấn tăng lên 132.782 tấn năm 2010 tăng 4,57 lần. Tốc độ tăng
trưởng sản lượng trung bình cả giai đoạn là 35,35%/năm, cao hơn rất nhiều so với
tăng trưởng trung bình về diện tích trong cùng giai đoạn.
Bảng 2.18: Sản lượng NTTS tỉnh Vĩnh Long (ĐVT: tấn)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010
29.014 45.457 91.252 100.553 113.860 132.782 Tổng SL
77
16.453 31.232 78.424 84.199 96.272 114.879 Cá tra
Nguồn: Cục thống kê Vĩnh Long, NGTK 2005-2010
Đóng góp lớn nhất trong sản lượng NTTS là cá tra. Năm 2010 sản lượng cá
tra nuôi đạt 114.879 tấn chiếm 86,3% tổng sản lượng nuôi toàn tỉnh, kế đến là cá
diêu hồng, cá rô phi, cá rô đồng...Cá tra cũng là đối tượng có mức độ tăng sản
lượng cao và ổn định nhất. Sản lượng cá tra tăng bình quân 47,5% /năm trong giai
đoạn 2005-2010.
Tình hình xuất khẩu
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long hiện có 3 nhà máy chế biến thuỷ sản xuất khẩu
đang hoạt động là: Công ty cổ phần thủy sản An Phước (APFISH), Công ty CP chế
biến XNK thuỷ hải sản Hùng Cường, Công ty CP chế biến thuỷ sản Hùng Vương,
với công suất thiết kế khoảng 55.000 tấn thành phẩm/năm.
Trong giai đoạn 2005-2010, chế biến thuỷ sản đạt được sự tăng trưởng đáng
khích lệ. Tốc độ tăng trưởng bình quân về sản lượng cả giai đoạn đạt 55,18%, sản
lượng tăng 1.939 tấn năm 2005 lên 17.450 tấn năm 2010. Sản phẩm chế biến chủ
yếu của tỉnh là cá tra, ngoài ra còn có tôm, mực và thuỷ sản khác nhưng không đáng
kể. Hệ số sử dụng công suất thiết kế còn khiêm tốn, năm 2010 mới sử dụng khoảng
40% tổng công suất thiết kế của các nhà máy.
Xuất khẩu thuỷ sản chiếm từ 9-14% trong tổng sản lượng chế biến đông lạnh
trong giai đoạn 2006-2010. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 2,98 triệu USD năm
2006 lên khoảng 17,40 triệu USD năm 2010, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là
32,82%/năm.
Bảng 2.19 : Sản lượng và kim ngạch cá tra xuất khẩu
ĐVT: Sản lượng- tấn, Giá trị-1000 USD
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Sản lượng 2.308 1.576 471 2.358 6.193 9.005 10.867
Giá trị 4.206 2.978 987 4.912 11.154 16.074 28.777
Nguồn Cục Thống Kê & Sở Công Thương Vỉnh Long – tháng 5/2012
+ Thị phần xuất khẩu
78
Nằm trong Hiệp hội Nuôi trồng và Chế biến Thủy sản Việt Nam ( VASEP)
nên cơ cấu thị trường xuất khẩu có sự thay đổi qua từng năm, đặc biệt thị trường
Mỹ có sự biến động mạnh do đã xảy ra vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng cá
tra Việt Nam từ năm 2003 cho đến nay. Tuy nhiên, ngay sau đó thị trường xuất
khẩu cá tra Việt Nam đã được mở rộng hơn, đặc biệt là sang EU và gần đây nhất là
Nga .Cho đến nay, cá tra Việt Nam đã có mặt ở khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới. EU, Bắc Mỹ và Nga là những thị trường lớn nhất.
Thị trường xuất khẩu truyền thống các mặt hàng thuỷ sản của tỉnh là Mỹ và Nga,
ngoài ra còn có, Hồng Kông, EU,...nhưng không đáng kể. Đồng thời tỉnh tăng
cường xúc tiến ASEAN thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang 2 thị trường
truyền thống là Mỹ, Nga và khai thác các thị trường tiềm năng là Bắc Phi, Trung
Đông để nâng cao hiệu quả, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủy sản.
Chi phí sản xuất dựa trên Hệ số nguồn lực nội địa (DRC)
Theo kết quả điều tra của Cục Thống Kê Vĩnh long về hiệu quả nuôi trồng
một số cây, con chủ yếu năm 2011, đối với nuôi trồng cá tra có chi phi sản xuất năm
2011 như : Chi phí nội lực sản xuất nuôi trồng cá tra bình quân năm 2011 là
21.931.000 đồng/tấn, chi phí nuôi trồng cho xuất khẩu là 1.853,6 USD/tấn.
- Có thể xác định DRC của nuôi trồng cá tra ở Vĩnh Long như sau:
Chi phí nội lực sản xuất cá tra: 21.931.000 đồng/ 1.853,6 USD = 11.832
Đồng/USD so với 20.540 đồng/USD (tỷ giá tháng 7/2011) sẽ có DRC =
11.832/20.540 = 0,576 < 1 cho thấy nuôi trồng cá tra ở Vĩnh Long có lợi thế so sánh.
Chất lượng sản phẩm
Do môi trường nuôi được đảm bảo, chủ động nguồn nước và nguồn thức ăn
nên cá tra thịt trắng chiếm tỷ trọng trên 90% lượng cá nuôi, trọng lượng từ 0,8 –
1kg/con phù hợp với yêu cầu của nhà máy chế biến xuất khẩu.
Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường nhập khẩu, ngành thuỷ sản Vĩnh Long đã
tiến hành áp dụng các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm trong quá trình nuôi,
chế biến, bảo quản theo tiêu chuẩn của thị trường quốc tế. Trại giống Thủy sản Vĩnh
Long đã được công nhận là cơ sở sản xuất giống theo tiêu chuẩn GlobalG.A.P góp
79
phần tăng lợi thế cạnh tranh của thuỷ sản xuất khẩu Vĩnh Long, đáp ứng yêu cầu
truy xuất nguồn gốc về giống để bổ sung hồ sơ nguồn gốc cho các cơ sở ương, nuôi
cá thương phẩm đã được chứng nhận GlobalG.A.P và doanh nghiệp xuất khẩu thủy
sản trong, ngoài tỉnh.
Để chủ động hội nhập vào thị trường thế giới, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ
sản của tỉnh đã tập trung đầu tư hiện đại hoá máy móc, dây chuyền sản xuất chế
biến thủy sản đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường EU và Mỹ, Nhật Bản. Các
doanh nghiệp chế biến thuỷ sản của tỉnh đều áp dụng các chương trình quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn quốc tế như: tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm Việt Nam
(HACCP), giấy chứng nhận tiêu chuẩn xuất vào các nước Ả Rập HALAL, SQF 2000CM, SQF1000CM, ISO 9001:2008, BRC... và quản lý môi trường như ISO
14000. Với những chứng nhận về chất lượng sản phẩm cá tra Vĩnh Long sẽ có thêm
lợi thế và giữ thị phần ở các thị trường tiêu thụ chính và tiềm năng, đặc biệt trong
thời điểm nhà nhập khẩu và người tiêu dùng rất quan tâm đến chất lượng và giá trị
sản phẩm.
Tuy nhiên, công tác quản lý chất lượng cũng còn nhiều bất cập như chưa kiểm
soát được việc buôn bán kháng sinh hóa chất không rõ nguồn gốc; quản lý vùng
nuôi chưa hiệu quả; chưa có hồ sơ theo dõi để truy nguyên nguồn gốc sản phẩm;…
Thương hiệu cá tra
Thương hiệu cá tra của Vĩnh Long được sử dụng thương hiệu chung của cá tra
của Hiệp Hội chế biến thủy sản Việt Nam (VASEP ), trên nhãn hiệu ghi mã code do
Cục Quản Lý Chất Lượng Thủy Sản để truy nguyên nguồn gốc, xuất xứ.
Kết luận năng lực cạnh tranh của cá tra Vĩnh Long
Điểm mạnh
- Lợi thế của cá tra Vĩnh Long là có điều kiện tự nhiên, sinh thái thích hợp
cho nuôi trồng cá tra,cho sản lượng, năng suất cao chỉ đứng sau An Giang và Đồng
Tháp, tạo nguồn cung cho chế biến xuất khẩu. Chi phí sản xuất thấp có lợi thế so
sánh.
- Có nhiều kinh nghiệm nuôi trồng và áp dụng các chương trình quản lý chất
80
lượng tiên tiến.Trại giống thuỷ sản Vĩnh Long được chứng nhận GlobalG.A.P. Có
hệ thống nhà máy chế biến tiên tiến ngang tầm khu vực. Thị trường xuất khẩu cá
khả năng mở rộng, có thương hiệu quốc gia.
Hạn chế
- Thiếu liên kết giữa hộ nuôi trồng và chế biến. Chi phí sản xuất tăng do chi phí
đầu vào ngày càng tăng dần lợi nhuận giảm.
- Công nghệ, kỹ thuật nuôi trồng còn đơn giản, lạc hậu; chậm áp dụng các tiến
bộ khoa học tiên tiến trong nuôi trồng và chế biến. Chất lượng giống có chiều
hướng suy giảm như: chậm lớn,tỷ lệ sống thấp,dể mắc bệnh, suy thoái, cận phối…
- Cơ sở trang thiết bị và các cơ sở hạ tầng khác thiếu chưa đồng bộ. Chưa đa dạng
chế biến sản phẩm cá tra. Hệ thống thông tin và dự báo thị trường còn yếu.
2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nông sản hàng
hoá tỉnh Vĩnh Long
Nhân tố tác động trực tiếp
Điều kiện sản xuất
Tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự nhiên ở Vĩnh Long (đất, nước, chế độ
thuỷ văn, khí hậu, sinh vật,…) ít chịu tác động cực đoan, nên việc đưa khoa học-
công nghệ mới vào sản xuất, nhất là công nghệ sinh học sẽ có tác động một cách
sâu rộng đến sản xuất nông nghiệp, có đủ điều kiện phát triển một nền nông nghiệp
đa canh, đa dạng hoá sản phẩm theo hướng thâm canh, tăng năng suất và tạo ra
nhiều sản phẩm hàng hoá quanh năm, nhất là giống cây trồng, gia súc và thuỷ sản;
thoả mãn tốt nhu cầu của thị trường. Đây là lợi thế vượt trội của Vĩnh Long so với
các tỉnh vùng ĐBSCL.
Giống, phương thức canh tác
Hạt giống có vai trò quan trọng quyết định năng suất, chất lượng cây trồng, nhất
là trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp giảm dần, biến đổi khí hậu ngày càng
khắc nghiệt như hiện nay. Do đó, để đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp
trong những năm tới, nâng cao giá trị cho hàng nông sản của tỉnh, ngành nông
81
nghiệp cần sớm tháo gỡ khó khăn và có biện pháp hoàn thiện công tác sản xuất
giống cây trồng.
Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng suất
và chất lượng thấp hơn so với các tỉnh trong khu vực. Trên địa bàn tỉnh chưa hình
thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống
tác giả, giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân
đã tự sản xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên
thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là giống các loại
cây ăn quả, cây lương thực, cây rau…
Năng suất, sản lượng
Trong thời gian qua, nông sản Vĩnh long nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, ứng dụng nhiều loại gống mới có năng suất chất lượng cao, cho sản lượng lớn.
Vì vậy, mặc dù diện tích đất nông nghiệp có giảm nhưng thời gian gian qua sản
lượng các loại nông sản của tỉnh không ngừng tăng lên đảm bảo tiêu dùng trong tỉnh
mà còn cung cấp một lượng nông sản hàng hoá lớn cho thị trường trong nước và
xuất khẩu.
Trong nền nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường thì đòi hỏi nông sản
phải có năng suất cao, chất lượng tốt, sản lượng lớn, giá thành thấp mới có sức cạnh
tranh cao và kiểm soát cung cầu trên thị trường.Tuy nhiên, trên thực tế nông sản
hàng hoá của Vĩnh Long vẫn chưa phát huy được lợi thế này.
Giá cả
Giá thành của nhiều loại nông sản như lúa gạo, trái cây,…ở mức cao, những sản
phẩm hàng hoá chính: trái cây, rau thực phẩm, thịt heo, thịt gà, vịt, cá,…sẽ chịu sự
cạnh tranh quyết liệt hơn của nhiều nơi khác cùng sản xuất vùng ĐBSCL, ĐNB.
Bên cạnh đó giá vật tư (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu...) các nhà
máy chế biến thức ăn chăn nuôi và thuỷ sản còn ít, nguồn nguyên liệu còn phụ
thuộc vào nhập khẩu, giá cả không ổn định làm cho chi phí sản xuất cao. Đó cũng là
nhân tố làm giảm sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá của tỉnh.
Chất lượng
82
Chất lượng nông sản là một thách thức lớn đối với thương mại và xuất khẩu nông
sản của Vĩnh Long. Đối với các sản phẩm chủ lực đều gặp phải các vấn đề về: giá
bán thấp do xuất khẩu thô hoặc sơ chế; mẫu mã, bao bì chưa phù hợp; chưa có
thương hiệu; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa hợp chuẩn (dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật, chất kích thích sinh trưởng,…còn tồn dư trên sản phẩm quá mức cho phép).
Bởi vậy, nông sản Vĩnh Long muốn hội nhập thị trường khu vực và thế giới điều tất
yếu là phải là sản phẩm sạch.
Công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch, công nghiệp chế biến nông sản
Công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch có ảnh hưởng lớn đến chất lượng, giá trị
nông sản và thu nhập của nông dân. Thực tế, trên địa bàn tỉnh việc đầu tư công nghệ,
thiết bị phục vụ cho khâu thu hoạch còn nhiều hạn chế dẫn đến tỷ lệ hao hụt còn lớn
gây thiệt hại cho người nông dân.
Tuy tỉnh có chương trình bảo quản sau thu hoạch, nhưng do tập trung chủ yếu là
cây lúa, còn một số sản phẩm nông sản khác ít được quan tâm. Hệ quả thường tái
diễn trên một số mặt hàng rau, củ, quả trong tỉnh cũng chịu nhiều mất mát do sản
phẩm không được sơ chế, bảo quản và tiêu thụ kịp thời như khoai lang tím ở Bình
Tân (Vĩnh Long) đang dội chợ, rớt giá vì thiếu công nghệ bảo quản sau thu hoạch
hiệu quả.
Thực tế thì giá trị gia tăng của các mặt hàng nông sản chủ yếu nằm ở khâu chế
biến, điều mà tỉnh Vĩnh Long còn hạn chế. Chính vì vậy mà nông sản chủ yếu là
xuất khẩu thô hoặc sơ chế.. Doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực chế
biến nông sản, kho trữ nông sản, cơ hội cho người nông dân bán nông sản theo giá
có lợi còn thấp. Điểm yếu của nông sản hàng hoá Vĩnh Long là do chưa đầu tư đúng
mức cho công nghiệp chế biến nên chất lượng chưa cao ảnh hưởng đến tính cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Các đơn vị xuất nhập khẩu quy mô vừa, vốn ít chưa
đáp ứng yêu cầu, chưa khai thác tốt tài sản hiện có, cơ sở chế biến còn nhỏ, máy
móc thiết bị tuy có đầu tư nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường đòi hỏi
chất lượng ngày càng cao hơn. Chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh lâu dài
do công tác dự báo thị trường còn kém.
83
Công nghệ chế biến lạc hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu
dùng của các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ
tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản,
nhất là hàng tươi sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác
tăng nhanh.
Các nhân tố gián tiếp
Hệ thống kết cấu hạ tầng nhất là hệ thống giao thông vận tải
Đây là nhân tố có tính quyết định đến sự phát triển kinh tế hàng hoá nói chung và
phát triển sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá nói riêng. Hệ thống kết cấu hạ
tầng giao thông vận tải của tỉnh đã từng bước được nâng cấp và ngày càng hoàn
thiện phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp và lưu thông hàng hoá nông sản. Cùng
với quốc lộ 1A con đường huyết mạch của ĐBSCL, đặc biệt là cầu Mỹ Thuận và
cầu Cần Thơ góp phần mở rộng mối lưu thông hàng hoá nông sản của Vĩnh Long
đến các tỉnh ĐBSCL và TP. Hồ Chí Minh. Bên cạnh quốc lộ 1A hệ thống đường
giao thông liên tỉnh, đường huyện, đường xã đã được đầu tư, nâng cấp góp phần
thuận lợi cho việc vận chuyển, lưu thông hàng hoá trong tỉnh, phát triển kinh tế
nông thôn.
Hệ thống thuỷ lợi của Vĩnh Long được đánh giá khá nhất so với 13 tỉnh vùng
ĐBSCL. Thuỷ lợi thực sự là yếu tố quyết định đến tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng và là biện pháp kỹ thuật quan trọng trong thâm canh tăng năng suất cây trồng.
Chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp của nhà nước và địa
phương trong từng thời kỳ.
