BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------------------------
NGUYỄN NGỌC LOAN
GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số
: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN HUY HOÀNG
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa
công bố tại bất cứ nơi nào. Luận văn được hoàn thành sau quá trình học tập, nghiên
cứu thực tiễn, kinh nghiệm bản thân và dưới sự tận tình hướng dẫn của PGS - TS
Trần Huy Hoàng.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Ngọc Loan
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt
thời gian tôi học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS – TS Trần Huy Hoàng, người đã
hướng dẫn cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả
Nguyễn Ngọc Loan
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu
Danh mục các hình vẽ
Lời mở đầu ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG
CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ..................................... 3
1.1 Những vấn đề cơ bản về rửa tiền ................................................................ 3
1.1.1 Khái niệm rửa tiền ................................................................................ 3
1.1.2 Các hình thức rửa tiền .......................................................................... 5
1.1.3 Chu trình rửa tiền ................................................................................. 8
1.2 Ảnh hưởng của rửa tiền đối với nền kinh tế ............................................... 9
1.3 Hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ............................................ 13
1.3.1 Khái niệm rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ..................................... 13
1.3.2 Các dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................ 13
1.3.3 Nội dung phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................. 16
1.4 Các tổ chức tham gia phòng chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế .......... 17
1.5 Hoạt động phòng chống rửa tiền trên thế giới ......................................... 22
iv
1.5.1 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Mỹ .............................................. 22
1.5.2 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Anh ............................................. 25
1.5.3 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở một số nước khác ....................... 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ... 27
2.1 Cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng Việt Nam ..................................................................................................... 27
2.2 Tổ chức thực hiện phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt
Nam………………………………………………………………………………..29
2.3 Thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam ........ 31
2.4.1 Những kết quả đã đạt được ................................................................ 33
2.4.2 Những tồn tại, hạn chế ........................................................................ 37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 45
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG
RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM .............................. 47
3.1 Giải pháp về phía Nhà nước ...................................................................... 47
3.2 Các giải pháp về phía NHNN: ................................................................... 51
3.3 Các giải pháp về phía NHTM ................................................................ 52
3.3.1 Các giải pháp liên quan đến nguồn nhân lực ................................. 52
3.3.2 Giải pháp về cơ chế vận hành, quản trị hệ thống .......................... 53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 66
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 67
v
PHỤ LỤC 1 .......................................................................................................... 70
PHỤ LỤC 2 .......................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
AML (Anti – Money Laundering): chống rửa tiền
AMLO (Anti – Money Laundering Office) hay AMLC (Anti – Money Laundering
Council): Cơ quan chuyên trách chống rửa tiền
APG (Asia Pacific Group): Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương
CDD (Customer Due Diligence): yêu cầu chú ý xác đáng khách hàng
FATF (Financial Action Task Force): Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa
tiền
FIU (Financial Intelligence Unit): đơn vị tình báo tài chính
GPML (Global Programme against Money – Laundering): chương trình toàn cầu
về chống rửa tiền
IMF (International Moneytary Fund): Quỹ tiền tệ quốc tế
KYC (Know your customer): Biết về khách hàng của mình
ODC (Office on Drugs anh Crime): Văn phòng Ma túy và Tội Phạm
UNODC (United Nations Office on Drugs anh Crime): Cơ quan phòng chống ma
túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc
vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
CSTT: chính sách tiền tệ
G7: Nhóm 7 nước công nghiệp hàng đầu của thế giới bao gồm Pháp, Đức, Ý, Nhật,
Anh, Hoa Kỳ, Canada
LHQ: Liên Hợp Quốc
LR: Liberty Reserve
NHTW: Ngân hàng Trung Ương
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
PCRT: phòng chống rửa tiền
TCTC: tổ chức tài chính
TCTD: tổ chức tín dụng
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 1.1: Những ngân hàng bị chính phủ Mỹ cáo buộc liên quan đến rửa tiền
với số tiền phạt lớn nhất ...................................................................................... 24
Bảng 2.1: Kết quả tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch đáng ngờ ................ 32
Bảng 2.2: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Cục PCRT thu thập từ
năm 2006 – 2012 (số báo cáo) .............................................................................. 33
Bảng 3.1 Các dấu hiệu định lượng ...................................................................... 55
Bảng 3.2 Các dấu hiệu định tính ......................................................................... 58
Biểu đồ 1.1: Số trường hợp bị kết án về tội rửa tiền từ năm 2006 – 2011 ở Mỹ 24
Biểu đồ 2.1: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012 (Tỷ
USD). .................................................................................................................... 40
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán ........................ 43
ix
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Chu trình rửa tiền ................................................................................. 8
Hình 2.1: Quy trình phòng chống rửa tiền tại Vietcombank ............................ 30
1
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động rửa tiền thường gắn liền với hoạt động tội phạm ở các quốc gia nhằm che
đậy nguồn gốc bất hợp pháp của nguồn thu nhập có được từ hoạt động phạm tội. Rửa
tiền không chỉ ảnh hưởng xấu đến uy tín của quốc gia mà còn tác động đến cơ cấu
chính trị, tác động đến tính hiệu quả của thị trường tài chính, tác động đến môi trường
đầu tư…Vì vậy, kiểm soát được hoạt động rửa tiền là một trong những cách thức bảo
vệ hữu hiệu nhất cho nền kinh tế xã hội chính trị của mỗi quốc gia. Ngày nay cùng với
quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển liên tục của công nghệ thông tin, hành vi rửa
tiền ngày càng lớn về mặt quy mô, đa dạng, tinh vi về cách thức tiến hành. Ngân hàng
và tổ chức tài chính có thể vô tình trở thành trung gian cho việc chuyển những khoản
tiền thu được từ hoạt động phạm tội, cung ứng cho bọn tội phạm dịch vụ bảo quản tiền
một cách thuận lợi và an toàn. Đặc biệt, khi các trung tâm tiền tệ hàng đầu thế giới
đang nỗ lực chống lại hoạt động rửa tiền thì tội phạm rửa tiền có xu hướng chuyển hoạt
động rửa tiền sang các quốc gia mới nổi, có hệ thống tài chính ngân hàng lỏng lẻo, sơ
khai trong đó có Việt Nam. Công tác phòng chống rửa tiền tại các NHTM Việt Nam
mới được chú ý trong những năm gần đây nhưng vẫn thiếu sự hỗ trợ của các qui định
pháp luật, các công cụ cũng như nguồn lực cần thiết. Với mong muốn đóng góp ý kiến
vào công cuộc phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam, đề tài “GIẢI
PHÁP PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM”
được chọn để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về hoạt động rửa tiền.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết kết hợp với thực trạng của hoạt động rửa tiền
trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng để đánh giá những kết quả đã đạt
2
được, những tồn tại và hạn chế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong hoạt động
chống rửa tiền.
- Đề xuất giải pháp để phòng chống hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: PCRT qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: chỉ xem xét ở góc độ hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng Việt Nam. Khung thời gian thu thập số liệu trong nghiên cứu: từ 2006 – 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu theo 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rửa tiền và phòng chống rửa tiền qua ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG
RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
1.1 Những vấn đề cơ bản về rửa tiền
1.1.1 Khái niệm rửa tiền
- Theo Liên Hợp Quốc, dựa vào công ước Vienna (1988) và công ước Palermo
(2000), khái niệm rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất là: Việc sử dụng
(nghĩa là bất cứ hình thức nào của cả hành động cho và nhận) bất cứ tài sản nào mà
nó được cho là có nguồn gốc từ hoạt động hoàn toàn hay một phần của phạm tội mà
có hoặc từ hoạt động che đậy, trá hình nhằm giúp đỡ người phạm tội đó thoát khỏi
pháp luật.
- Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): “Rửa tiền” là quá trình chuyển đổi
qua nhiều giai đoạn khoản tiền kiếm được từ những hoạt động bất hợp pháp hoặc tội
phạm để nó có vẻ được phát sinh từ các quỹ hợp pháp.
- Theo quan điểm của các nhà tội phạm học, “rửa tiền” là hoạt động mà bọn tội
phạm tiến hành để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của những đồng tiền tội lỗi. Hoạt
động rửa tiền là hành vi hợp thức hoá những khoản tiền thu được từ hoạt động tội
phạm. Mục đích của hoạt động rửa tiền là tạo ra một khoảng cách xa nhất giữa tài sản
bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Hình thức biểu hiện lợi nhuận có được
ban đầu thông thường là “tiền”, nhưng sau các giai đoạn chuyển đổi để hợp pháp hoá
“tiền” đã có các hình thức biểu hiện khác như: ngân phiếu, thẻ tín dụng, bất động sản...
Nhìn chung các hình thức biểu hiện lợi nhuận của hoạt động rửa tiền bao gồm những
lợi ích kinh tế của hoạt động rửa tiền mang lại được quy là “sản phẩm của tội phạm”
(Theo Công ước Strasbong 1990 của Hội đồng Châu Âu)
- Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền ( FATF) đã định nghĩa hoạt
động “rửa tiền” là:
Việc giúp đỡ các đối tượng phạm pháp lẫn tránh sự trừng phạt của pháp luật;
Việc cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất, việc cất giấu, di chuyển hay chuyển
quyền sở hữu tài sản phạm pháp;
Việc cố ý mua, sở hữu hay sử dụng tài sản phạm pháp
4
- Luật phòng, chống rửa tiền đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XVIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012, hiệu lực từ
01/01/2013 giải thích thuật ngữ “rửa tiền” như sau: “ Rửa tiền là hành vi của cá nhân,
tổ chức nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm:
a) Hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự;
b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh
trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm
tội mà có;
c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do
phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản”
- Đối tượng hoạt động rửa tiền bao gồm những cá nhân và pháp nhân tham gia
vào quá trình “rửa tiền” với mong muốn hợp pháp hoá tiền và tài sản có được từ hoạt
động tội phạm và sử dụng tài sản đó. Chủ sở hữu những khoản tiền cần tẩy rửa bao
gồm những cá nhân và tổ chức đã thực hiện các hành vi tội phạm như:
Buôn bán ma tuý, vũ khí, mại dâm, làm tiền giả, tổ chức đánh bạc
Tham nhũng, nhận hối lộ hoặc lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước
để biết trước các chủ trương, chính sách quy hoạch để trục lợi cá nhân
Mua bán nội gián trên thị trường chứng khoán
Trốn thuế hoặc do hoạt động chuyển giá giữa các công ty thuộc cùng một tập
đoàn hoặc công ty mẹ - con
Ở một số nước có hệ thống chống rửa tiền nghiêm khắc và hoàn chỉnh như Mỹ
và cộng đồng Châu Âu thì đối tượng hoạt động rửa tiền khá rộng. Ngoài những cá
nhân, pháp nhân có hành vi rửa tiền một cách trực tiếp, nhân viên ngân hàng vô ý hay
cố ý tiếp tay cho hành vi rửa tiền qua ngân hàng đều phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật. Vì vậy, luật Ngân hàng các nước này quy định: Mọi nhân viên ngân hàng khi tiếp
nhận các khoản tiền gửi lớn đều phải có nghĩa vụ yêu cầu khách hàng khai báo nguồn
gốc tiền, chủ sở hữu thực...phục vụ thông tin phòng chống rửa tiền. Nhân viên nào
không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trên, nếu phát hiện ra các khoản tiền bất hợp
pháp, cơ quan pháp luật hoàn toàn có thể truy tố họ về một trong các tội rửa tiền vì mất
cảnh giác, không thực hiện nghĩa vụ quy định cho dù họ cho rằng, họ không biết đây là
5
tiền có nguồn gốc tội phạm và như vậy, họ cũng bị quy kết tham gia vào quá trình rửa
tiền.
Hệ thống luật pháp phòng chống rửa tiền ở những nước khác nhau có những quy
định khác nhau về loại tội phạm này. Có quốc gia chỉ rõ những hành vi phạm tội cụ thể
như: Pháp luật Malaysia liệt kê 18 tội danh, Thái Lan 24 tội danh, Australia 180 tội
danh,...Có quốc gia (như ở Việt Nam) không xác định rõ nguồn tiền được sinh ra từ
hành vi phạm tội nào cụ thể, miễn đó là thu nhập từ hành vi phạm tội.
- Tội phạm nguồn của tội rửa tiền là hành vi phạm tội chính, từ đó đã tạo ra
những đồng tiền mà khi đã được rửa thì sẽ dẫn tới hành vi phạm tội rửa tiền.
Hoạt động rửa tiền, bề ngoài có vẻ như vô hại nhưng kì thực là loại hoạt động có
tổ chức và vô cùng nguy hiểm. Rửa tiền vừa là công cụ vừa là động lực của các tổ chức
tội phạm. Khi tiền bẩn được đem rửa thì có nghĩa trước đó đã xảy ra các hoạt động
phạm pháp. Tiền có rửa được thì bọn tội phạm mới tồn tại được và càng lao vào phạm
tội để kiếm tiền bất hợp pháp. Rửa tiền là khâu cuối cùng và quan trọng nhất trong
những hoạt động phạm pháp nhằm đem lại những tài khoản kếch xù.
1.1.2 Các hình thức rửa tiền
Theo phạm vi thực hiện, thì hình thức rửa tiền thể hiện dưới 5 trường hợp:
- Trường hợp 1: “tiền bẩn” được rửa và sử dụng ngay trong nước. Đây là quá
trình rửa tiền trong đó số tiền bất hợp pháp thu được, được rửa cũng như được tái đầu
tư qua hệ thống tài chính nước đó
- Trường hợp 2: “tiền bẩn” có nguồn gốc trong nước, sau đó chuyển ra nước
ngoài để tẩy rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông ở thị
trường trong nước
- Trường hợp 3: “tiền bẩn” được hình thành ở nước ngoài, được tẩy rửa ở nước đó
hay nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển
- Trường hợp 4: “tiền bẩn” được rửa và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một
nước đang phát triển để sử dụng ở nước khác, không quay lại đầu tư cho nước đó
- Trường hợp 5: “tiền bẩn” được chuyển vào một quốc gia đang phát triển nhưng
không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi.
Theo nội dung hoạt động, rửa tiền biểu hiện thông qua một số hình thức sau đây:
6
- Thông qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt: đổi từ đồng tiền nước này sang
- Thông qua việc mua tài sản: vàng, bạc, kim cương… là những tài sản gọn nhẹ,
đồng tiền nước khác để tiêu thụ
có giá trị cao và thực hiện mua đi bán lại các tài sản này
- Thông qua sổ tiết kiệm của người lao động ngụ cư ở nước ngoài: bọn tội phạm
thường lợi dụng người lao động nước ngoài, cho họ một ít hoa hồng và yêu cầu họ gửi
một số tiền dưới mức kiểm soát của nước đó đến một tài khoản cụ thể.
- Thông qua các trung tâm giải trí, sòng bạc, xổ số, cá cược: Đây là những lĩnh
vực kinh doanh có tỉ lệ thanh toán tiền mặt cao. Lợi dụng các casino, sòng bạc này, bọn
tội phạm tổ chức đánh bạc, việc thắng thua không quan trọng, cái chính là sau khi ra
khỏi đây, chúng có giấy chứng nhận đã thắng với một khoản tiền lớn của các ông chủ
Casino. Hoặc chúng có thể tìm mua những vé xổ số, cá cược trúng thưởng có giá trị
lớn để chứng minh cho nguồn thu nhập của mình là hợp pháp.
- Thông qua các hợp đồng thương mại: bọn tội phạm khai tăng số lượng hàng hóa
trong hóa đơn mua bán hoặc lợi dụng các công ty kinh doanh hàng hóa thật nhưng
không bán hàng hoặc bán rất ít so với hóa đơn. Những hóa đơn chứng từ đó, chứng
minh cho thu nhập của chúng có được là nhờ hoạt động kinh doanh.
- Thông qua đầu tư nước ngoài: Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các
quốc gia đang phát triển tăng cường kêu gọi đầu tư nước ngoài, tạo hành lang pháp lí
thông thoáng cho nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trong nước. Đây là điều kiện thuận
lợi cho hoạt động rửa tiền. Chúng mang tiền vào thuê quyền sử dụng đất, lập nhà
xưởng… Trong quá trình hoạt động, lợi nhuận được chuyển đến một số địa chỉ theo
mong muốn. Một thời gian sau, chúng tuyên bố phá sản hoặc biến mất, những đồng
tiền bẩn đã được khoác vỏ bọc hợp pháp.
- Thông qua các giao dịch xuyên quốc gia: Lợi dụng các yếu tố địa lí và sự khác
nhau về mặt pháp luật, bọn tội phạm vận chuyển tiền qua biên giới, tạo khoảng cách về
địa lí giữa tội phạm gốc và đồng tiền cần tẩy rửa. Từ đó, chúng tìm cách đưa vào hệ
thống tài chính, ngân hàng để rồi có thể rút ra ở nước thứ ba, thứ tư. Ở một số quốc gia,
hoạt động rửa tiền chưa được quy định là tội phạm hình sự nên những hành vi phạm tội
của bọn tội phạm ở đó càng gặp ít rủi ro.
7
- Thông qua thị trường chứng khoán: Những đồng tiền bẩn được dùng để mua cổ
phiếu tại thị trường chứng khoán. Sau một thời gian, số cổ phiếu này được bán lại với
giá thấp hơn. Số tiền mà bọn tội phạm nhận được thông qua hệ thống tài chính nên
được xem là hợp pháp.
- Thông qua hệ thống tài chính ngân hàng:
Bọn tội phạm gửi tiền dưới mức kiểm soát vào những thời điểm khác nhau, ở
nhiều nơi trên thế giới. Sau một thời gian chuyển khoản qua nhiều ngân hàng,
chúng có thể rút tiền ở ngân hàng của nước thứ ba, thứ tư một cách hợp pháp.
Bọn tội phạm nhân danh hoặc trà trộn vào các khoản kiều hối thông thường để
chuyển tiền từ nước ngoài về trong nước. Lúc này các ngân hàng thường được
chọn lựa không những vì khả năng có thể giao dịch những khoản tiền rất lớn,
mà còn vì một đồng tiền lọt được vào tài khoản ngân hàng lập tức trở thành
đồng tiền sạch và từ đó có thể thực hiện được ngay các lệnh thanh toán.
Lợi dụng tổ chức tín dụng: Bọn tội phạm gửi tiền vào các quỹ tiết kiệm hoặc
mua trái phiếu, tín phiếu…làm cho đồng tiền nằm im trong một thời gian phù
hợp với quy định của mỗi nước. Sau đó, người gởi tiền rút dần hoặc mang các
giấy tờ có giá đi cầm cố, thế chấp để vay một khoản tiền nhất định.
- Thông qua hệ thống ngân hàng “ngầm”: Tại một số nước, hệ thống ngân hàng
hoạt động kém hiệu quả, đắt đỏ mà lại quan liêu. Do đó, trong cộng đồng những người
nước ngoài tại các quốc gia này tồn tại hệ thống ngân hàng không chính thức gọi là
ngân hàng “ngầm”. Hệ thống ngân hàng ngầm này hoạt động và luân chuyển tài chính
như các ngân hàng chính thức nhưng với chi phí dịch vụ rẻ hơn, bí mật hơn các ngân
hàng hợp pháp. Các ngân hàng ngầm có đại diện ở nhiều nước khác nhau để thực hiện
dịch vụ chuyển tiền từ nước này sang nước khác hoặc từ thành phố này sang thành phố
khác trong cùng một quốc gia. Sự hoạt động của ngân hàng này chủ yếu dựa trên niềm
tin giữa ngân hàng và bạn hàng nên thủ tục giấy tờ gọn nhẹ. Bọn tội phạm lợi dụng
nguyên tắc giữ bí mật của những ngân hàng này đã đem tiền đến gửi và yêu cầu nhận
lại ở một thành phố khác. Những địa chỉ cần nhận tiền tẩy rửa thông thường là những
quốc gia khao khát đầu tư tài chính nhưng ít quan tâm đến nguồn gốc đồng tiền, việc
8
thanh toán qua ngân hàng chưa phải là yêu cầu bắt buộc và phổ biến, hệ thống pháp
luật về phòng chống rửa tiền chưa nghiêm.
