BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------------------------

NGUYỄN NGỌC LOAN

GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số

: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN HUY HOÀNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa

công bố tại bất cứ nơi nào. Luận văn được hoàn thành sau quá trình học tập, nghiên

cứu thực tiễn, kinh nghiệm bản thân và dưới sự tận tình hướng dẫn của PGS - TS

Trần Huy Hoàng.

Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 11 năm 2013

Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Loan

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí

Minh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt

thời gian tôi học tập tại trường.

Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS – TS Trần Huy Hoàng, người đã

hướng dẫn cho tôi hoàn thành luận văn này.

Tác giả

Nguyễn Ngọc Loan

iii

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt

Danh mục các bảng, biểu

Danh mục các hình vẽ

Lời mở đầu ............................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG

CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ..................................... 3

1.1 Những vấn đề cơ bản về rửa tiền ................................................................ 3

1.1.1 Khái niệm rửa tiền ................................................................................ 3

1.1.2 Các hình thức rửa tiền .......................................................................... 5

1.1.3 Chu trình rửa tiền ................................................................................. 8

1.2 Ảnh hưởng của rửa tiền đối với nền kinh tế ............................................... 9

1.3 Hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ............................................ 13

1.3.1 Khái niệm rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ..................................... 13

1.3.2 Các dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................ 13

1.3.3 Nội dung phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................. 16

1.4 Các tổ chức tham gia phòng chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế .......... 17

1.5 Hoạt động phòng chống rửa tiền trên thế giới ......................................... 22

iv

1.5.1 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Mỹ .............................................. 22

1.5.2 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Anh ............................................. 25

1.5.3 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở một số nước khác ....................... 26

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN

QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ... 27

2.1 Cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân

hàng Việt Nam ..................................................................................................... 27

2.2 Tổ chức thực hiện phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt

Nam………………………………………………………………………………..29

2.3 Thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam ........ 31

2.4.1 Những kết quả đã đạt được ................................................................ 33

2.4.2 Những tồn tại, hạn chế ........................................................................ 37

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 45

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG

RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM .............................. 47

3.1 Giải pháp về phía Nhà nước ...................................................................... 47

3.2 Các giải pháp về phía NHNN: ................................................................... 51

3.3 Các giải pháp về phía NHTM ................................................................ 52

3.3.1 Các giải pháp liên quan đến nguồn nhân lực ................................. 52

3.3.2 Giải pháp về cơ chế vận hành, quản trị hệ thống .......................... 53

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 66

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 67

v

PHỤ LỤC 1 .......................................................................................................... 70

PHỤ LỤC 2 .......................................................................................................... 72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH

AML (Anti – Money Laundering): chống rửa tiền

AMLO (Anti – Money Laundering Office) hay AMLC (Anti – Money Laundering

Council): Cơ quan chuyên trách chống rửa tiền

APG (Asia Pacific Group): Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương

CDD (Customer Due Diligence): yêu cầu chú ý xác đáng khách hàng

FATF (Financial Action Task Force): Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa

tiền

FIU (Financial Intelligence Unit): đơn vị tình báo tài chính

GPML (Global Programme against Money – Laundering): chương trình toàn cầu

về chống rửa tiền

IMF (International Moneytary Fund): Quỹ tiền tệ quốc tế

KYC (Know your customer): Biết về khách hàng của mình

ODC (Office on Drugs anh Crime): Văn phòng Ma túy và Tội Phạm

UNODC (United Nations Office on Drugs anh Crime): Cơ quan phòng chống ma

túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc

vii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT

CSTT: chính sách tiền tệ

G7: Nhóm 7 nước công nghiệp hàng đầu của thế giới bao gồm Pháp, Đức, Ý, Nhật,

Anh, Hoa Kỳ, Canada

LHQ: Liên Hợp Quốc

LR: Liberty Reserve

NHTW: Ngân hàng Trung Ương

NHNN: Ngân hàng Nhà nước

NHTM: Ngân hàng thương mại

PCRT: phòng chống rửa tiền

TCTC: tổ chức tài chính

TCTD: tổ chức tín dụng

viii

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1: Những ngân hàng bị chính phủ Mỹ cáo buộc liên quan đến rửa tiền

với số tiền phạt lớn nhất ...................................................................................... 24

Bảng 2.1: Kết quả tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch đáng ngờ ................ 32

Bảng 2.2: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Cục PCRT thu thập từ

năm 2006 – 2012 (số báo cáo) .............................................................................. 33

Bảng 3.1 Các dấu hiệu định lượng ...................................................................... 55

Bảng 3.2 Các dấu hiệu định tính ......................................................................... 58

Biểu đồ 1.1: Số trường hợp bị kết án về tội rửa tiền từ năm 2006 – 2011 ở Mỹ 24

Biểu đồ 2.1: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012 (Tỷ

USD). .................................................................................................................... 40

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán ........................ 43

ix

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1.1: Chu trình rửa tiền ................................................................................. 8

Hình 2.1: Quy trình phòng chống rửa tiền tại Vietcombank ............................ 30

1

Lời mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hoạt động rửa tiền thường gắn liền với hoạt động tội phạm ở các quốc gia nhằm che

đậy nguồn gốc bất hợp pháp của nguồn thu nhập có được từ hoạt động phạm tội. Rửa

tiền không chỉ ảnh hưởng xấu đến uy tín của quốc gia mà còn tác động đến cơ cấu

chính trị, tác động đến tính hiệu quả của thị trường tài chính, tác động đến môi trường

đầu tư…Vì vậy, kiểm soát được hoạt động rửa tiền là một trong những cách thức bảo

vệ hữu hiệu nhất cho nền kinh tế xã hội chính trị của mỗi quốc gia. Ngày nay cùng với

quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển liên tục của công nghệ thông tin, hành vi rửa

tiền ngày càng lớn về mặt quy mô, đa dạng, tinh vi về cách thức tiến hành. Ngân hàng

và tổ chức tài chính có thể vô tình trở thành trung gian cho việc chuyển những khoản

tiền thu được từ hoạt động phạm tội, cung ứng cho bọn tội phạm dịch vụ bảo quản tiền

một cách thuận lợi và an toàn. Đặc biệt, khi các trung tâm tiền tệ hàng đầu thế giới

đang nỗ lực chống lại hoạt động rửa tiền thì tội phạm rửa tiền có xu hướng chuyển hoạt

động rửa tiền sang các quốc gia mới nổi, có hệ thống tài chính ngân hàng lỏng lẻo, sơ

khai trong đó có Việt Nam. Công tác phòng chống rửa tiền tại các NHTM Việt Nam

mới được chú ý trong những năm gần đây nhưng vẫn thiếu sự hỗ trợ của các qui định

pháp luật, các công cụ cũng như nguồn lực cần thiết. Với mong muốn đóng góp ý kiến

vào công cuộc phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam, đề tài “GIẢI

PHÁP PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM”

được chọn để nghiên cứu.

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về hoạt động rửa tiền.

- Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết kết hợp với thực trạng của hoạt động rửa tiền

trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng để đánh giá những kết quả đã đạt

2

được, những tồn tại và hạn chế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong hoạt động

chống rửa tiền.

- Đề xuất giải pháp để phòng chống hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: PCRT qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu: chỉ xem xét ở góc độ hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân

hàng Việt Nam. Khung thời gian thu thập số liệu trong nghiên cứu: từ 2006 – 2012.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính.

5. Kết cấu luận văn

Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu theo 3 chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rửa tiền và phòng chống rửa tiền qua ngân hàng.

Chương 2: Thực trạng hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt

Nam trong thời gian qua.

Chương 3: Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam.

3

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG CHỐNG

RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

1.1 Những vấn đề cơ bản về rửa tiền

1.1.1 Khái niệm rửa tiền

- Theo Liên Hợp Quốc, dựa vào công ước Vienna (1988) và công ước Palermo

(2000), khái niệm rửa tiền được nhiều quốc gia đồng thuận nhất là: Việc sử dụng

(nghĩa là bất cứ hình thức nào của cả hành động cho và nhận) bất cứ tài sản nào mà

nó được cho là có nguồn gốc từ hoạt động hoàn toàn hay một phần của phạm tội mà

có hoặc từ hoạt động che đậy, trá hình nhằm giúp đỡ người phạm tội đó thoát khỏi

pháp luật.

- Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): “Rửa tiền” là quá trình chuyển đổi

qua nhiều giai đoạn khoản tiền kiếm được từ những hoạt động bất hợp pháp hoặc tội

phạm để nó có vẻ được phát sinh từ các quỹ hợp pháp.

- Theo quan điểm của các nhà tội phạm học, “rửa tiền” là hoạt động mà bọn tội

phạm tiến hành để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của những đồng tiền tội lỗi. Hoạt

động rửa tiền là hành vi hợp thức hoá những khoản tiền thu được từ hoạt động tội

phạm. Mục đích của hoạt động rửa tiền là tạo ra một khoảng cách xa nhất giữa tài sản

bất hợp pháp và chủ sở hữu những tài sản đó. Hình thức biểu hiện lợi nhuận có được

ban đầu thông thường là “tiền”, nhưng sau các giai đoạn chuyển đổi để hợp pháp hoá

“tiền” đã có các hình thức biểu hiện khác như: ngân phiếu, thẻ tín dụng, bất động sản...

Nhìn chung các hình thức biểu hiện lợi nhuận của hoạt động rửa tiền bao gồm những

lợi ích kinh tế của hoạt động rửa tiền mang lại được quy là “sản phẩm của tội phạm”

(Theo Công ước Strasbong 1990 của Hội đồng Châu Âu)

- Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền ( FATF) đã định nghĩa hoạt

động “rửa tiền” là:

 Việc giúp đỡ các đối tượng phạm pháp lẫn tránh sự trừng phạt của pháp luật;

 Việc cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất, việc cất giấu, di chuyển hay chuyển

quyền sở hữu tài sản phạm pháp;

 Việc cố ý mua, sở hữu hay sử dụng tài sản phạm pháp

4

- Luật phòng, chống rửa tiền đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XVIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012, hiệu lực từ

01/01/2013 giải thích thuật ngữ “rửa tiền” như sau: “ Rửa tiền là hành vi của cá nhân,

tổ chức nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm:

a) Hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự;

b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh

trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm

tội mà có;

c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do

phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản”

- Đối tượng hoạt động rửa tiền bao gồm những cá nhân và pháp nhân tham gia

vào quá trình “rửa tiền” với mong muốn hợp pháp hoá tiền và tài sản có được từ hoạt

động tội phạm và sử dụng tài sản đó. Chủ sở hữu những khoản tiền cần tẩy rửa bao

gồm những cá nhân và tổ chức đã thực hiện các hành vi tội phạm như:

 Buôn bán ma tuý, vũ khí, mại dâm, làm tiền giả, tổ chức đánh bạc

 Tham nhũng, nhận hối lộ hoặc lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước

để biết trước các chủ trương, chính sách quy hoạch để trục lợi cá nhân

 Mua bán nội gián trên thị trường chứng khoán

 Trốn thuế hoặc do hoạt động chuyển giá giữa các công ty thuộc cùng một tập

đoàn hoặc công ty mẹ - con

Ở một số nước có hệ thống chống rửa tiền nghiêm khắc và hoàn chỉnh như Mỹ

và cộng đồng Châu Âu thì đối tượng hoạt động rửa tiền khá rộng. Ngoài những cá

nhân, pháp nhân có hành vi rửa tiền một cách trực tiếp, nhân viên ngân hàng vô ý hay

cố ý tiếp tay cho hành vi rửa tiền qua ngân hàng đều phải chịu trách nhiệm trước pháp

luật. Vì vậy, luật Ngân hàng các nước này quy định: Mọi nhân viên ngân hàng khi tiếp

nhận các khoản tiền gửi lớn đều phải có nghĩa vụ yêu cầu khách hàng khai báo nguồn

gốc tiền, chủ sở hữu thực...phục vụ thông tin phòng chống rửa tiền. Nhân viên nào

không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trên, nếu phát hiện ra các khoản tiền bất hợp

pháp, cơ quan pháp luật hoàn toàn có thể truy tố họ về một trong các tội rửa tiền vì mất

cảnh giác, không thực hiện nghĩa vụ quy định cho dù họ cho rằng, họ không biết đây là

5

tiền có nguồn gốc tội phạm và như vậy, họ cũng bị quy kết tham gia vào quá trình rửa

tiền.

Hệ thống luật pháp phòng chống rửa tiền ở những nước khác nhau có những quy

định khác nhau về loại tội phạm này. Có quốc gia chỉ rõ những hành vi phạm tội cụ thể

như: Pháp luật Malaysia liệt kê 18 tội danh, Thái Lan 24 tội danh, Australia 180 tội

danh,...Có quốc gia (như ở Việt Nam) không xác định rõ nguồn tiền được sinh ra từ

hành vi phạm tội nào cụ thể, miễn đó là thu nhập từ hành vi phạm tội.

- Tội phạm nguồn của tội rửa tiền là hành vi phạm tội chính, từ đó đã tạo ra

những đồng tiền mà khi đã được rửa thì sẽ dẫn tới hành vi phạm tội rửa tiền.

Hoạt động rửa tiền, bề ngoài có vẻ như vô hại nhưng kì thực là loại hoạt động có

tổ chức và vô cùng nguy hiểm. Rửa tiền vừa là công cụ vừa là động lực của các tổ chức

tội phạm. Khi tiền bẩn được đem rửa thì có nghĩa trước đó đã xảy ra các hoạt động

phạm pháp. Tiền có rửa được thì bọn tội phạm mới tồn tại được và càng lao vào phạm

tội để kiếm tiền bất hợp pháp. Rửa tiền là khâu cuối cùng và quan trọng nhất trong

những hoạt động phạm pháp nhằm đem lại những tài khoản kếch xù.

1.1.2 Các hình thức rửa tiền

Theo phạm vi thực hiện, thì hình thức rửa tiền thể hiện dưới 5 trường hợp:

- Trường hợp 1: “tiền bẩn” được rửa và sử dụng ngay trong nước. Đây là quá

trình rửa tiền trong đó số tiền bất hợp pháp thu được, được rửa cũng như được tái đầu

tư qua hệ thống tài chính nước đó

- Trường hợp 2: “tiền bẩn” có nguồn gốc trong nước, sau đó chuyển ra nước

ngoài để tẩy rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông ở thị

trường trong nước

- Trường hợp 3: “tiền bẩn” được hình thành ở nước ngoài, được tẩy rửa ở nước đó

hay nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển

- Trường hợp 4: “tiền bẩn” được rửa và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một

nước đang phát triển để sử dụng ở nước khác, không quay lại đầu tư cho nước đó

- Trường hợp 5: “tiền bẩn” được chuyển vào một quốc gia đang phát triển nhưng

không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi.

Theo nội dung hoạt động, rửa tiền biểu hiện thông qua một số hình thức sau đây:

6

- Thông qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt: đổi từ đồng tiền nước này sang

- Thông qua việc mua tài sản: vàng, bạc, kim cương… là những tài sản gọn nhẹ,

đồng tiền nước khác để tiêu thụ

có giá trị cao và thực hiện mua đi bán lại các tài sản này

- Thông qua sổ tiết kiệm của người lao động ngụ cư ở nước ngoài: bọn tội phạm

thường lợi dụng người lao động nước ngoài, cho họ một ít hoa hồng và yêu cầu họ gửi

một số tiền dưới mức kiểm soát của nước đó đến một tài khoản cụ thể.

- Thông qua các trung tâm giải trí, sòng bạc, xổ số, cá cược: Đây là những lĩnh

vực kinh doanh có tỉ lệ thanh toán tiền mặt cao. Lợi dụng các casino, sòng bạc này, bọn

tội phạm tổ chức đánh bạc, việc thắng thua không quan trọng, cái chính là sau khi ra

khỏi đây, chúng có giấy chứng nhận đã thắng với một khoản tiền lớn của các ông chủ

Casino. Hoặc chúng có thể tìm mua những vé xổ số, cá cược trúng thưởng có giá trị

lớn để chứng minh cho nguồn thu nhập của mình là hợp pháp.

- Thông qua các hợp đồng thương mại: bọn tội phạm khai tăng số lượng hàng hóa

trong hóa đơn mua bán hoặc lợi dụng các công ty kinh doanh hàng hóa thật nhưng

không bán hàng hoặc bán rất ít so với hóa đơn. Những hóa đơn chứng từ đó, chứng

minh cho thu nhập của chúng có được là nhờ hoạt động kinh doanh.

- Thông qua đầu tư nước ngoài: Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các

quốc gia đang phát triển tăng cường kêu gọi đầu tư nước ngoài, tạo hành lang pháp lí

thông thoáng cho nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trong nước. Đây là điều kiện thuận

lợi cho hoạt động rửa tiền. Chúng mang tiền vào thuê quyền sử dụng đất, lập nhà

xưởng… Trong quá trình hoạt động, lợi nhuận được chuyển đến một số địa chỉ theo

mong muốn. Một thời gian sau, chúng tuyên bố phá sản hoặc biến mất, những đồng

tiền bẩn đã được khoác vỏ bọc hợp pháp.

- Thông qua các giao dịch xuyên quốc gia: Lợi dụng các yếu tố địa lí và sự khác

nhau về mặt pháp luật, bọn tội phạm vận chuyển tiền qua biên giới, tạo khoảng cách về

địa lí giữa tội phạm gốc và đồng tiền cần tẩy rửa. Từ đó, chúng tìm cách đưa vào hệ

thống tài chính, ngân hàng để rồi có thể rút ra ở nước thứ ba, thứ tư. Ở một số quốc gia,

hoạt động rửa tiền chưa được quy định là tội phạm hình sự nên những hành vi phạm tội

của bọn tội phạm ở đó càng gặp ít rủi ro.

7

- Thông qua thị trường chứng khoán: Những đồng tiền bẩn được dùng để mua cổ

phiếu tại thị trường chứng khoán. Sau một thời gian, số cổ phiếu này được bán lại với

giá thấp hơn. Số tiền mà bọn tội phạm nhận được thông qua hệ thống tài chính nên

được xem là hợp pháp.

- Thông qua hệ thống tài chính ngân hàng:

 Bọn tội phạm gửi tiền dưới mức kiểm soát vào những thời điểm khác nhau, ở

nhiều nơi trên thế giới. Sau một thời gian chuyển khoản qua nhiều ngân hàng,

chúng có thể rút tiền ở ngân hàng của nước thứ ba, thứ tư một cách hợp pháp.

 Bọn tội phạm nhân danh hoặc trà trộn vào các khoản kiều hối thông thường để

chuyển tiền từ nước ngoài về trong nước. Lúc này các ngân hàng thường được

chọn lựa không những vì khả năng có thể giao dịch những khoản tiền rất lớn,

mà còn vì một đồng tiền lọt được vào tài khoản ngân hàng lập tức trở thành

đồng tiền sạch và từ đó có thể thực hiện được ngay các lệnh thanh toán.

 Lợi dụng tổ chức tín dụng: Bọn tội phạm gửi tiền vào các quỹ tiết kiệm hoặc

mua trái phiếu, tín phiếu…làm cho đồng tiền nằm im trong một thời gian phù

hợp với quy định của mỗi nước. Sau đó, người gởi tiền rút dần hoặc mang các

giấy tờ có giá đi cầm cố, thế chấp để vay một khoản tiền nhất định.

- Thông qua hệ thống ngân hàng “ngầm”: Tại một số nước, hệ thống ngân hàng

hoạt động kém hiệu quả, đắt đỏ mà lại quan liêu. Do đó, trong cộng đồng những người

nước ngoài tại các quốc gia này tồn tại hệ thống ngân hàng không chính thức gọi là

ngân hàng “ngầm”. Hệ thống ngân hàng ngầm này hoạt động và luân chuyển tài chính

như các ngân hàng chính thức nhưng với chi phí dịch vụ rẻ hơn, bí mật hơn các ngân

hàng hợp pháp. Các ngân hàng ngầm có đại diện ở nhiều nước khác nhau để thực hiện

dịch vụ chuyển tiền từ nước này sang nước khác hoặc từ thành phố này sang thành phố

khác trong cùng một quốc gia. Sự hoạt động của ngân hàng này chủ yếu dựa trên niềm

tin giữa ngân hàng và bạn hàng nên thủ tục giấy tờ gọn nhẹ. Bọn tội phạm lợi dụng

nguyên tắc giữ bí mật của những ngân hàng này đã đem tiền đến gửi và yêu cầu nhận

lại ở một thành phố khác. Những địa chỉ cần nhận tiền tẩy rửa thông thường là những

quốc gia khao khát đầu tư tài chính nhưng ít quan tâm đến nguồn gốc đồng tiền, việc

8

thanh toán qua ngân hàng chưa phải là yêu cầu bắt buộc và phổ biến, hệ thống pháp

luật về phòng chống rửa tiền chưa nghiêm.