Trong thời gian qua, UBND tỉnh Vĩnh Long cùng các ngành chức năng đã thực
hiện nhiều chủ trương, chính sách để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tỉnh nhà phát
triển. Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, tỉnh đã hướng sản xuất nông nghiệp
phát triển thành nền nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường. Để phát triển nền
nông nghiệp hàng hoá có hiệu quả và năng lực cạnh tranh cao, thời gian qua, tỉnh đã
có nhiều chương trình hành động thiết thực để gia tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá
nông sản như hỗ trợ xây dựng thương hiệu, hình thành các chợ đầu mối nông sản, tổ
84
chức hội chợ trái cây, xúc tiến tìm kiếm thị trường, xây dựng sàn giao dịch nông
sản… nên đã có nhiều loại nông sản của Vĩnh Long được thế giới biết đến như: gạo,
bưởi Năm roi, cá tra..
Bên cạnh đó, tỉnh đã thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Nhà nước và
Chính phủ để thúc đẩy nông nghiệp phát triển như: chính sách tín dụng thu hút vốn
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông sản, chính sách ứng dụng khoa học công
nghệ...đã có tác động tích cực, thiết thực phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Việc thực hiện Nghị định 41 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát
triển nông nghiệp nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân vay vốn phục vụ sản xuất.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có nhiều mô hình sản xuất tiên tiến xuất hiện như là
kết quả từ chủ trương đúng đắn này.
Trong những năm qua, việc triển khai thực hiện Quyết định 80/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua
hợp đồng đã thực sự gắn kết được “4 nhà”, tạo thêm nguồn lực để phát triển sản
xuất hàng hóa theo hướng thị trường, đảm bảo chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Trình độ và hiệu quả của các ngành kinh tế liên quan đến sản xuất nông
nghiệp hàng hóa.
Hệ thống dịch vụ thương mại có vai trò quan trọng trong sản xuất và tiêu thụ các
mặt hàng nông sản. Hệ thống thương mại phát triển rộng khắp các địa bàn trong
tỉnh đáp ứng đa dạng nhu cầu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cung ứng kịp thời
và đầy đủ các loại vật tư nông nghiệp như: phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu, thức
ăn gia súc, thuốc thú y,…đã góp phần quan trọng trong thâm canh tăng năng suất,
chất lượng sản phẩm hàng hoá. Tuy nhiên, hiện nay giá cả vật tư nông nghiệp còn
cao và không ổn định, chất lượng chưa thật đảm bảo, dẫn đến chi phí sản xuất cao,
giảm sức cạnh tranh trên thị trường ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp
và quyền lợi của người nông dân.
Trong những năm qua, hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp đã có những tác động tích cực góp phần giới thiệu sản phẩm và thương hiệu
của nông nghiệp Vĩnh Long đến với khách hàng trong và ngoài nước. Tuy nhiên, số
85
lượng thương hiệu mạnh còn ít và chất lượng thương hiệu đang là mối quan tâm cho
doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, thâm nhập thị trường khu vực và quốc tế.
Hoạt động thương mại ở Vĩnh Long có tác động tích cực cho sản xuất nông
nghiệp phát triển một cách bền vững, đặc biệt là khâu giải quyết đầu ra cho nông
sản hàng hoá. Vì vậy, giữa nông nghiệp và thương mại phải có mối quan hệ chặt
chẽ, hữu cơ với nhau, nhất là trong kinh tế thị trường để sản xuất nông sản hàng có
hướng phát triển vững chắc.
Trình độ khoa học, công nghệ của sản xuất nông nghiệp và của dịch vụ có
liên quan
Ứng dụng, chuyển giao công nghệ, khoa học kỹ thuật tiến bộ là một trong những
yếu tố quan trọng giúp nông dân sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. Xác
định được vai trò đó, tỉnh Vĩnh Long đã triển khai nhiều đề tài ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Các đề tài đã giải
quyết kịp thời những nhu cầu bức bách nảy sinh trong sản xuất, đời sống góp phần
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả đầu tư sản xuất; đồng thời góp phần
chuyển giao và nâng cao trí thức, trình độ sản xuất cho nông dân.
Các hình thức dịch vụ nông nghiệp chủ yếu gồm: dịch vụ giống, dịch vụ thuỷ
nông, dịch vụ cơ giới hoá...góp phần quan trọng vào thâm canh, tăng diện tích canh
tác, tăng năng suất cây trồng và vật nuôi, năng cao năng suất lao động, do đó làm
tăng sản lượng nông sản hàng hoá và hiệu quả kinh tế hộ nông dân. Trong nền kinh
tế thị trường, các hoạt động dịch vụ giữ vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay
dịch vụ nông nghiệp phục vụ cho kinh tế hộ nông dân còn nhiều yếu kém, do chưa
được sự quan tâm hỗ trợ của chính quyền các cấp nên việc phát huy tác dụng còn rất
hạn chế.
Tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp
Mô hình kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi
tại Vĩnh Long đáp ứng các yêu cầu phát triển sản xuất, khắc phục hạn chế của kinh
tế hộ, giúp nông dân sử dụng hiệu quả đất đai, lao động, vật tư, tiếp cận thông tin
tiến bộ kỹ thuật áp dụng vào sản xuất. Tạo sự gắn kết khá chặt chẽ giữa bốn nhà
86
(Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) trong sản xuất, chế biến và
tiêu thụ nông sản hàng hóa. Trong đó, vai trò của hợp tác xã, câu lạc bộ, tổ hợp tác
là cầu nối quan trọng giữa nông dân với doanh nghiệp trong hợp đồng tiêu thụ sản
phẩm.
Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp không có mạng lưới thu mua nông sản
hàng hóa đến tận nông dân mà phải thông qua hệ thống thương lái. Do đó, các
doanh nghiệp không thể trực tiếp ký hợp đồng với hàng vạn hộ nông dân có quy mô
sản xuất nhỏ lẻ để thu mua, chế biến một khối lượng nông sản lớn. Vì vậy, việc tổ
chức sản xuất, tiêu thụ nông sản theo hợp đồng đối với các tổ chức HTX, CLB,
THT, trang trại đóng vai trò rất lớn. Tuy nhiên, nhìn chung hầu hết các HTX trên
địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, nhỏ lẻ, vốn đầu tư thấp, quản lý chưa khoa học,
lỏng lẻo; bộ máy hoạt động chưa chuyên nghiệp và chưa trở thành đơn vị sản xuất
kinh doanh thực thụ.
Ảnh hưởng của kinh tế thị trường
Trong giai đoạn phát triển hiện nay của kinh tế thế giới, toàn cầu hóa và tự
do hoá thương mại, sự xâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng trở nên
sâu sắc hơn. Do đó, những biến động thị trường ở một khu vực hay một quốc gia có
vị trí cao trong nền kinh tế thế giới đều sẽ gây tác động trực tiếp hay gián tiếp đến
các quốc gia khác trên thế giới. Vĩnh Long chỉ là một tỉnh của Việt Nam nhưng
trong xu thế đó cũng sẽ chịu những tác động của thị trường thế giới hoặc là gián
tiếp qua ảnh hưởng lan truyền của nền kinh tế quốc gia, hoặc là trực tiếp ở những
lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu hay sản xuất dựa trên các yếu tố đầu vào nhập
khẩu trực tiếp.
Xu hướng giảm dần các lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm dựa trên khai thác tài
nguyên và lao động rẻ so với lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm dựa trên vốn và
công nghệ, đồng thời với xu hướng tự do hoá thương mại làm cạnh tranh ngày càng
tăng giữa các nhà xuất khẩu trên thị trường thế giới sẽ gây khó khăn trong việc gia
tăng giá trị xuất khẩu với nhịp độ cao của hầu hết các mặt hàng có khả năng xuất
khẩu của Vĩnh Long.
87
Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới (Việt Nam là thành viên thứ 150
của tổ chức thương mại thế giới WTO), tạo môi trường cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi
người sản xuất phải cải tiến quy trình, mẫu mã, xây dựng thương hiệu sản phẩm,
đẩy mạnh xúc tiến thương mại...nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, có như thế
mới mong đem lại hiệu quả cao cho sản xuất.
2.3. Kết luận chung về năng lực cạnh tranh một số sản phẩm nông sản của tỉnh
Vĩnh Long
2.3.1. Những điểm mạnh về năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá
của tỉnh Vĩnh Long thời gian qua
- Khai thác và tận dụng tiềm năng diện tích đất, mặt nước đưa vào phát triển
nông sản và thủy sản theo nhiều loại hình sản xuất khác nhau.
- Giá trị xuất khẩu nông sản chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh với
các nông sản chủ lực như: gạo, trái cây, cá tra, …Chi phí sản xuất nguyên liệu hàng
hoá thấp, nhiều nông sản có năng suất cao, sản lượng lớn có sức cạnh tranh cao so
với các tỉnh ĐBSCL.
- Chất lượng nông sản được nâng cao đáp ứng yêu cầu tiêu thụ nội địa và xuất
khẩu. Nhiều chương trình sản xuất trái cây theo hướng an toàn chất lượng được đưa
vào áp dụng trên vườn cây ăn trái, trong đó khuyến khích sản xuất theo tiêu chuẩn
GAP để tạo lợi thế cạnh tranh cao, nhất là trên thị trường xuất khẩu.
- Sản xuất nông sản đã ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là công
nghệ sinh học vào trong sản xuất, thực hiện qui trình canh tác tập trung theo hướng
công nghệ cao và đảm bảo an toàn nông sản. Đã hình thành được một số vùng
chuyên canh lúa, khoai lang, bưởi, cam, nhãn, rau thực phẩm…có quy mô khá lớn,
với chất lượng ngày càng được cải thiện. Tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa
lớn cung cấp chủ yếu cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Theo phân tích kinh tế các mô hình sản xuất đã mang lại lợi nhuận cho các hộ
nuôi trồng nông sản thu nhập khá, cải thiện cuộc sống của người nông dân.
88
- Việc phát triển nông sản chủ lực của tỉnh đả góp phần giải quyết một lượng lao
động có việc làm ổn định ở nông thôn với thu nhập tăng và góp phần duy trì bảo vệ
trật tự an ninh.
- Đã xây dựng được thương hiệu cho một số nông sản chủ lực của tỉnh: Đến nay,
Cục Sở Hữu trí tuệ, Bộ Khoa học-Công nghệ cấp chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa
cho 3 đơn vị, với 2 loại trái cây đặc sản của Vĩnh Long gồm: cam sành Tam Bình,
bưởi Năm Roi Hoàng Gia và bưởi Năm Roi Mỹ Hòa. Nhờ vậy, trái cây Vĩnh Long
đã đến với người tiêu dùng trong và ngoài nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng toàn diện và bền vững.
- Thị trường tiêu thụ nông sản được mở rộng, hiện có một số loại rau, quả của các
hợp tác xã (HTX) : Tân Quới, Thành Lợi (Bình Tân), Phước Hậu (Long Hồ), Tân
Ngãi (Vĩnh Long), HTX bưởi Năm roi Mỹ Hoà ( Bình Minh),... đã đưa sản phẩm
vào được các hệ thống siêu thị vùng ĐBSCL và TP Hồ Chí Minh.
Nhiều loại nông sản được thị trường nước ngoài chấp nhận: gạo xuất khẩu nhiều
nhất đến thị trường các nước Châu Phi, Philippin, Trong Quốc; thuỷ sản được xuất
khẩu đến các nước EU, Châu Á, trong đó nhiều nhất là Nga, Singapo, Tây Ban Nha,
Anh, ..; bưởi Năm roi được ưa chuộng ở Mỹ, Pháp, Đức, Hà Lan,..
- Qua nhiều năm, tỉnh Vĩnh Long đã đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật trên các lĩnh
vực giao thông, thủy lợi, điện, cơ giới hóa…và các dịch vụ phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp như: công tác khuyến nông, giống, bảo vệ thực vật, vật tư nông
nghiệp… về cơ bản đã và đang phát huy tác dụng.
- Cùng với phát huy năng lực mới tăng thêm của các dự án sản xuất trong khu
công nghiệp Hòa Phú, khu công nghiệp Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long tiếp tục hỗ trợ
các doanh nghiệp thông qua các dự án vay vốn Quỹ đầu tư phát triển, vốn tín dụng,
giúp doanh nghiệp thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Sở Công Thương tỉnh Vĩnh Long kết hợp với Trung tâm Xúc tiến thương mại -
đầu tư hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng,
phát triển thương hiệu và đăng ký nhãn hiệu hàng hóa chủ lực của tỉnh.
89
- Các chính sách có liên quan đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ nông sản đã tác
động tích cực đến sự phát triển cho nông sản Vĩnh Long. Ví dụ Quyết định số
80/2002/QĐ-TTg, chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua
hợp đồng; hay chính sách cho các hộ nông dân và doanh nghiệp vay vốn để sản xuất
và tiêu thụ nông sản; chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn , nông dân đến
năm 2015 và định hướng đến 2020.
Dựa trên những thành tựu đã đạt được, với ưu thế cạnh tranh và những định
hướng sẵn có, sản xuất nông nghiệp Vĩnh Long cần không ngừng phát huy tốt hơn
về mọi mặt để thành công trong thời hội nhập WTO.
2.3.2. Những hạn chế về năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá tỉnh
Vĩnh Long thời gian qua
Như ở phần thực trạng năng lực cạnh tranh cũng đã chỉ rõ những yếu kém trong
sản xuất nông sản của Vĩnh Long.
Sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, giá thành cao
Đa phần các mặt hàng nông sản của tỉnh Vĩnh Long (trái cây, thuỷ sản, lúa gạo,
nấm rơm, khoai lang, rau sạch…) đều là sản phẩm thô vì nông dân còn đang sản
xuất nhỏ lẻ, manh mún, phân tán theo qui mô hộ gia đình, chưa có vùng nguyên liệu
tập trung. Bình quân đất canh tác của cả nước là 0,78ha/hộ, bình quân đất canh tác
của Vĩnh Long là 0,43ha/hộ. Đây là một thách thức lớn trong việc mở rộng quy mô
sản xuất, đầu tư cơ giới hoá, tích tụ đất đai phát triển các trang trại quy mô lớn.Do
sản xuất nhỏ lẻ, manh mún hạn chế nhiều đến việc ứng dụng khoa học, kỹ thuật,
đầu tư cơ giới hoá theo hướng sản xuất lớn; năng suất, sản lượng và chất lượng sản
phẩm thấp, không đồng đều, tổn thất sau thu hoạch và giá thành sản xuất còn cao,
khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản so với khu vực và thế giới thấp.
Mặt khác, tỉnh cũng chưa có vùng nguyên liệu lớn nên cũng không có khả năng
cung ứng theo hợp đồng với số lượng lớn, trừ mặt hàng gạo, nên lợi thế cạnh tranh
còn rất yếu.
Chất lượng nông sản thấp, chủ yếu xuất khẩu thô hoặc sơ chế, giá trị gia
tăng thấp
90
Nhìn chung, chất lượng hàng hoá nông sản của tỉnh chưa cao, mặt hàng còn đơn
điệu, chưa bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, đa số nông sản xuất khẩu ở dạng thô
hoặc chỉ mới qua sơ chế, bao bì mẫu mã thiếu sức hấp dẫn với khách hàng. Chưa
hình thành những vùng chuyên canh nông sản lớn, một số vùng chuyên canh quy
mô nhỏ và vừa đã hình thành nhưng chất lượng không đồng đều, thiếu ổn định.
Ngoại trừ cam sanh, bưởi Năm roi là đặc sản truyền thống có chất lượng khá,
song độ đồng nhất của sản phẩm chưa cao. Nguyên liệu cá tra, cá ba sa cho chế biến
xuất khẩu thường bị ảnh hưởng bởi tính mùa vụ, thiếu sự gắn kết giữa người sản
xuất và nhà chế biến và tình trạng dư lượng thuốc kháng sinh; trái cây là mặt hàng
có thế mạnh nhưng còn ở dạng tiềm năng, xuất khẩu còn rất ít do chưa đáp ứng
được yêu cầu của các nhà nhập khẩu.
Công nghiệp chế biến lạc hậu, tính cạnh tranh của nông sản thấp. Một số nông sản
có lợi thế chưa được đầu tư cơ sở chế biến (rau quả, trái cây), xuất khẩu chủ yếu từ
sản phẩm thô nên giá trị xuất khẩu một số mặt hàng nông sản so với các sản phẩm
cùng loại trên thị trường thế giới thường thấp hơn. Tỷ trọng một số sản phẩm công
nghiệp chế biến còn thấp so với nguyên liệu hiện có, mẫu mã, thương hiệu và chất
lượng sản phẩm sau chế biến chậm được cải thiện nên chưa tạo ra nhiều nông sản
có giá trị gia tăng cao, hiệu quả và tính cạnh tranh còn thấp.
Thương hiệu
Thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp Vĩnh Long chưa nhiều, thiếu liên
kết. Thời gian qua, hệ thống phân phối nông sản trong tỉnh còn mang tính tự phát,
ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của giá cả thị trường. Mối quan hệ buôn bán
giữa người sản xuất và người thu mua, doanh nghiệp chưa xây dựng trên cơ sở pháp
lý dẫn đến sự bất ổn về nguồn cung ứng hàng hoá, gây khó khăn cho việc xây dựng
và quảng bá thương hiệu.