1.1.3 Chu trình rửa tiền
Nguyên tắc của rửa tiền là tạo ra một chuỗi các giao dịch nhằm mục đích che đậy
nguồn gốc của các nguồn tiền có được từ các hoạt động phi pháp và làm cho chúng
ngày càng xa nguồn gốc ban đầu. “Tiền bẩn” được chuyển từ tổ chức tài chính này
sang tổ chức tài chính khác, vượt ra khỏi biên giới của quốc gia, vùng lãnh thổ để che
giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của nó. Việc rửa tiền thường được tiến hành theo một
chu trình cơ bản bao gồm 3 giai đoạn: phân phối, dàn trải, hội nhập.
Hình 1.1: Chu trình rửa tiền
- Giai đoạn phân phối: Phân phối nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp vào các
định chế tài chính mà không bị phát hiện bởi các cơ quan luật pháp. Các tội phạm rửa
tiền thực hiện đầu tư phân tán bằng cách chia các khoản “tiền bẩn” thành nhiều khoản
tiền nhỏ dưới mức quy định phải khai báo nguồn gốc.
- Giai đoạn dàn trải: Tiền được chuyển từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài
chính khác để che giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của tiền. Thực chất đây là quy trình
tạo ra một chuỗi các giao dịch nhằm mục đích che đậy các nguồn tiền từ các hoạt động
phi pháp và làm cho chúng ngày càng xa nguồn gốc ban đầu. Giai đoạn này có thể gồm
rất nhiều giao dịch giữa các ngân hàng, giao dịch từ tài khoản này sang tài khoản khác
với tên giao dịch khác nhau tại các ngân hàng khác nhau; hay gửi và rút tiền liên tiếp
9
với giá trị khác nhau; thay đổi loại tiền tệ, hay mua những món đồ đắt tiền (du thuyền,
nhà, ô tô, kim cương) để chuyển tiền thành những mặt hàng khác. Đây là giai đoạn
phức tạp nhất trong quá trình rửa tiền, mục đích khiến cho “tiền bẩn” càng khó theo
dõi, càng khó lần ra nguồn gốc càng tốt.
- Giai đoạn hội nhập: Tiền được đầu tư vào những hoạt động kinh doanh hợp
pháp. Tiền sẽ được phân phối trở lại vào nền kinh tế với nguồn gốc không thể tìm ra
được dấu vết của chúng. Giai đoạn này được tiến hành bằng các hành vi tiêu dùng, đầu
tư vào các doanh nghiệp và đầu tư tài chính. Thủ đoạn của những kẻ rửa tiền lúc đầu
thường chuyển đổi sang chi phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để
tạo vỏ bọc uy tín, làm ăn có lãi, tài trợ từ thiện, đóng góp xây dựng hoặc mua bất động
sản, mua ô tô đắt tiền, xây dựng các công trình…sau đó bán lại để thu tiền; hay đóng
góp cổ phần vào các công ty lớn, sau đó chuyển nhượng cổ phần. Lúc này, chúng có
thể sử dụng số tiền thu được một cách hợp pháp mà không bị truy tố. Rất khó để bắt kẻ
rửa tiền trong giai đoạn này nếu không có đầy đủ giấy tờ và hồ sơ liên quan tới các giai
đoạn trước của quá trình rửa tiền.
1.2 Ảnh hưởng của rửa tiền đối với nền kinh tế
Rửa tiền không trực tiếp ảnh hưởng đến tính mạng của con người, không trực tiếp làm
mất đi tài sản của bất cứ cá nhân, gia đình nào. Do vậy, thoạt nhìn, rửa tiền có vẻ là vô
hại, không có nạn nhân, không có tổn thất. Xét dưới một góc độ nào đó, nhiều ý kiến
cho rằng rửa tiền cũng mang lại lợi ích, đặc biệt là đối với các nước có nền kinh tế
đang phát triển, chẳng hạn như rửa tiền sẽ làm tăng nguồn vốn đầu tư (có thể là nguồn
vốn phi pháp) vào các nước đang phát triển, tạo cơ hội cho việc phát triển hạ tầng, phát
triển kinh tế (có thể mang tính chất nhất thời) ở các quốc gia này; rửa tiền sẽ làm cho
tính thanh khoản được cải thiện đáng kể, giải quyết được bài toán cung – cầu ngoại tệ
của quốc gia. Tuy nhiên, xét về bản chất, hành vi rửa tiền tác động rất lớn, rất nghiêm
trọng đến nhiều lĩnh vực của xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế của các quốc gia đang
phát triển, cụ thể:
- Làm mất sự kiểm soát các chính sách kinh tế: các sai sót của chính sách tài
chính từ các thành phần kinh tế “ảo”. Dòng tiền bẩn được đổ vào thị trường theo ý của
những kẻ rửa tiền, tạo nên những nhu cầu giả, và chính quyền phải đưa ra các chính
10
sách để cân bằng lại. Và khi những kẻ rửa tiền đã đạt được lợi nhuận theo ý muốn, hay
khi bắt đầu bị chính quyền để mắt tới, chúng sẽ rút toàn bộ số tiền này về làm khuynh
đảo nền kinh tế, gây mất ổn định trong toàn bộ nền kinh tế như hiện tượng tháo chạy
vốn nước ngoài đã từng xảy ra ở Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu
vực Đông Nam Á năm 1997.
- Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân:
Các tổ chức tội phạm lợi dụng những khoản tiền bất hợp pháp đã được tẩy rửa
để thâu tóm một cách hợp pháp các công ty kinh doanh trong nước, kể cả các
ngân hàng và biến những tổ chức này thành công cụ rửa tiền. Quyền và lợi ích
của các cá nhân, tổ chức làm ăn chính đáng bị xói mòn và không được bảo vệ
bình đẳng.
Những doanh nghiệp nhỏ làm ăn hợp pháp không thể cạnh tranh lại được với
các doanh nghiệp rửa tiền, do các doanh nghiệp này bán hàng với giá rẻ hơn
nhiều vì mục đích chính của chúng là rửa tiền chứ không phải là thu lợi nhuận
từ việc bán hàng. Họ vẫn thu được món lời lớn ngay cả khi bán hàng với giá
thấp hơn giá cả thực của mặt hàng đó.
- Làm suy yếu nền kinh tế thực: Rửa tiền có tác dụng tiêu cực trực tiếp và lớn hơn
lên tăng trưởng của nền kinh tế thực thông qua việc chuyển hướng các nguồn lực khan
hiếm đến các khu vực/hoạt động ít hiệu quả hơn. Tiền sau khi "rửa" thường được đầu
tư vào những nơi không tạo ra thêm nhiều giá trị thặng dư như bất động sản, đồ cổ, tác
phẩm nghệ thuật, đồ trang sức và ô tô sang. Nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ này hay
đầu tư vào những ngành không tạo giá trị thặng dư có tác động tiêu cực đến tăng
trưởng.
Rửa tiền sẽ làm tăng tội phạm, đặc biệt là tăng tình hình tham nhũng - một vấn
đề khá phức tạp tại Việt Nam hiện nay. Mục đích của bọn tội phạm, đặc biệt là tội tham
nhũng là tạo ra nhiều tiền, tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên, việc sử dụng số tiền, số lợi
nhuận có được từ việc phạm tội, từ việc tham nhũng là một bài toán hóc búa, dễ bị
phanh phui, vạch trần hành vi vi phạm. Rửa tiền thành công giúp cho bọn tội phạm vừa
sử dụng được nguồn tiền đã chiếm được, vừa né trách sự vạch trần, phanh phui hành vi
vi phạm. Tội phạm rửa tiền có thể biến các doanh nghiệp lành mạnh thành nơi phục vụ
11
chủ yếu mục đích rửa tiền chứ không phải là theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
hợp pháp, dẫn đến giảm tăng trưởng.
- Rửa tiền sẽ làm suy yếu các TCTC, gây nguy hại cho sự lành mạnh của hệ thống
tài chính của một đất nước cũng như sự ổn định cho từng TCTC. Những hậu quả đó
được coi là rủi ro đối với uy tín, nghiệp vụ, pháp lý và rủi ro tập trung đều có mối quan
hệ qua lại với nhau. Mỗi rủi ro đều gây ra những chi phí cụ thể:
Mất đi hoạt động kinh doanh sinh lợi
Những vấn đề về tính thanh khoản do việc rút tiền gây ra
Cắt đứt các cơ sở ngân hàng đại lý
Các chi phí điều tra và tiền phạt
Thu giữ tài sản
Tổn thất cho vay
Giảm giá trị cổ phiếu của các TCTC
Rủi ro về uy tín là một loại rủi ro tiềm ẩn, ở đó công chúng biết về các khía cạnh
bất lợi trong các phương pháp kinh doanh và những mối liên kết của ngân hàng. Dù
điều đó có chính xác hay không thì cũng sẽ làm mất niềm tin vào tính liêm chính của tổ
chức đó. Khách hàng, cả người vay tiền lẫn người gởi tiền cũng như các nhà đầu tư sẽ
ngừng kinh doanh với một tổ chức mà uy tín đã bị hủy hoại bởi sự nghi ngờ hoặc
những lập luận thiếu căn cứ về rửa tiền. Việc mất những khách hàng vay tiền có phẩm
chất cao sẽ làm giảm các khoản cho vay sinh lợi và làm tăng rủi ro của toàn bộ danh
mục vốn cho vay. Việc những người gởi tiền rút tiền gởi ra khỏi các TCTC sẽ làm
giảm nguồn tài trợ với chi phí thấp. TCTC lại càng không thể dựa vào những khoản
tiền gởi của những kẻ rửa tiền để làm nguồn cấp vốn ổn định. Những khoản tiền lớn
sau khi được rửa thường bị bất ngờ rút ra khỏi TCTC thông qua lệnh chuyển tiền điện
tử hoặc những phương tiện chuyển tiền khác, từ đó gây ra những vấn đề tiềm ẩn về tính
thanh khoản.
Rủi ro nghiệp vụ cũng tiềm tàng do những thất thoát bắt nguồn từ các quy trình nội
bộ không đầy đủ, từ con người và hệ thống hoặc từ những sự kiện ngoại sinh. Những
thất thoát xảy ra khi các TCTC phải gánh chịu tình trạng giảm, ngừng hoặc tăng chi phí
12
đối với các dịch vụ liên ngân hàng hoặc các dịch vụ giao dịch ngân hàng; chi phí vay
vốn và chi phí cấp vốn tăng lên.
Rủi ro pháp lý cũng tiềm ẩn do những vụ kiện, phán quyết bất lợi của tòa án, hợp
đồng không thể thực hiện được, tiền phạt và các hình phạt khác sẽ gây ra thua lỗ, làm
tăng chi phí thậm chí dẫn đến nguy cơ phá sản của TCTC.
Rủi ro tập trung bắt nguồn từ rủi ro do có quá nhiều khoản tín dụng hoặc vốn cho
vay tập trung vào một khách hàng vay. Những quy định pháp luật thường hạn chế rủi
ro về tập trung vốn vay vào một khách hàng hay một nhóm khách hàng có liên quan.
Việc thiếu hiểu biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh của khách hàng đó hoặc mối
quan hệ của khách hàng này với những khách hàng vay vốn khác là rủi ro thực sự nếu
những đối tác có liên quan với nhau, những người vay vốn có quan hệ với nhau và
cùng thu nhập chung hoặc tài sản chung. Tổn thất vốn vay cũng bắt nguồn từ những
hợp đồng không khả thi hoặc những hợp đồng được ký với những nhân vật hư cấu.
Các ngân hàng và các chủ tài khoản ngân hàng sẽ được bảo vệ khi ngân hàng có sẵn
các hệ thống hữu hiệu về sự chú ý xác đáng khách hàng và nhận dạng chủ sở hữu
hưởng lợi.
- Tác động tiêu cực đến hoạt động ngoại thương và lưu chuyển vốn: Rửa tiền có
thể dẫn đến sự méo mó về ngoại thương, với nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ tăng mạnh
nhờ tiền đã được rửa. Rửa tiền còn dẫn đến “chảy máu” vốn ra nước ngoài dưới bàn tay
điều khiển của các tổ chức tài chính nội địa và/hoặc nước ngoài trong các đường dây
rửa tiền xuyên quốc gia, dẫn đến khan hiếm vốn ngoại tệ thiết yếu cho các hoạt động
kinh tế nội địa.
- Làm giảm uy tín quốc gia và giảm đầu tư nước ngoài: Khi một quốc gia không
kiểm soát được vấn nạn rửa tiền thì đồng nghĩa với việc quốc gia đó không có hệ thống
tài chính minh bạch; không có hệ thống pháp luật chặt chẽ, nghiêm minh; các con số
thống kê tài chính của quốc gia bị bóp méo, không phản ánh đúng bản chất thực tế. Do
vậy, các tuyên bố của quốc gia về tình hình tài chính gần như bị nghi ngờ về độ chính
xác. Đồng nghĩa với việc giảm uy tín quốc gia, các nhà đầu tư nước ngoài luôn phải đặt
dấu chấm hỏi trước khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước có tình hình tài chính
không ổn định. Họ luôn e dè bởi họ luôn phải đối mặt với nguy cơ không có khả năng
13
thu hồi vốn, đặc biệt là việc tiếp cận với những nguồn vốn viện trợ, những khoản vay
nợ nước ngoài với điều kiện ưu đãi hầu như là không thể đối với các quốc gia bị xếp
hạng tín nhiệm kém, các quốc gia không tuân thủ phòng, chống rửa tiền.
- Ngăn cản hội nhập quốc tế: trong bối cảnh hội nhập nhiều vấn đề đã trở thành
thách thức toàn cầu như bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái, phòng chống dịch bệnh,
chống khủng bố, chống tội phạm có tổ chức, bảo vệ sở hữu trí tuệ, trong đó có đấu
tranh phòng, chống rửa tiền luôn được quan tâm hàng đầu. Tiêu chí để đánh giá một
quốc gia tích cực đấu tranh phòng chống rửa tiền là quốc gia đó phải đạt được các tiêu
chí sau:
Công nhận và tham gia ký kết các công ước quốc tế về phòng, chống rửa tiền
Có hệ thống phòng, chống rửa tiền được xây dựng trên cơ sở 40 + 9 khuyến
nghị của FATF
Có tổ chức chuyên trách về đấu tranh phòng chống rửa tiền và tổ chức tốt cuộc
đấu tranh này.
1.3 Hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
1.3.1 Khái niệm rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là việc lợi dụng những kẻ hở trong các quy định giao
dịch, cho vay của ngân hàng để thực hiện tẩy rửa tiền. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
là một trong những phương thức mà bọn tội phạm thường sử dụng vì ưu điểm nổi bật
của phương thức ngày là nếu thực hiện trót lọt, dấu vết của đồng “tiền bẩn” gần như
được xóa bỏ hoàn toàn. Đồng tiền đội lốt hợp pháp được bổ sung vào dòng chảy vốn
của nền kinh tế một cách tự nhiên. Hơn nữa trên thế giới hầu như nước nào cũng có hệ
thống ngân hàng. Càng ở những nước có quy định về phòng, chống rửa tiền còn sơ
khai, việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền càng thuận lợi hơn.
1.3.2 Các dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là một trong những phương thức mà bọn tội phạm
thường sử dụng vì khả năng giao dịch lớn và đồng tiền qua ngân hàng sẽ trở thành
“tiền sạch”, từ đó có thể giao dịch đến bất kỳ đâu mà không gây ra bất cứ một sự nghi
ngờ nào về tính hợp pháp của chúng. Tuy nhiên, để có thể rửa tiền qua kênh này, bọn
14
tội phạm thường sử dụng các thủ thuật hết sức tinh vi. Do vậy, việc đưa các dấu hiệu
nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là hết sức cần thiết.
Một số dấu hiệu nhận biết các giao dịch đáng ngờ mà bọn tội phạm sử dụng để rửa tiền
như sau:
- Khách hàng yêu cầu thực hiện các giao dịch có liên quan tới các tổ chức, cá
nhân thuộc danh sách đen, danh sách cảnh báo bao gồm các giao dịch mà khách hàng
hoặc các bên có liên quan thuộc các danh sách sau:
Danh sách đen: là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố và
tài trợ khủng bố do Bộ Công An chủ trì lập theo quy định của pháp luật
Danh sách cảnh báo: là danh sách tổ chức, cá nhân do Ngân hàng Nhà nước
lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền
- Thông qua thông tin về khách hàng: khách hàng có thái độ miễn cưỡng khi cung
cấp các thông tin, chứng từ theo quy định của ngân hàng; hạn chế cung cấp thông tin,
cung cấp thông tin sai sự thật.
- Thông qua tính chất, đặc điểm của giao dịch:
Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế: các giao dịch này thường
có đặc điểm là không phù hợp với các hoạt động thông thường của khách
hàng. Ví dụ như việc sử dụng thư tín dụng và một số biện pháp tài chính
thương mại để chuyển tiền từ quốc gia này sang sang quốc gia khác. Tuy
nhiên, việc chuyển tiền này không phù hợp với hoạt động kinh doanh thông
thường của khách hàng. Một trường hợp điển hình khác là các giao dịch qua
các tài khoản mà trước đó hầu như không có giao dịch nào, nhưng hiện tại lại
có rất nhiều giao dịch một cách bất thường mà chủ tài khoản không đưa ra
được sự giải thích hợp lý cho việc liên tục sử dụng tài khoản ở mức độ cao
Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt giá trị lớn:
Mua hoặc bán ngoại tệ bằng tiền mặt với số lượng lớn cho dù khách
hàng có tài khoản trong ngân hàng
Thường rút tiền mặt từ tài khoản với số lượng lớn mà số tiền này
dường như không phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của khách
hàng
15
Rút tiền mặt từ tài khoản với số lượng lớn từ tài khoản vừa mới nhận
được một khoản tiền từ nước ngoài chuyển về
Gửi tiền mặt với số lượng lớn vào tài khoản bằng cách chia nhỏ số tiền
mặt muốn gởi thành nhiều khoản khác nhau
Khách hàng thường xuyên gửi tiền mặt với số lượng lớn vào ngân
hàng nhưng rút tiền ra khỏi tài khoản thường bằng séc chi trả cho các
cá nhân hay công ty không có quan hệ kinh doanh với khách hàng
Các giao dịch liên quan đến các tài khoản trong ngân hàng có một số điểm
bất thường:
Tài khoản có tốc độ chu chuyển tiền trong ngày rất cao thể hiện ở việc
doanh số giao dịch trên tài khoản thay đổi đột biến, doanh số giao dịch
lớn trong một khoản thời gian ngắn nhưng số dư tài khoản nhỏ
Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau
về một tài khoản thành một khoản tiền lớn và ngược lại. Trong một
khoản thời gian ngắn, tiền được chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản
khác nhau.
Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền ra nước ngoài:
Một khách hàng vãng lai chuyển tiền ra nước ngoài mà không đưa ra
lý do hợp lý
Một khách hàng chuyển tiền đến chi nhánh nước ngoài, công ty con
hoặc ngân hàng có trụ sở tại một quốc gia nơi mà buôn lậu, tham
nhũng, sản xuất và buôn bán ma túy diễn ra thường xuyên
Các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư:
Hoạt động mua bán chứng khoản không phù hợp với vị thế của khách
hàng hoặc khách hàng đầu tư kinh doanh chứng khoán bằng tiền mặt
một cách khác thường với số lượng lớn
Vốn đầu tư để thành lập doanh nghiệp đến từ các quốc gia có tỷ lệ tội
phạm cao, có hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền kém
16
- Thông qua các khoản vay có hoặc không có tài sản thế chấp: các khoản vay
được đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba mà không có mối liên hệ minh bạch với
khách hàng
1.3.3 Nội dung phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Các quốc gia trên thế giới đã thực hiện phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ
thống ngân hàng như sau:
- Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền
Nhiệm vụ của cơ quan này là giám sát việc thực hiện Luật phòng, chống rửa tiền. Có 2
mô hình hoạt động phổ biến:
Mô hình 1: cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị trực thuộc bộ máy của
Chính phủ, thường là trực thuộc NHTW, trợ giúp Chính phủ thực hiện công tác
phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh việc thực hiện chức năng giám sát thi hành
Luật phòng, chống rửa tiền, cơ quan này còn thực hiện chức năng thu thập các
thông tin từ các tổ chức tín dụng, xử lý báo cáo giao dịch đáng ngờ và đề xuất
các biện pháp liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền
Mô hình 2: cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị hoàn toàn độc lập với bộ
máy Chính phủ, không chịu sự chi phối của bất kỳ đơn vị nào trong bộ máy
chính phủ. Nó có quyền hạn, chức năng, phạm vi hoạt động rộng rãi hơn. Ở các
nước xem cơ quan này là cơ quan tình báo tài chính. Ưu điểm của mô hình này
là đảm bảo tính độc lập và khách quan trong điều tra rửa tiền
- Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền
Hiện nay, hầu hết các nước phát triển đã ban hành Luật phòng, chống rửa tiền. Đặc
điểm chung của Luật phòng, chống rửa tiền ở các nước này như sau: (i) Luôn hướng
đến việc tuân thủ các khuyến nghị của FATF;(ii) Liệt kê tất cả các tội danh liên quan
đến rửa tiền; (iii) Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết khách
hàng (iv) Quy định mức giao dịch phải báo cáo; (v) Các dấu hiệu của giao dịch đáng
ngờ; (vi) Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa
tiền
- Tổ chức thực hiện: thiết lập quy trình phòng, chống rửa tiền tại các NHTM
17
Đánh giá khách hàng, phân loại rủi ro: thông thường các ngân hàng trên thế
giới thường phân loại khách hàng theo 3 nhóm rủi ro sau:
Nhóm khách hàng có rủi ro cao: tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên
và bắt buộc trong việc tìm hiểu thông tin khách hàng
Nhóm khách hàng rủi ro trung bình: tiến hành kiểm tra, giám sát ở mức độ
bình thường và tìm hiểu thông tin về khách hàng khi có yêu cầu
Nhóm khách hàng rủi ro thấp: tiến hành kiểm tra, giám sát ở mức độ đơn
giản và chỉ đòi hỏi những thông tin thông thường về khách hàng
Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ: khi phát hiện các giao dịch đáng ngờ,
nhân viên ngân hàng phụ trách sẽ tiến hành xử lý hoặc báo cáo cấp trên xem
xét. Sau khi kiểm tra tính xác thực về thông tin khách hàng, ngân hàng sẽ
chuyển thông tin này cho cơ quan phòng, chống rửa tiền. Để thực hiện tốt
việc kiểm soát này, các ngân hàng phải được hướng dẫn xây dựng quy trình
báo cáo thông tin về giao dịch đáng ngờ nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc bảo
mật thông tin khách hàng.
Giữ bí mật: các tổ chức tài chính phải đảm bảo giữ bí mật thông tin khách
hàng tránh ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng
Lưu giữ hồ sơ về khách hàng: các thông tin về nhận dạng khách hàng và
thông tin giao dịch được lưu trong thời gian tối thiếu 5 năm hoặc dài hơn
theo yêu cầu của cơ quan chức năng, đặc biệt là các hồ sơ có liên quan đến
công tác điều tra khởi tố.
- Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện hợp tác quốc tế về phòng,
chống rửa tiền.
1.4 Các tổ chức tham gia phòng chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế
- Liên Hợp Quốc là tổ chức quốc tế đầu tiên tiến hành một hoạt động quan trọng
về chống rửa tiền thực sự trên toàn cầu. LHQ giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực này vì
một số lý do. Thứ nhất, đây là một tổ chức quốc tế với số thành viên lớn nhất. Được
thành lập vào tháng 10/1945, hiện nay số thành viên LHQ trên toàn cầu là 193. Thứ
hai, LHQ tích cực điều hành một chương trình chống rửa tiền – đó là Chương trình
toàn cầu về chống rửa tiền (GPLM) có trụ sở ở Viên, thủ đô nước Áo và là một bộ phận
18
của Văn phòng Ma túy và tội phạm (ODC) của LHQ. Thứ ba và có lẽ là quan trọng
nhất, LHQ có khả năng thông qua những hiệp ước hoặc công ước quốc tế có hiệu lực
như luật ở một nước khi nước đó đã ký, thông qua và thực hiện công ước dựa trên hiến
pháp và cơ cấu luật pháp của nước đó. Trong những trường hợp nhất định, Hội đồng
bảo an có quyền bắt buộc tất cả các nước thành viên tuân thủ thông qua một Nghị quyết
của Hội đồng bảo an, bất chấp một nước thành viên nào đó có hành động khác.
Công ước Vienna
Do mối quan ngại tăng lên trước tình trạng buôn bán bất hợp pháp ma túy quốc tế
ngày càng tăng lên và những khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ
thống ngân hàng, LHQ thông qua Chương trình LHQ về kiểm soát ma túy
(UNDCP) đã khởi xướng một hiệp định quốc tế về chống buôn bán bất hợp pháp
ma túy và rửa tiền. Trong năm 1988, nỗ lực đó đã đưa đến việc thông qua Công
ước của LHQ về chống buôn bán ma túy và chất hướng thần (Công ước Vienna).
Hiệu lực từ tháng 11/1990. Công ước này chủ yếu đề cập đến các điều khoản để
chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp
luật, 169 nước đã tham gia vào công ước này. Mặc dù Công ước không sử dụng
thuật ngữ rửa tiền nhưng Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu
các các nước hình sự hóa hoạt động đó. Tuy nhiên, Công ước Vienna chỉ quy định
tội buôn bán bất hợp pháp ma túy là tội nguồn và không xử lý các khía cạnh mang
tính phòng ngừa việc rửa tiền.
Công ước Palermo
Nhằm tăng cường nổ lực chống tội phạm quốc tế có tổ chức, LHQ đã thông qua
Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia vào năm 2000 (Công ước
Palermo). Công ước bao gồm nhiều điều khoản về chống tội phạm có tổ chức và
yêu cầu những nước đã thông qua Công ước này phải thực hiện các điều khoản của
Công ước bằng cách ban hành luật trong nước. Về rửa tiền, Công ước Palermo bắt
buộc mỗi nước thông qua Công ước phải:
Hình sự hóa việc rửa tiền và quy định tất cả các tội phạm nghiêm trọng là tội
nguồn của tội rửa tiền, bất kể phạm tội được thực hiện ở trong nước hay
19
nước ngoài và cho phép suy đoán về sự cố ý phạm tội từ những tình tiết
khách quan
Xây dựng các biện pháp phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền, kể cả
nhận dạng khách hàng, lưu giữ hồ sơ và báo cáo các giao dịch đáng ngờ
Trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính, quản
lý, thi hành pháp luật và các cơ quan khác, cả ở trong nước và trên phạm vị
quốc tế và xem xét việc thành lập một đơn vị tình báo tài chính để thu thập,
phân tích và phổ biến thông tin
Thúc đẩy hợp tác quốc tế.
Chương trình toàn cầu về chống rửa tiền (GPML)
GPML của LHQ năm trong Văn phòng Ma túy và Tội phạm (ODC) của LHQ.
GPML là một dự án nghiên cứu và hỗ trợ với mục tiêu là tăng cường hiệu quả của
các hành động quốc tế chống rửa tiền bằng cách cung cấp kiến thức giám định
chuyên môn, đào tạo và tư vấn cho các thành viên theo yêu cầu. chương trình tập
trung nổ lực vào những lĩnh vực sau:
Tăng cường nhận thức của những nhân vật chủ chốt trong các nước thành
viên LHQ
Giúp tạo ra các khung pháp luật cho cả các nước theo luật án lệ và các nước
theo luật Châu Âu lục địa với sự hỗ trợ của luật mẫu
Tăng cường năng lực thể chế, đặc biệt là việc thiết lập các đơn vị tình báo tài
chính
Cung cấp đào tạo cho các nhà lập pháp, tư pháp, các cơ quan quản lý, thi
hành pháp luật và khu vực tài chính tư nhân
Thúc đẩy cách tiếp cận vùng để giải quyết vấn đề, xây dựng và duy trì các
mối quan hệ chiến lược với các tổ chức khác
Duy trì một cơ sở dữ liệu các thông tin và tiến hành phân tích những thông
tin thích hợp
Công ước này có hiệu lực vào ngày 29/09/2003, được 147 nước ký và 82 nước
phê chuẩn. Công ước Palermo có vị trí quan trọng bởi vì các điều khoản AML
20
của nó chấp nhận cùng một cách tiếp cận mà FATF đã thông qua trong Bốn
mươi khuyến nghị về rửa tiền.
- Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) là tổ chức chuyên
nghiên cứu, đưa ra những chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố,
được thành lập tại Hội nghị thượng đỉnh của nhóm G7, ở Paris, vào năm 1989, nhằm
phát triển các hoạt động hợp tác quốc tế đối phó với việc rửa tiền. Tháng 4/1990, FAFT
đã ban hành 40 khuyến nghị. Hiện tại, FATF có 36 thành viên bao gồm 34 quốc gia và
2 tổ chức khu vực là thành viên liên kết. 49 khuyến nghị về chống rửa tiền và tài trợ
khủng bố do FATF ban hành, gồm 40 khuyến nghị về chống rửa tiền và 9 khuyến nghị
đặc biệt về chống tài trợ khủng bố. 40 khuyến nghị được ban hành lần đầu tiên vào năm
1990 nhằm tìm kiếm sự nhất trí giữa các nước trong việc ban hành luật và thống nhất
hành động của các ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu được từ hoạt động buôn bán
ma túy chuyển qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. 40
khuyến nghị ban đầu đã được sửa đổi vào năm 1996 và năm 2003 để theo kịp các
phương thức rửa tiền ngày càng tinh vi của bọn tội phạm. Từ sau vụ khủng bố tháng
9/2001 tại Mỹ, vào tháng 10/2001, FATF đã mở rộng trách nhiệm giải quyết các vấn đề
về tài trợ khủng bố và đã xây dựng 8 khuyến nghị đặc biệt chống tài trợ khủng bố. Vào
tháng 10/2004, FATF đã thông qua khuyến nghị đặc biệt IX liên quan đến người vận
chuyển tiền mặt qua biên giới.
FATF có nhiệm vụ đánh giá, giám sát các biện pháp chống rửa tiền, theo dấu
các hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành viên và không phải là thành viên tổ chức
này. Hiện nay có hơn 130 quốc gia và lãnh thổ - đại diện cho khoảng 85% dân số thế
giới và khoảng 90% đến 95% sản lượng kinh tế toàn cầu - đã thực hiện những cam kết
chính trị để thực hiện các khuyến nghị của FATF.
FATF còn có một nhiệm vụ nữa là công bố danh sách những nước và vùng lãnh
thổ không cam kết hoặc không hưởng ứng tích cực chống lại nạn rửa tiền. Ngay khi
bản danh sách này được công bố lần đầu tiên vào tháng 6 năm 2000, 15 nước và lãnh
thổ trong danh sách không hợp tác đã nhanh chóng hành động để thực hiện những
khuyến nghị của FATF. Đây là một trong những cảnh báo cho những quốc gia nào
không có thiện chí trong các nỗ lực hợp tác quốc tế chống lại rửa tiền và khủng bố và
21
tất nhiên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các quốc gia không phải
thành viên này cũng sẽ gặp phải những trở ngại tương xứng.
- Ủy ban Basle về giám sát ngân hàng (Ủy ban Basel) được thành lập năm
1974 bởi Thống đốc ngân hàng trung ương của các nước Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Italia,
Nhật Bản, Lucxembua, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh
và Mỹ. Ủy ban Basel đã đưa ra những văn bản hướng dẫn về đánh giá khách hàng, chia
sẻ thông tin và các nỗ lực trong việc PCRT và tài trợ khủng bố, rủi ro tuân thủ và chức
năng kiểm soát tuân thủ, các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện
tử… trong đó, điển hình là: Các yêu cầu chú ý xác đáng khách hàng (CDD -
Customer Due Diligence for Banks - tháng 10/2001); rủi ro tuân thủ và chức năng
kiểm soát tuân thủ trong hoạt động ngân hàng (Compliance and the compliance
function in banks - tháng 4/2005). Ủy ban Basel ủng hộ mạnh mẽ việc “Chấp thuận và
thực hiện các khuyến nghị của FATF, đặc biệt là các khuyến nghị liên quan đến ngân
hàng” và chủ trương rằng các tiêu chuẩn Chú ý xác đáng khách hàng “phải nhất quán
với các khuyến nghị của FATF”.
- Nhóm các đơn vị tình báo tài chính Egmont
Với tư cách là một phần trong nỗ lực chống rửa tiền, các chính phủ đã lập ra các cơ
quan để phân tích thông tin do các cơ quan, tổ chức và cá nhân có nhiệm vụ làm báo
cáo về rửa tiền trình lên. Những cơ quan này có tên gọi chung là các đơn vị tình báo tài
chính (FIUs). Những đơn vị này là đầu mối của các chương trình AML quốc gia vì
chúng tạo ra việc trao đổi thông tin giữa các tổ chức tài chính và các cơ quan thi hành
pháp luật. Vì hoạt động rửa tiền được thực hiện trên quy mô toàn cầu cho nên cũng cần
chia sẻ thông tin trên cơ sở xuyên biên giới. Vào năm 1995, một số đơn vị FIU đã bắt
đầu công tác với nhau và thành lập Nhóm các đơn vị tình báo tài chính Egmont. Mục
tiêu của nhóm là cung cấp diễn đàn cho các FIU để tăng cường hỗ trợ cho từng chương
trình trong các chương trình AML quốc gia của họ và phối hợp các sáng kiến AML. Sự
hỗ trợ này gồm mở rộng và hệ thống hóa việc trao đổi thông tin tình báo tài chính, tăng
cường kỹ năng chuyên môn và năng lực cho đội ngũ cán bộ và thúc đẩy các mối liên
lạc tốt hơn giữa các FIU thông qua công nghệ và giúp phát triển các FIU trên toàn thế
giới.
22
- Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG): APG được
thành lập vào năm 1997, là một tổ chức mang tính tự nguyện và hợp tác trong lĩnh vực
chống rửa tiền. Hiện nay, APG đã có 40 thành viên và 20 quan sát viên. APG có 5 chức
năng chính là:
Đánh giá việc thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và
chống tài trợ khủng bố của các thành viên thông qua một chương trình đánh giá
chéo lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên;
Phối hợp song phương với các tổ chức quốc tế trong việc đào tạo và hỗ trợ kỹ
thuật trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương để nâng cao việc chấp hành đầy
đủ các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố của các
thành viên;
Tích cực tham gia và mở rộng quan hệ hợp tác với hệ thống các tổ chức chống
rửa tiền quốc tế, đặc biệt là với FATF và tổ chức vùng kiểu FATF khác;
Nghiên cứu, phân tích những thủ đoạn mới về rửa tiền và xu hướng chống tài
trợ khủng bố, trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cho các tổ chức thành viên
APG;
Thực hiện tốt vai trò thành viên tích cực trong FATF để góp phần xây dựng
chính sách và các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng
bố.
1.5 Hoạt động phòng chống rửa tiền trên thế giới
Theo IMF, số lượng tiền bẩn được “rửa” hàng năm của các tổ chức tội phạm trên thế
giới chiếm khoản 2-5% GDP của toàn thế giới, tương đương 500 đến 1.500 tỉ USD.
Gafi - một tổ chức tài chính chống “rửa” tiền với 31 quốc gia thành viên, có trụ sở tại
Paris, chuyên theo dõi hoạt động “rửa” tiền - cho biết, nhiều quan chức, chính trị gia đã
từng tham gia hoặc tiếp tay cho các hoạt động “rửa” tiền và đây là một dấu hiệu tham
nhũng. Từ trước tới nay, việc ''rửa'' tiền chủ yếu thông qua đầu tư vào lĩnh vực bất
động sản, mua bán nguyên vật liệu, giao dịch thương mại và tất cả đều phải bơm tiền
vào hệ thống tài chính ngân hàng để chuyển thành “tiền sạch”.
1.5.1 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Mỹ
23
Mỹ là nước có hệ thống pháp luật về PCRT toàn diện và nghiêm khắc nhất trên thế giới
mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của họ đều phải tuân theo. Chính phủ Mỹ
đã ban hành nhiều văn bản đề cập về những hành vi được coi là rửa tiền. Dưới đây là
một vài Luật tiêu biểu:
- Luật Bank Secrecy Act (1970) về cơ bản loại trừ mọi giao dịch nặc danh trong
phạm vi nước Mỹ. Điều này giúp cho Bộ Tài chính có khả năng bắt buộc các ngân
hàng phải giữ lại mọi hoá đơn chứng từ liên quan tới việc chuyển tiền, và từ đó sẽ dễ
dàng phát hiện ra quá trình rửa tiền. Luật này cũng bao gồm điều khoản rằng các giao
dịch có giá trị trên 10.000$ hoặc nhiều giao dịch đến hoặc đi từ một tài khoản nà đó
trong một ngày mà tổng giá trị giao dịch hơn 10.000$. Sau đó Luật được sửa đổi cho
phép Chính phủ và các cơ quan chức năng có thể hạ thấp mức chuẩn 10.000 USD trong
các cuộc điều tra. Ngân hàng nào vi phạm luật này thì người điều hành có thể bị phạt
tới 10 năm tù giam.
- Luật Money Laundering Control Act (1986) đã biến việc rửa tiền là một tội
danh thực sự chứ không phải là một thành phần trong các tội khác, và luật Money
Laundering Suppression Act bắt buộc các ngân hàng phải tự thiết lập các hệ thống
phòng chống rửa tiền cho riêng mình giúp loại bỏ ngay các giao dịch đáng ngờ.
- Một số luật quan trọng khác trong việc phòng, chống rửa tiền tại Mỹ gồm Luật
Quản lý toàn diện tội phạm năm 1984, Luật Quản lý rửa tiền năm 1986, Luật Chống sử
dụng ma tuý năm 1988, Luật Chống rửa tiền Annunzio – Wylie năm 1992. Những luật
và quy định về phòng, chống rửa tiền tại Mỹ luôn được bổ sung, sửa chữa cho phù hợp
với những thay đổi của tội phạm rửa tiền.
- Luật Chống rửa tiền quy định nghĩa vụ của tất cả các đối tượng, từ các cá nhân
đến các tổ chức khi phát hiện có sự tham gia vào bất kỳ hoạt động rửa tiền nào và là
căn cứ để tịch thu, sung quỹ tiền và tài sản liên quan đến hoạt động rửa tiền. Việc
không tuân thủ những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền
của các nhân viên của các tổ chức tín dụng có thể dẫn tới bị phạt dân sự và hình sự. Về
mặt dân sự, nhân viên ngân hàng có thể bị phạt tới 100.000 USD cho việc cố tình vi
phạm những quy định về báo cáo và lưu giữ chứng từ của BSA. Về mặt hình sự, người
vi phạm có thể bị phạt tiền tới 250.000 USD, 5 năm tù hoặc cả hai.
24
Hiệu quả đạt được của Luật PCRT ở Mỹ: số trường hợp kết án về tội rửa tiền hàng năm
ở Mỹ lên đến hàng nghìn trường hợp, con số này thể hiện sự nỗ lực rất lớn của chính
phủ trong công tác PCRT và hiệu quả của luật PCRT ở Mỹ
1200
1115
1000
817
800
711
656
615
600
400
200
0
2007
2008
2009
2010
2011
Nguồn: FATF, APG (2012)
Biểu đồ 1.1: Số trường hợp bị kết án về tội rửa tiền từ năm 2006 – 2011 ở Mỹ
Bảng 1.1: Những ngân hàng bị chính phủ Mỹ cáo buộc liên quan đến rửa tiền với
số tiền phạt lớn nhất
Ngân hàng Số tiền phạt Ngày Nước có liên quan trong cáo
(triệu USD) buộc
HSBC 1.921 Tháng 12/2012 Cuba, Iran, Libya, Mexico,
Myanmar và Sudan
Standard Chartered 667 Tháng 8 và Iran, Libya, Mexico, Myanmar
12/2012 và Sudan
Tháng 6/2012 Cuba và Iran 619 ING
Tháng 12/2009 Cuba, Iran, Libya, Myanmar và 536 Credit Suisse
Sudan
Iran và Libya 500 RBS (ABN AMRO) Tháng 5/2010
Iran và Sudan 350 Lloyds Banking Tháng 1/2009
Group
Barclays 298 Tháng 8/2010 Cuba, Iran, Myanmar và Sudan
Nguồn: Tạp chí The Economist (2012)
25
1.5.2 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Anh
Tại Anh, các định chế tài chính cũng hoạt động theo những quy định về phòng, chống
rửa tiền tương tự như tại Mỹ. Tháng 12/1990, nước Anh ban hành một loạt văn bản
hướng dẫn các ngân hàng trong việc phát hiện và chấm dứt các hoạt động rửa tiền,
trong đó tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ của ngân hàng trong việc cảnh báo cho
các cơ quan quyền lực những hoạt động và giao dịch đáng ngờ. Các hướng dẫn này
được xây dựng bởi NHTW Anh và các NHTM với sự phối hợp, tham gia của cơ quan
tình báo quốc gia, hải quan, cảnh sát. Theo đó, ngân hàng phải đích thân nhận dạng tất
cả các khách hàng bằng mọi cách có thể, kể cả bằng cách gặp mặt trực tiếp. Hướng dẫn
cũng chỉ rõ các cách thức xác nhận thông tin cá nhân, trong đó hộ chiếu là hình thức
được ưu tiên, ngoài ra các hình thức khác cũng được chấp nhận như thẻ nhân viên,
bằng lái xe… Hơn nữa, các ngân hàng phải lưu giữ tất cả các chứng từ giao dịch trong
6 năm để phục vụ điều tra.