1.1.3 Chu trình rửa tiền

Nguyên tắc của rửa tiền là tạo ra một chuỗi các giao dịch nhằm mục đích che đậy

nguồn gốc của các nguồn tiền có được từ các hoạt động phi pháp và làm cho chúng

ngày càng xa nguồn gốc ban đầu. “Tiền bẩn” được chuyển từ tổ chức tài chính này

sang tổ chức tài chính khác, vượt ra khỏi biên giới của quốc gia, vùng lãnh thổ để che

giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của nó. Việc rửa tiền thường được tiến hành theo một

chu trình cơ bản bao gồm 3 giai đoạn: phân phối, dàn trải, hội nhập.

Hình 1.1: Chu trình rửa tiền

- Giai đoạn phân phối: Phân phối nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp vào các

định chế tài chính mà không bị phát hiện bởi các cơ quan luật pháp. Các tội phạm rửa

tiền thực hiện đầu tư phân tán bằng cách chia các khoản “tiền bẩn” thành nhiều khoản

tiền nhỏ dưới mức quy định phải khai báo nguồn gốc.

- Giai đoạn dàn trải: Tiền được chuyển từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài

chính khác để che giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của tiền. Thực chất đây là quy trình

tạo ra một chuỗi các giao dịch nhằm mục đích che đậy các nguồn tiền từ các hoạt động

phi pháp và làm cho chúng ngày càng xa nguồn gốc ban đầu. Giai đoạn này có thể gồm

rất nhiều giao dịch giữa các ngân hàng, giao dịch từ tài khoản này sang tài khoản khác

với tên giao dịch khác nhau tại các ngân hàng khác nhau; hay gửi và rút tiền liên tiếp

9

với giá trị khác nhau; thay đổi loại tiền tệ, hay mua những món đồ đắt tiền (du thuyền,

nhà, ô tô, kim cương) để chuyển tiền thành những mặt hàng khác. Đây là giai đoạn

phức tạp nhất trong quá trình rửa tiền, mục đích khiến cho “tiền bẩn” càng khó theo

dõi, càng khó lần ra nguồn gốc càng tốt.

- Giai đoạn hội nhập: Tiền được đầu tư vào những hoạt động kinh doanh hợp

pháp. Tiền sẽ được phân phối trở lại vào nền kinh tế với nguồn gốc không thể tìm ra

được dấu vết của chúng. Giai đoạn này được tiến hành bằng các hành vi tiêu dùng, đầu

tư vào các doanh nghiệp và đầu tư tài chính. Thủ đoạn của những kẻ rửa tiền lúc đầu

thường chuyển đổi sang chi phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để

tạo vỏ bọc uy tín, làm ăn có lãi, tài trợ từ thiện, đóng góp xây dựng hoặc mua bất động

sản, mua ô tô đắt tiền, xây dựng các công trình…sau đó bán lại để thu tiền; hay đóng

góp cổ phần vào các công ty lớn, sau đó chuyển nhượng cổ phần. Lúc này, chúng có

thể sử dụng số tiền thu được một cách hợp pháp mà không bị truy tố. Rất khó để bắt kẻ

rửa tiền trong giai đoạn này nếu không có đầy đủ giấy tờ và hồ sơ liên quan tới các giai

đoạn trước của quá trình rửa tiền.

1.2 Ảnh hưởng của rửa tiền đối với nền kinh tế

Rửa tiền không trực tiếp ảnh hưởng đến tính mạng của con người, không trực tiếp làm

mất đi tài sản của bất cứ cá nhân, gia đình nào. Do vậy, thoạt nhìn, rửa tiền có vẻ là vô

hại, không có nạn nhân, không có tổn thất. Xét dưới một góc độ nào đó, nhiều ý kiến

cho rằng rửa tiền cũng mang lại lợi ích, đặc biệt là đối với các nước có nền kinh tế

đang phát triển, chẳng hạn như rửa tiền sẽ làm tăng nguồn vốn đầu tư (có thể là nguồn

vốn phi pháp) vào các nước đang phát triển, tạo cơ hội cho việc phát triển hạ tầng, phát

triển kinh tế (có thể mang tính chất nhất thời) ở các quốc gia này; rửa tiền sẽ làm cho

tính thanh khoản được cải thiện đáng kể, giải quyết được bài toán cung – cầu ngoại tệ

của quốc gia. Tuy nhiên, xét về bản chất, hành vi rửa tiền tác động rất lớn, rất nghiêm

trọng đến nhiều lĩnh vực của xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế của các quốc gia đang

phát triển, cụ thể:

- Làm mất sự kiểm soát các chính sách kinh tế: các sai sót của chính sách tài

chính từ các thành phần kinh tế “ảo”. Dòng tiền bẩn được đổ vào thị trường theo ý của

những kẻ rửa tiền, tạo nên những nhu cầu giả, và chính quyền phải đưa ra các chính

10

sách để cân bằng lại. Và khi những kẻ rửa tiền đã đạt được lợi nhuận theo ý muốn, hay

khi bắt đầu bị chính quyền để mắt tới, chúng sẽ rút toàn bộ số tiền này về làm khuynh

đảo nền kinh tế, gây mất ổn định trong toàn bộ nền kinh tế như hiện tượng tháo chạy

vốn nước ngoài đã từng xảy ra ở Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu

vực Đông Nam Á năm 1997.

- Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân:

 Các tổ chức tội phạm lợi dụng những khoản tiền bất hợp pháp đã được tẩy rửa

để thâu tóm một cách hợp pháp các công ty kinh doanh trong nước, kể cả các

ngân hàng và biến những tổ chức này thành công cụ rửa tiền. Quyền và lợi ích

của các cá nhân, tổ chức làm ăn chính đáng bị xói mòn và không được bảo vệ

bình đẳng.

 Những doanh nghiệp nhỏ làm ăn hợp pháp không thể cạnh tranh lại được với

các doanh nghiệp rửa tiền, do các doanh nghiệp này bán hàng với giá rẻ hơn

nhiều vì mục đích chính của chúng là rửa tiền chứ không phải là thu lợi nhuận

từ việc bán hàng. Họ vẫn thu được món lời lớn ngay cả khi bán hàng với giá

thấp hơn giá cả thực của mặt hàng đó.

- Làm suy yếu nền kinh tế thực: Rửa tiền có tác dụng tiêu cực trực tiếp và lớn hơn

lên tăng trưởng của nền kinh tế thực thông qua việc chuyển hướng các nguồn lực khan

hiếm đến các khu vực/hoạt động ít hiệu quả hơn. Tiền sau khi "rửa" thường được đầu

tư vào những nơi không tạo ra thêm nhiều giá trị thặng dư như bất động sản, đồ cổ, tác

phẩm nghệ thuật, đồ trang sức và ô tô sang. Nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ này hay

đầu tư vào những ngành không tạo giá trị thặng dư có tác động tiêu cực đến tăng

trưởng.

Rửa tiền sẽ làm tăng tội phạm, đặc biệt là tăng tình hình tham nhũng - một vấn

đề khá phức tạp tại Việt Nam hiện nay. Mục đích của bọn tội phạm, đặc biệt là tội tham

nhũng là tạo ra nhiều tiền, tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên, việc sử dụng số tiền, số lợi

nhuận có được từ việc phạm tội, từ việc tham nhũng là một bài toán hóc búa, dễ bị

phanh phui, vạch trần hành vi vi phạm. Rửa tiền thành công giúp cho bọn tội phạm vừa

sử dụng được nguồn tiền đã chiếm được, vừa né trách sự vạch trần, phanh phui hành vi

vi phạm. Tội phạm rửa tiền có thể biến các doanh nghiệp lành mạnh thành nơi phục vụ

11

chủ yếu mục đích rửa tiền chứ không phải là theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận

hợp pháp, dẫn đến giảm tăng trưởng.

- Rửa tiền sẽ làm suy yếu các TCTC, gây nguy hại cho sự lành mạnh của hệ thống

tài chính của một đất nước cũng như sự ổn định cho từng TCTC. Những hậu quả đó

được coi là rủi ro đối với uy tín, nghiệp vụ, pháp lý và rủi ro tập trung đều có mối quan

hệ qua lại với nhau. Mỗi rủi ro đều gây ra những chi phí cụ thể:

 Mất đi hoạt động kinh doanh sinh lợi

 Những vấn đề về tính thanh khoản do việc rút tiền gây ra

 Cắt đứt các cơ sở ngân hàng đại lý

 Các chi phí điều tra và tiền phạt

 Thu giữ tài sản

 Tổn thất cho vay

 Giảm giá trị cổ phiếu của các TCTC

Rủi ro về uy tín là một loại rủi ro tiềm ẩn, ở đó công chúng biết về các khía cạnh

bất lợi trong các phương pháp kinh doanh và những mối liên kết của ngân hàng. Dù

điều đó có chính xác hay không thì cũng sẽ làm mất niềm tin vào tính liêm chính của tổ

chức đó. Khách hàng, cả người vay tiền lẫn người gởi tiền cũng như các nhà đầu tư sẽ

ngừng kinh doanh với một tổ chức mà uy tín đã bị hủy hoại bởi sự nghi ngờ hoặc

những lập luận thiếu căn cứ về rửa tiền. Việc mất những khách hàng vay tiền có phẩm

chất cao sẽ làm giảm các khoản cho vay sinh lợi và làm tăng rủi ro của toàn bộ danh

mục vốn cho vay. Việc những người gởi tiền rút tiền gởi ra khỏi các TCTC sẽ làm

giảm nguồn tài trợ với chi phí thấp. TCTC lại càng không thể dựa vào những khoản

tiền gởi của những kẻ rửa tiền để làm nguồn cấp vốn ổn định. Những khoản tiền lớn

sau khi được rửa thường bị bất ngờ rút ra khỏi TCTC thông qua lệnh chuyển tiền điện

tử hoặc những phương tiện chuyển tiền khác, từ đó gây ra những vấn đề tiềm ẩn về tính

thanh khoản.

Rủi ro nghiệp vụ cũng tiềm tàng do những thất thoát bắt nguồn từ các quy trình nội

bộ không đầy đủ, từ con người và hệ thống hoặc từ những sự kiện ngoại sinh. Những

thất thoát xảy ra khi các TCTC phải gánh chịu tình trạng giảm, ngừng hoặc tăng chi phí

12

đối với các dịch vụ liên ngân hàng hoặc các dịch vụ giao dịch ngân hàng; chi phí vay

vốn và chi phí cấp vốn tăng lên.

Rủi ro pháp lý cũng tiềm ẩn do những vụ kiện, phán quyết bất lợi của tòa án, hợp

đồng không thể thực hiện được, tiền phạt và các hình phạt khác sẽ gây ra thua lỗ, làm

tăng chi phí thậm chí dẫn đến nguy cơ phá sản của TCTC.

Rủi ro tập trung bắt nguồn từ rủi ro do có quá nhiều khoản tín dụng hoặc vốn cho

vay tập trung vào một khách hàng vay. Những quy định pháp luật thường hạn chế rủi

ro về tập trung vốn vay vào một khách hàng hay một nhóm khách hàng có liên quan.

Việc thiếu hiểu biết về khách hàng, hoạt động kinh doanh của khách hàng đó hoặc mối

quan hệ của khách hàng này với những khách hàng vay vốn khác là rủi ro thực sự nếu

những đối tác có liên quan với nhau, những người vay vốn có quan hệ với nhau và

cùng thu nhập chung hoặc tài sản chung. Tổn thất vốn vay cũng bắt nguồn từ những

hợp đồng không khả thi hoặc những hợp đồng được ký với những nhân vật hư cấu.

Các ngân hàng và các chủ tài khoản ngân hàng sẽ được bảo vệ khi ngân hàng có sẵn

các hệ thống hữu hiệu về sự chú ý xác đáng khách hàng và nhận dạng chủ sở hữu

hưởng lợi.

- Tác động tiêu cực đến hoạt động ngoại thương và lưu chuyển vốn: Rửa tiền có

thể dẫn đến sự méo mó về ngoại thương, với nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ tăng mạnh

nhờ tiền đã được rửa. Rửa tiền còn dẫn đến “chảy máu” vốn ra nước ngoài dưới bàn tay

điều khiển của các tổ chức tài chính nội địa và/hoặc nước ngoài trong các đường dây

rửa tiền xuyên quốc gia, dẫn đến khan hiếm vốn ngoại tệ thiết yếu cho các hoạt động

kinh tế nội địa.

- Làm giảm uy tín quốc gia và giảm đầu tư nước ngoài: Khi một quốc gia không

kiểm soát được vấn nạn rửa tiền thì đồng nghĩa với việc quốc gia đó không có hệ thống

tài chính minh bạch; không có hệ thống pháp luật chặt chẽ, nghiêm minh; các con số

thống kê tài chính của quốc gia bị bóp méo, không phản ánh đúng bản chất thực tế. Do

vậy, các tuyên bố của quốc gia về tình hình tài chính gần như bị nghi ngờ về độ chính

xác. Đồng nghĩa với việc giảm uy tín quốc gia, các nhà đầu tư nước ngoài luôn phải đặt

dấu chấm hỏi trước khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước có tình hình tài chính

không ổn định. Họ luôn e dè bởi họ luôn phải đối mặt với nguy cơ không có khả năng

13

thu hồi vốn, đặc biệt là việc tiếp cận với những nguồn vốn viện trợ, những khoản vay

nợ nước ngoài với điều kiện ưu đãi hầu như là không thể đối với các quốc gia bị xếp

hạng tín nhiệm kém, các quốc gia không tuân thủ phòng, chống rửa tiền.

- Ngăn cản hội nhập quốc tế: trong bối cảnh hội nhập nhiều vấn đề đã trở thành

thách thức toàn cầu như bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái, phòng chống dịch bệnh,

chống khủng bố, chống tội phạm có tổ chức, bảo vệ sở hữu trí tuệ, trong đó có đấu

tranh phòng, chống rửa tiền luôn được quan tâm hàng đầu. Tiêu chí để đánh giá một

quốc gia tích cực đấu tranh phòng chống rửa tiền là quốc gia đó phải đạt được các tiêu

chí sau:

 Công nhận và tham gia ký kết các công ước quốc tế về phòng, chống rửa tiền

 Có hệ thống phòng, chống rửa tiền được xây dựng trên cơ sở 40 + 9 khuyến

nghị của FATF

 Có tổ chức chuyên trách về đấu tranh phòng chống rửa tiền và tổ chức tốt cuộc

đấu tranh này.

1.3 Hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

1.3.1 Khái niệm rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là việc lợi dụng những kẻ hở trong các quy định giao

dịch, cho vay của ngân hàng để thực hiện tẩy rửa tiền. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

là một trong những phương thức mà bọn tội phạm thường sử dụng vì ưu điểm nổi bật

của phương thức ngày là nếu thực hiện trót lọt, dấu vết của đồng “tiền bẩn” gần như

được xóa bỏ hoàn toàn. Đồng tiền đội lốt hợp pháp được bổ sung vào dòng chảy vốn

của nền kinh tế một cách tự nhiên. Hơn nữa trên thế giới hầu như nước nào cũng có hệ

thống ngân hàng. Càng ở những nước có quy định về phòng, chống rửa tiền còn sơ

khai, việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền càng thuận lợi hơn.

1.3.2 Các dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là một trong những phương thức mà bọn tội phạm

thường sử dụng vì khả năng giao dịch lớn và đồng tiền qua ngân hàng sẽ trở thành

“tiền sạch”, từ đó có thể giao dịch đến bất kỳ đâu mà không gây ra bất cứ một sự nghi

ngờ nào về tính hợp pháp của chúng. Tuy nhiên, để có thể rửa tiền qua kênh này, bọn

14

tội phạm thường sử dụng các thủ thuật hết sức tinh vi. Do vậy, việc đưa các dấu hiệu

nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là hết sức cần thiết.

Một số dấu hiệu nhận biết các giao dịch đáng ngờ mà bọn tội phạm sử dụng để rửa tiền

như sau:

- Khách hàng yêu cầu thực hiện các giao dịch có liên quan tới các tổ chức, cá

nhân thuộc danh sách đen, danh sách cảnh báo bao gồm các giao dịch mà khách hàng

hoặc các bên có liên quan thuộc các danh sách sau:

 Danh sách đen: là danh sách tổ chức, cá nhân có liên quan tới khủng bố và

tài trợ khủng bố do Bộ Công An chủ trì lập theo quy định của pháp luật

 Danh sách cảnh báo: là danh sách tổ chức, cá nhân do Ngân hàng Nhà nước

lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá nhân có rủi ro cao về rửa tiền

- Thông qua thông tin về khách hàng: khách hàng có thái độ miễn cưỡng khi cung

cấp các thông tin, chứng từ theo quy định của ngân hàng; hạn chế cung cấp thông tin,

cung cấp thông tin sai sự thật.

- Thông qua tính chất, đặc điểm của giao dịch:

 Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế: các giao dịch này thường

có đặc điểm là không phù hợp với các hoạt động thông thường của khách

hàng. Ví dụ như việc sử dụng thư tín dụng và một số biện pháp tài chính

thương mại để chuyển tiền từ quốc gia này sang sang quốc gia khác. Tuy

nhiên, việc chuyển tiền này không phù hợp với hoạt động kinh doanh thông

thường của khách hàng. Một trường hợp điển hình khác là các giao dịch qua

các tài khoản mà trước đó hầu như không có giao dịch nào, nhưng hiện tại lại

có rất nhiều giao dịch một cách bất thường mà chủ tài khoản không đưa ra

được sự giải thích hợp lý cho việc liên tục sử dụng tài khoản ở mức độ cao

 Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt giá trị lớn:

 Mua hoặc bán ngoại tệ bằng tiền mặt với số lượng lớn cho dù khách

hàng có tài khoản trong ngân hàng

 Thường rút tiền mặt từ tài khoản với số lượng lớn mà số tiền này

dường như không phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của khách

hàng

15

 Rút tiền mặt từ tài khoản với số lượng lớn từ tài khoản vừa mới nhận

được một khoản tiền từ nước ngoài chuyển về

 Gửi tiền mặt với số lượng lớn vào tài khoản bằng cách chia nhỏ số tiền

mặt muốn gởi thành nhiều khoản khác nhau

 Khách hàng thường xuyên gửi tiền mặt với số lượng lớn vào ngân

hàng nhưng rút tiền ra khỏi tài khoản thường bằng séc chi trả cho các

cá nhân hay công ty không có quan hệ kinh doanh với khách hàng

 Các giao dịch liên quan đến các tài khoản trong ngân hàng có một số điểm

bất thường:

 Tài khoản có tốc độ chu chuyển tiền trong ngày rất cao thể hiện ở việc

doanh số giao dịch trên tài khoản thay đổi đột biến, doanh số giao dịch

lớn trong một khoản thời gian ngắn nhưng số dư tài khoản nhỏ

 Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau

về một tài khoản thành một khoản tiền lớn và ngược lại. Trong một

khoản thời gian ngắn, tiền được chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản

khác nhau.

 Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền ra nước ngoài:

 Một khách hàng vãng lai chuyển tiền ra nước ngoài mà không đưa ra

lý do hợp lý

 Một khách hàng chuyển tiền đến chi nhánh nước ngoài, công ty con

hoặc ngân hàng có trụ sở tại một quốc gia nơi mà buôn lậu, tham

nhũng, sản xuất và buôn bán ma túy diễn ra thường xuyên

 Các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư:

 Hoạt động mua bán chứng khoản không phù hợp với vị thế của khách

hàng hoặc khách hàng đầu tư kinh doanh chứng khoán bằng tiền mặt

một cách khác thường với số lượng lớn

 Vốn đầu tư để thành lập doanh nghiệp đến từ các quốc gia có tỷ lệ tội

phạm cao, có hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền kém

16

- Thông qua các khoản vay có hoặc không có tài sản thế chấp: các khoản vay

được đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba mà không có mối liên hệ minh bạch với

khách hàng

1.3.3 Nội dung phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Các quốc gia trên thế giới đã thực hiện phương thức phòng, chống rửa tiền qua hệ

thống ngân hàng như sau:

- Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền

Nhiệm vụ của cơ quan này là giám sát việc thực hiện Luật phòng, chống rửa tiền. Có 2

mô hình hoạt động phổ biến:

 Mô hình 1: cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị trực thuộc bộ máy của

Chính phủ, thường là trực thuộc NHTW, trợ giúp Chính phủ thực hiện công tác

phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh việc thực hiện chức năng giám sát thi hành

Luật phòng, chống rửa tiền, cơ quan này còn thực hiện chức năng thu thập các

thông tin từ các tổ chức tín dụng, xử lý báo cáo giao dịch đáng ngờ và đề xuất

các biện pháp liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền

 Mô hình 2: cơ quan phòng, chống rửa tiền là đơn vị hoàn toàn độc lập với bộ

máy Chính phủ, không chịu sự chi phối của bất kỳ đơn vị nào trong bộ máy

chính phủ. Nó có quyền hạn, chức năng, phạm vi hoạt động rộng rãi hơn. Ở các

nước xem cơ quan này là cơ quan tình báo tài chính. Ưu điểm của mô hình này

là đảm bảo tính độc lập và khách quan trong điều tra rửa tiền

- Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền

Hiện nay, hầu hết các nước phát triển đã ban hành Luật phòng, chống rửa tiền. Đặc

điểm chung của Luật phòng, chống rửa tiền ở các nước này như sau: (i) Luôn hướng

đến việc tuân thủ các khuyến nghị của FATF;(ii) Liệt kê tất cả các tội danh liên quan

đến rửa tiền; (iii) Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết khách

hàng (iv) Quy định mức giao dịch phải báo cáo; (v) Các dấu hiệu của giao dịch đáng

ngờ; (vi) Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa

tiền

- Tổ chức thực hiện: thiết lập quy trình phòng, chống rửa tiền tại các NHTM

17

 Đánh giá khách hàng, phân loại rủi ro: thông thường các ngân hàng trên thế

giới thường phân loại khách hàng theo 3 nhóm rủi ro sau:

Nhóm khách hàng có rủi ro cao: tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên

và bắt buộc trong việc tìm hiểu thông tin khách hàng

Nhóm khách hàng rủi ro trung bình: tiến hành kiểm tra, giám sát ở mức độ

bình thường và tìm hiểu thông tin về khách hàng khi có yêu cầu

Nhóm khách hàng rủi ro thấp: tiến hành kiểm tra, giám sát ở mức độ đơn

giản và chỉ đòi hỏi những thông tin thông thường về khách hàng

 Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ: khi phát hiện các giao dịch đáng ngờ,

nhân viên ngân hàng phụ trách sẽ tiến hành xử lý hoặc báo cáo cấp trên xem

xét. Sau khi kiểm tra tính xác thực về thông tin khách hàng, ngân hàng sẽ

chuyển thông tin này cho cơ quan phòng, chống rửa tiền. Để thực hiện tốt

việc kiểm soát này, các ngân hàng phải được hướng dẫn xây dựng quy trình

báo cáo thông tin về giao dịch đáng ngờ nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc bảo

mật thông tin khách hàng.

 Giữ bí mật: các tổ chức tài chính phải đảm bảo giữ bí mật thông tin khách

hàng tránh ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng

 Lưu giữ hồ sơ về khách hàng: các thông tin về nhận dạng khách hàng và

thông tin giao dịch được lưu trong thời gian tối thiếu 5 năm hoặc dài hơn

theo yêu cầu của cơ quan chức năng, đặc biệt là các hồ sơ có liên quan đến

công tác điều tra khởi tố.

- Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện hợp tác quốc tế về phòng,

chống rửa tiền.

1.4 Các tổ chức tham gia phòng chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế

- Liên Hợp Quốc là tổ chức quốc tế đầu tiên tiến hành một hoạt động quan trọng

về chống rửa tiền thực sự trên toàn cầu. LHQ giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực này vì

một số lý do. Thứ nhất, đây là một tổ chức quốc tế với số thành viên lớn nhất. Được

thành lập vào tháng 10/1945, hiện nay số thành viên LHQ trên toàn cầu là 193. Thứ

hai, LHQ tích cực điều hành một chương trình chống rửa tiền – đó là Chương trình

toàn cầu về chống rửa tiền (GPLM) có trụ sở ở Viên, thủ đô nước Áo và là một bộ phận

18

của Văn phòng Ma túy và tội phạm (ODC) của LHQ. Thứ ba và có lẽ là quan trọng

nhất, LHQ có khả năng thông qua những hiệp ước hoặc công ước quốc tế có hiệu lực

như luật ở một nước khi nước đó đã ký, thông qua và thực hiện công ước dựa trên hiến

pháp và cơ cấu luật pháp của nước đó. Trong những trường hợp nhất định, Hội đồng

bảo an có quyền bắt buộc tất cả các nước thành viên tuân thủ thông qua một Nghị quyết

của Hội đồng bảo an, bất chấp một nước thành viên nào đó có hành động khác.

 Công ước Vienna

Do mối quan ngại tăng lên trước tình trạng buôn bán bất hợp pháp ma túy quốc tế

ngày càng tăng lên và những khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ

thống ngân hàng, LHQ thông qua Chương trình LHQ về kiểm soát ma túy

(UNDCP) đã khởi xướng một hiệp định quốc tế về chống buôn bán bất hợp pháp

ma túy và rửa tiền. Trong năm 1988, nỗ lực đó đã đưa đến việc thông qua Công

ước của LHQ về chống buôn bán ma túy và chất hướng thần (Công ước Vienna).

Hiệu lực từ tháng 11/1990. Công ước này chủ yếu đề cập đến các điều khoản để

chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp

luật, 169 nước đã tham gia vào công ước này. Mặc dù Công ước không sử dụng

thuật ngữ rửa tiền nhưng Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu

các các nước hình sự hóa hoạt động đó. Tuy nhiên, Công ước Vienna chỉ quy định

tội buôn bán bất hợp pháp ma túy là tội nguồn và không xử lý các khía cạnh mang

tính phòng ngừa việc rửa tiền.

 Công ước Palermo

Nhằm tăng cường nổ lực chống tội phạm quốc tế có tổ chức, LHQ đã thông qua

Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia vào năm 2000 (Công ước

Palermo). Công ước bao gồm nhiều điều khoản về chống tội phạm có tổ chức và

yêu cầu những nước đã thông qua Công ước này phải thực hiện các điều khoản của

Công ước bằng cách ban hành luật trong nước. Về rửa tiền, Công ước Palermo bắt

buộc mỗi nước thông qua Công ước phải:

 Hình sự hóa việc rửa tiền và quy định tất cả các tội phạm nghiêm trọng là tội

nguồn của tội rửa tiền, bất kể phạm tội được thực hiện ở trong nước hay

19

nước ngoài và cho phép suy đoán về sự cố ý phạm tội từ những tình tiết

khách quan

 Xây dựng các biện pháp phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền, kể cả

nhận dạng khách hàng, lưu giữ hồ sơ và báo cáo các giao dịch đáng ngờ

 Trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính, quản

lý, thi hành pháp luật và các cơ quan khác, cả ở trong nước và trên phạm vị

quốc tế và xem xét việc thành lập một đơn vị tình báo tài chính để thu thập,

phân tích và phổ biến thông tin

 Thúc đẩy hợp tác quốc tế.

 Chương trình toàn cầu về chống rửa tiền (GPML)

GPML của LHQ năm trong Văn phòng Ma túy và Tội phạm (ODC) của LHQ.

GPML là một dự án nghiên cứu và hỗ trợ với mục tiêu là tăng cường hiệu quả của

các hành động quốc tế chống rửa tiền bằng cách cung cấp kiến thức giám định

chuyên môn, đào tạo và tư vấn cho các thành viên theo yêu cầu. chương trình tập

trung nổ lực vào những lĩnh vực sau:

 Tăng cường nhận thức của những nhân vật chủ chốt trong các nước thành

viên LHQ

 Giúp tạo ra các khung pháp luật cho cả các nước theo luật án lệ và các nước

theo luật Châu Âu lục địa với sự hỗ trợ của luật mẫu

 Tăng cường năng lực thể chế, đặc biệt là việc thiết lập các đơn vị tình báo tài

chính

 Cung cấp đào tạo cho các nhà lập pháp, tư pháp, các cơ quan quản lý, thi

hành pháp luật và khu vực tài chính tư nhân

 Thúc đẩy cách tiếp cận vùng để giải quyết vấn đề, xây dựng và duy trì các

mối quan hệ chiến lược với các tổ chức khác

 Duy trì một cơ sở dữ liệu các thông tin và tiến hành phân tích những thông

tin thích hợp

Công ước này có hiệu lực vào ngày 29/09/2003, được 147 nước ký và 82 nước

phê chuẩn. Công ước Palermo có vị trí quan trọng bởi vì các điều khoản AML

20

của nó chấp nhận cùng một cách tiếp cận mà FATF đã thông qua trong Bốn

mươi khuyến nghị về rửa tiền.

- Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) là tổ chức chuyên

nghiên cứu, đưa ra những chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố,

được thành lập tại Hội nghị thượng đỉnh của nhóm G7, ở Paris, vào năm 1989, nhằm

phát triển các hoạt động hợp tác quốc tế đối phó với việc rửa tiền. Tháng 4/1990, FAFT

đã ban hành 40 khuyến nghị. Hiện tại, FATF có 36 thành viên bao gồm 34 quốc gia và

2 tổ chức khu vực là thành viên liên kết. 49 khuyến nghị về chống rửa tiền và tài trợ

khủng bố do FATF ban hành, gồm 40 khuyến nghị về chống rửa tiền và 9 khuyến nghị

đặc biệt về chống tài trợ khủng bố. 40 khuyến nghị được ban hành lần đầu tiên vào năm

1990 nhằm tìm kiếm sự nhất trí giữa các nước trong việc ban hành luật và thống nhất

hành động của các ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu được từ hoạt động buôn bán

ma túy chuyển qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. 40

khuyến nghị ban đầu đã được sửa đổi vào năm 1996 và năm 2003 để theo kịp các

phương thức rửa tiền ngày càng tinh vi của bọn tội phạm. Từ sau vụ khủng bố tháng

9/2001 tại Mỹ, vào tháng 10/2001, FATF đã mở rộng trách nhiệm giải quyết các vấn đề

về tài trợ khủng bố và đã xây dựng 8 khuyến nghị đặc biệt chống tài trợ khủng bố. Vào

tháng 10/2004, FATF đã thông qua khuyến nghị đặc biệt IX liên quan đến người vận

chuyển tiền mặt qua biên giới.

FATF có nhiệm vụ đánh giá, giám sát các biện pháp chống rửa tiền, theo dấu

các hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành viên và không phải là thành viên tổ chức

này. Hiện nay có hơn 130 quốc gia và lãnh thổ - đại diện cho khoảng 85% dân số thế

giới và khoảng 90% đến 95% sản lượng kinh tế toàn cầu - đã thực hiện những cam kết

chính trị để thực hiện các khuyến nghị của FATF.

FATF còn có một nhiệm vụ nữa là công bố danh sách những nước và vùng lãnh

thổ không cam kết hoặc không hưởng ứng tích cực chống lại nạn rửa tiền. Ngay khi

bản danh sách này được công bố lần đầu tiên vào tháng 6 năm 2000, 15 nước và lãnh

thổ trong danh sách không hợp tác đã nhanh chóng hành động để thực hiện những

khuyến nghị của FATF. Đây là một trong những cảnh báo cho những quốc gia nào

không có thiện chí trong các nỗ lực hợp tác quốc tế chống lại rửa tiền và khủng bố và

21

tất nhiên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các quốc gia không phải

thành viên này cũng sẽ gặp phải những trở ngại tương xứng.

- Ủy ban Basle về giám sát ngân hàng (Ủy ban Basel) được thành lập năm

1974 bởi Thống đốc ngân hàng trung ương của các nước Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Italia,

Nhật Bản, Lucxembua, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh

và Mỹ. Ủy ban Basel đã đưa ra những văn bản hướng dẫn về đánh giá khách hàng, chia

sẻ thông tin và các nỗ lực trong việc PCRT và tài trợ khủng bố, rủi ro tuân thủ và chức

năng kiểm soát tuân thủ, các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện

tử… trong đó, điển hình là: Các yêu cầu chú ý xác đáng khách hàng (CDD -

Customer Due Diligence for Banks - tháng 10/2001); rủi ro tuân thủ và chức năng

kiểm soát tuân thủ trong hoạt động ngân hàng (Compliance and the compliance

function in banks - tháng 4/2005). Ủy ban Basel ủng hộ mạnh mẽ việc “Chấp thuận và

thực hiện các khuyến nghị của FATF, đặc biệt là các khuyến nghị liên quan đến ngân

hàng” và chủ trương rằng các tiêu chuẩn Chú ý xác đáng khách hàng “phải nhất quán

với các khuyến nghị của FATF”.

- Nhóm các đơn vị tình báo tài chính Egmont

Với tư cách là một phần trong nỗ lực chống rửa tiền, các chính phủ đã lập ra các cơ

quan để phân tích thông tin do các cơ quan, tổ chức và cá nhân có nhiệm vụ làm báo

cáo về rửa tiền trình lên. Những cơ quan này có tên gọi chung là các đơn vị tình báo tài

chính (FIUs). Những đơn vị này là đầu mối của các chương trình AML quốc gia vì

chúng tạo ra việc trao đổi thông tin giữa các tổ chức tài chính và các cơ quan thi hành

pháp luật. Vì hoạt động rửa tiền được thực hiện trên quy mô toàn cầu cho nên cũng cần

chia sẻ thông tin trên cơ sở xuyên biên giới. Vào năm 1995, một số đơn vị FIU đã bắt

đầu công tác với nhau và thành lập Nhóm các đơn vị tình báo tài chính Egmont. Mục

tiêu của nhóm là cung cấp diễn đàn cho các FIU để tăng cường hỗ trợ cho từng chương

trình trong các chương trình AML quốc gia của họ và phối hợp các sáng kiến AML. Sự

hỗ trợ này gồm mở rộng và hệ thống hóa việc trao đổi thông tin tình báo tài chính, tăng

cường kỹ năng chuyên môn và năng lực cho đội ngũ cán bộ và thúc đẩy các mối liên

lạc tốt hơn giữa các FIU thông qua công nghệ và giúp phát triển các FIU trên toàn thế

giới.

22

- Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG): APG được

thành lập vào năm 1997, là một tổ chức mang tính tự nguyện và hợp tác trong lĩnh vực

chống rửa tiền. Hiện nay, APG đã có 40 thành viên và 20 quan sát viên. APG có 5 chức

năng chính là:

 Đánh giá việc thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và

chống tài trợ khủng bố của các thành viên thông qua một chương trình đánh giá

chéo lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên;

 Phối hợp song phương với các tổ chức quốc tế trong việc đào tạo và hỗ trợ kỹ

thuật trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương để nâng cao việc chấp hành đầy

đủ các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố của các

thành viên;

 Tích cực tham gia và mở rộng quan hệ hợp tác với hệ thống các tổ chức chống

rửa tiền quốc tế, đặc biệt là với FATF và tổ chức vùng kiểu FATF khác;

 Nghiên cứu, phân tích những thủ đoạn mới về rửa tiền và xu hướng chống tài

trợ khủng bố, trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cho các tổ chức thành viên

APG;

 Thực hiện tốt vai trò thành viên tích cực trong FATF để góp phần xây dựng

chính sách và các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng

bố.

1.5 Hoạt động phòng chống rửa tiền trên thế giới

Theo IMF, số lượng tiền bẩn được “rửa” hàng năm của các tổ chức tội phạm trên thế

giới chiếm khoản 2-5% GDP của toàn thế giới, tương đương 500 đến 1.500 tỉ USD.

Gafi - một tổ chức tài chính chống “rửa” tiền với 31 quốc gia thành viên, có trụ sở tại

Paris, chuyên theo dõi hoạt động “rửa” tiền - cho biết, nhiều quan chức, chính trị gia đã

từng tham gia hoặc tiếp tay cho các hoạt động “rửa” tiền và đây là một dấu hiệu tham

nhũng. Từ trước tới nay, việc ''rửa'' tiền chủ yếu thông qua đầu tư vào lĩnh vực bất

động sản, mua bán nguyên vật liệu, giao dịch thương mại và tất cả đều phải bơm tiền

vào hệ thống tài chính ngân hàng để chuyển thành “tiền sạch”.

1.5.1 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Mỹ

23

Mỹ là nước có hệ thống pháp luật về PCRT toàn diện và nghiêm khắc nhất trên thế giới

mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của họ đều phải tuân theo. Chính phủ Mỹ

đã ban hành nhiều văn bản đề cập về những hành vi được coi là rửa tiền. Dưới đây là

một vài Luật tiêu biểu:

- Luật Bank Secrecy Act (1970) về cơ bản loại trừ mọi giao dịch nặc danh trong

phạm vi nước Mỹ. Điều này giúp cho Bộ Tài chính có khả năng bắt buộc các ngân

hàng phải giữ lại mọi hoá đơn chứng từ liên quan tới việc chuyển tiền, và từ đó sẽ dễ

dàng phát hiện ra quá trình rửa tiền. Luật này cũng bao gồm điều khoản rằng các giao

dịch có giá trị trên 10.000$ hoặc nhiều giao dịch đến hoặc đi từ một tài khoản nà đó

trong một ngày mà tổng giá trị giao dịch hơn 10.000$. Sau đó Luật được sửa đổi cho

phép Chính phủ và các cơ quan chức năng có thể hạ thấp mức chuẩn 10.000 USD trong

các cuộc điều tra. Ngân hàng nào vi phạm luật này thì người điều hành có thể bị phạt

tới 10 năm tù giam.

- Luật Money Laundering Control Act (1986) đã biến việc rửa tiền là một tội

danh thực sự chứ không phải là một thành phần trong các tội khác, và luật Money

Laundering Suppression Act bắt buộc các ngân hàng phải tự thiết lập các hệ thống

phòng chống rửa tiền cho riêng mình giúp loại bỏ ngay các giao dịch đáng ngờ.

- Một số luật quan trọng khác trong việc phòng, chống rửa tiền tại Mỹ gồm Luật

Quản lý toàn diện tội phạm năm 1984, Luật Quản lý rửa tiền năm 1986, Luật Chống sử

dụng ma tuý năm 1988, Luật Chống rửa tiền Annunzio – Wylie năm 1992. Những luật

và quy định về phòng, chống rửa tiền tại Mỹ luôn được bổ sung, sửa chữa cho phù hợp

với những thay đổi của tội phạm rửa tiền.

- Luật Chống rửa tiền quy định nghĩa vụ của tất cả các đối tượng, từ các cá nhân

đến các tổ chức khi phát hiện có sự tham gia vào bất kỳ hoạt động rửa tiền nào và là

căn cứ để tịch thu, sung quỹ tiền và tài sản liên quan đến hoạt động rửa tiền. Việc

không tuân thủ những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền

của các nhân viên của các tổ chức tín dụng có thể dẫn tới bị phạt dân sự và hình sự. Về

mặt dân sự, nhân viên ngân hàng có thể bị phạt tới 100.000 USD cho việc cố tình vi

phạm những quy định về báo cáo và lưu giữ chứng từ của BSA. Về mặt hình sự, người

vi phạm có thể bị phạt tiền tới 250.000 USD, 5 năm tù hoặc cả hai.