Hệ thống phân phối yếu kém
Chợ đầu mối chuyên cho sản phẩm nông sản nhỏ bé, sơ khai không làm đúng
chức năng của chợ đầu mối là tập trung số lượng lớn, chất lượng cao, giá phù hợp 3
kênh tiêu thụ nội địa, xuất khẩu và nguyên liệu cho chế biến.. Chưa hình thành được
91
hệ thống phân phối, kênh tiêu thụ phù hợp với nền sản xuất hàng hoá quy mô lớn,
hiện đại và yêu cầu hội nhập, mở cửa thị trường.
Mạng lưới phân phối, vận chuyển và tiêu thụ hiện nay ở các tỉnh đều do tư thương
đảm nhận qua trung gian các chợ đầu mối. Mạng lưới tiêu thụ này đã được hình
thành từ lâu đời và hoạt động rất hiệu quả. Tuy nhiên, do hoạt động thu lợi nhuận từ
tiêu thụ phân phối là chính nên thường có hiện tượng ép giá nông dân. Đây là một
trong những hạn chế trong vấn đề phát triển hàng hóa nông sản trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long cũng như cả nước.
Thị trường tiêu thụ
Việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho người dân ở thị trường trong nước và tìm
kiếm thị trường xuất khẩu luôn ở thế bị động, thị trường tiêu thụ nông sản thiếu tính
ổn định và còn để quy luật cung cầu tự điều tiết, nên một số hàng nông sản được
mùa nhưng lại mất giá, ngay cả với loại mặt hàng quan trọng số một là gạo xuất
khẩu nhiều năm còn gặp khó khăn.
Trong những năm vừa qua nông dân trong tỉnh gặp rất nhiều khó khăn trong việc
tiêu thụ và chế biến nhất là vào chính vụ. Sự biến động giá cả thất thường do cung
cầu đã có ảnh hưởng nhất định làm hạn chế đến hiệu quả, việc mở rộng phát triển
qui mô sản xuất. Việc thực hiện Quyết định 80 của Chính phủ chưa mạnh và đều
khắp, hợp đồng giữa doanh nghiệp và nông dân về tiêu thụ nông sản chưa nhiều.
2.3.3. Nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực của tỉnh Vĩnh Long
- Khó khăn lớn nhất là thiếu chiến lược, quy hoạch nên sản xuất về cơ bản mang
tính tự phát, phá vỡ quan hệ cung - cầu. Thiếu chính sách khuyến khích đầu tư về
phía cầu: thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu nên
thường xuyên bị động lúng túng trong sản xuất, tiêu thụ, chưa thoát khỏi nghịch
cảnh được mùa rớt giá.
- Tình trạng sản xuất nông nghiệp manh mún, ruộng đất bị xé lẻ, phần lớn nông
hộ có diện tích đất nhỏ, ngăn cản quá trình áp dụng công nghệ tiên tiến, khó bảo
quản hàng hóa, tăng chi phí sản xuất, gây phức tạp cho quản lý chất lượng, an toàn
92
thực phẩm, và kiểm soát dịch bệnh, cản trở phát triển hợp tác nông-công do tính rủi
ro khi ký kết hợp đồng bao tiêu nông sản với hàng trăm nông hộ nhỏ. Vùng nông
sản hàng hóa bước đầu hình thành nhưng còn phân tán, vận chuyển khó, chưa đáp
ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến và thâm nhập thị trường quốc tế.
- Thiếu sự liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ. Hợp đồng cung cấp và thu mua sản
phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân tuy được ký kết nhưng không hiệu quả do
chưa có chế tài cụ thể.
+ Muốn có sản phẩm tốt, chất lượng đồng đều thì sản xuất nông sản phải áp dụng
khoa học kỹ thuật, theo tiêu chuẩn an toàn. Để trồng theo tiêu chuẩn này cần có hợp
tác, liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp, sự hỗ trợ của nhà nước, nhà khoa học.
Tuy nhiên, thời gian qua, việc liên kết này còn lỏng lẻo, vai trò của nhà nước và nhà
khoa học mờ nhạt, nông dân và doanh nghiệp “tự bơi”.
+ Các mặt hàng nông sản của Vĩnh Long thiếu sự liên kết cả hệ thống từ khâu sản
xuất đến chế biến, bảo quản, tiêu thụ, xuất khẩu. Đây chính là nguyên nhân làm cho
sản xuất nông nghiệp thiếu tính bền vững, nông sản hàng hoá thiếu sức cạnh tranh
trên thị trường.
- Công tác kiểm soát chất lượng và truy nguồn gốc sản phẩm gặp rất nhiều khó
khăn do nông sản phát triển manh mún, tự phát, không theo quy hoạch và chưa quản
lý được vùng nuôi trồng.
+ Nông dân sử dụng quá nhiều loại giống, chưa kiểm soát được đặc tính và nguồn
gốc giống, tập quán của nông dân tự để giống cũng là một khó khăn về chất lượng
giống làm cho nông sản có tính đồng nhất chưa cao và thương hiệu chưa mạnh.
+ Việc sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn an toàn còn nhiều hạn chế: Việc áp
dụng tiêu chuẩn GAP (Tiêu chuẩn Thực hành Nông nghiệp Tốt) cũng là một trong
số khó khăn hàng đầu cho nhiều doanh nghiệp sản xuất cũng như xuất khẩu nông
sản vì chi phí cấp giấy chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP lớn.
- Công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch còn rất kém, các công đoạn bảo quản,
chế biến, đóng gói, vận chuyển còn đơn giản, thô sơ. Chất lượng thấp, không đồng
đều. Công nghệ bảo quản sản phẩm trong kho lạnh chưa phổ biến, do giá cả kho
93
lạnh cao. Lượng hàng hóa không đủ đáp ứng do mùa vụ phân tán, giá cả thị trường
nhiều biến động, công nghệ bảo quản thích hợp chưa có nên chưa thể phát huy hết
hiệu quả của chất lượng sản phẩm
Lải suất cho vay tăng cao, lạm phát trong nước cao, tỷ lệ lạm phát trong nước cao
hơn nhiều so với thế giới (những nước nhập khẩu nông sản) dẫn đến chi phí đầu vào
tăng trong khi đầu ra là giá thế giới (ít biến động), tiếp cận nguồn tín dụng ưu đải
nông nghiệp, nông thôn hạn chế nên một số hộ nông dân ngừng sản xuất hoặc sản
xuất cầm chừng.
- Tổ chức sản xuất nông nghiệp còn yếu kém
- Các hình thức tổ chức sản xuất kinh tế hợp tác, hợp tác xã, trang trại đa dạng,
song hoạt động còn lúng túng, vai trò và lợi thế của kinh tế hợp tác chưa phát huy
đầy đủ thế mạnh vốn có trong nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường. Qua quá
trình hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp biểu hiện một số tồn tại,cán bộ quản
lý HTX có trình độ văn hoá và chuyên môn thấp, thiếu kinh nghiệm và kiến thức
quản lý, ít được chuyển giao khoa học kỹ thuật. Các HTX còn thiếu vốn hoạt động,
gây khó khăn cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nông sản.
- Hệ thống thị trường thiếu đồng bộ, việc tổ chức và định hướng thị trường còn
nhiều bất cập
+ Đối với thị trường đầu vào: các yếu tố quan trọng trực tiếp đối với sản xuất
nông nghiệp như: vật tư, máy móc, công cụ, phân bón, giống, thức ăn chăn
nuôi,..giá thành cao, chất lượng còn hạn chế, chưa đủ sức cạnh tranh với hàng nhập,
cung ứng trực tiếp đều thông qua tư nhân nên có tình trạng đầu cơ, tích trữ, sản xuất
và cung ứng hàng giả, khống chế giá cả đẩy giá thành nông sản lên cao, bất lợi cho
nông dân.
+ Đối với thị trường đầu ra: việc tiêu thụ nông sản chủ yếu do tư thương chi phối
gần như toàn bộ thị trường nông thôn, do đó tình trạng ép giá diễn ra thường xuyên,
phổ biến ở hầu hết các loại nông sản. Chính sự yếu kém của hệ thống thị trường,
trước hết là thị trường tiêu thụ nông sản, là một trong những nguyên nhân quan
94
trọng dẫn đến sự thiếu ổn định, vững chắc của sản xuất nông sản hàng hoá của Vĩnh
Long
+ Công tác dự báo thị trường, tổ chức thu thập và xử lý thông tin đã có những
tiến bộ đáng kể nhưng còn rời rạc, chậm về thời gian, thiếu hệ thống từ cơ sở vật
chất đến phương thức tổ chức, nghèo nàn về nội dung, chưa thực sự trở thành một
công cụ mạnh để chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất.
95
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
NĂNG LỰC SẢN XUẤT CỦA NÔNG SẢN HÀNG HÓA TỈNH
VĨNH LONG ĐẾN NĂM 2020
3.1. Quan điểm trong thời kì hội nhập về nâng cao năng lực cạnh tranh của
nông sản hàng hoá tỉnh Vĩnh Long
3.1.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản dựa trên tiềm năng lợi
thế của tỉnh
Các yếu tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên bao gồm: Vị trí địa lý, đất đai,
khí hậu và các tài nguyên như khoáng sản, nước, rừng, biển v.v. Các yếu tố tự nhiên
và tài nguyên thiên nhiên có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển hệ
thống các ngành, các sản phẩm và tốc độ phát triển của chúng trên các vùng lãnh
thổ, do vậy chúng có ảnh hưởng đến khả năng phát triển của các ngành và các sản
phẩm đó. Thực tế cho thấy các vùng lãnh thổ khác nhau thì có số lượng và quy mô
các ngành, các sản phẩm khác nhau. Tất nhiên sự hình thành và phát triển của các
sản phẩm đó là dựa vào việc khai thác lợi thế của từng vùng, từng địa phương theo
hướng sản xuất chuyên môn hóa. Như vậy, nếu một vùng, một địa phương khai thác
được lợi thế của mình trong phát triển các sản phẩm, điều đó có nghĩa rằng, vùng đó,
địa phương đó đã tạo nên được một lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối do điều
kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên đem lại.
Vĩnh Long là một tỉnh có vị trí địa lý rất thuận lợi do nằm ở trung tâm đồng
bằng sông cửu long, có hệ thống giao thông thủy bộ phát triển. Đất đai phì nhiêu,
thủy lợi khá hoàn chỉnh, tài nguyên nước, khoáng sét khá phong phú….Tất cả các
yếu tố đó là điều kiện thuận lợi để Vĩnh Long xác định và tậo trung phát triển các
sản phẩm mà Vĩnh Long có ưu thế như lúa gạo, trái cây, thủy sản.
3.1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản dựa trên phát triển
các lợi thế cạnh tranh mới (chiến lược, quy hoạch, chính sách)
Quá trình phát triển kinh tế thế giới trong thế kỷ 20 cho thấy trong khi nhiều
nước khác tài nguyên dồi dào nhưng rất ít thành công trong cạnh tranh thị trường
96
(như một số nước Nam Á và châu Phi) thì có nhiều quốc gia rất nghèo tài nguyên
nhưng lại có năng lực canh tranh cao (như Nhật Bản, Hàn Quốc) nhờ sự phát triển
vượt bậc của khoa học công nghệ và đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và
trình độ tay nghề cao.
Các chính sách công nghiệp hoá ở các nước Đông Á đã dẫn đến những thay
đổi trong sản xuất công nghiệp, tạo ra những biến đổi về lợi thế so sánh, từ công
nghiệp sử dụng nhiều lao động chuyển sang các ngành công nghiệp kỹ thuật cao.
Song điều quan trọng hơn cả là những nước này đã dần dần nhận thức được rằng
sức lao động rẻ đang mất dần tính sắc bén trong cạnh tranh. Con đường để cạnh
tranh có hiệu quả là phải giảm hàm lượng lao động và tăng hàm lượng tư bản tương
ứng trong giá thành sản phẩm và theo đó là việc nâng cao trình độ kỹ thuật và cải
tiến chất lượng.
Đối với Việt Nam nói chung, Vĩnh Long nói riêng lợi thế về tài nguyên và
sức lao động rẻ cũng đang giảm dần ý nghĩa trong cạnh tranh. Trong lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp, một số sản phẩm Việt Nam có lợi thế so sánh nhờ vào khối lượng
xuất khẩu lớn, chi phí lao động thấp, nhưng khi tham gia vào thị trường thế giới thì
năng lực cạnh tranh do những lợi thế ấy mang lại đang có xu hướng giảm dần.
Trong bối cảnh thương mại quốc tế hiện nay, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam dựa
trên các lợi thế so sánh với các sản phẩm nêu trên, xét về dài hạn, rất khó mang lại
năng lực duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững cho Việt Nam. Đồng thời, lợi
thế cạnh tranh dựa trên chi phí lao động rẻ cũng đang bị đe dọa bởi sự gia nhập
ngày càng đông đảo của các nước có mức thu nhập thấp vào thị trường quốc tế. Vì
vậy, cần hoàn thiện và bổ sung các yếu tố tạo ra lợi thế so sánh mới.
Quán triệt quan điểm này cần phải vận dụng lý thuyết lợi thế so sánh để phân
tích và tìm ra những nông sản có ưu thế trong sản xuất và xuất khẩu phù hợp với
từng vùng sinh thái, có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao, có chi phí và giá
thành thấp so với thế giới. Đặc biệt cần khai thác triệt để những lợi thế cạnh tranh
để phát triển đặc sản của từng vùng, từng địa phương gắn với thị trường xuất khẩu.
Chú trọng đầu tư cho các vùng sản xuất tập trung chuyên canh lớn tạo thành các
97
vùng nguyên liệu có chất lượng cao cho chế biến và xuất khẩu. Xây dựng cơ sở hạ
tầng, đầu tư công tác nghiên cứu khoa học, nâng cấp và đổi mới công nghệ chế biến,
đầu tư công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại v.v… để dần từng
bước nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu.
3.1.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông sản dựa trên phát triển
các lợi thế cạnh tranh mới (chiến lược, quy hoạch, chính sách)
Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố tác động đến hoạt động của các
cơ sở kinh doanh .Vì vậy một cơ sở kinh doanh hay một sản phẩm muốn phát triển
tất yếu phải có một môi trường kinh doanh thụân lợi. Đối với một quốc gia, một
vùng hay một địa phương như tỉnh, thành phố môi trường kinh doanh luôn hội đủ
các yếu tố về Chính trị, chính sách và luật pháp, Kinh tế, Xã hội và Khoa học&
Công nghệ. Ngoài bốn nhóm nhân tố trên các yếu tố khác cũng có thể được tính đến
khi xem xét môi trường vĩ mô là các nguồn lực tự nhiên. Các yếu tố môi trường vĩ
mô này tác động đến hầu hết các hoạt động đầu tư kinh doanh trong mọi lĩnh vực và
mọi doanh nghiệp.
Môi trường kinh doanh là một yếu tố động thường xuyên thay đổi. Trong
giai đoạn hiện nay xu thế toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại trên thế giới
đang mở ra những triển vọng và cơ hội to lớn cho sự phát triển kinh tế đồng thời
cũng đưa lại những thách thức không nhỏ đối với mỗi quốc gia, địa phương. Biết
phát huy đặc điểm của thời đại với sức mạnh của dân tộc và địa phương để tạo lợi
thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế, thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu đối với chính quyền. Bởi vậy, Chính phủ và
các chính quyền địa phương đang ra sức hoàn thiện môi trường kinh doanh nhằm
tạo tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả với năng
suất cao hơn, khả năng cạnh tranh cao hơn.
Cũng như các địa phương khác trong cả nước,Vĩnh Long cũng luôn phải chịu
những tác động ảnh hưởng của các yếu tố nêu trên của một quốc gia. Vì vây tỉnh
Vĩnh Long cũng như mọi tỉnh, thành phố khác đều nằm trong những tác động chi
98
phối hay ảnh hưởng chung của các chính sách hay điều kiện xã hội của cả nước.
Tuy nhiên điều quan trọng ở đây là trong bối cảnh chung đó tỉnh Vĩnh Long phải
hiểu và nhận biết một cách tốt nhất để “phản ứng”, để có đối sách phù hợp, tranh
thủ các điều kiện có lợi, cơ hội và "né tránh" thách thức, để tạo được môi trường
kinh doanh thông thoáng giúp các cơ sở kinh doanh, các ngành sản phẩm của địa
phương phát triển.
3.1.4. Kết nối các chủ thể tạo sức mạnh tổng hợp nâng cao sức cạnh
tranh (nông dân, doanh nghiệp, Nhà nước, hiệp hội).
Phát triển sản xuất-xuất khẩu hàng nông sản phải dựa trên cơ sở phát huy sức
mạnh tổng hợp và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất và xuất
khẩu. Tạo hành lang pháp lý về chính sách, cơ chế quản lý và thủ tục hành chính
thông thoáng, minh bạch để có đủ sức hấp dẫn mọi thành phần kinh tế tham gia vào
hoạt động sản xuất kinh doanh hàng nông sản. Áp dụng chính sách bảo hộ nông
nghiệp hợp lý để giúp đỡ và thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao tính hiệu quả và
sức cạnh tranh. Gắn trách nhiệm của bộ máy lãnh đạo, bộ máy quản lý ở từng địa
phương với các cộng đồng người hưởng lợi. Coi trọng sự tham gia của cộng đồng
dân cư nông thôn trong việc đưa ra quyết định phát triển nông nghiệp-nông thôn
trong hiện tại cũng như trong tương lai.