Cũng giống như tại Mỹ, việc không tuân theo những hướng dẫn và các luật, quy định
sẽ dẫn tới những trách nhiệm pháp lý. Những trách nhiệm pháp lý dân sự có thể nảy
sinh nếu vi phạm những quy định về sự bảo mật của khách hàng. Hướng dẫn tại Anh
chỉ ra rằng các nhân viên của các định chế tài chính phải hợp tác một cách toàn diện
với các cơ quan pháp luật và phải thông báo trước cho các cơ quan này các giao dịch
đáng ngờ. Trong khi các ngân hàng là chủ thể chính, các tổ chức tài chính khác như
công ty bảo hiểm, tổ chức môi giới cũng phải thực hiện những hướng dẫn này.
Những quy định, luật lệ khác liên quan đến phòng, chống rửa tiền tại Anh bao gồm
Luật Chống buôn bán ma tuý năm 1986, Luật Phòng, chống khủng bố năm 1987, Luật
Hình sự (Hợp tác quốc tế) năm 1990 và Luật Hình sự năm 1993. Bộ luật đầu tiên cho
phép cảnh sát có quyền điều tra những tài sản đáng ngờ có liên quan đến ma túy, phong
tỏa chúng và khi có chứng cớ sẽ tịch thu những tài sản này. Luật Phòng, chống khủng
bố năm 1987 quy định sẽ kết tội những người sử dụng hoặc sở hữu quỹ khủng bố. Luật
Hình sự năm 1990 cho phép kết tội những người che giấu, biển thủ, chuyển nhượng
hoặc vận chuyển những tài sản hoặc giúp đỡ người khác làm việc đó khi biết hoặc nghi
26
ngờ những tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có. Luật Hình sự năm 1993 mở
rộng quyền lực của tòa án trong việc kết tội rửa tiền như một tội phạm hình sự.
1.5.3 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở một số nước khác
Nước Úc cũng thực hiện hệ thống báo cáo giao dịch tiền tệ tương tự như tại Mỹ. Bất kỳ
một giao dịch tiền tệ nào tương đương hoặc lớn hơn 10.000 USD đều phải báo cáo.
Những dữ liệu này sau đó được truyền tự động tới Cơ quan Báo cáo giao dịch tiền tệ.
Tại Nhật, các ngân hàng được yêu cầu phải báo cáo tất cả các giao dịch tiền tệ trong
nước vượt quá 30 triệu Yên và các giao dịch tiền tệ quốc tế vượt quá 5 triệu Yên. Hơn
nữa, trong trường hợp liên quan đến ma tuý, toà án có thể kết án ngân hàng và các tổ
chức tín dụng về tội rửa tiền.
Các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Myanma, Indonesia, Philippine đều
có các văn bản về chống rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác nhau. Các nước
này cũng đã thành lập những cơ quan chuyên trách riêng xử lý vấn đề liên quan đến
phòng, chống rửa tiền như AMLO hay AMLC. Các cơ quan này có chức năng chủ yếu
là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến tài sản liên quan đến buôn bán ma tuý và
rửa tiền.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, luận văn đã giới thiệu các khái niệm về rửa tiền, chu trình và các
phương thức rửa tiền tiêu biểu và những ảnh hưởng của hoạt động rửa tiền đối với nền
kinh tế. Cùng với sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế thì hoạt động rửa tiền không
còn giới hạn trong phạm vi quốc gia mà có xu hướng mở rộng ra trên toàn thế giới và
phương thức tiến hành ngày càng tinh vi hơn. Nhưng cho dù xu hướng biến đổi như thế
nào thì ngân hàng vẫn là sự lựa chọn hàng đầu vì khả năng giao dịch với số tiền lớn và
khả năng cung ứng dịch vụ thanh toán quốc tế. Ngành ngân hàng Việt Nam cũng đang
đứng trước nguy cơ bị lợi dụng cho mục đích rửa tiền. Thực trạng hoạt động phòng,
chống rửa tiền ở chương sau sẽ làm rõ hơn vấn đề này.
27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1 Cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng Việt Nam
- Điều 250 và điều 251 Bộ Luật Hình sự của Việt Nam đã quy định tội danh hợp
pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, là cơ sở để xây dựng Nghị định số
116/2013/NĐ-CP về PCRT hiện nay. Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và Luật
Phòng, chống ma túy năm 2000 cũng đã quy định về các tội phạm tham nhũng và
buôn bán ma tuý.
- Luật các tổ chức tín dụng đã quy định trách nhiệm của các định chế tài chính
đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp tại Điều 19. Ở đây, trách nhiệm
của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng tương tự như trách nhiệm của họ quy
định trong Nghị định số 116/2013/NĐ-CP về PCRT của Chính phủ hiện nay. Theo
đó, tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng không được che giấu,
thực hiện bất kỳ dịch vụ nào liên quan đến khoản tiền đã có bằng chứng về nguồn gốc
bất hợp pháp. Trong trường hợp phát hiện các khoản tiền có dấu hiệu bất hơp pháp, tổ
chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng phải thông báo ngay cho
ciw quan nhà nước có thẩm quyền.
- Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2001 của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam ban hành Qui chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán cũng có qui định tại Khoản 2 Điều 26 – Nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán “Từ chối thực hiện giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc
bất hợp pháp”.
- Thông tư số 22/2009/TT-NHNN ngày 17/11/2009 về hướng dẫn các biện pháp
PCRT.
- Thông tư số 42/2011/TT-NHNN về hướng dẫn nhận biết và cập nhật thông tin
khách hàng trên cơ sở rủi ro phục vụ công tác PCRT.
28
- Luật phòng, chống rửa tiền được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XVIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012 và chính thức có hiệu lực từ
01/01/2013.
- Quyết định số 20/2013/QĐ-TTg, quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị
lớn phải báo cáo là từ 300 triệu đồng, bắt đầu áp dụng từ ngày 10/6/2013.
- Nghi định số 116/2013/NĐ – CP ngày 04/10/2013 qui định chi tiết thi hành một
số điều của Luật phòng, chống rửa tiền, hiệu lực từ ngày 10/10/2013.
- Cục PCRT và Ban Chỉ đạo PCRT: Trung tâm PCRT (nay là Cục PCRT), được
thành lập vào tháng 3/2007, là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước,
có chức năng tiếp nhận, phân tích, xử lý thông tin PCRT; chuyển giao những thông
tin liên quan đến hoạt động rửa tiền tới cơ quan điều tra có thẩm quyền; giúp Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ quy định tại Nghị định số 74 nêu
trên.
- Việt Nam trở thành thành viên thứ 33 của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương
(Asia Pacific Group – APG) – tổ chức quốc tế mang tính tự quản và hợp tác về chống
rửa tiền vào tháng 5/2007. Là thành viên của APG, Chính phủ Việt Nam cam kết thi
hành theo đúng các điều khoản phòng chống rửa tiền, đặc biệt là phải thực thi 40
khuyến nghị của FATF. Điều này có nghĩa là Việt Nam vừa tuân thủ theo các quy định
quốc tế vừa phải để cho FATF giám sát và theo dõi cơ chế chống rửa tiền một cách
chặt chẽ và cũng như phải được các cơ quan độc lập khác đánh giá, xem xét.
- Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 156 của tổ chức cảnh sát hình
sự quốc tế (Interpol) vào năm 1991. Việt Nam và Interpol đã có sự phối hợp hiệu quả
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhiều vụ án quốc tế có liên quan đến
buôn lậu, ma tuý, khủng bố, rửa tiền… đã bị phát hiện và xử lý kịp thời. Việt Nam
cũng hợp tác chặt chẽ và có hiệu quả với các quốc gia thành viên khác của Interpol và
Hiệp hội cảnh sát các nước Đông Nam Á (Aseanapol) trong đấu tranh với các loại tội
phạm khác như rửa tiền, cướp biển, lừa đảo tài chính, buôn bán phụ nữ và trẻ em, tội
phạm trên mạng Internet.
29
- Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC) hiện
là tổ chức đi đầu toàn cầu trong công tác chống tội phạm ma tuý và các tội phạm quốc
tế, xuyên quốc gia: buôn người, rửa tiền, tham nhũng, khủng bố, buôn bán vũ khí…
UNODC và Việt Nam cũng đã có sự hợp tác rất lâu trong lĩnh vực phòng, chống các
loại tội phạm này. UNODC hiện đang hỗ trợ Việt Nam trong nâng cao năng lực phòng
chống tội phạm và ma túy, bao gồm việc tăng cường cường hệ thống lập pháp, tư pháp
và hành chính. Trong thời gian tới, các dự án của UNODC tại Việt Nam sẽ tập trung
vào 3 lĩnh vực là công tác thi hành án về ma tuý, hoạt động cai nghiện ma túy ở các
tỉnh phía Bắc và tăng cường năng lực trong phòng chống tội phạm rửa tiền.
2.2 Tổ chức thực hiện phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
- Về công tác tổ chức: Hiện thời, mỗi ngân hàng đều bố trí một thành viên ban
điều hành chịu trách nhiệm về tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của
pháp luật về PCRT tại đơn vị. Tùy theo quy mô, mức độ, phạm vi và đặc thù hoạt động
của mình, từng ngân hàng có thể thành lập bộ phận chuyên trách hoặc chỉ định một bộ
phận tại trụ sở chính chịu trách nhiệm về PCRT; quy định rõ trách nhiệm của người phụ
trách PCRT và của từng cá nhân, bộ phận trong quá trình tác nghiệp đảm bảo việc thực
hiện quy chế nội bộ về PCRT của ngân hàng.
- Về quy định nội bộ của các NHTM
Sau khi Luật phòng, chống rửa tiền được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XVIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012 và chính thức có hiệu
lực từ 01/01/2013. Một số ngân hàng đã tiến hành xây dựng và ban hành quy chế nội
bộ về PCRT làm căn cứ thực hiện công tác PCRT tại đơn vị mình. Quy định nội bộ bao
gồm các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục cơ bản.
- Về ứng dụng công nghệ thông tin: Hiện nay, một số NHTM Việt Nam đã hoàn
thiện Module CIF quản lý hồ sơ khách hàng là những tiền đề để bất kỳ lúc nào truy cập
vào hệ thống sẽ có bức tranh toàn diện về khách hàng với những thông tin đầy đủ, chi
tiết và thường xuyên được cập nhật.
30
- Hành lang pháp lý: Dù Điều 251 Bộ luật Hình sự đã quy định xử lý hành vi rửa
tiền với tội danh hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, Việt Nam chưa có quy
định về hình sự hóa hành vi rửa tiền, pháp luật hiện hành vẫn thiếu các điều khoản cụ
thể cho phép các cơ quan điều tra có thẩm quyền thực hiện phong tỏa và tạm giữ, cũng
như không có luật cụ thể cho phép các quyền để nhận dạng, lần theo dấu vết và dò tìm
nguồn thu của tội phạm
- Công tác phòng chống rửa tiền tại một số ngân hàng thương mại Việt Nam
Phòng chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Thông tin khách hàng
Nhận dạng Khách hàng thông thường
Có dấu hiệu đáng ngờ
Khách hàng thuộc danh sách Thu thập thêm thông tin Nhận dạng Có dấu hiệu đáng ngờ Báo cáo cục PCRT
Nguồn: Phòng thông tin tín dụng và chống rửa tiền Vietcombank
Hình 2.1: Quy trình phòng chống rửa tiền tại Vietcombank
Nhờ việc ban hành quy trình, quy định nội bộ về PCRT thì việc phát hiện ra các giao dịch đáng ngờ ngày càng tăng, thông qua báo cáo chuyển về cục PCRT từ 1 giao dịch năm 2006 tăng lên 42 giao dịch năm 2012
Biểu đồ 2.1: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Vietcombank chuyển về cục PCRT qua các năm 2006 – 2012
31
42
35
Báo cáo giao dịch đáng ngờ
32
27
Báo cáo giao dịch đáng ngờ chuyển sang cơ quan công an
17
13
12
10
9
6
2 1
1 0
45 40 35 30 25 20 15 10 5 0
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Nguồn : Phòng thông tin tín dụng và chống rửa tiền Vietcombank
Phòng chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Á Châu
Ở Ngân hàng TMCP Á Châu quy định mỗi chi nhánh, phòng giao dịch có 1
nhân sự phụ trách về việc báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Bộ phận PCRT thuộc Hội
sở. Tính từ thời điểm Luật PCRT có hiệu lực 01/01/2013 đến nay thì có 16 báo cáo
giao dịch đáng ngờ được gởi về Cục PCRT. Qua khảo sát tại Ngân hàng TMCP Á
Châu thì việc nhận biết thông tin khách hàng không được thực hiện một cách thường
xuyên, không được áp dụng rộng rãi với mọi khách hàng mà chỉ những khách hàng nào
có mở tài khoản hoặc có thực hiện giao dịch vay tại Ngân hàng thì mới thực hiện thủ
tục nhận biết. Các khách hàng khác như khách hàng thực hiện giao dịch nộp tiền, rút
tiền, cho dù với số lượng bao nhiêu cũng không nằm trong danh sách khách hàng phải
nhận biết, cập nhật thông tin. Mặt khác, nếu có thực hiện việc nhận biết, cập nhật thông
tin thì chỉ dừng lại ở những thông tin như họ tên, số chứng minh nhân dân, địa chỉ
thường trú, các thông tin về giao dịch hầu như không nằm trong quy trình nhận biết.
2.3 Thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
32
Đến nay chưa có con số cụ thể nào thống kê về quy mô và tính nghiêm trọng do hoạt
động rửa tiền ở Việt Nam gây ra, tuy vậy vẫn khó tránh khỏi do những quy định về rửa
tiền ở Việt Nam sơ sài so với nhiều nước.
Theo ông Nguyễn Văn Ngọc - Cục trưởng Cục PCRT cho biết hiện nay Việt Nam vẫn
nằm trong danh sách đen của FATF do cơ chế phong tỏa, tịch thu tài sản, hình sự hóa
pháp nhân Việt Nam chưa thực hiện xong. Luật PCRT có hiệu lực từ tháng 1/1/2013
thể hiện sự cam kết cao của Nhà nước ta đối với các tổ chức quốc tế về PCRT và
phòng chống tham nhũng. Việc ban hành Luật PCRT với kỳ vọng sẽ kiểm soát chặt
hơn dòng tiền ra vào Việt Nam và những quy định về thanh toán dùng tiền mặt sẽ
khiến các giao dịch buộc phải thực hiện qua ngân hàng, ngăn chặn được các hành vi
rửa tiền.Tuy nhiên, việc triển khai chỉ mới ở bước đầu nên sẽ còn nhiều kẽ hở và chưa
kiểm soát hết được. Hiện Việt Nam đang cố gắng hết sức để đáp ứng các chuẩn mực
quốc tế trong lĩnh vực phòng chống rửa tiền của FATF và được FATF đánh giá cao. Để
ra khỏi danh sách đen của FATF, Việt Nam phải hoàn thiện cơ chế phong tỏa tịch thu
tài sản; hình sự hóa pháp nhân; tăng cường hợp tác quốc tế tương trợ tư pháp. Ngoài ra,
cần đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, tăng cường thể chế đối với công tác
cường PCRT; tuyên truyền, đào tạo; thanh tra, giám sát xử lý vi phạm…
Theo Cục PCRT thuộc NHNN, Việt Nam chưa có đánh giá chính thức nào của cơ quan
thẩm quyền về tội phạm rửa tiền, nhưng nếu căn cứ vào số liệu của các cơ quan pháp
luật, thì số vụ rửa tiền ở nước ta là quá ít. Số liệu của Cục PCRT cho thấy đến nay,
NHNN đã “khoanh vùng” được 165 báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến hoạt
động rửa tiền, chuyển cơ quan thanh tra và công an xác minh. Tổng số tiền giao dịch
đáng ngờ trong năm 2012 là gần 51.000 tỉ đồng. Bên cạnh đó, NHNN cũng tiếp nhận
50 văn bản từ các cơ quan thực thi pháp luật đề nghị rà soát, cung cấp thông tin liên
quan đến các bị can hoặc đối tượng trong các vụ án hình sự.
Bảng 2.1: Kết quả tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch đáng ngờ
Năm Số báo cáo giao dịch đáng ngờ Số báo cáo chuyển cơ quan Công an
33
2007 11 4
2008 43 18
2009 60 32
2010 115 99
2011 152 77
2012 205 165
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
Bảng 2.2: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Cục PCRT thu thập từ năm
2006 – 2012 (số báo cáo)
Đơn vị báo cáo 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Ngân hàng TMCP 3 7 8 14 33 58 101
Ngân hàng TM nhà nước 0 3 28 35 65 81 93
Ngân hàng liên doanh 0 0 0 1 2 1 3
Ngân hàng nước ngoài 1 1 6 9 13 10 7
Các TCTD khác 0 0 1 1 2 2 1
Tổng cộng 4 11 43 60 115 152 205
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
2.4 Đánh giá kết quả công tác phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Việt Nam trong thời gian qua
2.4.1 Những kết quả đã đạt được
Qua một thời gian Việt Nam triển khai công tác PCRT trong các NHTM, đã
có một số trường hợp có dấu hiệu liên quan đến rửa tiền đã phát hiện được trong thời
gian vừa qua như sau:
34
- Mở tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng thương mại để phục vụ giao dịch chứng
khoán. Việc rửa tiền qua chứng khoán được xem là khá dễ dàng, do đặc thù của chứng
khoán là mọi người đều có quyền mua đi bán lại cổ phiếu và tái đầu tư trong khi giá cổ
phiếu lại lên xuống thất thường
- Thuê người đứng tên chủ tài khoản, sau đó chủ sở hữu bàn giao mã số pin để
người thuê thực hiện việc chuyển tiền vào tài khoản trong nước và rút ngoại tệ tại
Campuchia đã có. Trước đây có nhóm tội phạm quốc tế thuê một số người Việt Nam
mở 12 thẻ debit của các ngân hàng trong nước. Các chủ thẻ nhận ít tiền thù lao rồi giao
lại thẻ cho người đặt hàng. Sau đó, nhóm tội phạm này sang Campuchia (quốc gia
không quản lý ngoại hối) để rút tiền mặt. Hằng ngày, tiền được chuyển vào cả 12 tài
khoản ở Việt Nam và rút sạch từ Campuchia.
- Liên quan đến hành vi mở tài khoản cá nhân để thực hiện các giao dịch chuyển
tiền có giá trị lớn từ nước ngoài: các đối tượng phạm tội ở nước ngoài, sau đó chuyển
“tiền bẩn” từ nước ngoài về Việt Nam để hợp pháp hóa, chuyển sang “tiền sạch”. Cách
chuyển tiền của tội phạm rử tiền qua hệ thống ngân hàng dưới hình thức gửi tiền cho
thân nhân, hoặc đầu tư vào các hợp đồng kinh tế “ma”. Trên thực tế đã có một số đối
tượng, băng nhóm tội phạm người gốc Phi vào Việt Nam sử dụng giấy tờ giả mở tài
khoản tại các ngân hàng thương mại để đồng bọn ở nước ngoài chuyển tiền vào, sau đó
rút hết tiền trong các tài khoản này.