24

Hiệu quả đạt được của Luật PCRT ở Mỹ: số trường hợp kết án về tội rửa tiền hàng năm

ở Mỹ lên đến hàng nghìn trường hợp, con số này thể hiện sự nỗ lực rất lớn của chính

phủ trong công tác PCRT và hiệu quả của luật PCRT ở Mỹ

1200

1115

1000

817

800

711

656

615

600

400

200

0

2007

2008

2009

2010

2011

Nguồn: FATF, APG (2012)

Biểu đồ 1.1: Số trường hợp bị kết án về tội rửa tiền từ năm 2006 – 2011 ở Mỹ

Bảng 1.1: Những ngân hàng bị chính phủ Mỹ cáo buộc liên quan đến rửa tiền với

số tiền phạt lớn nhất

Ngân hàng Số tiền phạt Ngày Nước có liên quan trong cáo

(triệu USD) buộc

HSBC 1.921 Tháng 12/2012 Cuba, Iran, Libya, Mexico,

Myanmar và Sudan

Standard Chartered 667 Tháng 8 và Iran, Libya, Mexico, Myanmar

12/2012 và Sudan

Tháng 6/2012 Cuba và Iran 619 ING

Tháng 12/2009 Cuba, Iran, Libya, Myanmar và 536 Credit Suisse

Sudan

Iran và Libya 500 RBS (ABN AMRO) Tháng 5/2010

Iran và Sudan 350 Lloyds Banking Tháng 1/2009

Group

Barclays 298 Tháng 8/2010 Cuba, Iran, Myanmar và Sudan

Nguồn: Tạp chí The Economist (2012)

25

1.5.2 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở Anh

Tại Anh, các định chế tài chính cũng hoạt động theo những quy định về phòng, chống

rửa tiền tương tự như tại Mỹ. Tháng 12/1990, nước Anh ban hành một loạt văn bản

hướng dẫn các ngân hàng trong việc phát hiện và chấm dứt các hoạt động rửa tiền,

trong đó tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ của ngân hàng trong việc cảnh báo cho

các cơ quan quyền lực những hoạt động và giao dịch đáng ngờ. Các hướng dẫn này

được xây dựng bởi NHTW Anh và các NHTM với sự phối hợp, tham gia của cơ quan

tình báo quốc gia, hải quan, cảnh sát. Theo đó, ngân hàng phải đích thân nhận dạng tất

cả các khách hàng bằng mọi cách có thể, kể cả bằng cách gặp mặt trực tiếp. Hướng dẫn

cũng chỉ rõ các cách thức xác nhận thông tin cá nhân, trong đó hộ chiếu là hình thức

được ưu tiên, ngoài ra các hình thức khác cũng được chấp nhận như thẻ nhân viên,

bằng lái xe… Hơn nữa, các ngân hàng phải lưu giữ tất cả các chứng từ giao dịch trong

6 năm để phục vụ điều tra.

Cũng giống như tại Mỹ, việc không tuân theo những hướng dẫn và các luật, quy định

sẽ dẫn tới những trách nhiệm pháp lý. Những trách nhiệm pháp lý dân sự có thể nảy

sinh nếu vi phạm những quy định về sự bảo mật của khách hàng. Hướng dẫn tại Anh

chỉ ra rằng các nhân viên của các định chế tài chính phải hợp tác một cách toàn diện

với các cơ quan pháp luật và phải thông báo trước cho các cơ quan này các giao dịch

đáng ngờ. Trong khi các ngân hàng là chủ thể chính, các tổ chức tài chính khác như

công ty bảo hiểm, tổ chức môi giới cũng phải thực hiện những hướng dẫn này.

Những quy định, luật lệ khác liên quan đến phòng, chống rửa tiền tại Anh bao gồm

Luật Chống buôn bán ma tuý năm 1986, Luật Phòng, chống khủng bố năm 1987, Luật

Hình sự (Hợp tác quốc tế) năm 1990 và Luật Hình sự năm 1993. Bộ luật đầu tiên cho

phép cảnh sát có quyền điều tra những tài sản đáng ngờ có liên quan đến ma túy, phong

tỏa chúng và khi có chứng cớ sẽ tịch thu những tài sản này. Luật Phòng, chống khủng

bố năm 1987 quy định sẽ kết tội những người sử dụng hoặc sở hữu quỹ khủng bố. Luật

Hình sự năm 1990 cho phép kết tội những người che giấu, biển thủ, chuyển nhượng

hoặc vận chuyển những tài sản hoặc giúp đỡ người khác làm việc đó khi biết hoặc nghi

26

ngờ những tài sản do phạm tội buôn bán ma tuý mà có. Luật Hình sự năm 1993 mở

rộng quyền lực của tòa án trong việc kết tội rửa tiền như một tội phạm hình sự.

1.5.3 Hoạt động phòng chống rửa tiền ở một số nước khác

Nước Úc cũng thực hiện hệ thống báo cáo giao dịch tiền tệ tương tự như tại Mỹ. Bất kỳ

một giao dịch tiền tệ nào tương đương hoặc lớn hơn 10.000 USD đều phải báo cáo.

Những dữ liệu này sau đó được truyền tự động tới Cơ quan Báo cáo giao dịch tiền tệ.

Tại Nhật, các ngân hàng được yêu cầu phải báo cáo tất cả các giao dịch tiền tệ trong

nước vượt quá 30 triệu Yên và các giao dịch tiền tệ quốc tế vượt quá 5 triệu Yên. Hơn

nữa, trong trường hợp liên quan đến ma tuý, toà án có thể kết án ngân hàng và các tổ

chức tín dụng về tội rửa tiền.

Các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Myanma, Indonesia, Philippine đều

có các văn bản về chống rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác nhau. Các nước

này cũng đã thành lập những cơ quan chuyên trách riêng xử lý vấn đề liên quan đến

phòng, chống rửa tiền như AMLO hay AMLC. Các cơ quan này có chức năng chủ yếu

là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến tài sản liên quan đến buôn bán ma tuý và

rửa tiền.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương này, luận văn đã giới thiệu các khái niệm về rửa tiền, chu trình và các

phương thức rửa tiền tiêu biểu và những ảnh hưởng của hoạt động rửa tiền đối với nền

kinh tế. Cùng với sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế thì hoạt động rửa tiền không

còn giới hạn trong phạm vi quốc gia mà có xu hướng mở rộng ra trên toàn thế giới và

phương thức tiến hành ngày càng tinh vi hơn. Nhưng cho dù xu hướng biến đổi như thế

nào thì ngân hàng vẫn là sự lựa chọn hàng đầu vì khả năng giao dịch với số tiền lớn và

khả năng cung ứng dịch vụ thanh toán quốc tế. Ngành ngân hàng Việt Nam cũng đang

đứng trước nguy cơ bị lợi dụng cho mục đích rửa tiền. Thực trạng hoạt động phòng,

chống rửa tiền ở chương sau sẽ làm rõ hơn vấn đề này.

27

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

2.1 Cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân

hàng Việt Nam

- Điều 250 và điều 251 Bộ Luật Hình sự của Việt Nam đã quy định tội danh hợp

pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, là cơ sở để xây dựng Nghị định số

116/2013/NĐ-CP về PCRT hiện nay. Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và Luật

Phòng, chống ma túy năm 2000 cũng đã quy định về các tội phạm tham nhũng và

buôn bán ma tuý.

- Luật các tổ chức tín dụng đã quy định trách nhiệm của các định chế tài chính

đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp tại Điều 19. Ở đây, trách nhiệm

của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng tương tự như trách nhiệm của họ quy

định trong Nghị định số 116/2013/NĐ-CP về PCRT của Chính phủ hiện nay. Theo

đó, tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng không được che giấu,

thực hiện bất kỳ dịch vụ nào liên quan đến khoản tiền đã có bằng chứng về nguồn gốc

bất hợp pháp. Trong trường hợp phát hiện các khoản tiền có dấu hiệu bất hơp pháp, tổ

chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng phải thông báo ngay cho

ciw quan nhà nước có thẩm quyền.

- Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2001 của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam ban hành Qui chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ

thanh toán cũng có qui định tại Khoản 2 Điều 26 – Nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch

vụ thanh toán “Từ chối thực hiện giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc

bất hợp pháp”.

- Thông tư số 22/2009/TT-NHNN ngày 17/11/2009 về hướng dẫn các biện pháp

PCRT.

- Thông tư số 42/2011/TT-NHNN về hướng dẫn nhận biết và cập nhật thông tin

khách hàng trên cơ sở rủi ro phục vụ công tác PCRT.

28

- Luật phòng, chống rửa tiền được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khóa XVIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012 và chính thức có hiệu lực từ

01/01/2013.

- Quyết định số 20/2013/QĐ-TTg, quy định mức giá trị của giao dịch có giá trị

lớn phải báo cáo là từ 300 triệu đồng, bắt đầu áp dụng từ ngày 10/6/2013.

- Nghi định số 116/2013/NĐ – CP ngày 04/10/2013 qui định chi tiết thi hành một

số điều của Luật phòng, chống rửa tiền, hiệu lực từ ngày 10/10/2013.

- Cục PCRT và Ban Chỉ đạo PCRT: Trung tâm PCRT (nay là Cục PCRT), được

thành lập vào tháng 3/2007, là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước,

có chức năng tiếp nhận, phân tích, xử lý thông tin PCRT; chuyển giao những thông

tin liên quan đến hoạt động rửa tiền tới cơ quan điều tra có thẩm quyền; giúp Thống

đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ quy định tại Nghị định số 74 nêu

trên.

- Việt Nam trở thành thành viên thứ 33 của Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương

(Asia Pacific Group – APG) – tổ chức quốc tế mang tính tự quản và hợp tác về chống

rửa tiền vào tháng 5/2007. Là thành viên của APG, Chính phủ Việt Nam cam kết thi

hành theo đúng các điều khoản phòng chống rửa tiền, đặc biệt là phải thực thi 40

khuyến nghị của FATF. Điều này có nghĩa là Việt Nam vừa tuân thủ theo các quy định

quốc tế vừa phải để cho FATF giám sát và theo dõi cơ chế chống rửa tiền một cách

chặt chẽ và cũng như phải được các cơ quan độc lập khác đánh giá, xem xét.

- Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 156 của tổ chức cảnh sát hình

sự quốc tế (Interpol) vào năm 1991. Việt Nam và Interpol đã có sự phối hợp hiệu quả

trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhiều vụ án quốc tế có liên quan đến

buôn lậu, ma tuý, khủng bố, rửa tiền… đã bị phát hiện và xử lý kịp thời. Việt Nam

cũng hợp tác chặt chẽ và có hiệu quả với các quốc gia thành viên khác của Interpol và

Hiệp hội cảnh sát các nước Đông Nam Á (Aseanapol) trong đấu tranh với các loại tội

phạm khác như rửa tiền, cướp biển, lừa đảo tài chính, buôn bán phụ nữ và trẻ em, tội

phạm trên mạng Internet.

29

- Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC) hiện

là tổ chức đi đầu toàn cầu trong công tác chống tội phạm ma tuý và các tội phạm quốc

tế, xuyên quốc gia: buôn người, rửa tiền, tham nhũng, khủng bố, buôn bán vũ khí…

UNODC và Việt Nam cũng đã có sự hợp tác rất lâu trong lĩnh vực phòng, chống các

loại tội phạm này. UNODC hiện đang hỗ trợ Việt Nam trong nâng cao năng lực phòng

chống tội phạm và ma túy, bao gồm việc tăng cường cường hệ thống lập pháp, tư pháp

và hành chính. Trong thời gian tới, các dự án của UNODC tại Việt Nam sẽ tập trung

vào 3 lĩnh vực là công tác thi hành án về ma tuý, hoạt động cai nghiện ma túy ở các

tỉnh phía Bắc và tăng cường năng lực trong phòng chống tội phạm rửa tiền.

2.2 Tổ chức thực hiện phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam

- Về công tác tổ chức: Hiện thời, mỗi ngân hàng đều bố trí một thành viên ban

điều hành chịu trách nhiệm về tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của

pháp luật về PCRT tại đơn vị. Tùy theo quy mô, mức độ, phạm vi và đặc thù hoạt động

của mình, từng ngân hàng có thể thành lập bộ phận chuyên trách hoặc chỉ định một bộ

phận tại trụ sở chính chịu trách nhiệm về PCRT; quy định rõ trách nhiệm của người phụ

trách PCRT và của từng cá nhân, bộ phận trong quá trình tác nghiệp đảm bảo việc thực

hiện quy chế nội bộ về PCRT của ngân hàng.

- Về quy định nội bộ của các NHTM

Sau khi Luật phòng, chống rửa tiền được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XVIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/06/2012 và chính thức có hiệu

lực từ 01/01/2013. Một số ngân hàng đã tiến hành xây dựng và ban hành quy chế nội

bộ về PCRT làm căn cứ thực hiện công tác PCRT tại đơn vị mình. Quy định nội bộ bao

gồm các chính sách, quy định, quy trình và thủ tục cơ bản.

- Về ứng dụng công nghệ thông tin: Hiện nay, một số NHTM Việt Nam đã hoàn

thiện Module CIF quản lý hồ sơ khách hàng là những tiền đề để bất kỳ lúc nào truy cập

vào hệ thống sẽ có bức tranh toàn diện về khách hàng với những thông tin đầy đủ, chi

tiết và thường xuyên được cập nhật.

30

- Hành lang pháp lý: Dù Điều 251 Bộ luật Hình sự đã quy định xử lý hành vi rửa

tiền với tội danh hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, Việt Nam chưa có quy

định về hình sự hóa hành vi rửa tiền, pháp luật hiện hành vẫn thiếu các điều khoản cụ

thể cho phép các cơ quan điều tra có thẩm quyền thực hiện phong tỏa và tạm giữ, cũng

như không có luật cụ thể cho phép các quyền để nhận dạng, lần theo dấu vết và dò tìm

nguồn thu của tội phạm

- Công tác phòng chống rửa tiền tại một số ngân hàng thương mại Việt Nam

 Phòng chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

Thông tin khách hàng

Nhận dạng Khách hàng thông thường

Có dấu hiệu đáng ngờ

Khách hàng thuộc danh sách Thu thập thêm thông tin Nhận dạng Có dấu hiệu đáng ngờ Báo cáo cục PCRT

Nguồn: Phòng thông tin tín dụng và chống rửa tiền Vietcombank

Hình 2.1: Quy trình phòng chống rửa tiền tại Vietcombank

Nhờ việc ban hành quy trình, quy định nội bộ về PCRT thì việc phát hiện ra các giao dịch đáng ngờ ngày càng tăng, thông qua báo cáo chuyển về cục PCRT từ 1 giao dịch năm 2006 tăng lên 42 giao dịch năm 2012

Biểu đồ 2.1: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Vietcombank chuyển về cục PCRT qua các năm 2006 – 2012

31

42

35

Báo cáo giao dịch đáng ngờ

32

27

Báo cáo giao dịch đáng ngờ chuyển sang cơ quan công an

17

13

12

10

9

6

2 1

1 0

45 40 35 30 25 20 15 10 5 0

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Nguồn : Phòng thông tin tín dụng và chống rửa tiền Vietcombank

 Phòng chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Á Châu

Ở Ngân hàng TMCP Á Châu quy định mỗi chi nhánh, phòng giao dịch có 1

nhân sự phụ trách về việc báo cáo giao dịch đáng ngờ cho Bộ phận PCRT thuộc Hội

sở. Tính từ thời điểm Luật PCRT có hiệu lực 01/01/2013 đến nay thì có 16 báo cáo

giao dịch đáng ngờ được gởi về Cục PCRT. Qua khảo sát tại Ngân hàng TMCP Á

Châu thì việc nhận biết thông tin khách hàng không được thực hiện một cách thường

xuyên, không được áp dụng rộng rãi với mọi khách hàng mà chỉ những khách hàng nào

có mở tài khoản hoặc có thực hiện giao dịch vay tại Ngân hàng thì mới thực hiện thủ

tục nhận biết. Các khách hàng khác như khách hàng thực hiện giao dịch nộp tiền, rút

tiền, cho dù với số lượng bao nhiêu cũng không nằm trong danh sách khách hàng phải

nhận biết, cập nhật thông tin. Mặt khác, nếu có thực hiện việc nhận biết, cập nhật thông

tin thì chỉ dừng lại ở những thông tin như họ tên, số chứng minh nhân dân, địa chỉ

thường trú, các thông tin về giao dịch hầu như không nằm trong quy trình nhận biết.

2.3 Thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam

32

Đến nay chưa có con số cụ thể nào thống kê về quy mô và tính nghiêm trọng do hoạt

động rửa tiền ở Việt Nam gây ra, tuy vậy vẫn khó tránh khỏi do những quy định về rửa

tiền ở Việt Nam sơ sài so với nhiều nước.

Theo ông Nguyễn Văn Ngọc - Cục trưởng Cục PCRT cho biết hiện nay Việt Nam vẫn

nằm trong danh sách đen của FATF do cơ chế phong tỏa, tịch thu tài sản, hình sự hóa

pháp nhân Việt Nam chưa thực hiện xong. Luật PCRT có hiệu lực từ tháng 1/1/2013

thể hiện sự cam kết cao của Nhà nước ta đối với các tổ chức quốc tế về PCRT và

phòng chống tham nhũng. Việc ban hành Luật PCRT với kỳ vọng sẽ kiểm soát chặt

hơn dòng tiền ra vào Việt Nam và những quy định về thanh toán dùng tiền mặt sẽ

khiến các giao dịch buộc phải thực hiện qua ngân hàng, ngăn chặn được các hành vi

rửa tiền.Tuy nhiên, việc triển khai chỉ mới ở bước đầu nên sẽ còn nhiều kẽ hở và chưa

kiểm soát hết được. Hiện Việt Nam đang cố gắng hết sức để đáp ứng các chuẩn mực

quốc tế trong lĩnh vực phòng chống rửa tiền của FATF và được FATF đánh giá cao. Để

ra khỏi danh sách đen của FATF, Việt Nam phải hoàn thiện cơ chế phong tỏa tịch thu

tài sản; hình sự hóa pháp nhân; tăng cường hợp tác quốc tế tương trợ tư pháp. Ngoài ra,

cần đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, tăng cường thể chế đối với công tác

cường PCRT; tuyên truyền, đào tạo; thanh tra, giám sát xử lý vi phạm…

Theo Cục PCRT thuộc NHNN, Việt Nam chưa có đánh giá chính thức nào của cơ quan

thẩm quyền về tội phạm rửa tiền, nhưng nếu căn cứ vào số liệu của các cơ quan pháp

luật, thì số vụ rửa tiền ở nước ta là quá ít. Số liệu của Cục PCRT cho thấy đến nay,

NHNN đã “khoanh vùng” được 165 báo cáo giao dịch đáng ngờ liên quan đến hoạt

động rửa tiền, chuyển cơ quan thanh tra và công an xác minh. Tổng số tiền giao dịch

đáng ngờ trong năm 2012 là gần 51.000 tỉ đồng. Bên cạnh đó, NHNN cũng tiếp nhận

50 văn bản từ các cơ quan thực thi pháp luật đề nghị rà soát, cung cấp thông tin liên

quan đến các bị can hoặc đối tượng trong các vụ án hình sự.

Bảng 2.1: Kết quả tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch đáng ngờ

Năm Số báo cáo giao dịch đáng ngờ Số báo cáo chuyển cơ quan Công an

33

2007 11 4

2008 43 18

2009 60 32

2010 115 99

2011 152 77

2012 205 165

Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng

Bảng 2.2: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Cục PCRT thu thập từ năm

2006 – 2012 (số báo cáo)

Đơn vị báo cáo 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Ngân hàng TMCP 3 7 8 14 33 58 101

Ngân hàng TM nhà nước 0 3 28 35 65 81 93

Ngân hàng liên doanh 0 0 0 1 2 1 3

Ngân hàng nước ngoài 1 1 6 9 13 10 7

Các TCTD khác 0 0 1 1 2 2 1

Tổng cộng 4 11 43 60 115 152 205

Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng

2.4 Đánh giá kết quả công tác phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Việt Nam trong thời gian qua

2.4.1 Những kết quả đã đạt được

Qua một thời gian Việt Nam triển khai công tác PCRT trong các NHTM, đã

có một số trường hợp có dấu hiệu liên quan đến rửa tiền đã phát hiện được trong thời

gian vừa qua như sau:

34

- Mở tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng thương mại để phục vụ giao dịch chứng

khoán. Việc rửa tiền qua chứng khoán được xem là khá dễ dàng, do đặc thù của chứng

khoán là mọi người đều có quyền mua đi bán lại cổ phiếu và tái đầu tư trong khi giá cổ

phiếu lại lên xuống thất thường

- Thuê người đứng tên chủ tài khoản, sau đó chủ sở hữu bàn giao mã số pin để

người thuê thực hiện việc chuyển tiền vào tài khoản trong nước và rút ngoại tệ tại

Campuchia đã có. Trước đây có nhóm tội phạm quốc tế thuê một số người Việt Nam

mở 12 thẻ debit của các ngân hàng trong nước. Các chủ thẻ nhận ít tiền thù lao rồi giao

lại thẻ cho người đặt hàng. Sau đó, nhóm tội phạm này sang Campuchia (quốc gia

không quản lý ngoại hối) để rút tiền mặt. Hằng ngày, tiền được chuyển vào cả 12 tài

khoản ở Việt Nam và rút sạch từ Campuchia.