3.2. Mục tiêu và định hướng phát triển sản xuất nông sản hàng hoá tỉnh Vĩnh
Long đến năm 2020
3.2.1. Mục tiêu phát triển sản xuất nông sản hàng hoá của Vĩnh Long
Phát triển sản xuất nông sản theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có
lợi thế so sánh của tỉnh, đồng thời chú trọng phát triển các mặt hàng có giá trị tăng
thêm cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và
chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô.
Giữ vững thị trường xuất - nhập khẩu hiện có, khai thác thị trường mới trên cơ
sở nâng cao năng lực kinh doanh xuất - nhập khẩu của các doanh nghiệp địa phương,
khai thác triệt để các cơ hội kinh doanh xuất - nhập khẩu hàng hóa thông qua các
doanh nghiệp xuất - nhập khẩu lớn.
99
Phấn đấu đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu đạt 460 triệu USD, năm 2020 là
925 triệu USD, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2011-2015 là 11,24%/năm, 2016-2020
là 15 %/năm, cả giai đoạn 2011-2020 là 13,12%/năm.
Do yêu cầu tiêu dùng của dân cư trong tỉnh không lớn so với nhiều sản phẩm
nông sản như lúa gạo, trái cây, thịt, trứng... và qui mô sản xuất hàng hóa của nhiều
nhà máy không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong tỉnh mà còn tham
gia vào thị trường trong nước và xuất khẩu. Dự kiến hàng hàng năm tỉnh Vĩnh Long
có thể cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu một số sản phẩm chủ yếu
sau đây:
Bảng 2.20: Dự báo khối lượng nông sản hàng hóa ra khỏi tỉnh Vĩnh Long
Trong đó Khối lượng Đơn vị Cho TT Cho TT Hàng hóa xuất ra khỏi tính trong nước ngoài nước tỉnh
1. Gạo 1000 tấn 350 - 400 350 - 400
2. Thịt các loại 1000 tấn 150 - 170 150-170
3. Trứng Triệu quả 260 - 350 260 - 350
4. Trái cây các loại 1000 tấn 650 - 700 450 - 500 200 - 250
5.Thủy sản đông lạnh 1000 tấn 50 - 70 50 - 70
Nguồn: Sở công thương tỉnh Vĩnh Long
3.2.2. Định hướng phát triển sản xuất nông sản hàng hoá của tỉnh Vĩnh
Long
Phát triển nông nghiệp toàn diện (trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản) trên cơ sở sử
dụng tài nguyên hiệu quả và hợp lý; áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, hình
thành các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi lớn, tạo ra nông sản hàng hóa có
năng suất, chất lượng cao, gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế
giới.
Phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn
đi đôi với xây dựng nông thôn mới tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí và thu
nhập cho người lao động nông thôn.
100
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân 4,5 -
5,0%/năm giai đoạn 2011 - 2020; Tỷ trọng GDP nông lâm ngư nghiệp so với GDP
chung của tỉnh tương ứng theo từng giai đoạn là 21,93% năm 2015 và 13,89% năm
2020.
Giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha nông nghiệp tính bằng giá so sánh năm 1994
là 74 triệu đồng năm 2015 và 97 triệu đồng/ha vào năm 2020. Tính theo giá thực tế
tương ứng theo từng thời kì trên là 160 triệu đồng và 300 triệu đồng/năm.
Tổng kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản đạt 320 triệu USD năm 2015 và 500
triệu USD năm 2020.
- Trồng trọt:
+ Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản xuất những loại nông sản có thị trường tiêu
thụ ổn định đem lại giá trị và sản lượng cao. Cụ thể: Chuyển đổi cơ cấu chuyên
trồng 03 vụ lúa sang cây ăn trái, luân canh hai lúa- 1 màu; kết hợp trồng 02 lúa,
nuôi tôm càng xanh, cá.
+ Dự kiến đến năm 2020 các sản phẩm chủ yếu từ trồng trọt là: Lúa 512 ngàn
tấn; bắp 20 ngàn tấn; rau đậu các loại khoảng 550 ngàn tấn; trái cây các loại 800
ngàn tấn.
- Phát triển thủy sản:
+ Phát triển ngành thủy sản đến năm 2020 của tỉnh thành ngành sản xuất
hàng hoá lớn, có hiệu quả cao. Trong đó chú trọng đến những đối tượng nuôi có giá
trị kinh tế cao và có thị trường tiêu thụ ổn định.
+ Đưa ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong chăn nuôi có
sản phẩm đáp ứng nhu cầu địa phương và tham gia tích cực vào thị trường xuất
khẩu, đóng góp to lớn cho sự phát triển chung của nền kinh tế.
101
3.3. Giải pháp nâng cao năng lực sản xuất của nông sản hàng hóa tỉnh Vĩnh
Long đến năm 2020
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản hàng hoá, chủ động trong sân
chơi hội nhập kinh tế quốc tế, tỉnh Vĩnh Long cần đưa ra nhiều giải pháp mang tính
chủ động và đột phá nhằm phát triển bền vững nền nông nghiệp tỉnh nhà .
3.3.1. Các giải pháp trực tiếp
3.3.1.1. Nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng của nông sản hàng hoá
Như trên đã phân tích, nguyên nhân có tính bao trùm cản trở khả năng và hiệu
quả xuất khẩu nông sản là do chất lượng sản phẩm không cao, không ổn định,
không đồng đều, khối lượng phân tán nhỏ bé. Để thúc đẩy xuất khẩu, cần áp dụng
các biện pháp nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh, tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu
cầu mọi mặt và đa dạng của khách hàng. Do vậy giải pháp chất lượng sản phẩm là
giải pháp có tính chiến lược trước mắt cũng như lâu dài.Vì vậy mà giải pháp đầu tiên
và quan trọng nhất cần thực hiện ngay đó là nâng cao chất lượng nông sản đồng thời
góp phần nâng cao giá trị của hàng hoá nông sản. Đây là một vấn đề khó khăn và để
thực hiện được cần phải kết hợp đồng bộ nhiều biện pháp từ khâu sản xuất-chế
biến- bảo quản-tiêu thụ và xuất khẩu nông sản.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp về giống, chăm sóc, chế biến và bảo
quản nông sản
Thứ nhất, giải pháp về giống
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hàng nông sản xuất khẩu thì giống
được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu và có tính chất quyết định. Đối với các mặt
hàng nông sản như gạo, trái cây, rau củ,... giống có ảnh hưởng đến năng suất chất
lượng màu sắc, kích cỡ, độ thơm ngon của hạt, khả năng phòng chống sâu bệnh.
Ðể có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới thì điều cốt tử là tăng năng suất và
nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy cần cải tạo, phát triển các loại giống có
năng suất cao và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất để tạo sức
mạnh cung cấp cho thị trường những nông sản có chất lượng tốt. Nhằm vượt qua
rào cản về chất lượng, ngành nông nghiệp tỉnh đã xây dựng chương trình giống
102
nông nghiệp, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, lai tạo giống, thay thế các giống cũ có
năng suất thấp…Với chương trình này, sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã từng
bước nâng cao chất lượng.
Tiếp tục thực hiện chương trình giống nông nghiệp, chương trình giống nông
nghiệp đã có tác động tích cực đối với phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần
tăng năng suất, chất lượng hàng hoá nông sản.
- Nâng cao tỷ lệ sử dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp để phục vụ
sản xuất, góp phần nâng cao tính cạnh tranh, hiệu quả sản xuất nông nghiệp và nâng
cao thu nhập cho người nông dân.
- Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học, nhất là công nghệ sinh học, sản xuất
giống cây trồng, vật nuôi, từng bước tạo tập đoàn giống nông nghiệp, thủy sản ngày
càng đa dạng, phong phú và có nhiều đặc tính sinh học, kinh tế vượt trội so với các
giống hiện có. Nâng cao năng lực chọn tạo giống, áp dụng công nghệ sản xuất tiên
tiến để tạo ra nhiều giống mới có đặc tính tốt, năng suất chất lượng cao; phục tráng
giống đặc sản địa phương gắn với việc xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lý.
- Khuyến khích các tổ chức và cá nhân, thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào
nghiên cứu, chọn tạo, sản xuất giống nhằm hoàn thiện hệ thống sản xuất và cung
ứng, phù hợp với kinh tế thị trường (xã hội hoá công tác giống).
- Đầu tư nâng cao năng lực quản lý chất lượng giống, phổ biến các quy định
pháp luật liên quan về công tác giống nông nghiệp đến từng hộ nông dân, cơ sở sản
xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học đưa việc sản xuất kinh doanh giống phát triển,
nâng cao chất lượng giống phục vụ tốt cho sản xuất. Tăng cường công tác quản lý
Nhà Nước đối với các giống cây trồng, vật nuôi về chất lượng và dịch bệnh, bảo
đảm có giống tốt phục vụ sản xuất.
- Hoàn thiện cơ sở vật chất các cơ sở nhân giống, trung tâm giống của tỉnh, các
trạm nghiên cứu sản xuất kinh doanh giống thuộc trung tâm giống nông nghiệp, với
hệ thống nhân giống đủ mạnh, cả về quy mô, công nghệ thiết bị và con người, ứng
dụng công nghệ sinh học vào nhân giống.
103
- Đề xuất chính sách khuyến khích Trung tâm giống và các cơ sở nhân giống vệ
tinh của Trung tâm, tạo điều kiện để nông dân có thể nhanh chóng tiếp cận các
giống mới đưa vào sản xuất trên đồng ruộng của mình.
- Tăng cường nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống,
liên kết với chương trình giống quốc gia (Viện, trường, công ty giống) để tạo đầu
vào và đầu ra thuận lợi cho hoạt động nhân và kinh doanh giống nông nghiệp.
+ Giống lúa: nâng cao chất lượng lúa giống, hình thành và hoàn thiện hệ thống
mạng lưới sản xuất lúa giống nguyên chủng cung ứng cho nhân giống xác nhận,
nâng cao năng suất, chất lượng lúa hàng hóa trong tỉnh, nâng cao khả năng cạnh
tranh hàng hóa thị trường trong và ngoài nước. Sử dụng các giống lúa đặc sản có
chất lượng cao: Jasmine 85, MTL 250, OMCS 2000 và một số giống tốt được tuyển
chọn trong quá trình sản xuất.
Quy hoạch vùng sản xuất ổn định từ 1 đến 2 giống lúa có các đặc tính tương
đồng, đảm bảo chất lượng gạo ổn định, xây dựng vùng nguyên liệu lúa trên cơ sở
liên kết 4 nhà và sản xuất theo tiêu chuẩn GAP, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để giảm
giá thành, tăng chất lượng để chủ động cạnh tranh, tiến tới xây dựng thương hiệu
gạo Vĩnh Long.
+ Giống cây ăn trái, rau màu: ứng dụng có chọn lọc các thành tựu công nghệ
sinh học, chọn lọc các giống cây có giá trị kinh tế, chất lượng cao đáp ứng nhu cầu
thị trường. Sử dụng các giống đặc sản, giống thuần, không sâu bệnh (bưởi Năm roi,
cam sành, quýt đường, sầu riêng...
+ Phát triển những giống cây ăn quả có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng
cao cấp để phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Nghiên cứu các giống cây
trồng vật nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thời vụ thay đổi.
Thứ hai, giải pháp về khâu chăm sóc
Đầu tư nghiên cứu khoa học, đưa tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản
xuất để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá. Đầu tư vào khoa học-công
nghệ và ứng dụng kỹ thuật là gia tăng chất và lượng của lực lượng sản xuất vào
nông nghiệp, đây chính là hướng đầu tư kinh tế và đem lại hiệu quả nhanh nhất.
104
Trong đó, ưu tiên trước hết cho lĩnh vực chọn nhập nội, nhân giống cây con có đặc
tính tốt, tạo ra bước đột phá về năng suất cũng như về chất lượng. Đây là tiền đề
làm tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá ở thị trường trong nước và quốc tế.
- Cùng với công tác giống, việc chuyển giao khoa học kĩ thuật tiến bộ cho nông
dân ứng dụng vào trong sản xuất cũng đóng vai trò quan trọng, nhằm nâng cao chất
lượng hàng hóa, giảm giá thành sản phẩm và tăng thêm lợi nhuận cho nhà nông.
Tăng cường đầu tư cho công tác khuyến nông, ứng dụng chuyển giao khoa học
công nghệ (nhất là công nghệ sinh học) phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đưa công tác
khuyến nông tới tận cơ sở, các xã-ấp thuộc vùng sâu, vùng xa. Cải tiến trình độ và
phương pháp khuyến nông, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng của
cán bộ khuyến nông. Hoàn chỉnh mô hình mẫu và tăng cường tập huấn cho nông
dân về những biện pháp, kỹ thuật canh tác, tập trung vào những cây trồng chủ lực
có giá trị kinh tế cao như: lúa, bưởi Năm roi, khoai lang và một số loại rau thực
phẩm có giá trị cao,...v.v.
+ Đối với lúa: ứng dụng chương trình thâm canh lúa tổng hợp, thực hiện mô
hình cộng đồng sản xuất lúa theo hướng bền vững: 3 giảm, 3 tăng; 1 phải, 5
giảm...tại hầu hết các huyện trong tỉnh. Tổ chức chứng nhận VietGAP trên lúa.
+ Đối với cây ăn trái: chăm sóc đúng kỹ thuật để đạt năng suất cao và điều chỉnh
ra quả trái vụ để tăng lợi thế cạnh tranh.
+ Đối với rau màu luân canh với lúa (bắp, khoai lang, đậu nành...) Tích cực
thâm canh để tăng năng suất, giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm.
+ Phát triển thủy sản theo hướng tập trung thâm canh cá tra và đa dạng hoá các
thủy đặc sản khác như: cá Điêu hồng, lươn, ếch,.. Phát triển hợp lý diện tích nuôi cá
tra ao công nghiệp theo hướng cân đối môi trường nước cho ao nuôi và nước sinh
hoạt của dân. Tăng diên tích nuôi cá trên ruộng lúa ở những nơi có điều kiện, đặc
biệt trong vụ Thu Đông (lúa vụ 3). Nhân rộng phương pháp nuôi theo hướng GAP.
Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát giống thuỷ sản của các doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh và nguồn giống nhập về tỉnh.
105
- Bảo vệ môi trường hướng đến một nền nông nghiệp phát triển bền vững. Tiến
hành rộng khắp phương pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) tạo điều kiện cho
thiên địch phát triển, nhất là cho lúa, rau và cây ăn trái để tạo ra sản phẩm sạch và
sử dụng phân bón theo phương pháp INM, tránh ô nhiễm môi trường, đồng thời
tránh tồn trữ chất độc hại trên sản phẩm.
- Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa có số lượng lớn
và chất lượng đồng đều, đảm bảo an toàn thực phẩm. Tập trung nuôi trồng thủy sản,
chăn nuôi và cây ăn trái. Áp dụng các qui trình sản xuất tiên tiến và tiêu chuẩn
GlobalGAP, VietGap vào sản xuất các nông sản chủ lực của tỉnh như: lúa, cây có
múi, cá tra, khoai lang và một số loại rau.
Tiếp tục đầu tư cho chương trình cơ giới hoá nông nghiệp, tập trung vào các
khâu: làm đất, gặt đập, sấy và bảo quản sản phẩm, vận chuyển. Nhà nước cần quan
tâm hơn nữa chương trình tín dụng cho vay đầu tư mua máy gặt, máy sấy, máy làm
đất và vận chuyển theo lộ trình trả chậm. Đối với Vĩnh Long, do bình quân ruộng
đất/hộ thấp, cần tổ chức tốt các tổ hợp tác, HTX, trang trại nhằm lien kết sản xuất
tạo điều kiện cho cơ giới hoá phát triển, có như vậy mới phát huy công suất máy
móc, thiết bị.
Cơ giới hoá, giải phóng lao động thủ công, nâng cao năng suất lao động là tiền
đề cho một nền nông nghiệp sản xuất lớn, góp phần tăng chất lượng, hạ giá thành,
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nông sản của tỉnh.
Thứ ba, giải pháp về công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch
Đặc điểm của nông sản là tươi sống, chịu sự tác động của tự nhiên, ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm. Các doanh nghiệp chế biến cần có hướng
dẫn tỉ mỉ cho hộ nông dân về quy trình, công nghệ, phương pháp bảo quản, các yêu
cầu về chất lượng, thời hạn bảo quản, phương tiện phơi sấy, phân loại xử lý. Công
nghệ chế biến và khâu bảo quản tốt sẽ làm tăng chất lượng sản phẩm, từ đó tạo điều
kiện nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trên thị trường.
106
-Ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sau thu hoạch vào công đoạn sơ chế,
bảo quản, chế biến. Nâng cao giá trị gia tăng trong chế biến lương thực, thực phẩm
và nuôi trồng thủy sản.