Điển hình là vụ rửa tiền xuyên quốc gia đã được Công an Đà Nẵng phát hiện vào tháng
10/2008, bắt được thủ phạm là Baggio Carlitos Linska, quốc tịch Mozambique khi tên
này đến chi nhánh một ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng mở cùng lúc 2 tài khoản.
Ngay sau khi mở được tài khoản, lập tức có hơn 4,1 tỷ đồng được chuyển vào. Điều
đáng nghi ngờ là, đối tượng này tức tốc làm thủ tục để rút tiền. Nhận thấy giao dịch bất
thường, cơ quan điều tra đã vào cuộc và xác minh số tiền trên là khoản tiền bọn tội
phạm đánh cắp từ một tài khoản nước ngoài. Sau đó chuyển vào Việt Nam qua hai chi
nhánh ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu.
35
Công an Đà Nẵng đã tiến hành tạm giữ Linska và Massamba Lendebe Vis (quốc tịch
Mozambique). Đáng tiếc là Niaty Lokasso Djamba (quốc tịch Congo), người đã mở tài
khoản và được chuyển số tiền hơn 3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa – Vũng Tàu đã nhanh chân
tẩu thoát.
Từ tháng 4/2004 đến tháng 7/2006, các cơ quan chức năng đã phát hiện James Edmund
Corbett (công dân Australia, tạm trú tại phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố
Hồ Chí Minh) có dấu hiệu bất thường, nghi vấn là rửa tiền. James E.Corbett đã mở các
tài khoản vãng lai USD tại một số ngân hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua các
tài khoản này, đã nhận hơn 3,2 triệu USD từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam, sau đó
lần lượt chuyển cho một số công ty ở Việt Nam và ở nước ngoài.
- Vụ việt kiều Lê Thị Phương Mai đầu tư tiền từ hoạt động ma tuý vào các dự án
của Công ty Viet – Can Resorts & Plannation Inc. Theo hồ sơ của Cục Điều tra Liên
bang Mỹ (FBI), Lê Thị Phương Mai là nhân vật đã đứng ra tổ chức một tập đoàn tội
phạm quốc tế lớn tại Bắc Mỹ, hoạt động theo qui trình khép kín từ sản xuất, tiêu thụ ma
túy đến rửa tiền. Đầu năm 2004, trước khi bị FBI bắt khoảng 3 tháng, Mai cùng một số
người khác dưới danh nghĩa người của Công ty Viet – Can Resorts & Plantation Inc., có
trụ sở tại 857, Unit 1, Somerset St. WestOttawaOntario (Canada), đã về Việt Nam tìm
“cơ hội đầu tư”. Mai đã xin phép đầu tư 25 triệu USD vào dự án khu nghỉ mát và căn hộ
cho thuê tại Dốc Lết, thuộc huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Cùng lúc, Công ty Viet –
Can Resorts & Plantation cũng lập một website trên mạng internet để quảng bá dự án du
lịch cùng một dự án khác ở tỉnh Lâm Đồng. Tháng 2/2004, UBND tỉnh Khánh Hoà có
văn bản đồng ý về mặt chủ trương cho phép đầu tư khu nghỉ mát và căn hộ cho thuê với
diện tích khoảng 70 ha tại Dốc Lết. Dự án chưa kịp hoàn thành thủ tục thì Mai bị bắt
giữ.
Những tài liệu do Interpol Việt Nam thu thập cho biết Mai nằm trong đường dây tội
phạm gốc Á đặc biệt nguy hiểm. Trong đường dây này, Ze Wai Wong (48 tuổi, gốc
Hoa) phụ trách việc trồng cần sa trong nhà kính, điều chế thành Ecstasy (ma túy tổng
hợp), nhập lậu và phân phối ma túy tại Canada và Mỹ. Lợi nhuận thu được từ việc sản
36
xuất, mua bán ma túy bất hợp pháp sẽ do Lê Thị Phương Mai tiến hành rửa tiền bất hợp
pháp
Trong quá trình điều tra, các cơ quan chức năng Việt Nam cũng tiếp nhận một nguồn tin
về việc thông qua 8 doanh nghiệp và 1 ngân hàng, tổ chức tội phạm do Lê Thị Phương
Mai cầm đầu đã chuyển khoảng 25 triệu USD về Tp.HCM. Ngoài ra, Mai còn dự định
xin thành lập một ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời cơ quan
điều tra cũng tiến hàng xác minh về một tổ chức chuyển tiền bất hợp pháp có tên là A.C
Transfer có chi nhánh tại Tp.HCM. Kết quả cho thấy từ năm 2000 đến 2004, hàng triệu
USD đã được chuyển về Việt Nam và vào thời gian cao điểm, tổ chức này đã chuyển tới
190.000 USD/ngày
Vào thời điểm Mai bị cảnh sát quốc tế bắt giữ, số tiền 25 triệu USD này chưa đầu tư vào
dự án Dốc Lếch tại tỉnh Khánh Hòa. Có thông tin cho biết vào cuối năm 2003 đầu năm
2004, có 11 triệu USD trong số này đã được tổ chức tội phạm của Mai chuyển ra khỏi
Việt Nam tới 3 quốc gia Châu Á và Châu Mỹ.
- Vụ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhận được email từ một số doanh
nhân Nigeria yêu cầu mở tài khoản 28 triệu USD, hứa hẹn sẽ chi lại 15% tổng số tiền.
- Rửa tiền qua đánh bạc được xem là phương pháp rửa tiền nhanh nhất, như trong
một số vụ án thời gian qua đã bị phanh phui. Trước đây, Công an Việt Nam phối hợp
với phía Canada điều tra trùm cá độ bóng đá Ngô Tiến Dũng (tức Lai Thành Hữu,
Dũng “Kiều”) có dấu hiệu mang hàng chục triệu USD từ nước ngoài về “rửa tiền” ở
Việt Nam. Ngô Tiến Dũng được xác định là người cầm đầu đường dây cá độ bóng đá
cực lớn, với số tiền luân chuyển 1-2 triệu USD mỗi đêm. Vụ việc này cho thấy, mánh
khoé của tội phạm rửa tiền là dùng “tiền bẩn” mở tài khoản ở ngân hàng, sau đó chúng
sẽ dùng số tiền đó rót vào những trận cá độ bóng đá trên mạng. Nếu thắng, tiền thưởng
sẽ được thanh toán vào một tài khoản hợp pháp khác.
- Rửa tiền thông qua ngân hàng điện tử: hệ thống ngân hàng điện tử ngày càng
phát triển cùng với hoạt động thương mại điện tử ngày càng được ưa chuộng. Thông
qua hai hệ thống này mà Trần Quang Duy đã thực hiện hành vi rửa tiền rất tinh vi. Trần
37
Quang Duy với vỏ bọc là đại lý vé máy bay giá rẻ của Hãng hàng không Tiger Airways
của Singapore qua mạng internet để hợp thức hóa tiền lấy cắp từ thẻ tín dụng của các
khách hàng nước ngoài. Khi nhận được nhu cầu của khách hàng, Duy vào mạng của
Hãng Tiger Airways để làm thủ tục đặt vé cho khách hàng. Sau đó, Trần Quang Duy
xâm nhập, bẻ khóa dữ liệu trong thẻ tín dụng của các khách hàng là người nước ngoài
rồi sử dụng thông tin từ thẻ tín dụng cá nhân để chuyển tiền trả cho Hãng Tiger
Airways. Với thủ thuật đó thì tiền của khách hàng đặt vé máy bay trở thành thu nhập
hợp pháp của Duy. Trong gần 1 năm hoạt động, Duy thu khoảng 100 triệu đồng. Với
thủ đoạn này thì hành vi ăn cắp và rửa tiền của Duy rất khó phát hiện và được đánh giá
là khá tinh vi.
Mô hình tổ chức và trách nhiệm PCRT tại các NHTM Việt Nam: Tùy theo quy
định của mỗi NHTM, các bộ phận có trách nhiệm về công tác PCRT có thể được tổ
chức theo mô hình cụ thể khác nhau song thông thường bao gồm các cấp và đơn vị
như sau: tại trụ sở chính; các chi nhánh.
Sau một thời gian Việt Nam triển khai công tác PCRT, ý thức của các
NHTM trong công tác này đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Nhiều ngân hàng đã ban
hành các quy định riêng liên quan đến công tác PCRT và tổ chức các khóa đào tạo
cho các cán bộ nhằm nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ trong công tác này. Cùng
với sự phát triển của công nghệ thông tin, đã có rất nhiều trường hợp nghi ngờ rửa
tiền.
2.4.2 Những tồn tại, hạn chế
Các quy định pháp luật theo hướng thận trọng đối với các giao dịch vốn vào và
ra ở nước ta thì chuyển tiền vào Việt Nam dễ nhưng chuyển ra thì khó khăn. Tuy nhiên,
điều đó không đủ sức để ngăn cản ý đồ của bọn tội phạm rửa tiền vì chúng sẽ luôn tìm
cách để “lách” luật. Nếu giới hạn lượng ngoại hối được chuyển ra nước ngoài thì chúng
có thể chia nhỏ tiền và thực hiện chuyển nhiều lần hoặc sử dụng các giấy tờ, hóa đơn
giả về nhu cầu chuyển ngoại tệ ra nước ngoài thanh toán hoặc đút lót, hối lộ nhân viên
hải quan để được đem nhiều tiền hơn khi xuất cảnh.
38
Hay như trong phương thức thanh toán quốc tế bằng điện chuyển tiền. Nếu bọn
tội phạm muốn chuyển tiền ra nước ngoài, chúng chỉ cần làm một hợp đồng nhập khẩu,
sử dụng phương thức điện chuyển tiền trả trước (T/T trước) chỉ cần với hợp đồng thì
việc chuyển tiền đã thực hiện trót lọt. Nếu là với phương thức chuyển tiền sau khi nhận
hàng (T/T sau) thì bọn tội phạm chủ cần câu kết với hải quan cho phép nhận một lô
hàng có khi chỉ là vật phế phẩm nhưng với “trị giá” rất cao, sau đó thì việc chuyển tiền
ra nước ngoài với mục đích “thanh toán hợp đồng” được thực hiện.
Sẽ còn rất nhiều kẻ hở để bọn tội phạm có thể lợi dụng nhằm phục vụ cho hành
động tẩy rửa những đồng tiền phi pháp của mình. Những yếu kém đó là:
- Sự yếu kém trong quản lý khu vực công:
Có thể nói đây là nguồn gốc của nhiều vấn đề chứ không chỉ trong rửa tiền. Sự
kiểm soát quá mức kèm những thủ tục hành chính phức tạp của các cấp chính quyền
địa phương đã góp phần làm tăng hoạt động phi chính thức nhằm tránh sự kiểm soát
quá mức của chính phủ.
Thế nhưng, ở khía cạnh nào đó nhà nước lại quá lỏng lẻo trong cơ chế quản lý
giám sát. Hiện tượng công ty ma và trốn thuế có thể minh chứng cho vấn đề này. Hiện
cả nước có gần 600.000 doanh nghiệp và theo số liệu thống kê của ngành thuế, 6 tháng
đầu năm 2013 số tiền nợ đọng thuế lên đến 64.000 tỷ đồng, tăng 15.000 tỷ đồng so với
thời điểm cuối năm 2012.
Như vậy, có thể nói, chính sự yếu kém trong công tác quản lý khu vực công đã
làm phát sinh các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến tham nhũng, tham ô, thất thoát
trong xây dựng cơ bản, sự xuất hiện của thị trường chợ đen…Đây chính là môi trường
cho tiền bẩn và hoạt động rửa tiền phát triển.
- Sự tồn tại nền kinh tế phi chính thức:
Như đã nói ở trên thì chính sự kiểm soát quá mức đã khuyến khích hoạt động
phi chính thức phát triển và theo phân tích thì quy mô của nó là không nhỏ. Trong nền
kinh tế ngầm, mọi hoạt động diễn ra không theo quy định của pháp luật và không thể
kiểm soát được.
39
Thị trường chợ đen vàng, ngoại tệ là một ví dụ điển hình về hoạt động kinh
doanh ngầm. Dù những quy định về quản lý ngoại hối có nghiêm ngặt đến đâu thù vẫn
có thể mua được loại ngoại tệ mình muốn mà không cần phải khai báo hay chứng minh
bằng bất cứ loại giấy tờ nào. Đây chính là yếu tố quan trọng đối với hoạt động rửa tiền
muốn xóa đi các dấu tích tội phạm.
Trên thực tế thì lượng kiều hối được chuyển bằng con đường phi chính thức là
rất lớn, ước tính khoảng 30 – 60% lượng kiều hối bằng con đường chính thức. Việt
Nam chưa có quy định điều chỉnh hoạt động của cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ
chuyển tiền không chính thức. Theo báo cáo đánh giá đa phương của APG đối với Việt
Nam năm 2008, chỉ có các tổ chức cung cấp dịch vụ chuyển tiền chính thức được
NHNN Việt Nam cấp phép và kênh chuyển tiền không chính thức thường được cung
cấp bởi các cửa hàng kinh doanh vàng bạc, đá quý. Tại khoản 4, Điều 7 của Luật
Phòng, chống rửa tiền được Quốc hội ban hành ngày 18/6/2012 quy định: nghiêm cấm
các hành vi "cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc
công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng tại một địa điểm
khác".
Như vậy, các dịch vụ chuyển tiền ngầm là bất hợp pháp ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra là
liệu các cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ chuyển tiền không chính thức này có tiếp
tục tồn tại và hoạt động ở Việt Nam khi đã bị pháp luật cấm? Nên chăng, các cơ quan
chức năng cần có những nghiên cứu và khảo sát về hệ thống chuyển tiền ngầm này để
ban hành những quy định phù hợp nhằm chống việc lợi dụng của tội phạm thông qua
các kênh chuyển tiền này để rửa tiền.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì lượng kiều hối chính thức chuyển về Việt Nam
trong năm 2012 kiều hối đạt hơn 10 tỷ USD, tăng 11% so với cả năm 2011
40
10
10
9
8
8
7.2
6.3
6
5.5
4.5
4
2
0
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Nguồn: Tổng cục thống kê
Biểu đồ 2.1: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012 (Tỷ USD)
Với chính sách kiều hối thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế thì Việt Nam đứng
thứ 9 trên thế giới về nhận chuyển kiều hối từ nước ngoài và đứng thứ 2 Đông Nam Á,
chỉ sau Philippines. Người nhận kiều hối không phải đóng thuế thu nhập cá nhân, giá
trị kiều hối chuyển về không hạn chế, các đơn vị chi trả kiều hối có dịch vụ giao tận
nhà cho người thụ hưởng…cho phép thu hút lượng kiều hối chuyển về nước liên tục
tăng nhanh. Tuy nhiên nguồn tiền này thường rất khó xác định nguồn gốc. Do đó đây
là kênh để bọn tội phạm rửa tiền.
Quy mô hoạt động kinh tế ngầm càng lớn thì càng tạo thuận lợi cho bọn tội
phạm rửa tiền. Trong môi trường này thì luồng tiền bẩn được phát sinh và tẩy rửa một
cách dễ dàng, nhanh chóng nhất. Do đó, việc hạn chế các hoạt động kinh tế ngầm cũng
giúp hạn chế hoạt động rửa tiền, nhưng để làm được điều này là không dễ.
- Tình hình tệ nạn xã hội, tội phạm còn nghiêm trọng:
Tội phạm ma túy, mại dâm, buôn lậu, cờ bạc… nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên
quốc gia hoạt động ngày càng tinh vi. Những loại tội phạm này có nhu cầu rửa tiền rất
lớn nhằm hợp thức hóa nguồn thu nhập do phạm tội mà có
- Tham nhũng ngày càng gia tăng:
41
Một nguồn gốc nữa dẫn đến hành vi rửa tiền là tình trạng tham nhũng tràn lan
đến mức đã trở thành một thị trường tham nhũng, trốn thuế, tình trạng tiêu cực lãng phí
và thất thoát trong xây dựng cơ bản cùng với các dạng tổ chức tội phạm đang ngày
càng phát triển. Theo tổ chức minh bạch quốc tế công bố chỉ số nhận thức tham nhũng
2012 tụt 11 bậc so với năm ngoái, theo đó Việt Nam đứng thứ 123/176 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Việt Nam thuộc nhóm nước có tình trạng tham nhũng nghiêm trọng.
Điểm đáng ghi nhận trong bản phúc trình 2013 của Tổ chức minh bạch quốc tế là các
chỉ dấu cảm nhận tham nhũng đã được thực hiện trên cơ sở các thăm dò ý kiến của
tổng cộng 114.000 người dân ở 107 quốc gia trên thế giới, một công trình nhiên cứu
kéo dài trong 3 năm. Tại Việt Nam, cuộc điều tra ý kiến được tiến hành theo phương
thức hỏi trực tiếp 1000 người tại 15 đơn vị địa phương.
Về cảm nhận chung của người dân liên quan đến tình trạng tham nhũng, đa số người
được hỏi (55%) cho rằng tệ nạn này tăng nhanh, 27 % thấy tình hình vẫn như cũ, chỉ có
18% thấy là tham nhũng đã giảm bớt.
Đáng chú ý nhất là cảm nhận của người dân về tham nhũng tại 12 loại hình tổ chức, cơ
quan khác nhau đi từ các tổ chức tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan
truyền thông báo chí, cho đến hệ thống giáo dục, bộ máy tư pháp, khu vực công
quyền… hay là công an, quân đội, đảng phái chính trị, doanh nhân…
Kết quả khảo sát cho thấy là giới công an cảnh sát bị người dân Việt Nam đánh giá là
tham nhũng nhất, đứng đầu danh sách, theo sau là khu vực y tế - tức là giới bác sĩ y tá,
và đứng thứ ba là khu vực công quyền.
Một cách cụ thể có đến 72% người được hỏi xác định là ngành cảnh sát tham nhũng
nhất, 58% cho rằng đó là ngành y tế và 55% thấy rằng đó là giới công chức.
Các cảm nhận trên như đã được khẳng định bằng kết quả trả lời cho câu hỏi về hành
động hối lộ đã tiến hành. Tỷ lệ hành vi hối lộ cho cảnh sát cao nhất : 48%, theo sau là
việc hối lộ trong lãnh vực dịch vụ y tế (22%), và lãnh vực nhà đất (21%).
Trước thực trạng đó thì nhu cầu hợp thức hóa nguồn tiền do tham nhũng là rất cao
42
Trong thời gian gần đây, chính phủ đã có những nỗ lực trong việc phòng chống
tham nhũng và kết quả là đã khám phá ra nhiều vụ án tham nhũng lớn như PMU18 làm
thất thoát hàng chục tỷ đồng tiền đầu tư xây dựng cơ bản lấy từ nguồn vốn vay ODA.
Hay đường dây chạy quota dệt may của gia đình Bộ trưởng Mai Văn Dâu mà theo
những người trong cuộc thì đây là luật bất thành văn nếu muốn có hạn mức xuất khẩu
hàng dệt may. Và gần đây nhất là vụ bê bối của các tập đoàn nhà nước Vinalines,
Vinashin được đánh giá có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng hơn PMU18.
Tuy nhiên, những phát hiện trong thời gian qua chỉ là bề nổi của tảng băng
chìm. Trên thực tế, có thể còn nhiều nguồn tiền tham nhũng chưa phát hiện hoặc chúng
đã được rửa sạch và đã được đầu tư mà vẫn chưa bị phát hiện.