- Liên quan đến hành vi mở tài khoản cá nhân để thực hiện các giao dịch chuyển

tiền có giá trị lớn từ nước ngoài: các đối tượng phạm tội ở nước ngoài, sau đó chuyển

“tiền bẩn” từ nước ngoài về Việt Nam để hợp pháp hóa, chuyển sang “tiền sạch”. Cách

chuyển tiền của tội phạm rử tiền qua hệ thống ngân hàng dưới hình thức gửi tiền cho

thân nhân, hoặc đầu tư vào các hợp đồng kinh tế “ma”. Trên thực tế đã có một số đối

tượng, băng nhóm tội phạm người gốc Phi vào Việt Nam sử dụng giấy tờ giả mở tài

khoản tại các ngân hàng thương mại để đồng bọn ở nước ngoài chuyển tiền vào, sau đó

rút hết tiền trong các tài khoản này.

Điển hình là vụ rửa tiền xuyên quốc gia đã được Công an Đà Nẵng phát hiện vào tháng

10/2008, bắt được thủ phạm là Baggio Carlitos Linska, quốc tịch Mozambique khi tên

này đến chi nhánh một ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng mở cùng lúc 2 tài khoản.

Ngay sau khi mở được tài khoản, lập tức có hơn 4,1 tỷ đồng được chuyển vào. Điều

đáng nghi ngờ là, đối tượng này tức tốc làm thủ tục để rút tiền. Nhận thấy giao dịch bất

thường, cơ quan điều tra đã vào cuộc và xác minh số tiền trên là khoản tiền bọn tội

phạm đánh cắp từ một tài khoản nước ngoài. Sau đó chuyển vào Việt Nam qua hai chi

nhánh ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu.

35

Công an Đà Nẵng đã tiến hành tạm giữ Linska và Massamba Lendebe Vis (quốc tịch

Mozambique). Đáng tiếc là Niaty Lokasso Djamba (quốc tịch Congo), người đã mở tài

khoản và được chuyển số tiền hơn 3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa – Vũng Tàu đã nhanh chân

tẩu thoát.

Từ tháng 4/2004 đến tháng 7/2006, các cơ quan chức năng đã phát hiện James Edmund

Corbett (công dân Australia, tạm trú tại phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố

Hồ Chí Minh) có dấu hiệu bất thường, nghi vấn là rửa tiền. James E.Corbett đã mở các

tài khoản vãng lai USD tại một số ngân hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua các

tài khoản này, đã nhận hơn 3,2 triệu USD từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam, sau đó

lần lượt chuyển cho một số công ty ở Việt Nam và ở nước ngoài.

- Vụ việt kiều Lê Thị Phương Mai đầu tư tiền từ hoạt động ma tuý vào các dự án

của Công ty Viet – Can Resorts & Plannation Inc. Theo hồ sơ của Cục Điều tra Liên

bang Mỹ (FBI), Lê Thị Phương Mai là nhân vật đã đứng ra tổ chức một tập đoàn tội

phạm quốc tế lớn tại Bắc Mỹ, hoạt động theo qui trình khép kín từ sản xuất, tiêu thụ ma

túy đến rửa tiền. Đầu năm 2004, trước khi bị FBI bắt khoảng 3 tháng, Mai cùng một số

người khác dưới danh nghĩa người của Công ty Viet – Can Resorts & Plantation Inc., có

trụ sở tại 857, Unit 1, Somerset St. WestOttawaOntario (Canada), đã về Việt Nam tìm

“cơ hội đầu tư”. Mai đã xin phép đầu tư 25 triệu USD vào dự án khu nghỉ mát và căn hộ

cho thuê tại Dốc Lết, thuộc huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Cùng lúc, Công ty Viet –

Can Resorts & Plantation cũng lập một website trên mạng internet để quảng bá dự án du

lịch cùng một dự án khác ở tỉnh Lâm Đồng. Tháng 2/2004, UBND tỉnh Khánh Hoà có

văn bản đồng ý về mặt chủ trương cho phép đầu tư khu nghỉ mát và căn hộ cho thuê với

diện tích khoảng 70 ha tại Dốc Lết. Dự án chưa kịp hoàn thành thủ tục thì Mai bị bắt

giữ.

Những tài liệu do Interpol Việt Nam thu thập cho biết Mai nằm trong đường dây tội

phạm gốc Á đặc biệt nguy hiểm. Trong đường dây này, Ze Wai Wong (48 tuổi, gốc

Hoa) phụ trách việc trồng cần sa trong nhà kính, điều chế thành Ecstasy (ma túy tổng

hợp), nhập lậu và phân phối ma túy tại Canada và Mỹ. Lợi nhuận thu được từ việc sản

36

xuất, mua bán ma túy bất hợp pháp sẽ do Lê Thị Phương Mai tiến hành rửa tiền bất hợp

pháp

Trong quá trình điều tra, các cơ quan chức năng Việt Nam cũng tiếp nhận một nguồn tin

về việc thông qua 8 doanh nghiệp và 1 ngân hàng, tổ chức tội phạm do Lê Thị Phương

Mai cầm đầu đã chuyển khoảng 25 triệu USD về Tp.HCM. Ngoài ra, Mai còn dự định

xin thành lập một ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời cơ quan

điều tra cũng tiến hàng xác minh về một tổ chức chuyển tiền bất hợp pháp có tên là A.C

Transfer có chi nhánh tại Tp.HCM. Kết quả cho thấy từ năm 2000 đến 2004, hàng triệu

USD đã được chuyển về Việt Nam và vào thời gian cao điểm, tổ chức này đã chuyển tới

190.000 USD/ngày

Vào thời điểm Mai bị cảnh sát quốc tế bắt giữ, số tiền 25 triệu USD này chưa đầu tư vào

dự án Dốc Lếch tại tỉnh Khánh Hòa. Có thông tin cho biết vào cuối năm 2003 đầu năm

2004, có 11 triệu USD trong số này đã được tổ chức tội phạm của Mai chuyển ra khỏi

Việt Nam tới 3 quốc gia Châu Á và Châu Mỹ.

- Vụ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhận được email từ một số doanh

nhân Nigeria yêu cầu mở tài khoản 28 triệu USD, hứa hẹn sẽ chi lại 15% tổng số tiền.

- Rửa tiền qua đánh bạc được xem là phương pháp rửa tiền nhanh nhất, như trong

một số vụ án thời gian qua đã bị phanh phui. Trước đây, Công an Việt Nam phối hợp

với phía Canada điều tra trùm cá độ bóng đá Ngô Tiến Dũng (tức Lai Thành Hữu,

Dũng “Kiều”) có dấu hiệu mang hàng chục triệu USD từ nước ngoài về “rửa tiền” ở

Việt Nam. Ngô Tiến Dũng được xác định là người cầm đầu đường dây cá độ bóng đá

cực lớn, với số tiền luân chuyển 1-2 triệu USD mỗi đêm. Vụ việc này cho thấy, mánh

khoé của tội phạm rửa tiền là dùng “tiền bẩn” mở tài khoản ở ngân hàng, sau đó chúng

sẽ dùng số tiền đó rót vào những trận cá độ bóng đá trên mạng. Nếu thắng, tiền thưởng

sẽ được thanh toán vào một tài khoản hợp pháp khác.

- Rửa tiền thông qua ngân hàng điện tử: hệ thống ngân hàng điện tử ngày càng

phát triển cùng với hoạt động thương mại điện tử ngày càng được ưa chuộng. Thông

qua hai hệ thống này mà Trần Quang Duy đã thực hiện hành vi rửa tiền rất tinh vi. Trần

37

Quang Duy với vỏ bọc là đại lý vé máy bay giá rẻ của Hãng hàng không Tiger Airways

của Singapore qua mạng internet để hợp thức hóa tiền lấy cắp từ thẻ tín dụng của các

khách hàng nước ngoài. Khi nhận được nhu cầu của khách hàng, Duy vào mạng của

Hãng Tiger Airways để làm thủ tục đặt vé cho khách hàng. Sau đó, Trần Quang Duy

xâm nhập, bẻ khóa dữ liệu trong thẻ tín dụng của các khách hàng là người nước ngoài

rồi sử dụng thông tin từ thẻ tín dụng cá nhân để chuyển tiền trả cho Hãng Tiger

Airways. Với thủ thuật đó thì tiền của khách hàng đặt vé máy bay trở thành thu nhập

hợp pháp của Duy. Trong gần 1 năm hoạt động, Duy thu khoảng 100 triệu đồng. Với

thủ đoạn này thì hành vi ăn cắp và rửa tiền của Duy rất khó phát hiện và được đánh giá

là khá tinh vi.

Mô hình tổ chức và trách nhiệm PCRT tại các NHTM Việt Nam: Tùy theo quy

định của mỗi NHTM, các bộ phận có trách nhiệm về công tác PCRT có thể được tổ

chức theo mô hình cụ thể khác nhau song thông thường bao gồm các cấp và đơn vị

như sau: tại trụ sở chính; các chi nhánh.

Sau một thời gian Việt Nam triển khai công tác PCRT, ý thức của các

NHTM trong công tác này đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Nhiều ngân hàng đã ban

hành các quy định riêng liên quan đến công tác PCRT và tổ chức các khóa đào tạo

cho các cán bộ nhằm nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ trong công tác này. Cùng

với sự phát triển của công nghệ thông tin, đã có rất nhiều trường hợp nghi ngờ rửa

tiền.

2.4.2 Những tồn tại, hạn chế

Các quy định pháp luật theo hướng thận trọng đối với các giao dịch vốn vào và

ra ở nước ta thì chuyển tiền vào Việt Nam dễ nhưng chuyển ra thì khó khăn. Tuy nhiên,

điều đó không đủ sức để ngăn cản ý đồ của bọn tội phạm rửa tiền vì chúng sẽ luôn tìm

cách để “lách” luật. Nếu giới hạn lượng ngoại hối được chuyển ra nước ngoài thì chúng

có thể chia nhỏ tiền và thực hiện chuyển nhiều lần hoặc sử dụng các giấy tờ, hóa đơn

giả về nhu cầu chuyển ngoại tệ ra nước ngoài thanh toán hoặc đút lót, hối lộ nhân viên

hải quan để được đem nhiều tiền hơn khi xuất cảnh.

38

Hay như trong phương thức thanh toán quốc tế bằng điện chuyển tiền. Nếu bọn

tội phạm muốn chuyển tiền ra nước ngoài, chúng chỉ cần làm một hợp đồng nhập khẩu,

sử dụng phương thức điện chuyển tiền trả trước (T/T trước) chỉ cần với hợp đồng thì

việc chuyển tiền đã thực hiện trót lọt. Nếu là với phương thức chuyển tiền sau khi nhận

hàng (T/T sau) thì bọn tội phạm chủ cần câu kết với hải quan cho phép nhận một lô

hàng có khi chỉ là vật phế phẩm nhưng với “trị giá” rất cao, sau đó thì việc chuyển tiền

ra nước ngoài với mục đích “thanh toán hợp đồng” được thực hiện.

Sẽ còn rất nhiều kẻ hở để bọn tội phạm có thể lợi dụng nhằm phục vụ cho hành

động tẩy rửa những đồng tiền phi pháp của mình. Những yếu kém đó là:

- Sự yếu kém trong quản lý khu vực công:

Có thể nói đây là nguồn gốc của nhiều vấn đề chứ không chỉ trong rửa tiền. Sự

kiểm soát quá mức kèm những thủ tục hành chính phức tạp của các cấp chính quyền

địa phương đã góp phần làm tăng hoạt động phi chính thức nhằm tránh sự kiểm soát

quá mức của chính phủ.

Thế nhưng, ở khía cạnh nào đó nhà nước lại quá lỏng lẻo trong cơ chế quản lý

giám sát. Hiện tượng công ty ma và trốn thuế có thể minh chứng cho vấn đề này. Hiện

cả nước có gần 600.000 doanh nghiệp và theo số liệu thống kê của ngành thuế, 6 tháng

đầu năm 2013 số tiền nợ đọng thuế lên đến 64.000 tỷ đồng, tăng 15.000 tỷ đồng so với

thời điểm cuối năm 2012.

Như vậy, có thể nói, chính sự yếu kém trong công tác quản lý khu vực công đã

làm phát sinh các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến tham nhũng, tham ô, thất thoát

trong xây dựng cơ bản, sự xuất hiện của thị trường chợ đen…Đây chính là môi trường

cho tiền bẩn và hoạt động rửa tiền phát triển.

- Sự tồn tại nền kinh tế phi chính thức:

Như đã nói ở trên thì chính sự kiểm soát quá mức đã khuyến khích hoạt động

phi chính thức phát triển và theo phân tích thì quy mô của nó là không nhỏ. Trong nền

kinh tế ngầm, mọi hoạt động diễn ra không theo quy định của pháp luật và không thể

kiểm soát được.

39

Thị trường chợ đen vàng, ngoại tệ là một ví dụ điển hình về hoạt động kinh

doanh ngầm. Dù những quy định về quản lý ngoại hối có nghiêm ngặt đến đâu thù vẫn

có thể mua được loại ngoại tệ mình muốn mà không cần phải khai báo hay chứng minh

bằng bất cứ loại giấy tờ nào. Đây chính là yếu tố quan trọng đối với hoạt động rửa tiền

muốn xóa đi các dấu tích tội phạm.

Trên thực tế thì lượng kiều hối được chuyển bằng con đường phi chính thức là

rất lớn, ước tính khoảng 30 – 60% lượng kiều hối bằng con đường chính thức. Việt

Nam chưa có quy định điều chỉnh hoạt động của cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ

chuyển tiền không chính thức. Theo báo cáo đánh giá đa phương của APG đối với Việt

Nam năm 2008, chỉ có các tổ chức cung cấp dịch vụ chuyển tiền chính thức được

NHNN Việt Nam cấp phép và kênh chuyển tiền không chính thức thường được cung

cấp bởi các cửa hàng kinh doanh vàng bạc, đá quý. Tại khoản 4, Điều 7 của Luật

Phòng, chống rửa tiền được Quốc hội ban hành ngày 18/6/2012 quy định: nghiêm cấm

các hành vi "cung cấp trái phép dịch vụ nhận tiền mặt, séc, công cụ tiền tệ khác hoặc

công cụ lưu trữ giá trị và thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng tại một địa điểm

khác".

Như vậy, các dịch vụ chuyển tiền ngầm là bất hợp pháp ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra là

liệu các cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ chuyển tiền không chính thức này có tiếp

tục tồn tại và hoạt động ở Việt Nam khi đã bị pháp luật cấm? Nên chăng, các cơ quan

chức năng cần có những nghiên cứu và khảo sát về hệ thống chuyển tiền ngầm này để

ban hành những quy định phù hợp nhằm chống việc lợi dụng của tội phạm thông qua

các kênh chuyển tiền này để rửa tiền.

Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì lượng kiều hối chính thức chuyển về Việt Nam

trong năm 2012 kiều hối đạt hơn 10 tỷ USD, tăng 11% so với cả năm 2011

40

10

10

9

8

8

7.2

6.3

6

5.5

4.5

4

2

0

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Nguồn: Tổng cục thống kê

Biểu đồ 2.1: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 2006 – 2012 (Tỷ USD)

Với chính sách kiều hối thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế thì Việt Nam đứng

thứ 9 trên thế giới về nhận chuyển kiều hối từ nước ngoài và đứng thứ 2 Đông Nam Á,

chỉ sau Philippines. Người nhận kiều hối không phải đóng thuế thu nhập cá nhân, giá

trị kiều hối chuyển về không hạn chế, các đơn vị chi trả kiều hối có dịch vụ giao tận

nhà cho người thụ hưởng…cho phép thu hút lượng kiều hối chuyển về nước liên tục

tăng nhanh. Tuy nhiên nguồn tiền này thường rất khó xác định nguồn gốc. Do đó đây

là kênh để bọn tội phạm rửa tiền.

Quy mô hoạt động kinh tế ngầm càng lớn thì càng tạo thuận lợi cho bọn tội

phạm rửa tiền. Trong môi trường này thì luồng tiền bẩn được phát sinh và tẩy rửa một

cách dễ dàng, nhanh chóng nhất. Do đó, việc hạn chế các hoạt động kinh tế ngầm cũng

giúp hạn chế hoạt động rửa tiền, nhưng để làm được điều này là không dễ.

- Tình hình tệ nạn xã hội, tội phạm còn nghiêm trọng:

Tội phạm ma túy, mại dâm, buôn lậu, cờ bạc… nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên

quốc gia hoạt động ngày càng tinh vi. Những loại tội phạm này có nhu cầu rửa tiền rất

lớn nhằm hợp thức hóa nguồn thu nhập do phạm tội mà có

- Tham nhũng ngày càng gia tăng:

41

Một nguồn gốc nữa dẫn đến hành vi rửa tiền là tình trạng tham nhũng tràn lan

đến mức đã trở thành một thị trường tham nhũng, trốn thuế, tình trạng tiêu cực lãng phí

và thất thoát trong xây dựng cơ bản cùng với các dạng tổ chức tội phạm đang ngày

càng phát triển. Theo tổ chức minh bạch quốc tế công bố chỉ số nhận thức tham nhũng

2012 tụt 11 bậc so với năm ngoái, theo đó Việt Nam đứng thứ 123/176 quốc gia và

vùng lãnh thổ. Việt Nam thuộc nhóm nước có tình trạng tham nhũng nghiêm trọng.

Điểm đáng ghi nhận trong bản phúc trình 2013 của Tổ chức minh bạch quốc tế là các

chỉ dấu cảm nhận tham nhũng đã được thực hiện trên cơ sở các thăm dò ý kiến của

tổng cộng 114.000 người dân ở 107 quốc gia trên thế giới, một công trình nhiên cứu

kéo dài trong 3 năm. Tại Việt Nam, cuộc điều tra ý kiến được tiến hành theo phương

thức hỏi trực tiếp 1000 người tại 15 đơn vị địa phương.

Về cảm nhận chung của người dân liên quan đến tình trạng tham nhũng, đa số người

được hỏi (55%) cho rằng tệ nạn này tăng nhanh, 27 % thấy tình hình vẫn như cũ, chỉ có

18% thấy là tham nhũng đã giảm bớt.

Đáng chú ý nhất là cảm nhận của người dân về tham nhũng tại 12 loại hình tổ chức, cơ

quan khác nhau đi từ các tổ chức tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan

truyền thông báo chí, cho đến hệ thống giáo dục, bộ máy tư pháp, khu vực công

quyền… hay là công an, quân đội, đảng phái chính trị, doanh nhân…

Kết quả khảo sát cho thấy là giới công an cảnh sát bị người dân Việt Nam đánh giá là

tham nhũng nhất, đứng đầu danh sách, theo sau là khu vực y tế - tức là giới bác sĩ y tá,

và đứng thứ ba là khu vực công quyền.

Một cách cụ thể có đến 72% người được hỏi xác định là ngành cảnh sát tham nhũng

nhất, 58% cho rằng đó là ngành y tế và 55% thấy rằng đó là giới công chức.

Các cảm nhận trên như đã được khẳng định bằng kết quả trả lời cho câu hỏi về hành

động hối lộ đã tiến hành. Tỷ lệ hành vi hối lộ cho cảnh sát cao nhất : 48%, theo sau là

việc hối lộ trong lãnh vực dịch vụ y tế (22%), và lãnh vực nhà đất (21%).

Trước thực trạng đó thì nhu cầu hợp thức hóa nguồn tiền do tham nhũng là rất cao

42

Trong thời gian gần đây, chính phủ đã có những nỗ lực trong việc phòng chống

tham nhũng và kết quả là đã khám phá ra nhiều vụ án tham nhũng lớn như PMU18 làm

thất thoát hàng chục tỷ đồng tiền đầu tư xây dựng cơ bản lấy từ nguồn vốn vay ODA.

Hay đường dây chạy quota dệt may của gia đình Bộ trưởng Mai Văn Dâu mà theo

những người trong cuộc thì đây là luật bất thành văn nếu muốn có hạn mức xuất khẩu

hàng dệt may. Và gần đây nhất là vụ bê bối của các tập đoàn nhà nước Vinalines,

Vinashin được đánh giá có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng hơn PMU18.

Tuy nhiên, những phát hiện trong thời gian qua chỉ là bề nổi của tảng băng

chìm. Trên thực tế, có thể còn nhiều nguồn tiền tham nhũng chưa phát hiện hoặc chúng

đã được rửa sạch và đã được đầu tư mà vẫn chưa bị phát hiện.