+ Đầu tư mạnh công nghệ sau thu hoạch vào quá trình sản xuất, đặc biệt là bảo
quản lúa gạo, trái cây.Vì nông sản là sản phẩm có thời gian sử dụng ngắn, là các sản
phẩm dễ hỏng vì vậy mà khâu bảo quản đóng vai trò quan trọng không chỉ đảm bảo
đủ số lượng mà còn đảm bảo về chất lượng của nông sản.
+ Tăng cường năng lực bảo quản, giảm tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và
chất lượng; áp dụng khoa học công nghệ kéo dài thời vụ của các loại trái cây, các
biện pháp bảo quản tiên tiến, các phương pháp chiếu xạ, khử trùng bằng nước nóng
để xuất khẩu tươi các loại trái cây chủ lực.
+ Đối với lúa: cần có chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhanh
chóng xây dựng và nâng cấp hệ thống kho chứa, sấy lúa quy mô lớn, hiện đại. Từ
đó các doanh nghiệp có điều kiện mua lúa cho nông dân, chất lượng đảm bảo, chủ
động nguồn hàng xuất khẩu, tăng giá trị và lợi thế cạnh tranh.
+ Công nghệ sau thu hoạch rau quả còn “thô sơ” vì vậy muốn đạt hiệu quả cao,
tăng thu nhập, nông dân nên liên kết lại thành các tổ hợp tác, hợp tác xã; đầu tư xây
nhà đóng gói, kho lạnh bảo quản đạt tiêu chuẩn theo quy mô vùng sản xuất.
Đầu tư công nghệ sau thu hoạch một cách hợp lý đòi hỏi phải có vai trò của Nhà
nước và doanh nghiệp. Mặt khác, cần đẩy mạnh việc xã hội hóa trong ứng dụng
công nghệ sau thu hoạch. Nếu nông dân được tiếp cận một cách bài bản thì sẽ giải
quyết được bài toán về nâng cao giá trị của nông sản hàng hoá Vĩnh Long nói riêng
và của vùng ĐBSCL nói chung.
- Tiếp đến là khâu chế biến, chúng ta cần cải tiến và đổi mới công nghệ chế biến.
Bởi lẽ, công nghệ chế biến nông sản của tỉnh rất lạc hậu chưa theo kịp với sự phát
triển của khoa học kỹ thuật trên thế giới. Chính vì vậy, xuất khẩu chủ yếu là nông
sản thô hoặc sơ chế, sản phẩm còn đơn điệu, bao bì, mẫu mã chưa đa dạng làm giảm
đi rất nhiều giá trị của chúng.
107
+ Để phát triển công nghệ chế biến, một mặt, nhà nước cần phải có các giải pháp
hỗ trợ tăng cường nghiên cứu khoa học, công nghệ ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật,
kết hợp nhập khẩu các công nghệ cao, nhằm đổi mới quy trình sản xuất, thiết bị theo
hướng tiến tiến, hiện đại. Ưu tiên cho những công nghệ hiện đại, công nghệ sạch,
đảm bảo an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, nhưng công nghệ đem lại giá
trị gia tăng cao.
+ Mặt khác, nhà nước cần tập trung đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu gắn
với các nhà máy chế biến phục vụ xuất khẩu. Ngoài ra, cần tăng cường hỗ trợ chế
biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của
nông sản chế biến.
+ Có chính sách ưu đãi đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào
công nghiệp chế biến, nhất là bảo quản, chế biến trái cây, rau, thịt, thuỷ sản đông
lạnh phục vụ xuất khẩu, để thời gian tới các mặt hàng trên được chế biến với giá trị
tăng cao chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số mặt hàng xuất khẩu của tỉnh.
Chế biến gạo: Cần tập trung đầu tư phát triển các cụm chế biến xay xát gạo chất
lượng cao theo công nghệ liên hoàn từ khâu sấy khô, bảo quản đến xay xát chế biến,
tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn, có sức cạnh tranh và giá trị cao đồng thời hạ giá
thành sản phẩm để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chương trình khuyến công tiếp tục
hỗ trợ các DN nhỏ và vừa, cơ sở sản xuất xây dựng dự án vay vốn tín dụng đổi mới
công nghệ chế biến.
Chế biến rau quả: Tập trung xây dựng và thu hút đầu tư phát triển công nghiệp
chế biến sản phẩm rau quả giúp nhà vườn tiêu thụ được sản phẩm vừa nâng cao giá
trị của rau quả. Xây dựng các vùng sản xuất trái cây hàng hóa tập trung, đủ điều
kiện cung ứng nguyên liệu chế biến dồi dào, không hạn chế cho các nhà máy.
Chế biến thuỷ sản: Tận dụng triệt để công suất chế biến hiện có, đồng thời nâng
cấp điều kiện nhà xưởng hiện đại hoá trang thiết bị, đổi mới dây chuyền công nghệ
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng, chuyển dần
từ chế biến thô sang chế biến tinh, tăng tỷ trọng sản phẩm làm sẵn, ăn liền để có thể
đưa sản phẩm vào các siêu thị.
108
+ Cần thực hiện nghiêm chỉnh khâu kiểm tra chất lượng hàng trước khi giao,
đảm bảo hàng xuất đúng với yêu cầu đã ký kết trong hợp đồng. Để đảm bảo nguồn
vốn đầu tư, Nhà nước cần phải có những chính sách khuyến khích hơn nữa đầu tư
trong nước và nước ngoài vào chế biến hàng nông sản xuất khẩu. Điều quan trọng là
cần thành lập hệ thống kiểm dịch, kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng sản phẩm xuất
khẩu, đặc biệt là khâu vệ sinh an toàn thực phẩm. Kiên quyết không cho phép các
doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu, không đảm bảo chất lượng sản phẩm.
3.3.1.2. Đẩy mạnh công tác quy hoạch hình thành vùng sản xuất tập trung với
quy mô lớn, gắn với phát triển công nghệ sau thu hoạch
Việc quy hoạch và định hướng phát triển sản xuất phải dựa trên cơ sở phân tích,
dự báo và đánh giá được các yếu tố, điều kiện và nhu cầu thị trường đối với từng
loại sản phẩm, gắn với quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cấu hạ tầng,
phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái.
Trên cơ sơ quy hoạch chặt chẽ, cần cung cấp rộng rãi thông tin cho người sản
xuất-kinh doanh, khuyến cáo và hỗ trợ họ định hướng sản xuất, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi và xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá
hiệu quả, ổn định và vững chắc.
Việc quy hoạch và định hướng sản xuất nông sản hàng hoá trong quá trình hội
nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới, cần phải nắm bắt thông tin về thị trường
để kịp thời điều chỉnh, ứng phó. Người nông dân hầu như không nắm vững yêu cầu
của thị trường về số lượng, chất lượng sản phẩm và giá cả, họ tự chọn giống và kỹ
thuật canh tác theo kinh nghiệm, không chủ động được đầu ra của nông sản nên
thường lâm vào tình trạng được mùa rớt giá. Do đó, nắm vững nhu cầu và động thái
của thị trường là nhân tố quyết định cho việc phát triển các vùng chuyên canh quy
mô lớn có hiệu quả.
Tỉnh đã và đang khuyến khích các hộ nông dân liên kết mở rộng qui mô, tổ chức
lại sản xuất theo loại hình hợp tác xã, trang trại nhằm hình thành các vùng sản xuất
hàng hoá tập trung đồng thời thực hiện chuyên canh trên quy mô tương đối lớn để
bảo đảm chất lượng rau quả được nâng cao và duy trì ổn định, bảo đảm khả năng
109
giao một lượng sản phẩm tương đối lớn trong thời hạn tương đối ngắn, theo kịp yêu
cầu của thị trường.
Theo đó, cần quy hoạch các vùng trồng cây ăn trái tập trung, vùng sản xuất cây
giống sạch bệnh, vùng sản xuất lúa cao sản, vùng sản xuất chuyên canh. Trên cơ sở
định hướng của tỉnh, những năm qua các ngành chức năng vận động bà con mở
rộng vùng sản xuất trái cây hàng hóa theo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt của
châu Âu (GAP) như bưởi Năm roi ở Bình Minh, cam sành ở Tam Bình, Trà Ôn,
quýt đường ở Trà Ôn, bòn bon, măng cụt ở các xã cù lao của huyện Vũng Liêm,
xoài cát chu, nhãn xuồng ở Mang Thít... Việc lựa chọn các vùng quy hoạch phải bảo
đảm các tiêu chuẩn: hệ thống thủy lợi phải có đủ khả năng cấp nước cho vùng trồng
trọt, không làm ảnh hưởng đến cung cấp nước tưới tiêu cho các vùng khác và nước
sinh hoạt; tuân thủ các tiêu chuẩn của Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Tài nguyên
nước...
Xây dựng và triển khai dự án cánh đồng mẫu lớn(CĐML) trong sản xuất lúa:
xây dựng CĐML sẽ góp phần xoá bỏ những bất cập như quy mô thửa ruộng nhỏ lẻ,
manh mún, lúa gạo làm ra chưa có thương hiệu. Khi tham xây dựng CĐML sẽ xoá
bỏ khoảng cách chênh lệch về năng suất lúa giữa các hộ sản xuất với nhau, chất
lượng sảm phẩm đồng đều hơn, số lượng hàng hoá lớn. Nông dân tham gia CĐML
an tâm về vật tư đầu vào vì được các công ty cung cấp trực tiếp, giá cả hợp lý, sản
phẩm đầu ra được bao tiêu. Liên kết xây dựng CĐML sẽ góp phần thúc đẩy phát
triển bền vững nghề trồng lúa tại tỉnh nhà.
Để thực hiện quy hoạch vùng chuyên canh, phải đưa công tác chuyển giao tiến
bộ khoa học kỹ thuật là nhiệm vụ hàng đầu. Các ngành chức năng cần tổ chức tập
huấn kỹ thuật sản xuất trái cây an toàn cho nông dân, hướng dẫn kỹ thuật, phương
pháp sản xuất nhằm phát triển vùng sản xuất hàng hóa bền vững, đồng đều về chủng
loại, đảm bảo về chất lượng, đẹp về hình thức. Tập trung hướng dẫn nông dân sản
xuất hàng hóa nông sản theo tiêu chuẩn sạch, từ khâu đầu cho đến khâu cuối của
quá trình sản xuất đều phải được kiểm soát chặt chẽ, hướng sản xuất theo đúng các
quy trình thực hành nông nghiệp tốt (GAP), kiểm tra và chứng nhận sản phẩm đạt
110
tiêu chuẩn quy định; tạo điều kiện để sản phẩm có thị trường tiêu thụ ổn định.Vĩnh
Long đang nỗ lực phát triển nền nông nghiệp sạch, bền vững, chất lượng, giá cả đủ
sức cạnh tranh để không bị “thua” các mặt hàng nông sản ngoại nhập (như gạo, trái
cây...) ngay trên sân nhà trong nền kinh tế thời hội nhập.
3.3.1.3 Đẩy mạnh xây dựng các liên kết kinh tế giữa những người sản
xuất, kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản
Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và thị trường nông sản, sự liên kết
kinh tế giữa người sản xuất, chế biến, kinh doanh hàng nông sản là một đòi hỏi tất
yếu của quá trình phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa toàn diện. Sự liên kết
này về thực chất là nhằm gắn chặt quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng nông
sản, loại bỏ các khâu trung gian trong quá trình lưu thông; qua đó nâng cao giá trị
sản phẩm, cùng phân chia lợi nhuận, chia sẻ rủi ro và tạo động lực cho phát triển.
Để đẩy mạnh việc ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản góp phần thúc
đẩy lưu thông hàng hóa, tạo lập các quan hệ gắn kết chặt chẽ và ổn định giữa sản
xuất và lưu thông, cần:
- Căn cứ vào qui hoạch phát triển sản xuất ở các địa phương, các vùng nhất là
các vùng sản xuất chế biến nông sản tập trung chuyên canh phục vụ xuất khẩu vùng
sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến (lúa, rau xanh, trái cây, cá tra...) để
thúc đẩy việc ký kết hợp đồng tiêu thụ cung cấp vật tư hàng hóa và thực hiện các
chính sách hỗ trợ đầu tư (đất đai, giống, phân bón, thiết bị kỹ thuật, tập huấn chuyên
môn ...) cho các vùng tập trung chuyên canh nông sản.
- Để tháo gỡ khó khăn trong tiêu thụ hàng hóa nông sản, giúp nông dân sản xuất
nông sản theo hướng hàng hóa thì nhà nước cần tăng cường đầu tư cho nông nghiệp,
khuyến khích nông dân mở rộng sản xuất. Xây dựng vùng nguyên liệu tập trung qua
hình thức đẩy mạnh đầu tư phát triển các hợp tác xã (HTX) sản xuất nông sản với số
lượng lớn và chất lượng cao thông qua hợp đồng với nông dân. Thông qua HTX,
nông dân sẽ sản xuất theo đúng quy trình kỹ thuật đã đề ra đến khi có sản phẩm thì
phải đạt yêu cầu của bên mua. Chẳng hạn, thị trường A yêu cầu điều kiện B, C thì
bắt buộc sản phẩm làm ra của ta phải đạt yêu cầu B, C của thị trường A, mà muốn
111
làm được điều này, chúng ta phải đi từ thị trường đến sản xuất, nghĩa là phải nắm
được nhu cầu của thị trường trước. Nhà nước tăng cường hỗ trợ hoạt động của các
HTX, trang trại trong lĩnh vực sản xuất; xây dựng các tiêu chuẩn thương hiệu để
đáp ứng tốt hơn yêu cầu của doanh nghiệp, thị trường, đồng thời có thể xuất khẩu
trực tiếp nông sản theo đơn đặt hàng của nước ngoài.
- Về phía ngành chức năng cũng cần tạo điều kiện hỗ trợ nông dân thực hiện tốt
mối liên kết “4 nhà”, không thể để nông dân tự bơi trong việc tiêu thụ sản phẩm
nông sản như hiện nay vì rủi ro trong sản xuất nông nghiệp rất dễ xảy ra khi mà giá
cả luôn bấp bênh.
- Thực hiện tiêu thụ nông sản theo hợp đồng
Tăng cường mối liên kết 4 nhà:
+ Nhà nước: làm tốt công tác qui hoạch, ban hành các qui chuẩn, qui phạm sản
xuất bền vững; đầu tư cơ sở hạ tầng đúng mức cho các vùng sản xuất tập trung; có
chính sách bình ổn giá nông sản để đảm bảo quyền lợi cho nông dân; tiếp tục thực
hiện các chế độ ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp đến thu mua nông sản.
+ Nhà nông: Nông dân sản xuất theo đặt hàng của doanh nghiệp bảo đảm số
lượng, chất lượng, chủng loại.
+ Nhà doanh nghiệp: đặt hàng cho hộ nông dân sản xuất: số lượng, chủng loại,
chất lượng, cung ứng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giúp nông dân sản
xuất theo tiêu chuẩn chất lượng, bao tiêu sản phẩm.
+ Nhà khoa học: đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất thích nghi vối các vùng
sinh thái có năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh. Lợi ích của các nhà
khoa học được hưởng từ giá trị gia tăng nông sản xuất khẩu.
- Đổi mới phương thức hợp đồng thu mua: Phát triển các phương thức bao tiêu
sản phẩm, liên kết sản xuất tạo sự gắn kết bền vững giữa nông dân và doanh nghiệp.
Giá mua nông sản ghi trên hợp đồng phải là giá sàn bình quân tại thời điểm thu mua.
Trong mỗi hợp đồng cần phải có điều khoản qui định tỉ lệ chia sẻ lợi ích và rủi ro
khi có chênh lệch về giá do có biến động thị trường để các bên có sự ràng buộc
trách nhiệm lẫn nhau. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nông dân là mối quan hệ
112
đối tác, phải xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, phân phối lợi nhuận trong chuỗi
sản xuất phải hài hòa.
- Tăng cường hiệu lực thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản: Doanh nghiệp
không được ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa mà nông dân đã ký với
doanh nghiệp khác; không tranh mua nông sản hàng hóa của nông dân mà doanh
nghiệp khác đã đầu tư phát triển sản xuất. Khi có tranh chấp về hợp đồng thì chính
quyền địa phương có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan chức năng, các hội, các
hiệp hội ngành hàng để giải quyết theo đúng qui định của pháp luật.
- Đảm bảo liên kết hiệu quả, bền vững. Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện và quan
trọng hơn là sự bình đẳng giữa các chủ thể về lợi ích, trong đó cần ưu tiên lợi ích
đối với nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã, những người sản xuất nguyên liệu cung
ứng cho công nghiệp chế biến nhằm tạo động lực tăng nhanh năng suất cây trồng,
vật nuôi, giảm chi phí đầu vào của sản xuất nguyên liệu, hạ giá thành sản phẩm của
công nghiệp chế biến.