- Nền kinh tế tiền mặt:
So với các nền kinh tế trong khu vực, các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
kém phát triển khiến cho các giao dịch tiền mặt chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế. Theo ông Chritt Batt, chuyên gia chống rửa tiền của UNODC nhận định “Việt Nam
dễ bị tội phạm rửa tiền tìm đến do nền kinh tế sử dụng nhiều tiền mặt, cùng với hoạt
động thương mại và đầu tư ngày càng tăng”. Ở Việt Nam, tỷ lệ tiền mặt trên tổng
phương tiện thanh toán trong vòng 10 năm qua mặc dù đã giảm mạnh từ mức 23,7%
năm 2001 xuống còn 12% năm 2013 nhưng vẫn còn ở mức cao so với thế giới. Tỷ
trọng này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là 0,7%, Na Uy là 1%, còn Trung Quốc
là 10 %
43
17%
16%
14%
14%
14%
14%
13%
12%
18% 16% 14% 12% 10% 8% 6% 4% 2% 0%
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán
Nền kinh tế sử dụng tiền mặt rộng rãi sẽ là môi trường thuận lợi cho bọn tội
phạm. Với nguồn tiền bẩn thu được từ hoạt động bất chính, bọn tội phạm có thể tiêu
dùng ngay trong nền kinh tế này mà không cần qua bất cứ bước tẩy rửa nào. Nếu muốn
chúng cũng có thể tẩy rửa một cách dễ dành bằng các hình thức đã nêu như tiến hành
gởi những khoản tiền mặt nhỏ vào ngân hàng, mua các tài sản giá trị cao bằng tiền mặt
sau đó bán lại rồi thanh toán qua tài khoản ngân hàng. Đây chính là kẻ hở khá lớn để
các giao dịch bất hợp pháp được thực hiện dễ dàng.
- Cổ phần hóa NHTM nhà nước
Hiện Việt Nam có 5 NHTM nhà nước, trong đó có 3 ngân hàng Vietcombank,
Vietinbank và MHB đã cổ phần hóa xong, BIDV đang trong những bước cuối cùng
còn Agribank cũng đang tích cực tiến hành cổ phần hóa. Khi cổ phần hóa các ngân
hàng sẽ được phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đây
là kênh huy động rất tốt nhưng tiềm ẩn rủi ro bị lạm dụng rửa tiền và thâu tóm.
- Các định chế tài chính chưa thực sự hiểu rõ khách hàng để kịp thời báo cáo
những giao dịch bất thường. Chẳng hạn, trước đây có nhóm tội phạm quốc tế thuê một
số người Việt Nam mở 12 thẻ debit của các ngân hàng trong nước. Các chủ thẻ nhận ít
44
tiền thù lao rồi lại giao thẻ cho người đặt hàng. Sau đó, nhóm tội phạm này sang
Campuchia (quốc gia không quản lý ngoại hối) để rút tiền mặt. Hằng ngày, tiền được
chuyển vào cả 12 tài khoản ở Việt Nam và rút sạch từ Campuchia. Các ngân hàng phải
nhận thức được đây là giao dịch bất thường và báo cáo với Cục PCRT để phối hợp với
cơ quan công an đấu tranh xử lý.
- Việc xác định tính minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi của các nguồn đầu tư,
truy tìm mối quan hệ sở hữu chéo đang gặp khó khăn. Trên thực tế ở Việt Nam, các cá
nhân, tổ chức đều được góp vốn tham gia cổ đông sáng lập ngân hàng. Ngân hàng A có
công ty B tham gia 10% vốn, công ty B lại có ông C là chủ tịch hội đồng quản trị
nhưng ông C lại cử ông D đứng ra đại diện vốn. Vì vậy, trong cổ đông sáng lập ngân
hàng A không có tên ông C, trong khi nhân vật này mới thực sự là người điều hành.
- Pháp luật Việt Nam cũng không truy cứu "tội phạm kép". Do đó, nếu ai đó tham
nhũng hay lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng không bị xem xét có hay không tội rửa tiền.
Hơn nữa, các hiện tượng thuê giám đốc để thành lập doanh nghiệp, ủy quyền cho tài
xế, nhân viên đứng tên cổ phần... cũng gây khó khăn cho việc truy tìm nguồn gốc dòng
tiền. Một thực tế là theo tập quán tố tụng ở Việt Nam, khi người phạm tội chiếm đoạt
được tài sản từ việc thực hiện tội phạm, sau đó hợp pháp hóa hoặc sử dụng tài sản đã
chiếm đoạt được vào các hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động kinh tế khác, thông
thường người phạm tội chỉ bị truy tố về hành vi phạm tội nguồn mà không đồng thời bị
truy tố tội “rửa tiền”. Chẳng hạn, trong vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, ban đầu cơ quan
công an đã khởi tố 2 đối tượng Hùng Mỹ Phương và Nguyễn Thiên Lý về tội danh rửa
tiền, bởi 2 đối tượng này có nguồn tiền không hợp pháp (hàng trăm tỷ đồng) để cho
Huỳnh Thị Huyền Như vay với lãi suất 0,4%/ngày đến 3,7%/ngày. Tuy nhiên, sau đó
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đề nghị chuyển đổi tội danh để xử lý 2 đối tượng
này với tội “cho vay lãi nặng”.
- Các ngân hàng vẫn đang cạnh tranh nhau trong quá trình huy động tiền gởi từ
các cá nhân, doanh nghiệp và thực tế còn sử dụng nhiều hình thức chào mời khách
hàng gởi tiền rất hấp dẫn. Điều đó sẽ tạo ra tâm lý không quan tâm đến nguồn gốc các
45
khoản của khách hàng tiền gởi vào ngân hàng mình. Ngân hàng sẽ rất vui mừng khi
nhận được một khoản tiền gởi lớn từ khách hàng với mức lãi suất thấp hơn so với đối
thủ cạnh tranh
- Về thanh tra, giám sát: các cơ quan giám sát chưa thực hiện cuộc thanh tra
PCRT nào ở các NHTM. Do đó thiếu các số liệu thống kê toàn diện, gây khó khăn
trong việc đánh giá tính hiệu lực của pháp luật. Chưa xây dựng cơ chế giám sát và
khung pháp lý về PCRT đối khu vực ngoài ngân hàng, làm giảm hiệu lực PCRT nói
chung của cả nền kinh tế.
- Về đào tạo nguồn nhân lực: hiện nay, hầu hết các ngân hàng chưa xây dựng
và thực hiện chương trình đào tạo và nâng cao nhận thức về công tác PCRT. Thực
tế tại nhiều đơn vị ở một số bộ phận trực tiếp giao dịch với khách hàng chưa nắm
được các quy định và văn bản hướng dẫn về PCRT, việc triển khai mới dừng lại ở
mức độ phổ biến.
Qua những phân tích ở trên, có thể chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng nó đã cho thấy
được một số kẻ hở mà bọn tội phạm rửa tiền có thể lợi dụng để tiến hành hành vi phạm
tội của mình. Bên cạnh những điểm yếu trên, có thể vẫn còn những điểm mà chưa được
biết đến, điều đó đòi hỏi cần phải có những biện pháp đủ hiệu quả thì mới có thể ngăn
chặn tội phạm tìm cách khai thác triệt để nhưng kẻ hở nêu trên. Và song song đó, nếu
không tìm ra được những giải pháp để hạn chế hay co hẹp những kẻ hở này lại thì việc
Việt Nam trở thành một “thiên đường” tài chính đối với bọn tội phạm rửa tiền là việc
tất yếu xảy ra ở một tương lai không xa.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương này, luận văn đã phản ánh thực trạng hoạt động rửa tiền và công tác
phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua. Qua đó
tóm lược những kết quả đã đạt được và những tồn tại trong quá trình thực hiện. Để giải
quyết triệt để nhưng tồn tại này đòi hỏi chúng ta phải có hệ thống những giải pháp hiệu
46
quả nhằm ngăn chặn việc lợi dụng hệ thống ngân hàng vào mục đích rửa tiền. Những
giải pháp này sẽ được trình bày ở chương 3
47
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG RỬA
TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Dù cho các hoạt động rửa tiền có biến đổi tinh vi dưới hình thức nào thì ngân
hàng vẫn là nơi được ưu tiên lựa chọn để tiến hành rửa tiền. Để chống lại hoạt động rửa
tiền một cách cơ bản và hiệu quả, chúng ta cần có những giải pháp thiết thực để chống
rửa tiền qua hệ thống ngân hàng và về lâu dài hơn nữa, đó là những giải pháp phòng
ngừa nhằm ngăn chặn ngay từ sự phát sinh các nguồn tiền “bẩn”, thiết lập hệ thống
kiểm soát chặt chẽ nhằm sớm phát hiện sự thâm nhập của các khoản tiền bất hợp pháp
vào hệ thống tài chính ngân hàng.
Trước thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ngày càng đa dạng,
phức tạp và tinh vi thì công tác phòng, chống rửa tiền ngày càng trở nên cấp bách và
đang là mối quan tâm hàng đầu của lãnh đạo các cấp, các ngành
3.1 Giải pháp về phía Nhà nước
Thời gian qua, Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng pháp luật về PCRT và
từng bước triển khai hoạt động PCRT. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động này, cần
thực hiện đồng bộ các biện pháp cụ thể sau:
- Hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến hệ thống pháp luật về chống rửa tiền
theo tiêu chuẩn quốc tế
Khung pháp lý này cần tập trung vào một số lĩnh vực như: Triển khai các biện pháp
ngăn chặn có hiệu lực; tăng cường yêu cầu về thu thập và quản lý thông tin khách
hàng; gia tăng hiệu lực của các báo cáo về giao dịch đáng ngờ; quy định về hệ thống
chuyển tiền “ngầm”.
Đối với pháp luật hình sự, cần quy định rửa tiền là tội phạm riêng để nâng cao hiệu quả
áp dụng trong quá trình phòng chống tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia nói
chung và phòng chống rửa tiền nói riêng. Bộ Luật hình sự cũng cần hình sự hoá những
hành vi đã được quy định trong các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động rửa tiền
như: tội làm giàu bất minh, để buộc các cá nhân có tài sản tăng đáng kể so với thu nhập
của mình mà không giải thích được nguồn gốc của nó phải chịu trách nhiệm trước pháp
48
luật. Bên cạnh đó cần xây dựng các quy định về biện pháp phong tỏa, tịch thu tiền và
tài sản do phạm tội mà có. Các biện pháp tịch thu là sự nối tiếp tất yếu của các biện
pháp trấn áp tội phạm rửa tiền.
Về pháp luật tài chính ngân hàng: nội dung của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này
đã đáp ứng được yêu cầu trong việc phòng chống rửa tiền thông qua tổ chức tín dụng,
ngân hàng. NHNN và các cơ quan có thẩm quyền liên quan cần ban hành các văn bản
quy định một cách chặt chẽ về sử dụng ngoại tệ trong giao dịch và thanh toán.
Bên cạnh những văn bản pháp luật đóng vai trò chủ đạo trên, cần sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện văn bản pháp luật liên quan mang tính chất bổ trợ như: Luật thuế thu nhập
cá nhân, Luật quản lý thuế, Luật thuế tài sản, pháp luật về đăng ký giao dịch,… cần
đưa ra những quy định hợp lý góp phần kiểm soát thu nhập và tài sản của cá nhân.
Nghĩa là phải có sự khai báo rõ ràng về thu nhập cá nhân, về khối tài sản cá nhân, khi
chuyển một lượng tiền lớn thì ngay cả người chuyển và người nhận phải khai báo rõ
ràng về nguồn tiền, lý do chuyển hay được nhận để tránh hiện tượng cá nhân có tài sản
tăng lên một cách bất hợp pháp nhưng không được kiểm soát và không chịu trách
nhiệm trước pháp luật.
- Xây dựng cơ chế quản lý nhà nước chặt chẽ
Trước hết là kiểm soát các giao dịch liên quan đến các tổ chức tài chính: Tiền được rút
ra từ hệ thống các tổ chức tín dụng luôn được coi là hợp pháp, thế nên, hoạt động rửa
tiền của bọn tội phạm cũng tập trung vào các tổ chức tín dụng. Xây dựng các cơ chế
kiểm soát khách hàng và các giao dịch thông qua tổ chức tín dụng đóng vai trò quan
trọng. Hoạt động kiểm soát này liên quan đến việc nhận biết khách hàng, thu thập và
kiểm soát thông tin về khách hàng. Các nhân viên ngân hàng thực hiện nghiệp vụ phải
báo cáo cơ quan có thẩm quyền các thông tin về khách hàng có dấu hiệu của hoạt động
rửa tiền và giao dịch đáng ngờ. Đồng thời cũng quy định bắt buộc đối với một số giao
dịch nhất định được phải báo cáo.
Các giao dịch liên quan đến động sản và tài sản có giá trị lớn: những tài sản mà Nhà
nước quy định phải đăng ký quyền sở hữu, trong quá trình sử dụng, chuyển nhượng
49
cần phải khai báo với cơ quan nhà nước, thanh toán qua tổ chức tín dụng. Có thể xây
dựng các chính sách thuế với thuế suất hợp lý mà đối tượng đánh thuế là tài sản để
kiểm soát được thực trạng và chủ sở hữu của tài sản này, đồng thời có biện pháp xử
phạt thích đáng cho các cá nhân tổ chức tiến hành các giao dịch ngầm.
Hoạt động tẩy rửa tiền cũng liên quan đến hải quan, thuế vụ, do đó cũng cần xây dựng
cơ chế kiểm soát, quản lý nhà nước trong lĩnh vực này một cách chặt chẽ và có hiệu
quả. Xây dựng cơ quan phòng chống rửa tiền trong các cơ quan hải quan, thuế vụ và
trong hệ thống ngân hàng.
- Xây dựng cơ quan tình báo tài chính với chức năng và vai trò theo khuyến nghị
số 26 của FATF. Hiện nay, Cục PCRT chưa có vị trí độc lập như của các quốc gia
khác. Cục PCRT thuộc NHNN, phía Bộ Công an cũng đã thành lập lực lượng chuyên
sâu về công tác phòng chống rửa tiền, nhưng đội ngũ nhân lực cũng như trang thiết bị
còn mỏng và yếu. Đầu tư nhiều hơn cho các lực lượng này là điều cần thiết trong thời
gian tới để nâng cao hiệu quả của công tác phòng chống rửa tiền. Vì thế, thiết nghĩ, cần
phải có một lực lượng Cảnh sát điều tra về tội phạm rửa tiền mạnh hơn, chuyên trách
hơn, được trang bị đầy đủ các kiến thức về loại tội phạm này cũng như các trang thiết
bị công nghệ tốt, hiện đại. Như thế, mới có thể đương đầu, tiến tới đẩy lùi tội phạm rửa
tiền đang có nguy cơ “tấn công” Việt Nam.
- Tăng cường hợp tác quốc tế tương trợ tư pháp trong phòng chống hoạt động
rửa tiền
Trong hoạt động phòng chống tội phạm rửa tiền, hợp tác quốc tế đóng vai trò quan
trọng vì đây là loại tội phạm thường được thực hiện ở nhiều quốc quốc gia và liên quan
đến tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia. Đấu tranh phòng chống loại tội phạm này
phải có sự hợp tác, phối hợp giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm rửa tiền thể hiện trước hết ở việc tham gia,
ký kết các điều ước quốc tế là những văn bản pháp lý có hiệu lực chung giữa các quốc
gia thành viên. Từ đó, hợp tác trên những lĩnh vực cụ thể như trao đổi thông tin, dẫn độ
tội phạm, tịch thu tài sản, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất… Thông qua việc
50
trao đổi này, cơ quan điều tra của các quốc gia liên quan giúp nhau phát hiện và hoàn
thiện hồ sơ để xử lý các băng nhóm tội phạm xuyên quốc gia.
- Các biện pháp liên quan đến cán bộ, công chức
Đối với người có chức vụ, quyền hạn có khả năng thực hiện các hành vi tham nhũng -
một trong những tội phạm nguồn quan trọng liên quan đến hoạt động rửa tiền - cần có
cơ chế quản lý chặt chẽ. Quy định và hướng dẫn cụ thể về việc công khai, minh bạch
tài sản của các đối tượng này, thực hiện chế độ thanh tra, kiểm tra chặt chẽ đối với việc
sử dụng tài sản Nhà nước.
- Phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt. Bởi khi sử dụng thanh toán
bằng tiền điện tử, mọi hoạt động tài chính của mỗi người sẽ được quản lý chặt chẽ và
dễ dàng hơn. Việc sử dụng tiền mặt quá lớn trong thanh toán ở nước ta hiện nay là điều
kiện lý tưởng cho tham nhũng, trốn thuế và các gian lận tài chính khác. Đó cũng là "cái
nôi" để các hành vi rửa tiền của tội phạm trong nước và quốc tế thực hiện mà không bị
phát hiện. Sẽ rất khó quy định những biện pháp cụ thể, trực tiếp và có hiệu quả để
"quản lý thị trường ngầm" nhằm phòng, chống rửa tiền. Vì vậy, cần có biện pháp mạnh
để ngăn chặn từ gốc như:
Quy định về việc thanh toán không dùng tiền mặt trong một số lĩnh vực như
thanh toán tiền mua, bán hàng hoá trong xuất khẩu, nhập khẩu; chuyển nhượng
vốn; mua bán bất động sản, ô tô;...Nếu không, nhà nước sẽ không công nhận
quyền sở hữu đối với giao dịch tiền mặt này.
Ban hành chính sách ưu đãi về thuế, phí đối với các tổ chức sử dụng dịch vụ
thanh toán cũng như đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán.
Phòng, chống rửa tiền có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia. Các nước phát triển đặc biệt quan tâm đến công tác này. Ở nước ta, phòng,
chống rửa tiền còn là công cụ quan trọng để đấu tranh chống tham nhũng. Vì vậy, cùng
với việc ban hành Luật Phòng, chống rửa tiền, cần có những biện pháp có hiệu quả và
được thực thi trong thực tế. Không nên để Luật chỉ đi vào cuộc sống một cách nửa vời
như Luật Phòng, chống tham nhũng trong những năm vừa qua
51
3.2 Các giải pháp về phía NHNN:
- NHNN cần tăng cường phối hợp, hợp tác, giúp đỡ các ngân hàng trong việc phát
hiện, xử lý các hành vi rửa tiền; làm đầu mối để các ngân hàng nên thường xuyên trao
đổi thông tin về tình hình tội phạm rửa tiền tại ngân hàng mình và cần có sự đồng
thuận khi triển khai các biện pháp PCRT.
- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và sử dụng hiệu
quả các phần mềm phát hiện và ngăn chặn các giao dịch đáng ngờ.
- Nghiên cứu và có giải pháp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt trên lãnh thổ
Việt Nam.
- Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ cho các lực lượng chuyên
trách chống rửa tiền, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin đơn vị và phát động
các chiến dịch gia tăng sự hiểu biết của cộng đồng về PCRT.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về rửa tiền: Tổ chức tiếp nhận, tổng hợp, phân
tích, xử lý, lưu giữ, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến rửa tiền đồng thời chuyển
cho cơ quan có thẩm quyền để thanh tra, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
- Ban hành các quy chế giám sát, thường xuyên kiểm tra việc tuân thủ các quy
định về PCRT: Theo đề xuất của Basel II thì NHNN phải thực hiện kiểm toán bắt buộc
hàng năm và hệ thống thanh tra hoạt động quy củ chặt chẽ để NHNN kiểm soát được
các hoạt động tài chính bất hợp pháp, các thông tin nội bộ bị tiết lộ hoặc các hoạt động
lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền. Việc ban hành quy chế giám sát giúp cho các
cơ quan thuộc NHNN chủ động hơn trong việc thanh tra giám sát các NHTM, tránh
trường hợp làm cho có của các NHTM.
- NHNN cần chủ trì và phối hợp với Bộ Công an và các cơ quan hữu quan xây
dựng và thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch, công tác phòng ngừa,
đấu tranh chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam. Sau đây là một vài giải pháp nhằm
tăng cường phối hợp hiệu quả:
Bộ Công an phải có sự phản hồi về kết quả điều tra các giao dịch đáng ngờ
mà Cục PCRT chuyển đến.
52
Cục PCRT cần thường xuyên cập nhật “danh sách đen” từ Bộ Công an để
cung cấp thông tin cho các ngân hàng.
Cộng tác với nhau để nghiên cứu các loại hình rửa tiền để từ đó đưa ra
phương pháp điều tra cũng như ngăn chặn thích hợp.
- Tiếp tục tăng cường hợp tác và hỗ trợ quốc tế về PCRT: phối hợp chặt chẽ với
cơ quan chức năng như Interpol, an ninh kinh tế trong việc thực hiện các biện pháp
PCRT theo quy định của pháp luật cũng như yêu cầu các cơ quan này hỗ trợ khi cần
thiết.