- Nền kinh tế tiền mặt:

So với các nền kinh tế trong khu vực, các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt

kém phát triển khiến cho các giao dịch tiền mặt chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh

tế. Theo ông Chritt Batt, chuyên gia chống rửa tiền của UNODC nhận định “Việt Nam

dễ bị tội phạm rửa tiền tìm đến do nền kinh tế sử dụng nhiều tiền mặt, cùng với hoạt

động thương mại và đầu tư ngày càng tăng”. Ở Việt Nam, tỷ lệ tiền mặt trên tổng

phương tiện thanh toán trong vòng 10 năm qua mặc dù đã giảm mạnh từ mức 23,7%

năm 2001 xuống còn 12% năm 2013 nhưng vẫn còn ở mức cao so với thế giới. Tỷ

trọng này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là 0,7%, Na Uy là 1%, còn Trung Quốc

là 10 %

43

17%

16%

14%

14%

14%

14%

13%

12%

18% 16% 14% 12% 10% 8% 6% 4% 2% 0%

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán

Nền kinh tế sử dụng tiền mặt rộng rãi sẽ là môi trường thuận lợi cho bọn tội

phạm. Với nguồn tiền bẩn thu được từ hoạt động bất chính, bọn tội phạm có thể tiêu

dùng ngay trong nền kinh tế này mà không cần qua bất cứ bước tẩy rửa nào. Nếu muốn

chúng cũng có thể tẩy rửa một cách dễ dành bằng các hình thức đã nêu như tiến hành

gởi những khoản tiền mặt nhỏ vào ngân hàng, mua các tài sản giá trị cao bằng tiền mặt

sau đó bán lại rồi thanh toán qua tài khoản ngân hàng. Đây chính là kẻ hở khá lớn để

các giao dịch bất hợp pháp được thực hiện dễ dàng.

- Cổ phần hóa NHTM nhà nước

Hiện Việt Nam có 5 NHTM nhà nước, trong đó có 3 ngân hàng Vietcombank,

Vietinbank và MHB đã cổ phần hóa xong, BIDV đang trong những bước cuối cùng

còn Agribank cũng đang tích cực tiến hành cổ phần hóa. Khi cổ phần hóa các ngân

hàng sẽ được phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đây

là kênh huy động rất tốt nhưng tiềm ẩn rủi ro bị lạm dụng rửa tiền và thâu tóm.

- Các định chế tài chính chưa thực sự hiểu rõ khách hàng để kịp thời báo cáo

những giao dịch bất thường. Chẳng hạn, trước đây có nhóm tội phạm quốc tế thuê một

số người Việt Nam mở 12 thẻ debit của các ngân hàng trong nước. Các chủ thẻ nhận ít

44

tiền thù lao rồi lại giao thẻ cho người đặt hàng. Sau đó, nhóm tội phạm này sang

Campuchia (quốc gia không quản lý ngoại hối) để rút tiền mặt. Hằng ngày, tiền được

chuyển vào cả 12 tài khoản ở Việt Nam và rút sạch từ Campuchia. Các ngân hàng phải

nhận thức được đây là giao dịch bất thường và báo cáo với Cục PCRT để phối hợp với

cơ quan công an đấu tranh xử lý.

- Việc xác định tính minh bạch và chủ sở hữu hưởng lợi của các nguồn đầu tư,

truy tìm mối quan hệ sở hữu chéo đang gặp khó khăn. Trên thực tế ở Việt Nam, các cá

nhân, tổ chức đều được góp vốn tham gia cổ đông sáng lập ngân hàng. Ngân hàng A có

công ty B tham gia 10% vốn, công ty B lại có ông C là chủ tịch hội đồng quản trị

nhưng ông C lại cử ông D đứng ra đại diện vốn. Vì vậy, trong cổ đông sáng lập ngân

hàng A không có tên ông C, trong khi nhân vật này mới thực sự là người điều hành.

- Pháp luật Việt Nam cũng không truy cứu "tội phạm kép". Do đó, nếu ai đó tham

nhũng hay lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng không bị xem xét có hay không tội rửa tiền.

Hơn nữa, các hiện tượng thuê giám đốc để thành lập doanh nghiệp, ủy quyền cho tài

xế, nhân viên đứng tên cổ phần... cũng gây khó khăn cho việc truy tìm nguồn gốc dòng

tiền. Một thực tế là theo tập quán tố tụng ở Việt Nam, khi người phạm tội chiếm đoạt

được tài sản từ việc thực hiện tội phạm, sau đó hợp pháp hóa hoặc sử dụng tài sản đã

chiếm đoạt được vào các hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động kinh tế khác, thông

thường người phạm tội chỉ bị truy tố về hành vi phạm tội nguồn mà không đồng thời bị

truy tố tội “rửa tiền”. Chẳng hạn, trong vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, ban đầu cơ quan

công an đã khởi tố 2 đối tượng Hùng Mỹ Phương và Nguyễn Thiên Lý về tội danh rửa

tiền, bởi 2 đối tượng này có nguồn tiền không hợp pháp (hàng trăm tỷ đồng) để cho

Huỳnh Thị Huyền Như vay với lãi suất 0,4%/ngày đến 3,7%/ngày. Tuy nhiên, sau đó

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đề nghị chuyển đổi tội danh để xử lý 2 đối tượng

này với tội “cho vay lãi nặng”.

- Các ngân hàng vẫn đang cạnh tranh nhau trong quá trình huy động tiền gởi từ

các cá nhân, doanh nghiệp và thực tế còn sử dụng nhiều hình thức chào mời khách

hàng gởi tiền rất hấp dẫn. Điều đó sẽ tạo ra tâm lý không quan tâm đến nguồn gốc các

45

khoản của khách hàng tiền gởi vào ngân hàng mình. Ngân hàng sẽ rất vui mừng khi

nhận được một khoản tiền gởi lớn từ khách hàng với mức lãi suất thấp hơn so với đối

thủ cạnh tranh

- Về thanh tra, giám sát: các cơ quan giám sát chưa thực hiện cuộc thanh tra

PCRT nào ở các NHTM. Do đó thiếu các số liệu thống kê toàn diện, gây khó khăn

trong việc đánh giá tính hiệu lực của pháp luật. Chưa xây dựng cơ chế giám sát và

khung pháp lý về PCRT đối khu vực ngoài ngân hàng, làm giảm hiệu lực PCRT nói

chung của cả nền kinh tế.

- Về đào tạo nguồn nhân lực: hiện nay, hầu hết các ngân hàng chưa xây dựng

và thực hiện chương trình đào tạo và nâng cao nhận thức về công tác PCRT. Thực

tế tại nhiều đơn vị ở một số bộ phận trực tiếp giao dịch với khách hàng chưa nắm

được các quy định và văn bản hướng dẫn về PCRT, việc triển khai mới dừng lại ở

mức độ phổ biến.

Qua những phân tích ở trên, có thể chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng nó đã cho thấy

được một số kẻ hở mà bọn tội phạm rửa tiền có thể lợi dụng để tiến hành hành vi phạm

tội của mình. Bên cạnh những điểm yếu trên, có thể vẫn còn những điểm mà chưa được

biết đến, điều đó đòi hỏi cần phải có những biện pháp đủ hiệu quả thì mới có thể ngăn

chặn tội phạm tìm cách khai thác triệt để nhưng kẻ hở nêu trên. Và song song đó, nếu

không tìm ra được những giải pháp để hạn chế hay co hẹp những kẻ hở này lại thì việc

Việt Nam trở thành một “thiên đường” tài chính đối với bọn tội phạm rửa tiền là việc

tất yếu xảy ra ở một tương lai không xa.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong chương này, luận văn đã phản ánh thực trạng hoạt động rửa tiền và công tác

phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua. Qua đó

tóm lược những kết quả đã đạt được và những tồn tại trong quá trình thực hiện. Để giải

quyết triệt để nhưng tồn tại này đòi hỏi chúng ta phải có hệ thống những giải pháp hiệu

46

quả nhằm ngăn chặn việc lợi dụng hệ thống ngân hàng vào mục đích rửa tiền. Những

giải pháp này sẽ được trình bày ở chương 3

47

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG RỬA

TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM

Dù cho các hoạt động rửa tiền có biến đổi tinh vi dưới hình thức nào thì ngân

hàng vẫn là nơi được ưu tiên lựa chọn để tiến hành rửa tiền. Để chống lại hoạt động rửa

tiền một cách cơ bản và hiệu quả, chúng ta cần có những giải pháp thiết thực để chống

rửa tiền qua hệ thống ngân hàng và về lâu dài hơn nữa, đó là những giải pháp phòng

ngừa nhằm ngăn chặn ngay từ sự phát sinh các nguồn tiền “bẩn”, thiết lập hệ thống

kiểm soát chặt chẽ nhằm sớm phát hiện sự thâm nhập của các khoản tiền bất hợp pháp

vào hệ thống tài chính ngân hàng.

Trước thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ngày càng đa dạng,

phức tạp và tinh vi thì công tác phòng, chống rửa tiền ngày càng trở nên cấp bách và

đang là mối quan tâm hàng đầu của lãnh đạo các cấp, các ngành

3.1 Giải pháp về phía Nhà nước

Thời gian qua, Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng pháp luật về PCRT và

từng bước triển khai hoạt động PCRT. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động này, cần

thực hiện đồng bộ các biện pháp cụ thể sau:

- Hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến hệ thống pháp luật về chống rửa tiền

theo tiêu chuẩn quốc tế

Khung pháp lý này cần tập trung vào một số lĩnh vực như: Triển khai các biện pháp

ngăn chặn có hiệu lực; tăng cường yêu cầu về thu thập và quản lý thông tin khách

hàng; gia tăng hiệu lực của các báo cáo về giao dịch đáng ngờ; quy định về hệ thống

chuyển tiền “ngầm”.

Đối với pháp luật hình sự, cần quy định rửa tiền là tội phạm riêng để nâng cao hiệu quả

áp dụng trong quá trình phòng chống tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia nói

chung và phòng chống rửa tiền nói riêng. Bộ Luật hình sự cũng cần hình sự hoá những

hành vi đã được quy định trong các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động rửa tiền

như: tội làm giàu bất minh, để buộc các cá nhân có tài sản tăng đáng kể so với thu nhập

của mình mà không giải thích được nguồn gốc của nó phải chịu trách nhiệm trước pháp

48

luật. Bên cạnh đó cần xây dựng các quy định về biện pháp phong tỏa, tịch thu tiền và

tài sản do phạm tội mà có. Các biện pháp tịch thu là sự nối tiếp tất yếu của các biện

pháp trấn áp tội phạm rửa tiền.

Về pháp luật tài chính ngân hàng: nội dung của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này

đã đáp ứng được yêu cầu trong việc phòng chống rửa tiền thông qua tổ chức tín dụng,

ngân hàng. NHNN và các cơ quan có thẩm quyền liên quan cần ban hành các văn bản

quy định một cách chặt chẽ về sử dụng ngoại tệ trong giao dịch và thanh toán.

Bên cạnh những văn bản pháp luật đóng vai trò chủ đạo trên, cần sửa đổi, bổ sung và

hoàn thiện văn bản pháp luật liên quan mang tính chất bổ trợ như: Luật thuế thu nhập

cá nhân, Luật quản lý thuế, Luật thuế tài sản, pháp luật về đăng ký giao dịch,… cần

đưa ra những quy định hợp lý góp phần kiểm soát thu nhập và tài sản của cá nhân.

Nghĩa là phải có sự khai báo rõ ràng về thu nhập cá nhân, về khối tài sản cá nhân, khi

chuyển một lượng tiền lớn thì ngay cả người chuyển và người nhận phải khai báo rõ

ràng về nguồn tiền, lý do chuyển hay được nhận để tránh hiện tượng cá nhân có tài sản

tăng lên một cách bất hợp pháp nhưng không được kiểm soát và không chịu trách

nhiệm trước pháp luật.

- Xây dựng cơ chế quản lý nhà nước chặt chẽ

Trước hết là kiểm soát các giao dịch liên quan đến các tổ chức tài chính: Tiền được rút

ra từ hệ thống các tổ chức tín dụng luôn được coi là hợp pháp, thế nên, hoạt động rửa

tiền của bọn tội phạm cũng tập trung vào các tổ chức tín dụng. Xây dựng các cơ chế

kiểm soát khách hàng và các giao dịch thông qua tổ chức tín dụng đóng vai trò quan

trọng. Hoạt động kiểm soát này liên quan đến việc nhận biết khách hàng, thu thập và

kiểm soát thông tin về khách hàng. Các nhân viên ngân hàng thực hiện nghiệp vụ phải

báo cáo cơ quan có thẩm quyền các thông tin về khách hàng có dấu hiệu của hoạt động

rửa tiền và giao dịch đáng ngờ. Đồng thời cũng quy định bắt buộc đối với một số giao

dịch nhất định được phải báo cáo.

Các giao dịch liên quan đến động sản và tài sản có giá trị lớn: những tài sản mà Nhà

nước quy định phải đăng ký quyền sở hữu, trong quá trình sử dụng, chuyển nhượng

49

cần phải khai báo với cơ quan nhà nước, thanh toán qua tổ chức tín dụng. Có thể xây

dựng các chính sách thuế với thuế suất hợp lý mà đối tượng đánh thuế là tài sản để

kiểm soát được thực trạng và chủ sở hữu của tài sản này, đồng thời có biện pháp xử

phạt thích đáng cho các cá nhân tổ chức tiến hành các giao dịch ngầm.

Hoạt động tẩy rửa tiền cũng liên quan đến hải quan, thuế vụ, do đó cũng cần xây dựng

cơ chế kiểm soát, quản lý nhà nước trong lĩnh vực này một cách chặt chẽ và có hiệu

quả. Xây dựng cơ quan phòng chống rửa tiền trong các cơ quan hải quan, thuế vụ và

trong hệ thống ngân hàng.

- Xây dựng cơ quan tình báo tài chính với chức năng và vai trò theo khuyến nghị

số 26 của FATF. Hiện nay, Cục PCRT chưa có vị trí độc lập như của các quốc gia

khác. Cục PCRT thuộc NHNN, phía Bộ Công an cũng đã thành lập lực lượng chuyên

sâu về công tác phòng chống rửa tiền, nhưng đội ngũ nhân lực cũng như trang thiết bị

còn mỏng và yếu. Đầu tư nhiều hơn cho các lực lượng này là điều cần thiết trong thời

gian tới để nâng cao hiệu quả của công tác phòng chống rửa tiền. Vì thế, thiết nghĩ, cần

phải có một lực lượng Cảnh sát điều tra về tội phạm rửa tiền mạnh hơn, chuyên trách

hơn, được trang bị đầy đủ các kiến thức về loại tội phạm này cũng như các trang thiết

bị công nghệ tốt, hiện đại. Như thế, mới có thể đương đầu, tiến tới đẩy lùi tội phạm rửa

tiền đang có nguy cơ “tấn công” Việt Nam.

- Tăng cường hợp tác quốc tế tương trợ tư pháp trong phòng chống hoạt động

rửa tiền

Trong hoạt động phòng chống tội phạm rửa tiền, hợp tác quốc tế đóng vai trò quan

trọng vì đây là loại tội phạm thường được thực hiện ở nhiều quốc quốc gia và liên quan

đến tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia. Đấu tranh phòng chống loại tội phạm này

phải có sự hợp tác, phối hợp giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm rửa tiền thể hiện trước hết ở việc tham gia,

ký kết các điều ước quốc tế là những văn bản pháp lý có hiệu lực chung giữa các quốc

gia thành viên. Từ đó, hợp tác trên những lĩnh vực cụ thể như trao đổi thông tin, dẫn độ

tội phạm, tịch thu tài sản, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất… Thông qua việc

50

trao đổi này, cơ quan điều tra của các quốc gia liên quan giúp nhau phát hiện và hoàn

thiện hồ sơ để xử lý các băng nhóm tội phạm xuyên quốc gia.

- Các biện pháp liên quan đến cán bộ, công chức

Đối với người có chức vụ, quyền hạn có khả năng thực hiện các hành vi tham nhũng -

một trong những tội phạm nguồn quan trọng liên quan đến hoạt động rửa tiền - cần có

cơ chế quản lý chặt chẽ. Quy định và hướng dẫn cụ thể về việc công khai, minh bạch

tài sản của các đối tượng này, thực hiện chế độ thanh tra, kiểm tra chặt chẽ đối với việc

sử dụng tài sản Nhà nước.

- Phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt. Bởi khi sử dụng thanh toán

bằng tiền điện tử, mọi hoạt động tài chính của mỗi người sẽ được quản lý chặt chẽ và

dễ dàng hơn. Việc sử dụng tiền mặt quá lớn trong thanh toán ở nước ta hiện nay là điều

kiện lý tưởng cho tham nhũng, trốn thuế và các gian lận tài chính khác. Đó cũng là "cái

nôi" để các hành vi rửa tiền của tội phạm trong nước và quốc tế thực hiện mà không bị

phát hiện. Sẽ rất khó quy định những biện pháp cụ thể, trực tiếp và có hiệu quả để

"quản lý thị trường ngầm" nhằm phòng, chống rửa tiền. Vì vậy, cần có biện pháp mạnh

để ngăn chặn từ gốc như:

 Quy định về việc thanh toán không dùng tiền mặt trong một số lĩnh vực như

thanh toán tiền mua, bán hàng hoá trong xuất khẩu, nhập khẩu; chuyển nhượng

vốn; mua bán bất động sản, ô tô;...Nếu không, nhà nước sẽ không công nhận

quyền sở hữu đối với giao dịch tiền mặt này.

 Ban hành chính sách ưu đãi về thuế, phí đối với các tổ chức sử dụng dịch vụ

thanh toán cũng như đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán.

Phòng, chống rửa tiền có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi

quốc gia. Các nước phát triển đặc biệt quan tâm đến công tác này. Ở nước ta, phòng,

chống rửa tiền còn là công cụ quan trọng để đấu tranh chống tham nhũng. Vì vậy, cùng

với việc ban hành Luật Phòng, chống rửa tiền, cần có những biện pháp có hiệu quả và

được thực thi trong thực tế. Không nên để Luật chỉ đi vào cuộc sống một cách nửa vời

như Luật Phòng, chống tham nhũng trong những năm vừa qua

51

3.2 Các giải pháp về phía NHNN:

- NHNN cần tăng cường phối hợp, hợp tác, giúp đỡ các ngân hàng trong việc phát

hiện, xử lý các hành vi rửa tiền; làm đầu mối để các ngân hàng nên thường xuyên trao

đổi thông tin về tình hình tội phạm rửa tiền tại ngân hàng mình và cần có sự đồng

thuận khi triển khai các biện pháp PCRT.

- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và sử dụng hiệu

quả các phần mềm phát hiện và ngăn chặn các giao dịch đáng ngờ.

- Nghiên cứu và có giải pháp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt trên lãnh thổ

Việt Nam.

- Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ cho các lực lượng chuyên

trách chống rửa tiền, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin đơn vị và phát động

các chiến dịch gia tăng sự hiểu biết của cộng đồng về PCRT.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về rửa tiền: Tổ chức tiếp nhận, tổng hợp, phân

tích, xử lý, lưu giữ, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến rửa tiền đồng thời chuyển

cho cơ quan có thẩm quyền để thanh tra, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

- Ban hành các quy chế giám sát, thường xuyên kiểm tra việc tuân thủ các quy

định về PCRT: Theo đề xuất của Basel II thì NHNN phải thực hiện kiểm toán bắt buộc

hàng năm và hệ thống thanh tra hoạt động quy củ chặt chẽ để NHNN kiểm soát được

các hoạt động tài chính bất hợp pháp, các thông tin nội bộ bị tiết lộ hoặc các hoạt động

lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền. Việc ban hành quy chế giám sát giúp cho các

cơ quan thuộc NHNN chủ động hơn trong việc thanh tra giám sát các NHTM, tránh

trường hợp làm cho có của các NHTM.

- NHNN cần chủ trì và phối hợp với Bộ Công an và các cơ quan hữu quan xây

dựng và thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch, công tác phòng ngừa,

đấu tranh chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam. Sau đây là một vài giải pháp nhằm

tăng cường phối hợp hiệu quả:

 Bộ Công an phải có sự phản hồi về kết quả điều tra các giao dịch đáng ngờ

mà Cục PCRT chuyển đến.

52

 Cục PCRT cần thường xuyên cập nhật “danh sách đen” từ Bộ Công an để

cung cấp thông tin cho các ngân hàng.

 Cộng tác với nhau để nghiên cứu các loại hình rửa tiền để từ đó đưa ra

phương pháp điều tra cũng như ngăn chặn thích hợp.

- Tiếp tục tăng cường hợp tác và hỗ trợ quốc tế về PCRT: phối hợp chặt chẽ với

cơ quan chức năng như Interpol, an ninh kinh tế trong việc thực hiện các biện pháp

PCRT theo quy định của pháp luật cũng như yêu cầu các cơ quan này hỗ trợ khi cần

thiết.