- Ngoài sự liên kết kinh tế giữa những người sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng
nông sản, việc hình thành liên kết các hiệp hội của những người cùng sản xuất cùng
kinh doanh chế biến một mặt hàng để tăng cường sức mạnh thương thảo. Nâng cao
hiệu quả liên kết vùng, đẩy mạnh liên kết với TP Hồ Chí Minh và TP Cần Thơ
trong sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm. Cần đẩy mạnh mối liên kết giữa
Vĩnh Long với các tỉnh trong vùng ĐBSCL trong việc đẩy mạnh cung ứng hàng
nông sản, rau quả và thuỷ sản với số lượng lớn. Thực hiện liên kết vùng, liên kết 4
nhà, kết hợp với các nhà khoa học để ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, nâng
cao độ đồng đều về năng suất cây trồng, vật nuôi. Từ đó nâng cao chuỗi giá trị hàng
hoá nông sản, tạo điều kiện phân phối lại thu nhập hợp lý hơn giữa các tác nhân tham
gia trong chuỗi, người sản xuất sẽ không còn bị ép giá khi trúng mùa.
3.3.1.4. Giải pháp về thị trường tiêu thụ
Nghiên cứu và xây dựng chiến lược thị trường
Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đề phát triển thị trường trong bối cảnh tự
do hóa thương mại khu vực và toàn cầu. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, việc
113
nghiên cứu và xây dựng chiến lược thị trường đúng đắn ở cả tầm vĩ mô và vi mô sẽ
góp phần định hướng đúng sản xuất và mở rộng thị phần, phát triển bền vững.
Thời kỳ "bán cái mà ta có” đã qua, hiện chúng ta phải tập trung sản xuất “bán
cái mà thị trường cần”. Do vậy, cần đổi mới căn bản tư duy về đầu tư, đẩy mạnh
việc nghiên cứu và dự báo thị trường, trên cơ sở đó xây dựng chiến lược thị trường
đối với từng ngành hàng, mặt hàng. Nhu cầu về nông sản là rất phong phú và đa
dạng với nhiều cấp độ khác nhau. Mặc dù hiện nay, tiêu chuẩn chất lượng được đặt
lên hàng đầu, song không phải thị trường nào cũng đòi hỏi chất lượng sản phẩm như
nhau.Vì thế cần phải nghiên cứu nhu cầu của từng thị trường, dự đoán, nắm bắt xu
hướng trong tương lai để có thể khai thác triệt để nhu cầu của từng thị trường đặc
biệt là các thị trường ngách đề mở rộng xuất khẩu. Chẳng hạn đối với sản phẩm gạo
cần có chiến lược thị trường cho các chủng loại gạo khác nhau phù hợp với nhu cầu
của từng khu vực thị trường (nhu cầu gạo cao cấp, gạo thường, gạo đặc sản). Bởi thị
hiếu tiêu dùng hàng nông sản ở các nước, các khu vực rất khác nhau, tùy thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, tập quán tiêu dùng,
mức thu nhập... chính vì thế người sản xuất và kinh doanh hàng nông sản phải
nghiên cứu nắm vững nhu cầu thị hiếu của từng thị trường - đó là điều kiện để đảm
bảo thành công trong quá trình cạnh tranh, thâm nhập thị trường tiêu thụ.
Để xây dựng được chiến lược này, cần phải nắm rõ được năng lực và hiện trạng
của sản xuất trong nước, các lợi thế của từng ngành hàng mặt hàng cũng như đặc
điểm, tính chất và thể chế của từng thị trường ngoài nước, để từ đó có căn cứ trả lời
cho các câu hỏi: mặt hàng nào đi vào thị trường nào ? với số lượng bao nhiêu? Đi
như thế nào? và cần giải quyết những vấn đề gì để khai thông thị trường?
Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ nông
sản, hội nhập kinh tế quốc tế
- Để phát triển thị trường xuất khẩu, Sở Công Thương tỉnh Vĩnh Long cần kết
hợp với Trung tâm Xúc tiến thương mại thường xuyên tổ chức các hội chợ triển lãm,
giới thiệu sản phẩm, thu hút khách hàng thông qua việc quảng bá sản phẩm đặc sản
của Vĩnh Long.
114
- Tổ chức cho các doanh nghiệp thực hiện khảo sát, tìm kiếm thị trường xuất
khẩu và tham gia các hội chợ triển lãm thương mại trong và ngoài nước nhằm giúp
doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, quảng bá sản phẩm, khảo sát thị trường ở
một số quốc gia trong khu vực, nhằm giúp doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng mở
rộng thị trường, xây dựng chiến lược phân khúc thị trường phù hợp. Mở rộng thị
trường xuất khẩu nông sản hàng hoá theo hướng: duy trì và phát triển quan hệ với
thị trường truyền thống, tìm kiếm và phát triển thị trường mới, thiết lập được thị
trường tiêu thụ lớn, ổn định lâu dài cho các nông sản chủ lực.
- Để có được sản phẩm chiếm lĩnh thị trường ngành nông nghiệp phải định
hướng cho nông dân sản xuất các sản phẩm đúng tiêu chuẩn chất lượng bằng việc
xây dựng thương hiệu và nhãn hiệu hàng hoá theo quy chuẩn quốc gia và quốc tế.
Đầu tư hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng,
phát triển thương hiệu và đăng ký nhãn hiệu hàng hóa chủ lực của tỉnh.
- Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị
trường đối với sản phẩm chủ lực như: lúa, cá tra, bưởi 5 Roi, cam sành, rau an toàn,
khoai lang,... Kiện toàn và phát triển hệ thống thông tin thị trường cần được chú
trọng đầu tư để giúp người nông dân có điều kiện tìm hiểu thêm về giá cả, nhu cầu,
thị hiếu, khách hàng, chủng loại hàng hoá… từ đó có hướng sản xuất thích hợp và
đáp ứng tốt nhu cầu thị trường.
- Đồng thời đẩy mạnh công tác thông tin, dự báo phân tích thị trường, diễn biến
giá cả, các thông tin về hàng rào kỹ thuật, thương mại của các nước đối với các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh như thủy sản, nông sản….
Để thực hiện tốt công tác thông tin cần có các biện pháp sau:
+ Hoàn thiện hệ thống văn phòng, chi nhánh thương mại của tỉnh trên các địa
bàn, thị trường trọng điểm.
+ Tạo lập mối quan hệ, gắn bó với các hiệp hội xuất khẩu quốc gia, quốc tế.
+ Có chính sách ưu đãi thoã đáng với những người cung cấp thông tin lien quan
đến thương mại có giá trị.
115
+ Đầu tư thoã đáng cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hiện đại
để thu thập, xử lý, lưu trữ, phân phối thông tin đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác.
+ Đào tạo lực lượng cán bộ thành thạo nghiệp vụ thu thập, xử lý và đủ năng lực
tư vấn về chiến lược thị trường, chính sách mặt hàng…
+ Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại cần khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong tỉnh đẩy mạnh xúc tiến thương mại như: tổ chức các đoàn doanh nghiệp ra
nước ngoài hoặc từ nước ngoài và tỉnh nghiên cứu khảo sát thị trường, tìm kiếm bạn
hàng và cơ hội kinh doanh; tổ chức quảng cáo hàng hoá. Khuyến khích xuất bản và
phát hành các ấn phẩm hoặc đưa lên mạng về danh mục, mẫu mã, chủng loại mặt
hàng có thế mạnh của Vĩnh Long. Khuyến khích các doanh nghiệp đặt cơ sở ở nước
ngoài dưới các hình thức thích hợp như văn phòng lien lạc, văn phòng đại diện, chi
nhánh, thuê đại diện uỷ thác… và dành nguồn kinh phí đáng kể cho công tác xúc
tiến thương mại của doanh nghiệp để mở rộng thị trường, phát triển sản xuất.
- Đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại hàng nông sản gắn với thu hút
đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, từng bước hình thành liên kết các
thành phần kinh tế sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng nông sản thế mạnh.
- Hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện việc ứng dụng thương mại điện tử vào quá trình
hoạt động như: đàm phán với đối tác, nâng cao hiệu quả công tác quản lý – điều
hành, kinh doanh – xuất nhập khẩu và đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.
- Thông qua việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ, từng bước xúc tiến đầu tư phát
triển ngành nông nghiệp một cách bền vững liên kết các doanh nghiệp, liên doanh
trong và ngoài nước về các lĩnh vực: xuất khẩu gạo, tiêu thụ trái cây các loại, khoai
lang, thuỷ sản chế biến,...khai thác nguồn vốn của toàn xã hội, phục vụ phát triển
sản xuất nông sản hàng hoá.
3.3.1.5. Xây dựng và củng cố thương hiệu cho các mặt hàng nông sản chủ lực
Trong thời kỳ hội nhập WTO, thương hiệu là tài sản vô hình quan trọng, là “vũ
khí “ cạnh tranh bên cạnh các yếu tố khác như chất lượng sản phẩm, giá cả, mẫu mã,
kênh phân phối. Chúng ta bỏ qua việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là tự
116
mình từ bỏ một tiềm lực lớn trong nền kinh tế hội nhập “- Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ
nhiệm Câu lạc bộ Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao, khẳng định.
Việc xây dựng thương hiệu và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá là một yếu tố góp
phần nâng cao giá trị gia tăng của nông sản. Thực tiễn ở các nước phát triển, sở hữu
trí tuệ đã trở thành một công cụ quan trọng để nâng cao giá trị cho sản phẩm nói
chung và đặc sản nói riêng. Sau khi được đăng ký sở hữu trí tuệ, hầu hết các sản
phẩm đều bán được giá cao hơn, sản lượng tiêu thụ mạnh hơn, người nông dân tập
trung chăm lo phát triển sản xuất hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng sở hữu trí tuệ như
một công cụ nhằm nâng cao giá trị nông sản của Vĩnh Long cũng như vùng ĐBSCL
thực sự chưa được chú trọng.
Thời gian qua, hệ thống phân phối nông sản trong tỉnh còn mang tính tự phát,
ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của thị trường. Mối quan hệ buôn bán giữa
người sản xuất và người thu mua, doanh nghiệp chưa được xây dựng trên cơ sở
pháp lý dẫn đến sự bất ổn về nguồn cung ứng hàng hoá, gây khó khăn cho việc xây
dựng và quảng bá thương hiệu.
Đối với các doanh nghiệp:
- Để xây dựng thương hiệu cho nông sản Vĩnh Long cần thực hiện chương trình
xây dựng thương hiệu gắn với vùng nguyên liệu, theo định hướng hỗ trợ các doanh
nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm .
- Cần phải xúc tiến nhanh các hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu
hàng nông sản hướng ra thị trường thế giới. Việc xây dựng thương hiệu cho nông
sản cần một chiến lược đồng bộ của tất cả các khâu từ việc lựa chọn giống cây trồng,
trồng trọt và chăm sóc, thu hoạch, bảo quản và chế biến. Phải sản xuất nông sản
theo quy mô lớn, theo tiêu chuẩn an toàn áp dụng VietGAP, GlobalGap để có sản
phẩm chất lượng cao.
- Khi đã có thương hiệu, cần coi trọng việc bảo vệ, gìn giữ, quảng cáo và phát
triển thương hiệu một cách bền vững. Cần đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, mác
sản phẩm, thương hiệu ở trong nước và ngoài nước để người tiêu dùng từng bước
làm quen với nhãn mác, thương hiệu và chất lượng hàng nông sản của từng doanh
117
nghiệp, từng địa phương và từng vùng. Cần phải có những phương thức quảng cáo,
khuyến mãi, xúc tiến thương mại đặc trưng riêng để tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng
người tiêu dùng đối với sản phẩm nông sản của doanh nghiệp.
- Vấn đề mấu chốt để đảm bảo giữ gìn và phát triển thương hiệu một cách bền
vững, chính là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển mạng lưới
bán hàng, đưa thương hiệu của doanh nghiệp và sản phẩm đến quảng đại người tiêu
dùng. Đồng thời, không ngừng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, tạo sản phẩm
mới đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
Đối với Nhà nước:
- Nhà nước cần phải nới lỏng chính sách quản lý, hỗ trợ và tạo điều kiện cho
doanh nghiệp đầu tư vào xây dựng và phát triển thương hiệu. Đồng thời đơn giản
hóa thủ tục pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thể đăng ký, bảo
hộ nhãn hiệu một cách nhanh chóng nhất.
- Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin, kinh
phí xúc tiến thương mại, tư vấn cho doanh nghiệp về đăng ký nhãn hiệu sản phẩm,
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ hàng hóa ở trong và ngoài nước.
- Hỗ trợ kinh phí giúp các doanh nghiệp và HTX thực hiện các tiêu chuẩn chất
lượng để xuất khẩu nông sản. Trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới như
hiện nay, Global Gap đang là lựa chọn tối ưu để phát triển vùng chuyên canh nông
sản theo hướng tặng nguồn ngoại tệ cho quốc gia, chứng nhận Global Gap là giấy
thông hành để nông sản Vĩnh Long vươn xa ra thị trường quốc tế, đồng thời là một
công cụ để bảo vệ thương hiệu nông sản của địa phương.
- Cần ngăn ngừa và bảo vệ thương hiệu trước các hành vi xâm hại, làm hàng giả,
hàng nhái tràn lan, xâm phạm sở hữu trí tuệ và bí mật thương mại nhằm gìn giữ và
bảo vệ uy tín cho những thương hiệu mạnh được người tiêu dùng ưa chuộng. Xử lý
nghiêm những vụ việc vi phạm về vấn đề thương hiệu nhằm tạo ra sự an tâm cho
các doanh nghiệp đối với thương hiệu của mình.
Việc tạo lập và đăng kí nhãn hiệu hàng hoá là hướng đi tốt nhất phân định giữa
sản phẩm an toàn và sản phẩm thông thường trên thị trường, tạo niềm tin cho người
118
tiêu dùng, đảm bảo quyền lợi và nâng cao trách nhiệm của người sản xuất, mở ra cơ
hội mới cho thị trường nông sản Vĩnh Long.
3.3.1.6. Giải pháp về hệ thống lưu thông phân phối hàng nông sản
Hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại có vai trò rất quan trọng trong lưu thông
hàng hóa nói chung và hàng nông sản nói riêng. Chính vì vậy, cần đẩy mạnh phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại, chủ yếu là mạng lưới các loại hình và
cấp độ chợ.
- Chợ xã chợ cụm xã, liên xã và chợ thị tứ, thị trấn đóng vai trò khởi đầu mua
buôn nông sản, kết thúc bán buôn vật tư và hàng tiêu dùng, góp phần (nở rộng các
quan hệ trao đổi; kích thích kinh tế hàng hóa phát triển, phục vụ sản xuất và đời
sống của người dân nông thôn trong phạm vi xã, huyện.
- Chợ tập trung đầu mối đóng vai trò kết thúc mua buôn nông sản, khởi đầu bán
buôn vật tư và hàng tiêu dùng góp phần phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa
của cả một vùng, một khu vực bao gồm nhiều huyện lân cận (kể cả các chợ cửa
khẩu là nơi tập trung đầu mối hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới).
- Phát triển hệ thống phân phối mang tính chất tập trung: xây dựng chợ đầu mối
trái cây và chợ đầu mối nông sản là nơi tập trung tiêu thụ các loại trái cây chủ lực
của tỉnh. Chợ đầu mối trái cây sẽ là điểm buôn bán trái cây đặc sản, chất lượng cao
của địa phương cho du khách, cho hệ thống các siêu thị, nguyên liệu cho nhà máy
chế biến, cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội địa phương. Tiếp tục phát triển hệ thống chợ đều khắp tới từng
xã, từng cụm xã trong tỉnh, trong đó có nhiều chợ đang được thực hiện với phương
thức "lấy chợ nuôi chợ" để giúp nông dân tiêu thụ nông sản, giúp các doanh nghiệp
thuận tiện hơn trong việc thu mua nguyên liệu với số lượng lớn.
Việc xây dựng hệ thống các chợ đầu mối nông sản là rất cần thiết và cấp bách.
Ngoài chức năng liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ, các doanh nghiệp thương mại ở
các chợ đầu mối phải xây dựng giá, thông tin, kiểm soát an toàn thực phẩm, bảo vệ
môi trường...
119
Ở nước ta một số chợ nông sản đầu mối đã và đang được xây dựng, tuy nhiên để
nó thực sự phát huy được tác dụng thì cần:
- Việc xây dựng các chợ đầu mối cần thực hiện trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng
nhu cầu giao dịch trên thị trường bao gồm cả nhu cầu và các dịch vụ chế biến đóng
gói, lưu trữ. Đặc biệt không được coi việc hình thành các chợ đầu mối là việc đầu tư
cơ sở hạ tầng để cho các cá nhân và tổ chức thuê chỗ mà phải coi đó là nơi các tổ
chức hay cá nhân đến để giao dịch. Như vậy mới tránh được độc quyền vị trí.
Việc hình thành các chợ đầu mối cần được thực hiện dần dần từng bước, vừa
giảm chi phí đầu tư, vừa tạo điều kiện để người sản xuất cũng như các tổ chức kinh
doanh thương mại có khả năng tiếp cận nhất là chi phí thuê mặt bằng, làm quen với
các phương thức giao dịch hiện đại.
Cần thiết lập cơ chế quản lý tốt, xây dựng các hệ thống hướng dẫn, luật lệ rõ
ràng, với hiệu lực thi hành bảo đảm có thỏa thuận mang tính hợp đồng với những tổ
chức, cá nhân tham gia vào chợ, đào tạo cán bộ quản lý và nhân viên có trình độ và
có tinh thần trách nhiệm cao.