3.3 Các giải pháp về phía NHTM
3.3.1 Các giải pháp liên quan đến nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng và là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp. Trong thực tế hoạt động của ngân hàng cho thấy, cho dù quy trình,
quy định được ban hành chặt chẽ đến đâu nhưng con người cố tình vi phạm, làm trái
thì hậu quả thật khó lường. Ngoài rủi ro trong hoạt động ngân hàng xảy ra do trình độ
nhận thức của nhân viên yếu kém, không nắm bắt được bản chất của vấn đề thì cũng
cần phải kể đến trình độ quản lý con người của cấp lãnh đạo. Do đó, một số biện pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần được các NHTM quan tâm, cụ
thể như sau:
- Công tác tuyển dụng cần căn cứ trên đạo đức, chuyên môn, kinh nghiệm và
năng lực tư duy. Trong đó, đạo đức và năng lực tư duy là hai yếu tố quan trọng hơn cả.
Đạo đức tốt quyết định hành vi và mục đích hành động. Năng lực tư duy có khả năng
đáp ứng sự thích nghi với hoạt động đa dạng và luôn phát triển của hệ thống ngân hàng
trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.
- Cần đặc biệt quan tâm đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, không
ngừng đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp.
- Thu nhập thấp sẽ dần làm triệt tiêu lòng nhiệt huyết của nhân viên đối với công
việc, dễ khiến họ đánh mất phẩm chất vì sức cám dỗ của đồng tiền. Do đó, chế độ
lương thưởng hợp lý đảm bảo cho nhân viên đáp ứng được nhu cầu cuộc sống sẽ giúp
53
hạn chế việc bị mua chuộc hay những hành vi tham nhũng dẫn đến tiếp tay cho bọn tội
phạm thực hiện các hành vi rửa tiền.
- Chế độ khen thưởng, động viên, khuyến khích kịp thời về vật chất và tinh thần
đối với các cá nhân, tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ cũng là động lực thúc đẩy sự cống
hiến, sáng tạo của người lao động cho sự nghiệp phát triển của ngân hàng.
- Thường xuyên quan tâm, xem xét những chuyển biến về tâm lý, cách thức làm
việc để có thể kịp thời giúp đỡ, xử lý.
- Nghiêm khắc xử lý các trường hợp cố tình làm sai trái so với quy trình, quy
định.
3.3.2 Giải pháp về cơ chế vận hành, quản trị hệ thống
- Hoàn thiện, phát triển dịch vụ ngân hàng và thúc đẩy phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt: ngân hàng cần nỗ lực đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng
tiền mặt thông qua việc hoàn thiện, phát triển dịch vụ thẻ. Cụ thể:
Tăng tiện ích của thẻ thanh toán nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phong
phú của khách hàng.
Khuyến khích các tổ chức kinh tế cá nhân thanh toán qua thẻ, mở tài khoản
miễn phí cho các cá nhân, tổ chức kinh tế.
Tăng về số lượng đơn vị chấp nhận thẻ, áp dụng rộng rãi ở các cửa hàng, cửa
hiệu buôn bán ở khắp các tỉnh thành chứ không riêng gì các trung tâm
thương mại, thành phố lớn.
Mở rộng mạng lưới máy rút tiền, đảm bảo sự tiện lợi và an toàn cho người
rút tiền.
- Lựa chọn các ngân hàng (ngân hàng phát hành, ngân hàng xác nhận…) có uy
tín, có tình hình tài chính lành mạnh, tuân thủ các quy định quốc tế về rửa tiền làm đối
tác trong hoạt động thanh toán quốc tế để tránh việc lợi dụng mở L/C và các phương
thức tài trợ thương mại khác nhằm chuyển tiền giữa các quốc gia. Đặc biệt, khi lựa
chọn đối tác cần xem xét xem có nằm trong các nước và vùng lãnh thổ không tuân thủ
54
theo đánh giá của FATF hay không. Nếu đối tác năm trong danh sách cảnh báo của
FATF thì cần phải có những xem xét kỹ lưỡng
- Hiểu được những vấn đề mấu chốt của khách hàng là nguyên tắc hàng đầu trong
kinh doanh của ngân hàng để vừa phòng chống rủi ro cũng như để phục vụ khách hàng
tốt nhất. Vì vậy, ngân hàng cần thu thập thông tin và tìm hiểu khách hàng kỹ lưỡng trên
tất cả các hoạt động nghiệp vụ then chốt của ngân hàng, từ nghiệp vụ tín dụng, bảo
lãnh, nhận tiền gửi, thanh toán,...Ngân hàng cần liên hệ chặt chẽ với các cơ quan chức
năng như: trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN, cơ quan Interpol để chủ động
nắm bắt thông tin về khách hàng. Hiện nay, một số NHTM Việt Nam đã hoàn thiện
Module CIF quản lý hồ sơ khách hàng để bất kỳ lúc nào truy cập vào hệ thống sẽ có
bức tranh toàn diện về khách hàng với những thông tin đầy đủ, chi tiết và thường
xuyên được cập nhật.
- Hiểu được mục đích của khách hàng khi đến ngân hàng: ở các nước, các
NHTM luôn có phòng dịch vụ khách hàng để khách hàng bày tỏ những nguyện vọng
của mình khi giao dịch với ngân hàng. Theo đó, ngân hàng có thể kiểm tra chặt chẽ
mục đích sử dụng các giao dịch của ngân hàng. Ví dụ, đối với hoạt động tín dụng, cần
giám sát các khoản vay khách hàng thông qua việc theo dõi sát sao hoạt động đầu tư
kinh tế của doanh nghiệp trong từng giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay. Từ đó,
ngân hàng có thể kiểm soát được các khoản cho vay của ngân hàng, hạn chế việc sử
dụng vốn vay vào các mục đích bất hợp pháp. Đối với các khoản tiền gửi, trong quá
trình tư vấn, ngân hàng sẽ hiểu rõ được nguồn gốc khoản tiền đó cũng như hình thức
đầu tư của khoản tiền để tiện theo dõi, quản lý.
- Xây dựng chính sách, quy định, quy trình nội bộ về PCRT hướng dẫn cách thức
thực hiện công tác PCRT tại các khâu: mở và sử dụng tài khoản; quy định về nhận biết
khách hàng, nhận biết khách hàng giản đơn và tăng cường, hiểu rõ khách hàng để xác
định những giao dịch bất thường. Tiếp đó, quy định nội bộ về PCRT phải được phổ
biến đến tất cả cán bộ, nhân viên có liên quan chú ý xem xét, nếu có vấn đề gì phát sinh
55
sẽ báo cáo Ban lãnh đạo để xử lý; phải thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tuân thủ
và xử lý các sai phạm; công tác đào tạo phải được quan tâm, tổ chức thường xuyên.
- Hoàn thiện mô hình tổ chức toàn diện từ hội sở chính, chi nhánh đến các công
ty trực thuộc trong hệ thống NHTM Việt Nam là điều kiện vô cùng quan trọng
trong việc thực hiện PCRT có hiệu quả. Tại hội sở chính, phải có được bộ phận phụ
trách PCRT chuyên trách, chuyên xử lý phân tích các báo cáo, thu thập dữ liệu giao
dịch, khách hàng. Tại chi nhánh và các công ty trực thuộc mỗi một đơn vị cũng cần
phải có bộ phận xử lý PCRT chuyên trách và liên hệ làm việc trực tiếp, nhận hỗ trợ
từ bộ phận phụ trách PCRT chuyên trách tại hội sở chính. Việc hỗ trợ và nhận thức
rủi ro về PCRT từ ban lãnh đạo cũng là một điều kiện tiên quyết cho một hệ thống
PCRT thành công, do vậy, mỗi NHTM cần có một lãnh đạo phụ trách về PCRT.
Ngoài ra, kiểm soát tuân thủ thực hiện PCRT không thể thiếu bộ phận kiểm tra,
kiểm soát tính tuân thủ, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, quy định về PCRT.
- Thành lập bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ hoạt động chuyên trách trực thuộc
Tổng giám đốc bao gồm Phòng Kiểm tra nội bộ tại Hội sở chính và Phòng Kiểm tra nội
bộ tại các chi nhánh. Thông qua hoạt động của bộ máy kiểm tra kiểm toán nội bộ, ngân
hàng giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật, quy định của NHNN và các
cơ quan thẩm quyền cũng như các quy trình nghiệp vụ, hoạt động kinh doanh và các
quy định nội bộ khác của các bộ phận trong ngân hàng nhằm phòng chống việc lợi
dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền.
- Các dấu hiệu nhận biết giao dịch đáng ngờ được tóm tắt ở bảng dưới có thể hỗ
trợ các cán bộ, nhân viên ngân hàng phát hiện dấu hiệu rửa tiền qua các sản phẩm dịch
vụ của ngân hàng trong quá trình tác nghiệp hàng ngày:
Dấu hiệu định lượng:
Bảng 3.1 Các dấu hiệu định lượng
STT Dấu hiệu đáng ngờ Mô tả cụ thể dấu hiệu
1 Giao dịch trên tài khoản mới Tài khoản cá nhân mở chưa từng thực
56
mở hoặc không hoạt động lâu hiện giao dịch, có số tiền từ 05 tỷ đồng
ngày hoặc ngoại tệ có giá trị tương đương
trở lên chuyển vào và được rút ra hết
ngay trong ngày
Pháp nhân không thực hiện giao dịch
trong một thời gian dài (12 tháng) trên
tài khoản của mình kể từ khi mở;
doanh nghiệp trong nước mở và sử
dụng tài khoản ở nước ngoài dưới tên
pháp nhân hoặc thể nhân nước ngoài
2 Mục đích mở tài khoản không Trong khoảng thời gian 15 ngày, khách
rõ ràng hàng mở và đóng tài khoản tiền gửi
thanh toán ít nhất 2 lần
Cá nhân, tổ chức hướng dẫn từ 10
người trở lên đến mở tài khoản giao
dịch mà không rõ mục đích của việc
mở tài khoản hoặc mục đích mở không
phù hợp với hoạt động thực tế của
khách hàng
3 Giới thiệu khách hàng và đề Cá nhân, tổ chức giới thiệu cho ngân
nghị chi hoa hồng hàng các cá nhân, tổ chức khác đến gởi
tiền có giá trị từ 02 tỷ đồng hoặc ngoại
tệ có giá trị tương đương trở lên và đề
nghị chi tiền hoa hồng giới thiệu cho
cá nhân và tổ chức giới thiệu
4 Hiệu lực của Visa dưới 30 Khách hàng là cá nhân nhập cảnh vào
ngày Việt Nam mà visa có hiệu lực ít hơn
57
hoặc bằng 30 ngày, thực hiện giao dịch
trên tài khoản với số tiền có giá trị từ
10 tỷ đồng hoặc ngoại tệ có giá trị
tương đương trở lên
5 Số điện thoại cá nhân hoặc cơ Nhân viên ngân hàng gọi điện tối thiểu
quan do khách hàng cung cấp 3 lần đến số điện thoại cá nhân hoặc cơ
không thể liên lạc được hoặc quan do khách hàng cung cấp không
không có số này sau khi mở thể liên lạc được hoặc không có số này
tài khoản hoặc thực hiện giao
dịch
6 Các giao dịch được thực hiện Khách hàng hoặc người được ủy quyền
theo lệnh hoặc theo ủy quyền thực hiện giao dịch là một trong các tổ
của tổ chức, cá nhân có trong chức, cá nhân thuộc danh sách tổ chức,
danh sách cảnh báo cá nhân do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá
nhân có rủi ro cao về rửa tiền
7 Các giao dịch chuyển tiền có Giao dịch nộp tiền, chuyển khoản và
giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản rút tiền (với số tiền ít nhất là 300 triệu
khác nhau về một tài khoản đồng hoặc ngoại tệ có giá trị tương
hoặc ngược lại trong một thời đương cho mỗi lần giao dịch) được
gian ngắn; tiền được chuyển thực hiện từ 6 lần trở lên giữa 02 tài
qua nhiều tài khoản; các bên khoản trong cùng ngày
liên quan không quan tâm đến Các giao dịch chuyển tiền có giá trị
phí giao dịch; thực hiện nhiều nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về
giao dịch, mỗi giao dịch gần một khoản tiền lớn hay chuyển qua
mức giá trị báo cáo nhiều tài khoản khác nhau về một tài
khoản trong một thời gian ngắn (trong
58
ngày) hoặc ngược lại; các bên liên
quan không quan tâm đến phí giao dịch
8 Có sự thay đổi đột biến trong Có sự thay đổi đột biến trong doanh số
doanh số giao dịch trên tài giao dịch trên tài khoản: tiền gởi vào
khoản; tiền gửi vào và rút ra và rút ra nhanh khỏi tài khoản (trong
nhanh khỏi tài khoản; doanh vòng 15 phút); doanh số giao dịch lớn
số giao dịch lớn trong ngày trong ngày (từ 05 tỷ đồng trở lên)
nhưng số dư tài khoản nhỏ nhưng số dư tài khoản rất nhỏ (bằng số
hoặc bằng không dư tối thiểu duy trì tài khoản theo quy
định của ngân hàng) hoặc bằng 0 (các
dấu hiệu trên xảy ra khoảng 3 lần/tuần)
Khách hàng thường xuyên đổi tiền có
9 Khách hàng thường xuyên đổi
tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn với
mệnh giá lớn tổng giá trị một lần đổi từ 300.000.000
đồng trở lên
Dấu hiệu định tính:
Bảng 3.2 Các dấu hiệu định tính
STT Dấu hiệu đáng ngờ Mô tả cụ thể dấu hiệu
1 Khách hàng che dấu, lẫn Khách hàng cố ý che dấu, lẫn tránh
tránh, e ngại khi giao dịch nhằm tránh sự phát hiện của nhiều người
như: ăn mặc, trang điểm mang tính chất
ngụy trang, không giao dịch ở những
điểm đông người, có sự nóng vội hoặc
không giữ được bình tĩnh khi giao dịch
Lúng túng, e ngại khi cung cấp những
thông tin giao dịch như: thông tin về
59
người chuyển tiền, người thụ hưởng
(CMND/Hộ chiếu, địa chỉ, số điện thoại
liên lạc, ngành nghề kinh doanh, mục
đích hoặc nội dung giao dịch…)
2 Đề nghị thưởng hoặc cung cấp Khách hàng đề nghị chi hoa hồng, sẽ
những lợi ích khác nộp phí giao dịch cao hoặc cung cấp các
lợi ích khác cho nhân viên, với điều kiện
là khách hàng sẽ không trả lời các câu
hỏi của nhân viên nếu nhân viên hỏi liên
quan đến giao dịch và phải thực hiện
giao dịch một cách nhanh chóng
3 Khách hàng từ chối cung cấp Khách hàng từ chối cung cấp những giấy
chứng từ hoặc cung cấp thông tờ về nhân thân của mình hoặc người thụ
tin nhận biết khách hàng hưởng khi đến giao dịch tại ngân hàng
không chính xác, không đầy như: CMND/hộ chiếu, địa chỉ thường trú
đủ, không nhất quán hoặc tạm trú, số điện thoại …khi nhân
viên có yêu cầu
Khách hàng từ chối cung cấp các chứng
từ mà theo quy định là phải cung cấp đối
với loại giao dịch mà khách hàng đề
nghị
Khách hàng từ chối trả lời, trả lời không
rõ ràng hoặc có mâu thuẩn trong nội
dung trả lời các câu hỏi liên quan đến
mục đích mở và sử dụng tài khoản như:
mở tài khoản để chuyển tiền đi, nhận
tiền chuyển vào hay là nhận tiền lương;
60
khách hàng nhận tiền hoặc chuyển tiền
trong nước hay ngoài nước…
4 Thông tin khách hàng có thay Cùng một khách hàng nhưng thông tin
đổi hoặc không thể xác định về khách hàng đó trên các chứng từ cung
được khách hàng theo thông cấp cho ngân hàng là khác nhau qua các
tin khách hàng cung cấp hoặc lần giao dịch như: một khách hàng
giao dịch liên quan đến một nhưng có họ tê, địa chỉ, số CMND/hộ
bên không xác định danh tính chiếu, mẫu dấu…khác nhau mà không
có lý do xác đáng như: quyết định thay
đổi họ, tên, số CMND, giấy đăng ký
mẫu dấu mới…
Khách hàng sử dụng cùng một lúc 2
hoặc nhiều CMND, 2 hoặc nhiều hộ
chiếu
Các giấy tờ tùy thân của khách hàng như
CMND, hộ chiếu được viết bằng chữ
viết tay, có dấu hiệu tẩy xóa hoặc hình
ảnh trên các giấy tờ đó đã bị thay đổi…
nhưng cố gắng thuyết phục nhân viên để
được giao dịch
Các bên có liên quan đến giao dịch cung
cấp thông tin nhận biết khách hàng
không chính xác, không đầy đủ, không
nhất quán
5 Chứng từ giao dịch không Khách hàng cung cấp không đúng,
đúng, không đầy đủ không đầy đủ hoặc không phù hợp với
quy định của Ngân hàng Nhà nước, về
61
các chứng từ phải cung cấp đối với loại
giao dịch mà khách hàng đề nghị, nhưng
vẫn cố giải thích, thuyết phục để được
giao dịch
Khách hàng không ghi đầy đủ và chính
xác nội dung trên các chứng từ giao dịch
theo quy định đối với loại giao dịch mà
khách hàng đề nghị, mặc dù nhân viên
đã yêu cầu thực hiện lại nhưng khách
hàng vẫn không thực hiện hoặc có thực
hiện nhưng không đầy đủ, cố tình né
tránh việc điền thông tin
6 Các giao dịch mà qua thông Khách hàng hoặc người được khách
tin nhận biết khách hàng hoặc hàng ủy quyền thực hiện giao dịch mà
qua xem xét về cơ sở kinh tế nhân viên ngân hàng biết được hoặc
và pháp lý của giao dịch có nghi ngờ số tiền có nguồn gốc từ hoạt
thể xác định được mối liên hệ động tội phạm hoặc được sử dụng nhằm
giữa các bên tham gia giao mục đích phục vụ cho hoạt động tội
dịch với các hoạt động phạm phạm (thông tin về khách hàng mà nhân
tội hoặc có liên quan tới tổ viên biết có thể là từ truyền hình, báo,
chức, cá nhân có trong danh đài, internet…)
sách cảnh báo Các giao dịch được thực hiện theo lệnh
hay ủy quyền của các cá nhân, tổ chức
có liên quan đến hoạt động tội phạm
nằm trong danh sách cá nhân, tổ chức có
liên quan tới khủng bố và tài trợ khủng
bố do Bộ Công an chủ trì lập theo quy
62
định của pháp luật
Các giao dịch mà qua thông tin nhận
dạng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế
và pháp lý của các bên tham gia giao
dịch, ngân hàng có thể xác định được
mối liên hệ giữa các bên tham gia giao
dịch với các hoạt động tội phạm hoặc có
liên quan tới cá nhân, tổ chức nêu trên
Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển
tiền được thực hiện bởi một cá nhân hay
tổ chức liên quan đến hoạt động bất hợp
pháp mà thông tin đại chúng (báo, đài)
đã đăng tải
7 Khách hàng thuyết phục ngân Khách hàng chủ động đề nghị, thuyết
hàng không báo cáo giao dịch phục ngân hàng không báo cáo giao dịch
với cơ quan nhà nước có thẩm đáng ngờ, báo cáo giao dịch có giá trị
quyền lớn và các trường hợp báo cáo khác liên
quan tới phòng chống rửa tiền theo quy
định của pháp luật và quy định nội bộ
của ngân hàng
8 Các tổ chức, cá nhân tham gia Các cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch
giao dịch với số tiền lớn với số tiền có giá trị lớn không tương
không phù hợp với thu nhập, xứng hoặc không liên quan tới hoạt động
hoạt động kinh doanh của tổ thường ngày hay bất cứ hoạt động hợp
chức, cá nhân này pháp nào theo đánh giá của ngân hàng
Các tổ chức chứng khoán chuyển tiền
không phù hợp với hoạt động kinh
63
doanh chứng khoán
Các công ty bảo hiểm thường xuyên đền
bù hoặc chi trả bảo hiểm với số tiền lớn
cho cùng một khách hàng (3 lần/tháng,
số tiền từ 1 tỷ đồng trở lên/lần)
9 Khách hàng mở nhiều tài Khách hàng cư trú, làm việc hoặc có
khoản tại các chi nhánh của hoạt động kinh doanh ở tỉnh này mà mở
ngân hàng ở khu vực khác nơi tài khoản tại chi nhánh tỉnh khác mà
khách hàng cư trú, làm việc không có liên quan gì tới hoạt động của
hoặc có hoạt động kinh doanh khách hàng
10 Tài khoản của khách hàng Tài khoản của khách hàng không giao
không giao dịch trên một năm, dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà
giao dịch trở lại mà không có khách hàng không giải thích hợp lý vì
lý do hợp lý; tài khoản của sao hoạt động trở lại
khách hàng không giao dịch Tài khoản khách hàng không giao dịch
đột nhiên nhận được một đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi
khoản tiền gởi hoặc chuyển hoặc chuyển tiền có giá trị lớn
tiền có giá trị lớn
11 Doanh nghiệp có vốn đầu tư Doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra
nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài trong vòng 3 ngày làm việc
nước ngoài ngay sau khi nhận hoặc thời điểm khác mà ngân hàng thấy
được vốn đầu tư hoặc chuyển có nghi ngờ sau khi nhận được vốn đầu
tiền ra nước ngoài không phù tư hoặc sau hoặc sau khi nhận được tiền
hợp với hoạt động kinh doanh; từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở
doanh nghiệp nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam
chuyển tiền ra nước ngoài Doanh nghiệp nước ngoài thanh toán các
ngay sau khi nhận được tiền từ khoản tiền chi trả ra nước ngoài theo các
64
nước ngoài chuyển vào tài hợp đồng, giao dịch không phù hợp với
khoản mở tại ngân hàng Việt ngành nghề kinh doanh trên Giấy chứng
Nam nhận đăng ký kinh doanh hoặc các hoạt
động thường nhật của doanh nghiệp
12 Các dấu hiệu khác Giao dịch của khách hàng có dấu hiệu vi
phạm các trình tự, thủ tục quy định,
khách hàng bỏ qua các bước, quy trình
phải thực hiện
Sử dụng tín dụng thư và các phương
thức tài trợ thương mại khác có giá trị
lớn, chiết khấu với giá trị cao nhằm
chuyển tiền giữa các quốc gia khi giao
dịch này không liên quan đến hoạt động
thường xuyên của khách hàng
Chuyển lượng tiền lớn từ tài khoản
ngoại tệ của doanh nghiệp ra nước ngoài
sau khi nhận được các khoản tiền nhỏ
được chuyển vào bằng chuyển tiền điện
tử, séc, hối phiếu
Khách hàng là các cá nhân hoặc tổ chức
liên quan tới các hành vi tội phạm mà đã
được đăng tải trên báo giấy, báo mạng,
truyền hình, phát thanh và các phương
tiện thông tin đại chúng khác
Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa
được phép trên cơ sở bảo đảm bằng hợp
đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay
65
sau khi thanh toán phí bảo hiểm
Thông tin về các khoản vốn góp trong
nghiệp vụ tài trợ, đầu tư, cho vay, cho
thuê tài chính hoặc ủy thác đầu tư của
khách hàng không rõ ràng, minh bạch về
Thông tin về tài sản thế chấp, cầm cố
nguồn gốc
của khách hàng xin vay vốn không rõ
ràng, minh bạch về nguồn gốc như được
chuyển nhượng đi lại nhiều lần, thông
tin giấy tờ sở hữu có mâu thuẩn hoặc
không rõ ràng
- Giải pháp về hệ thống công nghệ hỗ trợ: Hệ thống PCRT cần phải có 2
module thiết yếu là Filtering: ngăn chặn tức thời và Profiling dành cho phân tích sau:
Đối với Profiling: Các ví dụ về kịch bản rửa tiền đưa ra nhằm cài đặt vào
trong hệ thống, và kiểm nghiệm kết quả từ các kịch bản đang được xây dựng;
thu thập tất cả các giao dịch nghi ngờ phục vụ cho việc profiling; quy tắc
với các tham số xác định các thành phần của kịch bản (ví dụ: các tài khoản có
giao dịch lớn hơn 300 triệu đồng; các khách hàng có nhiều hơn 5 tài khoản tại
ngân hàng; danh sách các khách hàng đen, các nước, quốc gia không hợp tác
về rửa tiền do các tổ chức có uy tín cung cấp hàng năm…
Đối với Filtering: Quy trình cảnh báo trong Filtering; hỗ trợ CDD; xếp hạng
rủi ro dựa trên ma trận rủi ro, ma trận rủi ro phải được xây dựng dựa trên: sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng mà khách hàng sử dụng, quốc gia khách hàng cư
trú...