3.3 Các giải pháp về phía NHTM

3.3.1 Các giải pháp liên quan đến nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng và là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động

của doanh nghiệp. Trong thực tế hoạt động của ngân hàng cho thấy, cho dù quy trình,

quy định được ban hành chặt chẽ đến đâu nhưng con người cố tình vi phạm, làm trái

thì hậu quả thật khó lường. Ngoài rủi ro trong hoạt động ngân hàng xảy ra do trình độ

nhận thức của nhân viên yếu kém, không nắm bắt được bản chất của vấn đề thì cũng

cần phải kể đến trình độ quản lý con người của cấp lãnh đạo. Do đó, một số biện pháp

nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần được các NHTM quan tâm, cụ

thể như sau:

- Công tác tuyển dụng cần căn cứ trên đạo đức, chuyên môn, kinh nghiệm và

năng lực tư duy. Trong đó, đạo đức và năng lực tư duy là hai yếu tố quan trọng hơn cả.

Đạo đức tốt quyết định hành vi và mục đích hành động. Năng lực tư duy có khả năng

đáp ứng sự thích nghi với hoạt động đa dạng và luôn phát triển của hệ thống ngân hàng

trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập.

- Cần đặc biệt quan tâm đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, không

ngừng đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp.

- Thu nhập thấp sẽ dần làm triệt tiêu lòng nhiệt huyết của nhân viên đối với công

việc, dễ khiến họ đánh mất phẩm chất vì sức cám dỗ của đồng tiền. Do đó, chế độ

lương thưởng hợp lý đảm bảo cho nhân viên đáp ứng được nhu cầu cuộc sống sẽ giúp

53

hạn chế việc bị mua chuộc hay những hành vi tham nhũng dẫn đến tiếp tay cho bọn tội

phạm thực hiện các hành vi rửa tiền.

- Chế độ khen thưởng, động viên, khuyến khích kịp thời về vật chất và tinh thần

đối với các cá nhân, tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ cũng là động lực thúc đẩy sự cống

hiến, sáng tạo của người lao động cho sự nghiệp phát triển của ngân hàng.

- Thường xuyên quan tâm, xem xét những chuyển biến về tâm lý, cách thức làm

việc để có thể kịp thời giúp đỡ, xử lý.

- Nghiêm khắc xử lý các trường hợp cố tình làm sai trái so với quy trình, quy

định.

3.3.2 Giải pháp về cơ chế vận hành, quản trị hệ thống

- Hoàn thiện, phát triển dịch vụ ngân hàng và thúc đẩy phương tiện thanh toán

không dùng tiền mặt: ngân hàng cần nỗ lực đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng

tiền mặt thông qua việc hoàn thiện, phát triển dịch vụ thẻ. Cụ thể:

 Tăng tiện ích của thẻ thanh toán nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phong

phú của khách hàng.

 Khuyến khích các tổ chức kinh tế cá nhân thanh toán qua thẻ, mở tài khoản

miễn phí cho các cá nhân, tổ chức kinh tế.

 Tăng về số lượng đơn vị chấp nhận thẻ, áp dụng rộng rãi ở các cửa hàng, cửa

hiệu buôn bán ở khắp các tỉnh thành chứ không riêng gì các trung tâm

thương mại, thành phố lớn.

 Mở rộng mạng lưới máy rút tiền, đảm bảo sự tiện lợi và an toàn cho người

rút tiền.

- Lựa chọn các ngân hàng (ngân hàng phát hành, ngân hàng xác nhận…) có uy

tín, có tình hình tài chính lành mạnh, tuân thủ các quy định quốc tế về rửa tiền làm đối

tác trong hoạt động thanh toán quốc tế để tránh việc lợi dụng mở L/C và các phương

thức tài trợ thương mại khác nhằm chuyển tiền giữa các quốc gia. Đặc biệt, khi lựa

chọn đối tác cần xem xét xem có nằm trong các nước và vùng lãnh thổ không tuân thủ

54

theo đánh giá của FATF hay không. Nếu đối tác năm trong danh sách cảnh báo của

FATF thì cần phải có những xem xét kỹ lưỡng

- Hiểu được những vấn đề mấu chốt của khách hàng là nguyên tắc hàng đầu trong

kinh doanh của ngân hàng để vừa phòng chống rủi ro cũng như để phục vụ khách hàng

tốt nhất. Vì vậy, ngân hàng cần thu thập thông tin và tìm hiểu khách hàng kỹ lưỡng trên

tất cả các hoạt động nghiệp vụ then chốt của ngân hàng, từ nghiệp vụ tín dụng, bảo

lãnh, nhận tiền gửi, thanh toán,...Ngân hàng cần liên hệ chặt chẽ với các cơ quan chức

năng như: trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN, cơ quan Interpol để chủ động

nắm bắt thông tin về khách hàng. Hiện nay, một số NHTM Việt Nam đã hoàn thiện

Module CIF quản lý hồ sơ khách hàng để bất kỳ lúc nào truy cập vào hệ thống sẽ có

bức tranh toàn diện về khách hàng với những thông tin đầy đủ, chi tiết và thường

xuyên được cập nhật.

- Hiểu được mục đích của khách hàng khi đến ngân hàng: ở các nước, các

NHTM luôn có phòng dịch vụ khách hàng để khách hàng bày tỏ những nguyện vọng

của mình khi giao dịch với ngân hàng. Theo đó, ngân hàng có thể kiểm tra chặt chẽ

mục đích sử dụng các giao dịch của ngân hàng. Ví dụ, đối với hoạt động tín dụng, cần

giám sát các khoản vay khách hàng thông qua việc theo dõi sát sao hoạt động đầu tư

kinh tế của doanh nghiệp trong từng giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay. Từ đó,

ngân hàng có thể kiểm soát được các khoản cho vay của ngân hàng, hạn chế việc sử

dụng vốn vay vào các mục đích bất hợp pháp. Đối với các khoản tiền gửi, trong quá

trình tư vấn, ngân hàng sẽ hiểu rõ được nguồn gốc khoản tiền đó cũng như hình thức

đầu tư của khoản tiền để tiện theo dõi, quản lý.

- Xây dựng chính sách, quy định, quy trình nội bộ về PCRT hướng dẫn cách thức

thực hiện công tác PCRT tại các khâu: mở và sử dụng tài khoản; quy định về nhận biết

khách hàng, nhận biết khách hàng giản đơn và tăng cường, hiểu rõ khách hàng để xác

định những giao dịch bất thường. Tiếp đó, quy định nội bộ về PCRT phải được phổ

biến đến tất cả cán bộ, nhân viên có liên quan chú ý xem xét, nếu có vấn đề gì phát sinh

55

sẽ báo cáo Ban lãnh đạo để xử lý; phải thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tuân thủ

và xử lý các sai phạm; công tác đào tạo phải được quan tâm, tổ chức thường xuyên.

- Hoàn thiện mô hình tổ chức toàn diện từ hội sở chính, chi nhánh đến các công

ty trực thuộc trong hệ thống NHTM Việt Nam là điều kiện vô cùng quan trọng

trong việc thực hiện PCRT có hiệu quả. Tại hội sở chính, phải có được bộ phận phụ

trách PCRT chuyên trách, chuyên xử lý phân tích các báo cáo, thu thập dữ liệu giao

dịch, khách hàng. Tại chi nhánh và các công ty trực thuộc mỗi một đơn vị cũng cần

phải có bộ phận xử lý PCRT chuyên trách và liên hệ làm việc trực tiếp, nhận hỗ trợ

từ bộ phận phụ trách PCRT chuyên trách tại hội sở chính. Việc hỗ trợ và nhận thức

rủi ro về PCRT từ ban lãnh đạo cũng là một điều kiện tiên quyết cho một hệ thống

PCRT thành công, do vậy, mỗi NHTM cần có một lãnh đạo phụ trách về PCRT.

Ngoài ra, kiểm soát tuân thủ thực hiện PCRT không thể thiếu bộ phận kiểm tra,

kiểm soát tính tuân thủ, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, quy định về PCRT.

- Thành lập bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ hoạt động chuyên trách trực thuộc

Tổng giám đốc bao gồm Phòng Kiểm tra nội bộ tại Hội sở chính và Phòng Kiểm tra nội

bộ tại các chi nhánh. Thông qua hoạt động của bộ máy kiểm tra kiểm toán nội bộ, ngân

hàng giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật, quy định của NHNN và các

cơ quan thẩm quyền cũng như các quy trình nghiệp vụ, hoạt động kinh doanh và các

quy định nội bộ khác của các bộ phận trong ngân hàng nhằm phòng chống việc lợi

dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền.

- Các dấu hiệu nhận biết giao dịch đáng ngờ được tóm tắt ở bảng dưới có thể hỗ

trợ các cán bộ, nhân viên ngân hàng phát hiện dấu hiệu rửa tiền qua các sản phẩm dịch

vụ của ngân hàng trong quá trình tác nghiệp hàng ngày:

 Dấu hiệu định lượng:

Bảng 3.1 Các dấu hiệu định lượng

STT Dấu hiệu đáng ngờ Mô tả cụ thể dấu hiệu

1 Giao dịch trên tài khoản mới  Tài khoản cá nhân mở chưa từng thực

56

mở hoặc không hoạt động lâu hiện giao dịch, có số tiền từ 05 tỷ đồng

ngày hoặc ngoại tệ có giá trị tương đương

trở lên chuyển vào và được rút ra hết

ngay trong ngày

 Pháp nhân không thực hiện giao dịch

trong một thời gian dài (12 tháng) trên

tài khoản của mình kể từ khi mở;

doanh nghiệp trong nước mở và sử

dụng tài khoản ở nước ngoài dưới tên

pháp nhân hoặc thể nhân nước ngoài

2 Mục đích mở tài khoản không  Trong khoảng thời gian 15 ngày, khách

rõ ràng hàng mở và đóng tài khoản tiền gửi

thanh toán ít nhất 2 lần

 Cá nhân, tổ chức hướng dẫn từ 10

người trở lên đến mở tài khoản giao

dịch mà không rõ mục đích của việc

mở tài khoản hoặc mục đích mở không

phù hợp với hoạt động thực tế của

khách hàng

3 Giới thiệu khách hàng và đề  Cá nhân, tổ chức giới thiệu cho ngân

nghị chi hoa hồng hàng các cá nhân, tổ chức khác đến gởi

tiền có giá trị từ 02 tỷ đồng hoặc ngoại

tệ có giá trị tương đương trở lên và đề

nghị chi tiền hoa hồng giới thiệu cho

cá nhân và tổ chức giới thiệu

4 Hiệu lực của Visa dưới 30  Khách hàng là cá nhân nhập cảnh vào

ngày Việt Nam mà visa có hiệu lực ít hơn

57

hoặc bằng 30 ngày, thực hiện giao dịch

trên tài khoản với số tiền có giá trị từ

10 tỷ đồng hoặc ngoại tệ có giá trị

tương đương trở lên

5 Số điện thoại cá nhân hoặc cơ  Nhân viên ngân hàng gọi điện tối thiểu

quan do khách hàng cung cấp 3 lần đến số điện thoại cá nhân hoặc cơ

không thể liên lạc được hoặc quan do khách hàng cung cấp không

không có số này sau khi mở thể liên lạc được hoặc không có số này

tài khoản hoặc thực hiện giao

dịch

6 Các giao dịch được thực hiện  Khách hàng hoặc người được ủy quyền

theo lệnh hoặc theo ủy quyền thực hiện giao dịch là một trong các tổ

của tổ chức, cá nhân có trong chức, cá nhân thuộc danh sách tổ chức,

danh sách cảnh báo cá nhân do Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam lập nhằm cảnh báo tổ chức, cá

nhân có rủi ro cao về rửa tiền

7 Các giao dịch chuyển tiền có  Giao dịch nộp tiền, chuyển khoản và

giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản rút tiền (với số tiền ít nhất là 300 triệu

khác nhau về một tài khoản đồng hoặc ngoại tệ có giá trị tương

hoặc ngược lại trong một thời đương cho mỗi lần giao dịch) được

gian ngắn; tiền được chuyển thực hiện từ 6 lần trở lên giữa 02 tài

qua nhiều tài khoản; các bên khoản trong cùng ngày

liên quan không quan tâm đến  Các giao dịch chuyển tiền có giá trị

phí giao dịch; thực hiện nhiều nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về

giao dịch, mỗi giao dịch gần một khoản tiền lớn hay chuyển qua

mức giá trị báo cáo nhiều tài khoản khác nhau về một tài

khoản trong một thời gian ngắn (trong

58

ngày) hoặc ngược lại; các bên liên

quan không quan tâm đến phí giao dịch

8 Có sự thay đổi đột biến trong  Có sự thay đổi đột biến trong doanh số

doanh số giao dịch trên tài giao dịch trên tài khoản: tiền gởi vào

khoản; tiền gửi vào và rút ra và rút ra nhanh khỏi tài khoản (trong

nhanh khỏi tài khoản; doanh vòng 15 phút); doanh số giao dịch lớn

số giao dịch lớn trong ngày trong ngày (từ 05 tỷ đồng trở lên)

nhưng số dư tài khoản nhỏ nhưng số dư tài khoản rất nhỏ (bằng số

hoặc bằng không dư tối thiểu duy trì tài khoản theo quy

định của ngân hàng) hoặc bằng 0 (các

dấu hiệu trên xảy ra khoảng 3 lần/tuần)

 Khách hàng thường xuyên đổi tiền có

9 Khách hàng thường xuyên đổi

tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn với

mệnh giá lớn tổng giá trị một lần đổi từ 300.000.000

đồng trở lên

 Dấu hiệu định tính:

Bảng 3.2 Các dấu hiệu định tính

STT Dấu hiệu đáng ngờ Mô tả cụ thể dấu hiệu

1 Khách hàng che dấu, lẫn  Khách hàng cố ý che dấu, lẫn tránh

tránh, e ngại khi giao dịch nhằm tránh sự phát hiện của nhiều người

như: ăn mặc, trang điểm mang tính chất

ngụy trang, không giao dịch ở những

điểm đông người, có sự nóng vội hoặc

không giữ được bình tĩnh khi giao dịch

 Lúng túng, e ngại khi cung cấp những

thông tin giao dịch như: thông tin về

59

người chuyển tiền, người thụ hưởng

(CMND/Hộ chiếu, địa chỉ, số điện thoại

liên lạc, ngành nghề kinh doanh, mục

đích hoặc nội dung giao dịch…)

2 Đề nghị thưởng hoặc cung cấp  Khách hàng đề nghị chi hoa hồng, sẽ

những lợi ích khác nộp phí giao dịch cao hoặc cung cấp các

lợi ích khác cho nhân viên, với điều kiện

là khách hàng sẽ không trả lời các câu

hỏi của nhân viên nếu nhân viên hỏi liên

quan đến giao dịch và phải thực hiện

giao dịch một cách nhanh chóng

3 Khách hàng từ chối cung cấp  Khách hàng từ chối cung cấp những giấy

chứng từ hoặc cung cấp thông tờ về nhân thân của mình hoặc người thụ

tin nhận biết khách hàng hưởng khi đến giao dịch tại ngân hàng

không chính xác, không đầy như: CMND/hộ chiếu, địa chỉ thường trú

đủ, không nhất quán hoặc tạm trú, số điện thoại …khi nhân

viên có yêu cầu

 Khách hàng từ chối cung cấp các chứng

từ mà theo quy định là phải cung cấp đối

với loại giao dịch mà khách hàng đề

nghị

 Khách hàng từ chối trả lời, trả lời không

rõ ràng hoặc có mâu thuẩn trong nội

dung trả lời các câu hỏi liên quan đến

mục đích mở và sử dụng tài khoản như:

mở tài khoản để chuyển tiền đi, nhận

tiền chuyển vào hay là nhận tiền lương;

60

khách hàng nhận tiền hoặc chuyển tiền

trong nước hay ngoài nước…

4 Thông tin khách hàng có thay  Cùng một khách hàng nhưng thông tin

đổi hoặc không thể xác định về khách hàng đó trên các chứng từ cung

được khách hàng theo thông cấp cho ngân hàng là khác nhau qua các

tin khách hàng cung cấp hoặc lần giao dịch như: một khách hàng

giao dịch liên quan đến một nhưng có họ tê, địa chỉ, số CMND/hộ

bên không xác định danh tính chiếu, mẫu dấu…khác nhau mà không

có lý do xác đáng như: quyết định thay

đổi họ, tên, số CMND, giấy đăng ký

mẫu dấu mới…

 Khách hàng sử dụng cùng một lúc 2

hoặc nhiều CMND, 2 hoặc nhiều hộ

chiếu

 Các giấy tờ tùy thân của khách hàng như

CMND, hộ chiếu được viết bằng chữ

viết tay, có dấu hiệu tẩy xóa hoặc hình

ảnh trên các giấy tờ đó đã bị thay đổi…

nhưng cố gắng thuyết phục nhân viên để

được giao dịch

 Các bên có liên quan đến giao dịch cung

cấp thông tin nhận biết khách hàng

không chính xác, không đầy đủ, không

nhất quán

5 Chứng từ giao dịch không  Khách hàng cung cấp không đúng,

đúng, không đầy đủ không đầy đủ hoặc không phù hợp với

quy định của Ngân hàng Nhà nước, về

61

các chứng từ phải cung cấp đối với loại

giao dịch mà khách hàng đề nghị, nhưng

vẫn cố giải thích, thuyết phục để được

giao dịch

 Khách hàng không ghi đầy đủ và chính

xác nội dung trên các chứng từ giao dịch

theo quy định đối với loại giao dịch mà

khách hàng đề nghị, mặc dù nhân viên

đã yêu cầu thực hiện lại nhưng khách

hàng vẫn không thực hiện hoặc có thực

hiện nhưng không đầy đủ, cố tình né

tránh việc điền thông tin

6 Các giao dịch mà qua thông  Khách hàng hoặc người được khách

tin nhận biết khách hàng hoặc hàng ủy quyền thực hiện giao dịch mà

qua xem xét về cơ sở kinh tế nhân viên ngân hàng biết được hoặc

và pháp lý của giao dịch có nghi ngờ số tiền có nguồn gốc từ hoạt

thể xác định được mối liên hệ động tội phạm hoặc được sử dụng nhằm

giữa các bên tham gia giao mục đích phục vụ cho hoạt động tội

dịch với các hoạt động phạm phạm (thông tin về khách hàng mà nhân

tội hoặc có liên quan tới tổ viên biết có thể là từ truyền hình, báo,

chức, cá nhân có trong danh đài, internet…)

sách cảnh báo  Các giao dịch được thực hiện theo lệnh

hay ủy quyền của các cá nhân, tổ chức

có liên quan đến hoạt động tội phạm

nằm trong danh sách cá nhân, tổ chức có

liên quan tới khủng bố và tài trợ khủng

bố do Bộ Công an chủ trì lập theo quy

62

định của pháp luật

 Các giao dịch mà qua thông tin nhận

dạng hoặc qua xem xét về cơ sở kinh tế

và pháp lý của các bên tham gia giao

dịch, ngân hàng có thể xác định được

mối liên hệ giữa các bên tham gia giao

dịch với các hoạt động tội phạm hoặc có

liên quan tới cá nhân, tổ chức nêu trên

 Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển

tiền được thực hiện bởi một cá nhân hay

tổ chức liên quan đến hoạt động bất hợp

pháp mà thông tin đại chúng (báo, đài)

đã đăng tải

7 Khách hàng thuyết phục ngân  Khách hàng chủ động đề nghị, thuyết

hàng không báo cáo giao dịch phục ngân hàng không báo cáo giao dịch

với cơ quan nhà nước có thẩm đáng ngờ, báo cáo giao dịch có giá trị

quyền lớn và các trường hợp báo cáo khác liên

quan tới phòng chống rửa tiền theo quy

định của pháp luật và quy định nội bộ

của ngân hàng

8 Các tổ chức, cá nhân tham gia  Các cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch

giao dịch với số tiền lớn với số tiền có giá trị lớn không tương

không phù hợp với thu nhập, xứng hoặc không liên quan tới hoạt động

hoạt động kinh doanh của tổ thường ngày hay bất cứ hoạt động hợp

chức, cá nhân này pháp nào theo đánh giá của ngân hàng

 Các tổ chức chứng khoán chuyển tiền

không phù hợp với hoạt động kinh

63

doanh chứng khoán

 Các công ty bảo hiểm thường xuyên đền

bù hoặc chi trả bảo hiểm với số tiền lớn

cho cùng một khách hàng (3 lần/tháng,

số tiền từ 1 tỷ đồng trở lên/lần)