Bên cạnh đó, cần xây dựng từng bước và phát triển các điểm thông tin thị trường,
các kho bảo quản hàng hóa cho doanh nghiệp và nông dân (nông dân gửi nông sản
chờ giá lên cao để bán, đồng thời căn cứ vào đó để làm thế chấp vay vốn tái sản
xuất; doanh nghiệp dự trữ, phân loại bao gói vật tư nông nghiệp và hàng công
nghiệp tiêu dùng để chuẩn bị bán...); xây dựng các hình thức thương mại điện tử
phục vụ chủ yếu cho nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa ở nông thôn, tạo cơ
sở cho việc hình thành và phát triển các trung tâm thương mại nông thôn mà nòng cốt
là chợ tập trung đầu mối, kho bảo quản hàng hóa và điểm thông tin thị trường.
3.3.2. Giải pháp hỗ trợ
3.3.2.1. Tăng cường hiệu quả các chính sách kích thích sản xuất nông sản
hàng hoá phát triển
Chính sách đất đai:
- Giải quyết vấn đề đất đai đối với hộ nông dân nhằm thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp hàng hoá phải gắn với việc tập trung ruộng đất hợp lý. Cần có chính sách về
120
đất đai thông thoáng như chấp thuận cho việc thuê đất dài hạn để có điều kiện tích
tụ ruộng đất, hình thành những vùng sản xuất hàng hoá với qui mô lớn, thủ tục sang
nhượng đơn giản, lệ phí thấp và thời gian nhanh chóng.
- Có chính sách thích hợp giải quyết vấn đề tích tụ đất đai trong nông thôn: Xây
dựng, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất: tổ kinh tế hợp tác, HTX nông
nghiệp, kinh tế trang trại tạo điều kiện cho quá trình tích tụ ruộng đất phát triển.
Nhằm thoã mãn nhu cầu của người có vốn và lao động muốn đầu tư phát triển nông
nghiệp nhưng lại không có hoặc thiếu đất. Phát triển mạnh sự hợp tác giữa nông dân
với các tổ chức kinh tế-xã hội, có như vậy mới khai thác có hiệu quả đất đai, tạo ra
sản phẩm hàng hoá đủ số lượng, chất lượng cao, chủ động cạnh tranh trên thị trường.
- Khuyến khích các hộ nông dân sản xuất giỏi thành lập trang trại trồng trọt,
chăn nuôi hoặc kết hợp vườn với thuỷ sản, trang trại trồng cây ăn trái, nuôi thuỷ sản
và mô hình kinh doanh tổng hợp vườn-thuỷ sản-du lịch sinh thái…nhằm phát huy
mặt tích cực của kinh tế trang trại là tạo ra sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao,
đầu tư công nghệ mới để nâng cao năng suất, kết hợp giữa sản xuất nguyên liệu và
chế biến tiêu thụ sản phẩm, tạo thêm việc làm cho người lao động, huy động vốn
nội lực của cộng động, tạo nền tảng di lên sản xuất hàng hoá lớn theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Các cấp chính quyền địa phương cần chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt các chính
sách phát triển vùng nguyên liệu, nâng cao chất lượng chế biến nông sản và ký kết
hợp đồng sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; kiểm tra, phát hiện kịp thời những
vướng mắc của doanh nghiệp và nông hộ, những trường hợp vi phạm hợp đồng.
Hướng dẫn nông dân dùng giá trị quyền sử dụng đất để liên kết, liên doanh với các
doanh nghiệp chế biến nông sản, hoặc góp vốn cổ phần khi doanh nghiệp thực hiện
cổ phần hoá. Chính quyền cấp huyện, nhất là cấp xã cần tích cực chỉ đạo, hỗ trợ
nông dân thực hiện dồn điền, đổi thửa; bố trí sản xuất theo quy hoạch vùng nguyên
liệu; giải quyết kịp thời các tranh chấp giữa người sản xuất.
- Tăng cường sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước để gắn kết mối quan hệ nhà máy
chế biến với vùng nguyên liệu thông qua việc: tạo thuận lợi về hành lang pháp lý,
121
cung ứng tín dụng, xây dựng các quỹ bảo hiểm rủi ro, quỹ hỗ trợ xuất khẩu; xây
dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng hệ thống thông tin, dự báo thị trường; phát triển sự
nghiệp khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y tế,...
Chính sách giải quyết vấn đề về vốn:
- Có chính sách tín dụng thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn (nhất là vốn trong
dân) để tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nhất là đầu tư xây dựng công trình thuỷ
lợi và kết cấu hạ tầng ở nông thôn, song phải nhanh chóng đầu tư cho khoa học-
công nghệ, cho các lĩnh vực giống, cơ giới hoá, bảo quản và chế biến sản phẩm.
- Ngoài việc huy động vốn tự có và sức dân, phía Nhà nước trung ương, tỉnh,
huyện cần lồng ghép các chương trình để xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, hỗ trợ
cho nông dân có điều kiện phát triển sản xuất. Ngân hàng nông nghiệp và PTNT mở
rộng hình thức cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất nông nghiệp, tránh tình
trạng để dân phải vay nặng lãi, tăng vốn vay trung và dài hạn cho lĩnh vực nông
nghiệp.
- Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp theo luật đầu
tư và các chính sách của tỉnh. Kết hợp với Ngân hàng Nông Nghiệp & PTNT hỗ trợ
các doanh nghiệp, HTX, trang trại xây dựng vùng sản xuất nông sản hàng hóa có
sức cạnh tranh cao, với qui mô lớn, tập trung, tạo những vùng nguyên liệu trọng
điểm và gắn kết với doanh nghiệp có đầu ra ổn định.
- Đẩy mạnh kêu gọi đầu tư vào nông nghiệp theo hướng công nghệ cao dưới các
hình thức DNTN, công ty Cổ phần,... để có thể tổ chức sản xuất theo hướng thâm
canh tập trung để nâng cao giá trị nông sản, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm,
đáp ứng yêu cầu thị trường ngày càng cao.
- Cần có chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp gắn với vùng
nguyên liêu thông qua việc hỗ trợ cho doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, miễn
giảm thuế và các điều kiện cần thiết để doanh nghiệp đủ mạnh đầu tư cho nông dân.
Chính sách đầu tư:
- Nhà nước cần đặc biệt quan tâm về đầu tư đồng bộ tới quá trình sản xuất - chế
biến - xuất khẩu, cụ thể đầu tư cho các yêu cầu sau:
122
- Đầu tư cho vùng sản xuất tập trung, hình thành các vùng nguyên liệu cho chế
biến và xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, đặc biệt hệ thống thuỷ
lợi).
- Đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, trong đó chú ý đầu tư
nghiên cứu cải tạo giống, ứng dụng các kỹ thuật canh tác tiến bộ gắn liền với chính
sách khuyến nông từ trung ương đến cơ sở.
- Đầu tư cho nâng cấp và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao khả năng cạnh
tranh.
- Đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển thị trường ở cả tầm vi mô và vĩ
mô, nhằm xây dựng chiến lược thị trường.
Chính sách thuế:
- Điều chỉnh thời gian thuế và giao nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp hợp lý hơn
tránh mùa vụ để nông dân có thời gian lựa chọn thời điểm bán sản phẩm có lợi.
- Điều chỉnh tỷ lệ thuế để lại cho địa phương theo hướng tăng dần để đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng nông thôn.
- Miễn giảm thuế nông nghiệp trong một thời gian cần thiết đối với những sản
phẩm cần phát triển mở rộng qui mô nhất là thị trường mới.
- Thực hiện chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp phục vụ xuất khẩu tại
các vùng xa, vùng sâu, vùng khó khăn.
- Để hỗ trợ đổi mới công nghệ cần giảm thuế nhập khẩu đối với những trang
thiết bị máy móc và công nghệ sản xuất - chế biến các nông sản.
- Nghiên cứu các hình thức bảo hiểm cho các loại cây trồng, hình thành quỹ bảo
hiểm từng ngành sản phẩm. Trước mắt cần thành lập các quỹ bảo hiểm các nông sản:
lúa gạo, cá tra, trái cây…Quỹ này dùng để can thiệp thị trường khi giá thị trường
đột biến xuống dưới giá sàn, định hướng và giúp đỡ sản xuất trong những trường
hợp đặc biệt khó khăn do thiên tai. Quỹ được trích từ phần thuế xuất khẩu và các
khoản thu và đóng góp khác đối với với từng loại nông sản.
123
Chính sách khoa học công nghệ
Chính sách khoa học công nghệ chẳng những định hướng cho việc nghiên cứu
và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất còn có vai trò quan trọng trong việc
làm thay đổi phương thức, cách thức, phương pháp sản xuất, tăng năng suất lao
động, năng suất cây trồng và vật nuôi, tăng số lượng và chất lượng nông sản hàng
hoá và dịch vụ nông nghiệp, hạ giá thành sản phẩm, tạo cho hàng hoá có sức cạnh
tranh trên thị trường
Cần nhanh chóng ứng dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật mới vào thực tế sản
xuất. Cần có định hướng bảo hiểm và tài trợ cho cây trồng và vật nuôi mới. Tổ chức
thực hiện hoàn chỉnh hơn, trên quy mô ngày càng rộng các chương trình khoa học
mới IPM, INM…
Đẩy mạnh chính sách khuyến công nhất là chế biến hàng nông sản, thực phẩm
xuất khẩu; liên kết với các trường đại học, viện khoa học trong ngoài nước nhằm
ứng dụng khoa học vào sản xuất công nghiệp, nâng cao tay nghề trình độ người lao
động, đào tạo nhân lực trong lĩnh vực kỹ thuật cao; hỗ trợ các cơ sở công nghiệp mở
rộng hợp tác với nước ngoài.
3.3.1.2. Nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng hiệu quả nguồn lao động nông
nghiệp và nông thôn
Tập trung đào tạo kỹ năng về sản xuất, quản lý và thị trường cho các hộ sản xuất
kinh doanh có quy mô lớn, trang trại.
Tiếp tục đầu tư nâng cao dân trí, dạy nghề, chuyên môn kỹ thuật và quản lý sản
xuất, quản lý kinh tế cho 55% tổng số lao động nông nghiệp. Đồng thời, cơ cấu lại
lao động theo trình độ đào tạo sơ cấp kỹ thuật, quản lý, từ trung học, cao đẳng, đại
học và trên đại học cho phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn. Cần
áp dụng phương pháp đạo tạo theo hình thức cử tuyển để lao động sau khi đào tạo
sẽ trở về địa phương yên tâm công tác.
Tăng cường hơn nữa hoạt động khuyến nông để chuyển giao kỹ thuật cơ bản cho
khoảng 90% lao động chính của các hộ nông nghiệp.
124
Triển khai các chương trình đào tạo nhân lực, nâng cao năng lực giao dịch trong
quan hệ ngoại thương, quán triệt các quy định, thông lệ của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) để định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh, giúp các doanh
nghiệp không lúng túng trong quá trình hội nhập.
3.3.2.3. Đầu tư phát triển cở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp
Đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhất là
giao thông và thủy lợi phục vụ sản xuất thâm canh, nâng cao năng suất và chất
lượng. Ngoài ra, theo sản xuất công nghệ cao cũng cần có những cơ sở vật chất hiện
đại phục vụ sản xuất có liên quan đến các ngành khác như điện, giao thông cũng
cần được quan tâm đầu tư đúng mức. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay việc xây
dựng các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp cần chú ý đến yếu tố biến đổi khí
hậu, nước biển dâng để xây dựng cho phù hợp và sử dụng được lâu dài.
Hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi
Đây là vấn đề rất quan trọng vì đa số công trình thủy lợi trước đây chủ yếu là
phục vụ cho sản xuất lúa, nay chuyển sang phục vụ cho sản xuất rau màu, cây ăn
trái, chăn nuôi thủy sản cho nên cần có đầu tư mới hoặc bổ sung mới đáp ứng được
yêu cầu phục vụ sản xuất.
Hoàn chỉnh đầu tư xây dựng khép kín diện tích trồng cây hàng năm, chủ động
tưới tiêu, nhanh chóng nâng cấp hệ thống công trình bờ bao ở các xã cù lao và các
khu vực trồng cây ăn trái tập trung ở ven sông cũng như nội đồng, nhằm chủ đông
tưới tiêu phục vụ thâm canh, đa dạng hoá cây trồng và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ.
Đầu tư xây dựng thuỷ lợi công trình thuỷ lợi cần phải chú trọng đề phòng và ứng
phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng nhằm bảo vệ sản xuất và đời sống.
Nâng cấp hoàn thiện giao thông nông thôn
Đảm bảo 100% số xã đều có đường ô tô tới trung tâm xã, thuận lợi cả mùa mưa
và mùa khô, thông suốt liên hoàn và hoà được với mạng lưới đường Quốc lộ, tỉnh lộ;
đồng thời xây dựng đường bộ (đan, bê tong, nhựa) đến tận ấp, giao thông thực sự là
động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, trong đó có tác động tích cực đến xây
dựng nền nông nghiệp hàng hoá phát triển bền vững, góp phần đổi mới kinh tế-xã
125
hội nông thôn, thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Giao thông nông thôn là huyết mạch của giao lưu kinh tế, góp phần phát triển
kinh tế hàng hoá, tạo mối liên kết trong lưu thông hàng hoá nông sản vốn dễ hư
hỏng và không để được lâu, lại có tính chất mùa vụ. Do đó, phải tập trung mọi
nguồn lực để xây dựng giao thông đi trước một bước, tạo động lực cho kinh tế-xã
hội nông thôn phát triển.
Tóm lại, Vĩnh Long là tỉnh có lợi thế về nông nghiệp, sản phẩm đa dạng như lúa
gạo, rau màu, khoai lang, cây ăn trái, gia súc, gia cầm và thủy sản. Tuy nhiên, để
đột phá trong phát triển nông nghiệp cần chọn sản phẩm chủ lực để có hướng đầu tư
và tiêu thụ. Vì vậy, Nhà nước cần có những giải pháp chỉ đạo, phục vụ sản xuất,
đồng thời có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, điều chỉnh kịp thời để đảm bảo người
nông dân yên tâm phát triển sản xuất, cũng là tiền đề cho việc xây dựng một nền
nông nghiệp bền vững.
126
KẾT LUẬN
Qua thực tế tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh
của nông sản hàng hoá tỉnh Vĩnh Long, tác giả rút ra được các kết luận sau:
Vĩnh Long có tài nguyên thiên nhiên hội đủ các điều kiện để phát triển nền
nông nghiệp đa canh, đa dạng hóa theo hướng thâm canh, tăng năng suất phù hợp
cho phát triển nông nghiệp hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Đây chính là
lợi thế vượt trội so với các tỉnh trong khu vực ĐBSCL cũng như các vùng khác
trong cả nước. Tuy nhiên phần lớn các mặt hàng nông sản của tỉnh Vĩnh Long (lúa
gạo, trái cây, thủy sản, khoai lang, rau sạch,…) đều là sản phẩm thô vì nông dân còn
đang sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chưa có vùng nguyên liệu tập trung, chưa chú
trọng đúng mức đến sản xuất các mặt hàng này theo tiêu chuẩn GAP.Trong đó, có
nhiều loại trái cây đặc sản ngon có tiếng, được người tiêu dùng trong ngoài nước
biết đến và thời gian qua Vĩnh Long đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng thương
hiệu cho bưởi Năm Roi Bình Minh, cam sành Tam Bình,… Tuy nhiên, số lượng sản
phẩm thương hiệu mạnh còn ít. Hiện các mặt hàng nông sản của Vĩnh Long thiếu sự
liên kết cả hệ thống từ khâu sản xuất đến chế biến, bảo quản, tiêu thụ, xuất khẩu.
Công nghệ sau thu hoạch ở tỉnh chưa theo kịp tốc độ phát triển của khu vực. Mặt
khác, tỉnh cũng chưa có vùng nguyên liệu lớn nên cũng không có khả năng cung
ứng theo hợp đồng với số lượng lớn, trừ mặt hàng gạo, nên lợi thế cạnh tranh còn
rất yếu.
Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, nhất là phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường thì xu hướng giảm lợi thế cạnh tranh
của các sản phẩm dựa trên tài nguyên đất nông nghiệp và nguồn lao động giản đơn
rẻ. Do vậy, nếu không có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm thì hàng hóa Vĩnh Long sẽ gặp khó khăn trong xuất khẩu cũng như tiêu
thụ tại sân nhà. Vĩnh Long phải xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, phát triển bền
vững trong cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tư theo
chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng nông sản hàng hoá, tận dụng lợi thế tạo ra
nông sản hàng hoá có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Mục tiêu hướng đến của
127
nông nghiệp Vĩnh Long là sản xuất nông sản chất lượng cao với thương hiệu mạnh,
xây dựng nền sản xuất nông nghiệp toàn diện gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường tiêu thụ, trong đó chú trọng đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Trong giai đoạn mới, tỉnh cần nắm bắt các cơ hội và hạn chế các thử thách
đặt ra thì nông sản hàng hoá của Vĩnh Long sẽ ngày càng phát triển một cách bền
vững hơn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tỉnh nhà cũng như của cả
nước.