- Hợp tác chặt chẽ với các bộ phận thuộc ngân hàng, NHNN, Cục PCRT, cơ quan
công an cũng như các ngành hữu quan để có thể chủ động nắm bắt được những thông
66
tin về khách hàng và có được sự cảnh báo sớm nhất trước khi thực hiện giao dịch với
khách hàng và kịp thời xử lý các giao dịch có dấu hiệu phạm pháp liên quan đến rửa
tiền.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 đã trình bày một số giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Những giải pháp này được trình bày theo phạm vi chức năng của cơ quan
Nhà nước, NHNN và NHTM. Để đạt được hiệu quả trong hoạt động phòng, chống rửa
tiền thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành, các cấp dưới sự chỉ đạo thống
nhất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
67
KẾT LUẬN
Luận văn mới chỉ nghiên cứu giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
- một phần trong hoạt động phòng, chống rửa tiền nói chung. Trên thực tế, hoạt động
phòng, chống rửa tiền là công việc hết sức phức tạp và lâu dài, đòi hỏi sự quyết tâm
chính trị, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan, nâng cao tinh
thần trách nhiệm, đạo đức trong khi thi hành công vụ, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp
thời các vụ việc có liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố, nhằm đóng góp cho nền
kinh tế phát triển ổn định, bảo vệ an ninh kinh tế và chủ quyền quốc gia.
Qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã đưa ra những ý kiến đóng góp sau đây:
Một là, hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến hệ thống pháp luật về chống rửa tiền
theo tiêu chuẩn quốc tế; sớm đưa Việt Nam trở thành thành viên chính thức của FATF;
thành lập cơ quan phòng, chống rửa tiền trực thuộc Chính phủ
Hai là, tạo lập môi trường kinh tế thích hợp nhằm giúp hạn chế khả năng tạo ra các
dòng “tiền bẩn”; tăng cường thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng
Ba là, xây dựng và thực thi các biện pháp mang tính tác nghiệp tại NHNN và các
NHTM nhằm phát hiện và ngăn chặn hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Tuy
nhiên, việc xem xét và lựa chọn giải pháp nào còn tùy thuộc vào tình hình thực tế và
đặc điểm riêng có của từng NHTM
Vấn đề nghiên cứu của đề tài khá phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực nên đề tài
trình bày chưa đầy đủ và mang tính chủ quan. Với kiến thức, khả năng và thời gian còn
hạn chế, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ quý thầy cô để luận
văn được hoàn thiện và mang tính thực tiễn.
Xin chân thành cảm ơn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Luật các tổ chức tín dụng (2007)
2. Luật phòng, chống rửa tiền (2012)
3. Nghị định số 116/3013/NĐ-CP về phòng chống rửa tiền (2013)
4. Ngô Thái Phương (2006), “Chống rửa tiền và tài trợ khủng bố - Kinh nghiệm
của một số nước trong khu vực”, Tạp chí Ngân hàng (số 9), tr.15-20.
5. Nguyễn Hải Bình (2005), “Phòng, chống rửa tiền trên thế giới và một số lưu ý
khi áp dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (số 11), tr 3-9.
6. Nguyễn Thị Ngọc Trang (2005), “Chống rửa tiền và chủ trương tự do hóa dòng
chu chuyển vốn quốc tế”, Tạp chí kinh tế phát triển, số 186, tr 20-26.
7. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển
kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), tr.9-11.
8. Paul Allan Schott (2007), Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và tài trợ
khủng bố, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.
9. Trần Huy Hoàng, Trần Thị Lan Phương (2006), “Phòng chống rửa tiền ở Việt
Nam”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), tr.14-18.
10. Trần Ngọc Thơ (2005), “Chống rửa tiền nhưng chống ai?”, Tạp chí kinh tế phát
triển, (số 186), tr.5-7.
11. Trần Thị Thu Hoài (2013), “Nguy cơ bị lợi dụng rửa tiền, tài trợ khủng bố từ hệ
thống chuyển tiền ngầm và hành lang pháp lý điều chỉnh”, Tạp chí Ngân hàng,
(số 16), tr.18-22.
12. Trương Quang Thông (2005), “Rửa tiền điện tử”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số
177), tr 9-11.
13. Văn Tạo, Kim Anh (2010), “Phòng, chống rửa tiền kinh nghiệm của các nước
và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (số 1), tr.16-20.
Tiếng Anh
14. Development Prospects Group, World Bank (2010), Outlook for Remittance
Flows 2010-11 – Migration anh Development Brief 12.USA
15. FATF (2009), Methodology for Assessing Compliance with the FATF 40
Recommendations anh the FATF 9 special Recommendations, USA
16. World Bank (2009), Stolen Asset Recovery, USA
PHỤ LỤC 1
40 khuyến nghị về chống rửa tiền của FATF:
KHUYẾN NGHỊ NỘI DUNG
1. Các hệ thống pháp lý
Khuyến nghị 1, 2 - Phạm vi của tội phạm hình sự rửa tiền
Khuyến nghị 3 - Các biện pháp tạm thời và tịch thu
2. Các biện pháp được các định chế tài chính và
các loại hình phi tài chính thực hiện nhằm ngăn
ngừa hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố
Khuyến nghị 4, 5, 6, 7, 8, - Cập nhật, theo dõi thông tin về khách hàng và lưu
9, 10, 11, 12 giữ hồ sơ
Khuyến nghị 13, 14, 15, - Báo cáo các giao dịch đáng ngờ và tuân thủ
16
Khuyến nghị 17, 18, 19, - Các biện pháp khác nhằm ngăn chặn rửa tiền và tài
trợ khủng bố 20
Khuyến nghị 21, 22 - Các biện pháp cần phải tiến hành đối với quốc gia
không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các khuyến
nghị của FATF
Khuyến nghị 23, 24, 25 - Quản lý và giám sát
3. Các biện pháp tổ chức và biện pháp khác cần
thiết trong hệ thống chống rửa tiền và tài trợ khủng
bố
Khuyến nghị 26, 27, 28, - Các cơ quan có thẩm quyền, quyền hạn và nguồn
29, 30, 31, 32 lực của họ
Khuyến nghị 33, 34 - Tính minh bạch của các pháp nhân và thoả thuận pháp
lý
4. Hợp tác quốc tế
Khuyến nghị 35 - Tham gia công ước quốc tế
Khuyến nghị 36, 37, 38, - Hỗ trợ pháp lý đa phương và dẫn độ
39
Khuyến nghị 40 - Các hình thức hợp tác khác
9 khuyến nghị đặc biệt (SR) về chống tài trợ cho khủng bố gồm:
SR I. Phê chuẩn và thực hiện các văn kiện của Liên hợp quốc
SR II. Hình sự hoá hành vi tài trợ cho khủng bố và rửa tiền kèm theo
SR III. Phong toả và tịch thu tài sản của các đối tượng khủng bố.
SR IV. Báo cáo các giao dịch đáng ngờ liên quan đến chủ nghĩa khủng bố
SR V. Hợp tác quốc tế
SR VI. Chuyển tiền thay thế
SR VII. Chuyển tiền điện tử
SR VIII. Các tổ chức phi lợi nhuận
SR IX.Vận chuyển tiền mặt qua biên giới (ban hành ngày 22/10/2004)
PHỤ LỤC 2
Một số vụ án rửa tiền trên thế giới
- Một trong những vụ sớm nhất và nổi tiếng nhất liên quan đến việc ngân
hàng bị phạt do vi phạm các quy định và luật lệ liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Mỹ
là trường hợp Ngân hàng Boston. Mặc dù đã được yêu cầu phải tuân thủ chặt chẽ hơn
trong việc lưu giữ các chứng từ giao dịch vào năm 1980, song Ngân hàng Boston vẫn
tiếp tục giao dịch với các ngân hàng nước ngoài, bao gồm cả các ngân hàng đại lý của
nó mà không hề lưu giữ hồ sơ chứng từ đến tận năm 1984. Nghiêm trọng hơn, các chi
nhánh của Ngân hàng Boston đã tiếp tục thực hiện những giao dịch với những tội phạm
nổi tiếng qua nhiều năm. Những nhân vật này đã thực hiện những phi vụ kinh doanh
bất động sản, nhưng nhân viên của Ngân hàng Boston đã không báo cáo và lưu giữ
chứng từ của những giao dịch này mặc dù chúng không được loại trừ theo các quy định
và luật lệ về tài chính. Đến năm 1985, Ngân hàng Boston mới thực hiện đúng các yêu
cầu về phòng, chống rửa tiền theo các quy định, luật lệ nên cuối cùng đã bị kết án và bị
phạt 500.000 USD.
- Vụ rửa tiền Liberty Reserve
Theo Bộ Tư Pháp Mỹ thì đây là vụ rửa tiền lớn nhất của nước Mỹ từ trước đến nay.
Liberty Reserve thành lập năm 2006 tại Costa Rica với chức năng kinh doanh giao dịch
tiền ảo từ bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Phí giao dịch khoảng 1% và “phí bảo mật”
khoảng 75 cent để giấu kín số tài khoản của người dùng, khiến cho các giao dịch này
không thể bị truy ra. Dịch vụ của Liberty Reserve có khoảng hơn 1 triệu người sử dụng
trên toàn thế giới, trong đó có 200.000 người từ Mỹ, và xử lý hơn 12 triệu giao dịch
mỗi năm với giá trị hơn 1,4 tỷ USD. Kể từ năm 2006 đến nay, công ty này đã thực hiện
hơn 55 triệu giao dịch, chuyển tiền phi pháp hơn 6 tỷ USD vào các “quỹ đen”.
Liberty Reserve chủ yếu là một ngân hàng cho thị trường chợ đen. Để đăng ký sử dụng
dịch vụ của Liberty Reserve thì một cá nhân chỉ cần địa chỉ email, tên và ngày sinh hợp
lệ. Hoạt động chuyển tiền thông qua máy chủ đặt tại các quốc gia như Thụy Điển,
Thụy Sĩ và Costa Rica. Người này sẽ phải có một lượng tiền thật, ví dụ như đồng USD,
để đảm bảo với bên thứ ba nhận trách nhiệm giao dịch, sau đó công ty này sẽ chuyển
lượng USD này sang đơn vị tiền ảo Liberty Reserve hay còn gọi LR và chuyển đến tài
khoản người nhận. Từ đây, tội phạm có thể sử dụng lượng tiền ảo mang tên LR này để
mua bán trao đổi hàng hóa, thanh toán trên các trang cá độ, mua các phần mềm, thiết bị
công nghệ, ma túy hoặc các mặt hàng khác bằng cách chuyển tiền ảo qua lại giữa các
tài khoản của LR. Người dùng có thể sử dụng tài khoản này để trả cho người dùng
khác hoặc đổi về tiền thật chuyển vào tài khoản ngân hàng để sử dụng, và đó bị coi là
một giao dịch rửa tiền. Khách hàng có thể nạp tiền vào tài khoản Liberty Reserve thông
qua thanh toán từ một ngân hàng, phiếu tiền do bưu điện phát hành hay chuyển khoản.
Sau đó, số tiền này sẽ được quy đổi sang tiền LR bởi một dịch vụ trung chuyển tiền
điện tử. Liberty Reserve không chuyển tiền trực tiếp từ khách hàng mà sử dụng một
bên thứ 3 để thực hiện công việc này. Bên thứ 3 sẽ mua hoặc bán tiền LR. Do đó, ngoài
phí trả cho Liberty Reserve, khách hàng còn phải trả phí cho bên thứ 3, với nhiều
trường hợp mức phí có thể lên tới hơn 5% khoản tiền cần chuyển hay nói cách khác
dịch vụ này đắt đỏ hơn hoạt động thanh toán và chuyển tiền qua ngân hàng chính
thống. Tuy nhiên, do tính chất của quy trình chuyển tiền như trên, danh tính “mờ ám”
của khách hàng có thể giúp họ thực hiện các giao dịch phi pháp. Liberty Reserve có thể
trở thành trung tâm giao dịch tài chính cho các hoạt động phi pháp như tấn công mạng,
ăn cắp tài khoản tín dụng, buôn ma túy
Hình: Giao dịch thông qua đơn vị tiền ảo Liberty Reserve
- Vụ cựu bộ trưởng Thái Lan tham nhũng, giấu giếm tài sản và giả đánh
bạc để thực hiện hành vi rửa tiền đã được điều tra làm rõ như sau: Toà án tối cao Thái
Lan nghi ngờ cựu bộ trưởng Y tế Rakkiat Sukthana lạm dụng chức quyền để có được
233,88 triệu baht (tương đương 5,8 triệu USD) và ra lệnh tịch biên toàn bộ kể cả tài sản
của ông để dưới tên người khác. Lý do là cựu bộ trưởng Y tế không thể chứng minh
được lời khai số tiền đặt trong 13 tài khoản ngân hàng này có nguồn gốc từ đánh bạc,
trợ cấp chính trị và vay mượn. Trong số tài sản bị tịch biên của ông Rakkiat, 179,48
triệu baht, được để trong tài khoản ngân hàng của Jirayu Charasathien, cựu trợ lý thân
cận nhất của ông, và tài khoản của Pitsanukorn Udornsathit, em vợ cựu bộ trưởng. Ông
Rakkiat cho biết có được số tiền này từ đánh bạc ở Australia, nhưng không công bố vì
lo ngại chuyện đó sẽ phá hoại uy tín và địa vị bộ trưởng. Theo thông tin từ toà án,
Jirayu, đang chịu án 6 năm tù vì tội tham nhũng, và Pitsanukorn không thể khẳng định
số tiền đó có từ đánh bạc. Ngay cả nếu Rakkiat đã thắng, thì lẽ ra ông đã phải cho vào
chính tài khoản của mình. Bên cạnh đó, nếu đó đúng là tiền thắng bạc, thì Rakkia phải
giữ chứng từ sổ sách của sòng bạc để chứng minh. Tuy nhiên, ông không có bằng
chứng này. Biên bản của toà án có đoạn: "Nếu có bằng chứng tiền được chuyển từ sòng
bạc cho ông Rakkiat, thì lập luận tiền có được do đánh bạc là có thể đáng tin cậy. Tuy
nhiên, đưa tiền vào tài khoản của Jirayu và Pitsanukorn có nghĩa là rửa tiền". Cơ quan
tư pháp còn phát hiện 15,4 triệu baht trong tài khoản ở Ngân hàng Krung Thai của bà
Surakanya, vợ ông Rakkia, cũng khó có khả năng xuất phát từ tiền đánh bạc. Bà
Surakanya cho biết luôn cùng chồng tới các sòng bạc ở nước ngoài. Mỗi lần thắng
cuộc, ông lại đưa tiền cho bà rồi bà đưa tiền vào tài khoản tiết kiệm của mình. 15,4
triệu baht có được từ 4 lần đến sòng bạc ở Australia, Malaysia và Macao. Tuy nhiên,
toà án phát hiện ông Rakkiat đã thua nặng hai lần, gồm 24,3 triệu baht ở Malaysia và
17 triệu baht ở Macao. Vì vậy, không thể có đến 15,4 triệu baht cho bà Surakanya. Ông
Rakkiat cho biết cựu lãnh đạo Seritham Pinit Charusombat đã giúp ông gây quỹ 21
triệu baht. Đổi lại, cựu bộ trưởng gia nhập đảng Hành động Xã hội vì Udon Thani. Toà
án phát hiện số tiền đã nhanh chóng được chuyển cho Jirayu, khi ông Rakkiat còn đang
đi nước ngoài và nó chưa bao giờ được sử dụng vào mục đích chính trị.