9 Khách hàng mở nhiều tài  Khách hàng cư trú, làm việc hoặc có

khoản tại các chi nhánh của hoạt động kinh doanh ở tỉnh này mà mở

ngân hàng ở khu vực khác nơi tài khoản tại chi nhánh tỉnh khác mà

khách hàng cư trú, làm việc không có liên quan gì tới hoạt động của

hoặc có hoạt động kinh doanh khách hàng

10 Tài khoản của khách hàng  Tài khoản của khách hàng không giao

không giao dịch trên một năm, dịch trên một năm, giao dịch trở lại mà

giao dịch trở lại mà không có khách hàng không giải thích hợp lý vì

lý do hợp lý; tài khoản của sao hoạt động trở lại

khách hàng không giao dịch  Tài khoản khách hàng không giao dịch

đột nhiên nhận được một đột nhiên nhận được một khoản tiền gửi

khoản tiền gởi hoặc chuyển hoặc chuyển tiền có giá trị lớn

tiền có giá trị lớn

11 Doanh nghiệp có vốn đầu tư  Doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra

nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài trong vòng 3 ngày làm việc

nước ngoài ngay sau khi nhận hoặc thời điểm khác mà ngân hàng thấy

được vốn đầu tư hoặc chuyển có nghi ngờ sau khi nhận được vốn đầu

tiền ra nước ngoài không phù tư hoặc sau hoặc sau khi nhận được tiền

hợp với hoạt động kinh doanh; từ nước ngoài chuyển vào tài khoản mở

doanh nghiệp nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam

chuyển tiền ra nước ngoài  Doanh nghiệp nước ngoài thanh toán các

ngay sau khi nhận được tiền từ khoản tiền chi trả ra nước ngoài theo các

64

nước ngoài chuyển vào tài hợp đồng, giao dịch không phù hợp với

khoản mở tại ngân hàng Việt ngành nghề kinh doanh trên Giấy chứng

Nam nhận đăng ký kinh doanh hoặc các hoạt

động thường nhật của doanh nghiệp

12 Các dấu hiệu khác  Giao dịch của khách hàng có dấu hiệu vi

phạm các trình tự, thủ tục quy định,

khách hàng bỏ qua các bước, quy trình

phải thực hiện

 Sử dụng tín dụng thư và các phương

thức tài trợ thương mại khác có giá trị

lớn, chiết khấu với giá trị cao nhằm

chuyển tiền giữa các quốc gia khi giao

dịch này không liên quan đến hoạt động

thường xuyên của khách hàng

 Chuyển lượng tiền lớn từ tài khoản

ngoại tệ của doanh nghiệp ra nước ngoài

sau khi nhận được các khoản tiền nhỏ

được chuyển vào bằng chuyển tiền điện

tử, séc, hối phiếu

 Khách hàng là các cá nhân hoặc tổ chức

liên quan tới các hành vi tội phạm mà đã

được đăng tải trên báo giấy, báo mạng,

truyền hình, phát thanh và các phương

tiện thông tin đại chúng khác

 Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa

được phép trên cơ sở bảo đảm bằng hợp

đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay

65

sau khi thanh toán phí bảo hiểm

 Thông tin về các khoản vốn góp trong

nghiệp vụ tài trợ, đầu tư, cho vay, cho

thuê tài chính hoặc ủy thác đầu tư của

khách hàng không rõ ràng, minh bạch về

 Thông tin về tài sản thế chấp, cầm cố

nguồn gốc

của khách hàng xin vay vốn không rõ

ràng, minh bạch về nguồn gốc như được

chuyển nhượng đi lại nhiều lần, thông

tin giấy tờ sở hữu có mâu thuẩn hoặc

không rõ ràng

- Giải pháp về hệ thống công nghệ hỗ trợ: Hệ thống PCRT cần phải có 2

module thiết yếu là Filtering: ngăn chặn tức thời và Profiling dành cho phân tích sau:

 Đối với Profiling: Các ví dụ về kịch bản rửa tiền đưa ra nhằm cài đặt vào

trong hệ thống, và kiểm nghiệm kết quả từ các kịch bản đang được xây dựng;

thu thập tất cả các giao dịch nghi ngờ phục vụ cho việc profiling; quy tắc

với các tham số xác định các thành phần của kịch bản (ví dụ: các tài khoản có

giao dịch lớn hơn 300 triệu đồng; các khách hàng có nhiều hơn 5 tài khoản tại

ngân hàng; danh sách các khách hàng đen, các nước, quốc gia không hợp tác

về rửa tiền do các tổ chức có uy tín cung cấp hàng năm…

 Đối với Filtering: Quy trình cảnh báo trong Filtering; hỗ trợ CDD; xếp hạng

rủi ro dựa trên ma trận rủi ro, ma trận rủi ro phải được xây dựng dựa trên: sản

phẩm dịch vụ của ngân hàng mà khách hàng sử dụng, quốc gia khách hàng cư

trú...

- Hợp tác chặt chẽ với các bộ phận thuộc ngân hàng, NHNN, Cục PCRT, cơ quan

công an cũng như các ngành hữu quan để có thể chủ động nắm bắt được những thông

66

tin về khách hàng và có được sự cảnh báo sớm nhất trước khi thực hiện giao dịch với

khách hàng và kịp thời xử lý các giao dịch có dấu hiệu phạm pháp liên quan đến rửa

tiền.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3 đã trình bày một số giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Việt Nam. Những giải pháp này được trình bày theo phạm vi chức năng của cơ quan

Nhà nước, NHNN và NHTM. Để đạt được hiệu quả trong hoạt động phòng, chống rửa

tiền thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành, các cấp dưới sự chỉ đạo thống

nhất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

67

KẾT LUẬN

Luận văn mới chỉ nghiên cứu giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

- một phần trong hoạt động phòng, chống rửa tiền nói chung. Trên thực tế, hoạt động

phòng, chống rửa tiền là công việc hết sức phức tạp và lâu dài, đòi hỏi sự quyết tâm

chính trị, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan, nâng cao tinh

thần trách nhiệm, đạo đức trong khi thi hành công vụ, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp

thời các vụ việc có liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố, nhằm đóng góp cho nền

kinh tế phát triển ổn định, bảo vệ an ninh kinh tế và chủ quyền quốc gia.

Qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã đưa ra những ý kiến đóng góp sau đây:

Một là, hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến hệ thống pháp luật về chống rửa tiền

theo tiêu chuẩn quốc tế; sớm đưa Việt Nam trở thành thành viên chính thức của FATF;

thành lập cơ quan phòng, chống rửa tiền trực thuộc Chính phủ

Hai là, tạo lập môi trường kinh tế thích hợp nhằm giúp hạn chế khả năng tạo ra các

dòng “tiền bẩn”; tăng cường thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng

Ba là, xây dựng và thực thi các biện pháp mang tính tác nghiệp tại NHNN và các

NHTM nhằm phát hiện và ngăn chặn hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Tuy

nhiên, việc xem xét và lựa chọn giải pháp nào còn tùy thuộc vào tình hình thực tế và

đặc điểm riêng có của từng NHTM

Vấn đề nghiên cứu của đề tài khá phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực nên đề tài

trình bày chưa đầy đủ và mang tính chủ quan. Với kiến thức, khả năng và thời gian còn

hạn chế, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ quý thầy cô để luận

văn được hoàn thiện và mang tính thực tiễn.

Xin chân thành cảm ơn

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Luật các tổ chức tín dụng (2007)

2. Luật phòng, chống rửa tiền (2012)

3. Nghị định số 116/3013/NĐ-CP về phòng chống rửa tiền (2013)

4. Ngô Thái Phương (2006), “Chống rửa tiền và tài trợ khủng bố - Kinh nghiệm

của một số nước trong khu vực”, Tạp chí Ngân hàng (số 9), tr.15-20.

5. Nguyễn Hải Bình (2005), “Phòng, chống rửa tiền trên thế giới và một số lưu ý

khi áp dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (số 11), tr 3-9.

6. Nguyễn Thị Ngọc Trang (2005), “Chống rửa tiền và chủ trương tự do hóa dòng

chu chuyển vốn quốc tế”, Tạp chí kinh tế phát triển, số 186, tr 20-26.

7. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển

kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), tr.9-11.

8. Paul Allan Schott (2007), Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và tài trợ

khủng bố, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.

9. Trần Huy Hoàng, Trần Thị Lan Phương (2006), “Phòng chống rửa tiền ở Việt

Nam”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), tr.14-18.

10. Trần Ngọc Thơ (2005), “Chống rửa tiền nhưng chống ai?”, Tạp chí kinh tế phát

triển, (số 186), tr.5-7.

11. Trần Thị Thu Hoài (2013), “Nguy cơ bị lợi dụng rửa tiền, tài trợ khủng bố từ hệ

thống chuyển tiền ngầm và hành lang pháp lý điều chỉnh”, Tạp chí Ngân hàng,

(số 16), tr.18-22.

12. Trương Quang Thông (2005), “Rửa tiền điện tử”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số

177), tr 9-11.

13. Văn Tạo, Kim Anh (2010), “Phòng, chống rửa tiền kinh nghiệm của các nước

và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (số 1), tr.16-20.

Tiếng Anh

14. Development Prospects Group, World Bank (2010), Outlook for Remittance

Flows 2010-11 – Migration anh Development Brief 12.USA

15. FATF (2009), Methodology for Assessing Compliance with the FATF 40

Recommendations anh the FATF 9 special Recommendations, USA

16. World Bank (2009), Stolen Asset Recovery, USA

PHỤ LỤC 1

40 khuyến nghị về chống rửa tiền của FATF:

KHUYẾN NGHỊ NỘI DUNG

1. Các hệ thống pháp lý

Khuyến nghị 1, 2 - Phạm vi của tội phạm hình sự rửa tiền

Khuyến nghị 3 - Các biện pháp tạm thời và tịch thu

2. Các biện pháp được các định chế tài chính và

các loại hình phi tài chính thực hiện nhằm ngăn

ngừa hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố

Khuyến nghị 4, 5, 6, 7, 8, - Cập nhật, theo dõi thông tin về khách hàng và lưu

9, 10, 11, 12 giữ hồ sơ

Khuyến nghị 13, 14, 15, - Báo cáo các giao dịch đáng ngờ và tuân thủ

16

Khuyến nghị 17, 18, 19, - Các biện pháp khác nhằm ngăn chặn rửa tiền và tài

trợ khủng bố 20

Khuyến nghị 21, 22 - Các biện pháp cần phải tiến hành đối với quốc gia

không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các khuyến

nghị của FATF

Khuyến nghị 23, 24, 25 - Quản lý và giám sát

3. Các biện pháp tổ chức và biện pháp khác cần

thiết trong hệ thống chống rửa tiền và tài trợ khủng

bố

Khuyến nghị 26, 27, 28, - Các cơ quan có thẩm quyền, quyền hạn và nguồn

29, 30, 31, 32 lực của họ

Khuyến nghị 33, 34 - Tính minh bạch của các pháp nhân và thoả thuận pháp

4. Hợp tác quốc tế

Khuyến nghị 35 - Tham gia công ước quốc tế

Khuyến nghị 36, 37, 38, - Hỗ trợ pháp lý đa phương và dẫn độ

39

Khuyến nghị 40 - Các hình thức hợp tác khác

9 khuyến nghị đặc biệt (SR) về chống tài trợ cho khủng bố gồm:

SR I. Phê chuẩn và thực hiện các văn kiện của Liên hợp quốc

SR II. Hình sự hoá hành vi tài trợ cho khủng bố và rửa tiền kèm theo

SR III. Phong toả và tịch thu tài sản của các đối tượng khủng bố.

SR IV. Báo cáo các giao dịch đáng ngờ liên quan đến chủ nghĩa khủng bố

SR V. Hợp tác quốc tế

SR VI. Chuyển tiền thay thế

SR VII. Chuyển tiền điện tử

SR VIII. Các tổ chức phi lợi nhuận

SR IX.Vận chuyển tiền mặt qua biên giới (ban hành ngày 22/10/2004)

PHỤ LỤC 2

Một số vụ án rửa tiền trên thế giới

- Một trong những vụ sớm nhất và nổi tiếng nhất liên quan đến việc ngân

hàng bị phạt do vi phạm các quy định và luật lệ liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Mỹ

là trường hợp Ngân hàng Boston. Mặc dù đã được yêu cầu phải tuân thủ chặt chẽ hơn

trong việc lưu giữ các chứng từ giao dịch vào năm 1980, song Ngân hàng Boston vẫn

tiếp tục giao dịch với các ngân hàng nước ngoài, bao gồm cả các ngân hàng đại lý của

nó mà không hề lưu giữ hồ sơ chứng từ đến tận năm 1984. Nghiêm trọng hơn, các chi

nhánh của Ngân hàng Boston đã tiếp tục thực hiện những giao dịch với những tội phạm

nổi tiếng qua nhiều năm. Những nhân vật này đã thực hiện những phi vụ kinh doanh

bất động sản, nhưng nhân viên của Ngân hàng Boston đã không báo cáo và lưu giữ

chứng từ của những giao dịch này mặc dù chúng không được loại trừ theo các quy định

và luật lệ về tài chính. Đến năm 1985, Ngân hàng Boston mới thực hiện đúng các yêu

cầu về phòng, chống rửa tiền theo các quy định, luật lệ nên cuối cùng đã bị kết án và bị

phạt 500.000 USD.

- Vụ rửa tiền Liberty Reserve

Theo Bộ Tư Pháp Mỹ thì đây là vụ rửa tiền lớn nhất của nước Mỹ từ trước đến nay.

Liberty Reserve thành lập năm 2006 tại Costa Rica với chức năng kinh doanh giao dịch

tiền ảo từ bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Phí giao dịch khoảng 1% và “phí bảo mật”

khoảng 75 cent để giấu kín số tài khoản của người dùng, khiến cho các giao dịch này

không thể bị truy ra. Dịch vụ của Liberty Reserve có khoảng hơn 1 triệu người sử dụng

trên toàn thế giới, trong đó có 200.000 người từ Mỹ, và xử lý hơn 12 triệu giao dịch

mỗi năm với giá trị hơn 1,4 tỷ USD. Kể từ năm 2006 đến nay, công ty này đã thực hiện

hơn 55 triệu giao dịch, chuyển tiền phi pháp hơn 6 tỷ USD vào các “quỹ đen”.

Liberty Reserve chủ yếu là một ngân hàng cho thị trường chợ đen. Để đăng ký sử dụng

dịch vụ của Liberty Reserve thì một cá nhân chỉ cần địa chỉ email, tên và ngày sinh hợp

lệ. Hoạt động chuyển tiền thông qua máy chủ đặt tại các quốc gia như Thụy Điển,

Thụy Sĩ và Costa Rica. Người này sẽ phải có một lượng tiền thật, ví dụ như đồng USD,

để đảm bảo với bên thứ ba nhận trách nhiệm giao dịch, sau đó công ty này sẽ chuyển

lượng USD này sang đơn vị tiền ảo Liberty Reserve hay còn gọi LR và chuyển đến tài

khoản người nhận. Từ đây, tội phạm có thể sử dụng lượng tiền ảo mang tên LR này để

mua bán trao đổi hàng hóa, thanh toán trên các trang cá độ, mua các phần mềm, thiết bị

công nghệ, ma túy hoặc các mặt hàng khác bằng cách chuyển tiền ảo qua lại giữa các

tài khoản của LR. Người dùng có thể sử dụng tài khoản này để trả cho người dùng

khác hoặc đổi về tiền thật chuyển vào tài khoản ngân hàng để sử dụng, và đó bị coi là

một giao dịch rửa tiền. Khách hàng có thể nạp tiền vào tài khoản Liberty Reserve thông

qua thanh toán từ một ngân hàng, phiếu tiền do bưu điện phát hành hay chuyển khoản.

Sau đó, số tiền này sẽ được quy đổi sang tiền LR bởi một dịch vụ trung chuyển tiền

điện tử. Liberty Reserve không chuyển tiền trực tiếp từ khách hàng mà sử dụng một

bên thứ 3 để thực hiện công việc này. Bên thứ 3 sẽ mua hoặc bán tiền LR. Do đó, ngoài

phí trả cho Liberty Reserve, khách hàng còn phải trả phí cho bên thứ 3, với nhiều

trường hợp mức phí có thể lên tới hơn 5% khoản tiền cần chuyển hay nói cách khác

dịch vụ này đắt đỏ hơn hoạt động thanh toán và chuyển tiền qua ngân hàng chính

thống. Tuy nhiên, do tính chất của quy trình chuyển tiền như trên, danh tính “mờ ám”

của khách hàng có thể giúp họ thực hiện các giao dịch phi pháp. Liberty Reserve có thể

trở thành trung tâm giao dịch tài chính cho các hoạt động phi pháp như tấn công mạng,

ăn cắp tài khoản tín dụng, buôn ma túy

Hình: Giao dịch thông qua đơn vị tiền ảo Liberty Reserve

- Vụ cựu bộ trưởng Thái Lan tham nhũng, giấu giếm tài sản và giả đánh

bạc để thực hiện hành vi rửa tiền đã được điều tra làm rõ như sau: Toà án tối cao Thái

Lan nghi ngờ cựu bộ trưởng Y tế Rakkiat Sukthana lạm dụng chức quyền để có được

233,88 triệu baht (tương đương 5,8 triệu USD) và ra lệnh tịch biên toàn bộ kể cả tài sản

của ông để dưới tên người khác. Lý do là cựu bộ trưởng Y tế không thể chứng minh

được lời khai số tiền đặt trong 13 tài khoản ngân hàng này có nguồn gốc từ đánh bạc,

trợ cấp chính trị và vay mượn. Trong số tài sản bị tịch biên của ông Rakkiat, 179,48

triệu baht, được để trong tài khoản ngân hàng của Jirayu Charasathien, cựu trợ lý thân

cận nhất của ông, và tài khoản của Pitsanukorn Udornsathit, em vợ cựu bộ trưởng. Ông

Rakkiat cho biết có được số tiền này từ đánh bạc ở Australia, nhưng không công bố vì

lo ngại chuyện đó sẽ phá hoại uy tín và địa vị bộ trưởng. Theo thông tin từ toà án,

Jirayu, đang chịu án 6 năm tù vì tội tham nhũng, và Pitsanukorn không thể khẳng định

số tiền đó có từ đánh bạc. Ngay cả nếu Rakkiat đã thắng, thì lẽ ra ông đã phải cho vào

chính tài khoản của mình. Bên cạnh đó, nếu đó đúng là tiền thắng bạc, thì Rakkia phải

giữ chứng từ sổ sách của sòng bạc để chứng minh. Tuy nhiên, ông không có bằng

chứng này. Biên bản của toà án có đoạn: "Nếu có bằng chứng tiền được chuyển từ sòng

bạc cho ông Rakkiat, thì lập luận tiền có được do đánh bạc là có thể đáng tin cậy. Tuy

nhiên, đưa tiền vào tài khoản của Jirayu và Pitsanukorn có nghĩa là rửa tiền". Cơ quan

tư pháp còn phát hiện 15,4 triệu baht trong tài khoản ở Ngân hàng Krung Thai của bà

Surakanya, vợ ông Rakkia, cũng khó có khả năng xuất phát từ tiền đánh bạc. Bà

Surakanya cho biết luôn cùng chồng tới các sòng bạc ở nước ngoài. Mỗi lần thắng

cuộc, ông lại đưa tiền cho bà rồi bà đưa tiền vào tài khoản tiết kiệm của mình. 15,4

triệu baht có được từ 4 lần đến sòng bạc ở Australia, Malaysia và Macao. Tuy nhiên,

toà án phát hiện ông Rakkiat đã thua nặng hai lần, gồm 24,3 triệu baht ở Malaysia và

17 triệu baht ở Macao. Vì vậy, không thể có đến 15,4 triệu baht cho bà Surakanya. Ông

Rakkiat cho biết cựu lãnh đạo Seritham Pinit Charusombat đã giúp ông gây quỹ 21

triệu baht. Đổi lại, cựu bộ trưởng gia nhập đảng Hành động Xã hội vì Udon Thani. Toà

án phát hiện số tiền đã nhanh chóng được chuyển cho Jirayu, khi ông Rakkiat còn đang

đi nước ngoài và nó chưa bao giờ được sử dụng vào mục đích chính trị.