128
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp & PTNT(2012) - Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng tăng giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
2. Bộ Khoa học và công nghệ - Chương trình quốc gia Nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020.
3. Thương Mại, Tổ chức GTZ và Metro Cash & Carry Việt Nam, công ty
Nghiên Cứu Thị Trường Axis Research (2006)- Dự án Chuỗi giá trị bưởi Vĩnh
Long.
4. Trần Thị Ba (2008), Nghiên cứu "Chuỗi cung ứng rau đồng bằng Sông Cửu
Long theo hướng GAP”, Đại học Cần Thơ.
5. Cục Nuôi trồng Thuỷ sản (2008), Dự án Quy hoạch phát triển sản xuất và
tiêu thụ cá tra vùng đồng bằng sông Cửu long đến năm 2010 và định hướng
đến 2020" .
6. TS.Trần Xuân Châu (2003) - "Phát triển nền nông nghiệp hàng hoá ở Việt
nam thực trạng và giải pháp"- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
7. Cục thống kê tỉnh Vĩnh Long- Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long năm 2011"
PGS.TS Nguyễn Thị Liên Diệp- Đề tài nghiên cứu khoa học: "Xây dựng các 8.
loại hình kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phù hợp cho từng vùng trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Long đến năm 2010" ,Viện Nghiên cứu Kinh tế Phát triển, Đại
học Kinh tế TP. HCM.
9. GS.TS. Nguyễn Thị Lang , Đề tài “Chọn tạo giống lúa thơm cho vùng lúa đặc
sản tỉnh Vĩnh Long” Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long.
10. Võ Thị Thanh Lộc, Nguyễn Phú Son- “Phân tích chuỗi giá trị lúa gạo vùng
đồng bằng sông Cửu Long"- Tạp chí khoa học 2011, Trường Đại học Cần Thơ.
11. PGS. TS. Mai Văn Nam, Đề tài: “Nâng cao sức cạnh tranh cho bưởi Năm Roi
và khóm Cầu Đúc của tỉnh Hậu Giang trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế”, Trường Đại học Cần Thơ.
PGS.TS Đặng Văn Phan(2008), "Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam", 12.
Nxb Giáo Dục.
129
13. PGS.TS Đặng Văn Phan (chủ biên) (2006), "Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam
thời kỳ hội nhập"- Nxb Giáo Dục.
14. PS.TS Đặng Văn Phan(2008), "Địa lí kinh tế xã hội Việt Nam", Đại học Cửu
Long.
15. Quyết định của thủ tướng Chính Phủ: Số 80/2002/QĐ-TTg- Về chính sách
khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng.
16. TS.Nguyễn Trần Quế- Nghiên cứu phương pháp phản ánh và phân tích về
năng lực cạnh tranh" - Viện Kinh tế và Chính trị thế giới.
17. Sở Khoa học & Công nghệ Vĩnh Long - Nghiên cứu xác định sản phẩm chủ
lực tỉnh Vĩnh Long đến năm 2015.
18. Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vĩnh Long- Báo cáo tổng hợpQuy hoạch
phát triển nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020”.
19. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vĩnh Long- Báo cáo tổng hợp Quy
hoạch phát triển thuỷ sản tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020”.
Sở Công thương Vĩnh Long- Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển ngành 20.
thương mại tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020”.
21. TS. Nguyễn Minh Tuấn (2010), "Nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế", nhà xuất bản ĐH
Quốc gia TP. HCM.
22. TS. Nguyễn Công Thành- Một vài suy nghĩ về liên kết 4 nhà trong sản xuất
nông nghiệp- Viện nghiên cứu Lúa ĐBSCL.
23. TS. Nguyễn Minh Tuấn (2010)- "Nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế"- nhà xuất bản ĐH
Quốc gia TP. HCM.
24. UBND tỉnh Vĩnh Long- Báo cáo Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế -xã hội, an ninh quốc phòng từ 2005-2011.
25. Các trang web
http://www.vinhlong.gov.vn
http://www.nongnghiep.vinhlong.gov.vn/
130
http://www.rauhoaquavietnam.vn
http://www.skhdt.vinhlong.gov.vn
http://xttm.mard.gov.vn/
http://xttm.agroviet.gov.vn
http://www.imexcuulong.com.vn
http://www.vinhlongfood.com.vn
PHỤ LỤC 1
Bảng: Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long đến ngày 01/01/2012
Mục đích sử dụng đất Diện tích (ha) Cơ cấu (%)
Đất nông nghiệp 117.604,97 100
116.568,37 99,12 Đất sản xuất nông nghiệp
- Đất trồng cây hàng năm 71.116,03 60,47
+ Đất trồng lúa 69.359,41 58,98
24,31 0,02 + Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
1.732,31 1,47 + Đất trồng cây hàng năm khác
- Đất trồng cây lâu năm 45.452,34 38,65
Đất nuôi trồng thuỷ sản 989,18 0,84
Đất nông nghiệp khác 47,42 0,04
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2011
Bảng: Diện tích, sản lượng cây ăn trái của Vĩnh Long so với các tỉnh ĐBSCL năm 2009
ĐVT: Diện tích- nghìn ha, sản lượng- nghìn tấn
STT Địa phương DT đất NN DT đất cây ăn Sản lượng trái cây quả Xếp hạng SL trái cây
Vùng ĐBSCL 3306.7 281.16 2504.9
5.16 80.1 10 378.1 1 Long An
67.5 766.1 192.3 2 Tiền Giang 1
33.3 322.8 3 181.4 3 Bến Tre
18.3 151.9 6 185.9 4 Trà Vinh
5 Vĩnh Long 38.6 340.5 2 116.2
22.5 216.2 4 248.7 6 Đồng Tháp
7.4 67.3 11 297.9 7 An Giang
13.5 80.2 9 575.7 8 Kiên Giang
15.2 102.2 8 115.6 9 Cần Thơ
21.3 163 5 139.2 10 Hậu Giang
25.6 145.6 7 274.7 11 Sóc Trăng
5.4 24.3 13 223.8 12 Bạc Liêu
7.4 44.7 12 377.2 13 Cà Mau
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2011
Bảng: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa cả năm ĐBSCL năm 2011
Diện tích-nghìn ha; Năng suất-tấn/ha;Sản lượng- nghìn tấn
Địa phương Sản lượng Xếp hạng Diện tích Năng suất ST T SL lúa Xếp hạng NS lúa
ĐBSCL 4.094,03 5,68 23.269,33
5,68 1 Vĩnh Long 181,59 6 1.032,27 10
5,27 2 Long An 484,21 10 2.550,60 4
5,51 3 Tiền Giang 241,77 8 1.332,81 6
4,71 4 Bến Tre 76,96 362,17 13 12
4,96 5 Trà Vinh 233,02 11 1.155,26 8
6,19 6 Đồng Tháp 501,10 2 3.100,19 3
6,35 7 An Giang 607,59 1 3.856,80 2
5,71 8 Kiên Giang 686,92 5 3.921,15 1
5,74 9 Cần Thơ 224,64 4 1.289,71 7
5,30 10 Hậu Giang 212,74 9 1.128,50 9
5,99 11 Sóc Trăng 348,98 3 2.090,64 5
5,53 12 Bạc Liêu 164,37 7 908,86 11
4,15 13 Cà Mau 130,14 13 540,37 13
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2011
Bảng: Diện tích và sản lượng khoai lang các tỉnh ĐBSCL năm 2010
STT Địa phương Diện tích Sản lượng Xếp hạng SL
150.8 1390.6 Cả nước
18.7 410.5 ĐBSCL
1 Vĩnh Long 248.7 1 8.5
12 1.2 0.2 2 Long An
9 3.0 0.3 3 Tiền Giang
10 2.3 0.2 4 Bến Tre
4 28.7 1.8 5 Trà Vinh
6 Đồng Tháp 2 39.3 1.6
6 6.5 0.3 7 An Giang
8 Kiên Giang 3 35.5 1.6
11 2.1 0.2 9 Cần Thơ
5 6.9 0.5 10 Hậu Giang
8 3.2 2.7 11 Sóc Trăng
7 3.4 0.6 12 Bạc Liêu
13 0.9 0.2 13 Cà Mau
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2011
Bảng tổng hợp chi phí sản xuất 3 vụ lúa năm 2010
STT
Khoản Mục
ĐVT
Hè Thu
Thu Đông
Đông Xuân
B/Q cả năm 53,32
Tạ/ha
47,98
46,22
65,76
1
Đồng/kg
2.883
3.411
3.004
3.100
2
% % %
7,01 24,09 15,38
9,06 30,59 14,56
7,53 29,66 15,21
2.1 2.2 2.3
% %
25,44 20,25
24,73 22,88
29,64 23,87
2.4 2.5
4.995
1.000Đ
8.436
20.155
11.195
2.6 3
Đồng
3.724
5.055
5.879
4.886
4
Năng suất trên diện tích gieo trồng Chi phí sản xuất cho 1kg lúa(chưa tính chi phí thuê đất, đấu thầu đất và trả lãi vay) Giống Phân bón Chi phí mua thuốc bảo vệ thực vật, nguyên nhiên liệu, thuế, phí.. Chi phí thuê ngoài Chi phí lao động tự làm Chi phí khác Lợi nhuận bình quân 1ha trồng lúa Giá bán bình quân 1kg lúa
( Điều tra của Cục Thống Kê Vĩnh Long – Tháng 12/2011 được tổng hợp lại)
Bảng 2.16.Chi phí sản xuất bưởi Năm roi dựa trên Hệ số nguồn lực nội địa (DRC)
Theo kết quả điều tra của Cục Thống Kê Vĩnh long về hiệu quả nuôi trồng một số cây, con chủ yếu năm 2011, đối với cây bưởi năm roi có chi phi sản xuất năm 2010 như sau:
Tổng số
TT Khoản mục 1 Sản lượng thu hoạch 2 Năng suất Chi phí sản xuất 3 3.1 Chi phí phân bón Đơn vị tính Tấn Tấn 1.000 đồng % 278,52 1,15 646.620 36,12
% 27,44 3.2 Chi phí thuốc bảo vệ thực vật, nguyên nhiên liệu, thuế, phí..
4,5 31,92 26.680,57 % % 1.000 đồng/ha
3.3 Chi phí thuê ngoài 3.4 Chi phí lao động tự làm Chi phí sản xuất cho 1ha 4 bưởi(chưa tính chi phí thuê đất và đấu thầu đất và trả lãi vay) Lợi nhuận bình quân 1ha bưởi 5 47.706,63
6 Giá bán bình quân 1.000 đồng/ha Đồng/kg 6.470
( Điều tra của Cục Thống Kê Vĩnh Long – Tháng 12/2011 được tổng hợp lại)
Bảng 2.18. Chi phí sản xuất cây khoai lang vụ Đông Xuân
Đơn vị tính Hộ Ha Tấn Tạ/ha 1000 đồng 1000 đồng % % % % %
Tổng số 50 37,7 1.017,1 269,81 7.866.524 2.874.558 100,00 32,38 14,17 18,21 16,81
% % 1000 đồng
31,79 19,02 75.949
1000 đồng Đồng/kg
132.427 7.723
Chỉ Tiêu 1.Số đơn vị điều tra 2.Diện tích gieo trồng 3.Sản lượng sản phẩm thu hoạch 4.Năng suất trên diện tích gieo trồng 5.Tổng thu 6.Tổng chi phí sản xuất 7.Cơ cấu chi phí sản xuất 7.1 Giống,phân bón - Giống - Phân bón 7.2.Chi phí thuốc bảo vệ thực vật,nguyên nhiên liệu, thuế, phí… 7.3.Chi phí thuê ngoài 7.4.Chi phí lao động tự làm 8.Chi phí sản xuất cho 1 ha khoai lang ( chưa tính chi phí thuê đất,đấu thầu đất và trả lải tiền vay) 9.Lợi nhuận bình quân 1 ha trồng khoai lang 10.Giá bán bình quân khoai lang (đả trừ giá trị tận thu sản phẫm phụ) 11.Giá trị sản phẩm phụ tận thu
1000 đồng
11.600
Nguồn: Điều tra của Cục Thống Kê Vĩnh Long – Tháng 12/2011 được tổng hợp lại
Bảng: Chi phí nuôi cá tra 6 tháng đầu năm
Khoản mục
Tổng số
Số đơn vị điều tra Diện tích thu hoạch Sản lượng thu hoạch Tổng giá trị sản lượng thu hoạch Tổng chi phí sản xuất Cơ cấu chi phí sản xuất
Giống Thức ăn
- -
STT 1 2 3 4 5 6 6.1 Con giống,thức ăn 6.2 Chi phí xử lý môi trường,nguyên
Đơn vị tính Hộ,TT Ha Tấn 1.000 đồng 1.000 đồng % % % % %
50 21,7 5.317,4 130.592.226 116.615.448 100,00 93,47 5,25 88,21 4,22
nhiên liệu,thuế,phí…
% % Đồng/kg
2,14 0,17 21.931
8
1.000 đồng
2.629
9
1.000 đồng
643.024
6.3 Chi phí thuê ngoài 6.4 Chi phí lao động tự làm của hộ Chi phí sản xuất cho 1kg (chưa 7 tính chi phí thuê, đấu thầu đất và trả lải tiền vay) Lợi nhuận bình quân cho 1 tấn sản lượng thu hoạch (chưa tính chi phí thuê,đấu thầu dất và trả lãi vay) Lợi nhuận bình quân 1ha diện tích nuôi cá tra (chưa tính chi phí thuê, đấu thầu đất và trả lãi vay)
Nguồn: Chi cục thuỷ sản tỉnh Vĩnh Long
PHỤ LỤC 2
Sản phẩm gạo của công ty Cổ phần Lương thực Vĩnh Long
Thu hoạch khoai lang ở huyện Bình Tân
Sản phẩm cá tra phi lê
Bưởi Năm roi Bình Minh
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP THEO TIÊU CHUẨN GAP
1/ Sản xuất nông nghiệp bền vững GAP (Good Agricultural Practices) là gì?
Thực hành nông nghiệp tốt (Good Agriculture Practices - GAP) là những nguyên tắc được thiết lập nhằm đảm bảo một môi trường sản xuất an toàn, sạch sẽ, thực phẩm phải đảm bảo không chứa các tác nhân gây bệnh như chất độc sinh học (vi khuẩn, nấm, virus, ký sinh trùng) và hóa chất (dư lượng thuốc BVTV, kim loại nặng, hàm lượng nitrat), đồng thời sản phẩm phải đảm bảo an toàn từ ngoài đồng đến khi sử dụng.
GAP bao gồm việc sản xuất theo hướng lựa chọn địa điểm, việc sử dụng đất đai, phân bón, nước, phòng trừ sâu bệnh hại, thu hái, đóng gói, tồn trữ, vệ sinh đồng ruộng và vận chuyển sản phẩm, v.v. nhằm phát triển nền nông nghiệp bền vững với mục đích đảm bảo:
- An toàn cho thực phẩm
- An toàn cho người sản xuất
- Bảo vệ môi trường
- Truy nguyên được nguồn gốc sản phẩm
2/ Tiêu chuẩn của GAP về thực phẩm an toàn tập trung vào 4 tiêu chí sau:
a/ Tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất
Mục đích là càng sử dụng ít thuốc BVTV càng tốt, nhằm làm giảm thiểu ảnh hưởng của dư lượng hoá chất lên con người và môi trường:
+ Quản lý phòng trừ dịch hại tổng hợp(Intergrated Pest Management = IPM)
+ Quản lý mùa vụ tổng hợp (Itergrated Crop Management = ICM).
+ Giảm thiểu dư lượng hóa chất(MRL = Maximum Residue Limits) trong sản phẩm.
b/ Tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm
Các tiêu chuẩn này gồm các biện pháp để đảm bảo không có hoá chất, nhiễm khuẩn hoặc ô nhiễm vật lý khi thu hoạch:
+ Nguy cơ nhiễm sinh học: virus, vi khuẩn, nấm mốc
+ Nguy cơ hoá học.
+ Nguy cơ về vật lý.
c/ Môi trường làm việc
Mục đích là để ngăn chặn việc lạm dụng sức lao động của nông dân:
+ Các phương tiện chăm sóc sức khoẻ, cấp cứu, nhà vệ sinh cho công nhân
+ Đào tạo tập huấn cho công nhân
+ Phúc lợi xã hội.
d/ Truy nguyên nguồn gốc
GAP tập trung rất nhiều vào việc truy nguyên nguồn gốc. Nếu khi có sự cố xảy ra, các siêu thị phải thực sự có khả năng giải quyết vấn đề và thu hồi các sản phẩm bị lỗi.
Tiêu chuẩn này cho phép chúng ta xác định được những vấn đề từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm.
3. GAP mang lại lợi ích gì?
°An toàn: vì dư lượng các chất gây độc (dư lượng thuốc BVTV, kim loại nặng, hàm lượng nitrát) không vượt mức cho phép, không nhiễm vi sinh, đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng.
° Chất lượng cao (ngon, đẹp…) nên được người tiêu dùng trong và ngoài nước chấp nhận.
° Các quy trình sản xuất theo GAP hướng hữu cơ sinh học nên môi trường được bảo vệ và an toàn cho người lao động khi làm việc.