Giải quyết những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân nhằm tăng cường liên minh công - nông - trí thức trong điều kiện hiện nay
lượt xem 2
download
Bài viết "Giải quyết những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân nhằm tăng cường liên minh công - nông - trí thức trong điều kiện hiện nay" góp phần làm rõ những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân và đề xuất một số giải pháp giải quyết những vấn đề nảy sinh nhằm tăng cường liên minh công - nông - trí thức trong điều kiện hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giải quyết những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân nhằm tăng cường liên minh công - nông - trí thức trong điều kiện hiện nay
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ NẢY SINH TRONG GIAI CẤP NÔNG DÂN NHẰM TĂNG CƯỜNG LIÊN MINH CÔNG - NÔNG - TRÍ THỨC TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Nguyễn Thị Thúy Hà* Đoàn Mạnh Hùng** Tóm tắt: Giai cấp nông dân là lực lượng đông nhất trong nhân dân, được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là “đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân” và là “quân chủ lực của cách mạng”. Giải quyết những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân nhằm tăng cường liên minh công - nông - trí thức là vấn đề luôn là vấn đề đòi hỏi cần được nhìn nhận, đánh giá một cách khoa học, nghiêm túc. Có đánh giá đúng thức trạng, những vấn đề nảy sinh mới có thể đề xuất những giải pháp thiết thực, khả thi nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân để tăng cường khối liên minh công, nông, trí thức hiện nay. Bài viết góp phần làm rõ những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân và đề xuất một số giải pháp giải quyết những vấn đề nảy sinh nhằm tăng cường liên minh công - nông - trí thức trong điều kiện hiện nay. Từ khoá: Giải quyết, vấn đề, nảy sinh, giai cấp nông dân, tăng cường, liên minh, công - nông - trí, hiện nay. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Giai cấp nông dân Việt Nam có vai trò to lớn trong suốt chiều dài phát triển của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “… nông dân ta chí khí rất anh dũng, kinh nghiệm rất nhiều, lực lượng rất to. Điều đó đã tỏ rõ trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Nếu lãnh đạo và tổ chức tốt, thì khó khăn gì họ cũng khắc phục được, việc gì to lớn mấy họ cũng làm được”1; giai cấp nông dân đã trở thành “đội quân chủ lực của cách mạng”2, “một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân”3. Bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách để người nông dân lập nên những kỳ tích ngay trên mảnh ruộng và luống cày của họ. Có thể nói rằng, chính nông nghiệp, nông dân và nông thôn là khâu đột phá, mở màn cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, những nảy sinh trong giai cấp nông dân đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi cần phải được nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa liên minh công - nông - trí thức trong điều kiện mới hiện nay. 2. NỘI DUNG 2.1. Những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay Qua gần 35 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và có những quyết sách nhằm phát huy tối đa vị trí, vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong tiến trình * ThS. Trường Đại học Mỏ - Địa chất. ** ThS. Học viện Chính trị khu vực I. 1 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.493. 2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.288. 3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.248. 290
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Chặng đường phát triển từ “kinh tế hộ” đến phong trào “liên kết bốn nhà”, chính sách tam nông, chương trình xây dựng nông thôn mới hiện nay là minh chứng rõ nét nhất cho quá trình đổi mới tư duy, đổi mới cơ chế chính sách của Đảng đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Mục tiêu của các chính sách đó là nhằm tăng cường vai trò của giai cấp nông dân, khẳng định vị trí của giai cấp nông dân trong khối liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở Việt Nam nông dân vẫn là bộ phận dân cư đông đảo nhất ở nước ta (chiếm gần 70% dân số và trên 50% lực lượng lao động xã hội)1; nông dân Việt Nam có truyền thống tốt đẹp, luôn trung thành với Đảng, có đóng gió to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, giai cấp nông dân cùng nhân dân cả nước tạo nên những thành tựu to lớn trên mặt trận sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân; năm 2012 tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn 9,6% (theo tiêu chí mới), thu nhập bình quân đầu người tăng gần 2 lần so với năm 2008. Điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe ngày càng được Nhà nước quan tâm hơn. Trình độ dân trí được nâng lên và ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; dân chủ được mở rộng, quyền làm chủ của nông dân được phát huy. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân và Hội Nông dân ngày càng được nâng cao, khẳng định vai trò chủ thể trong quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Giai đoạn 2008 - 2017, tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp đạt 2,66%/ năm. Xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2017 đạt 36,5 tỷ USD, tăng 2,2 lần so với năm 2008. Cơ cấu ngành nghề và cơ cấu lao động nông thôn thay đổi tích cực. Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, với trên 3.000 xã và 43 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng từ 9,15 triệu đồng năm 2008 lên 32 triệu đồng năm 2017. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5%/năm. Thành tựu đạt được trong 35 năm đổi mới như đã trình bày ở trên là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, nếu như trong đấu tranh giải phóng dân tộc, nông dân là bộ phận chịu nhiều hy sinh nhất thì trong thời bình họ cũng là những người chịu nhiều thiệt thòi nhất so với các giai, tầng khác trong xã hội. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật đời sống và vị thế của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một là, nông dân còn nghèo và gặp nhiều khó khăn. Thu nhập của nông dân thấp, mới chỉ bằng 1/3 của cả nước; điều kiện sống lạc hậu; tỷ lệ đói nghèo cao (hộ nghèo ở nông thôn chiếm 87% hộ nghèo của cả nước), nhất là vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang. Sản xuất bấp bênh, rủi ro cao, nhất là trong điều kiện dịch bệnh phát triển và thiên tai liên tiếp xảy ra do biến đổi khí hậu. Mặt khác, người nông dân không nắm bắt được thị trường mà thường xuyên chạy theo thị trường nên luôn bị thua thiệt. Tỷ lệ thất nghiệp cao; một bộ phận không nhỏ nông dân mà phần lớn là lực lượng lao động trẻ đã phải rời bỏ quê hương kiếm sống ở các đô thị dưới dạng chợ lao động tự do. Hiện nay, nước ta có 1 Theo: Báo cáo của Ban Chấp hành Hội nông dân (khóa V) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Việt Nam, ngày 01 đến 03 tháng 7 năm 2013. 291
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất hơn 9,2 triệu hộ nông dân với hơn 30 triệu lao động trong độ tuổi, nhưng mới có 17% trong số đó được đào tạo, chủ yếu thông qua các lớp tập huấn khuyến nông sơ sài. Trong số 16,5 triệu thanh niên nông thôn đang cần có việc làm ổn định thì chỉ có 12% tốt nghiệp phổ thông trung học; 3,11% có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp trở lên (thấp hơn 4 lần so với thanh niên đô thị). Với trình độ như vậy, họ khó có thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp có ứng dụng công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm hàng hóa nông sản trong khu vực và cũng khó có thể tìm được việc làm ở các doanh nghiệp đòi hỏi lao động phải qua đào tạo và đạt trình độ tay nghề cao. Nguồn lực lao động nông thôn Việt Nam nhìn chung có trình độ thấp, mang nặng tính chất của người sản xuất nhỏ, phân tán, năng lực ứng dụng khoa học - công nghệ và các tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn rất hạn chế, thụ động, tư duy cạnh tranh kém, tính tự do và manh mún cao. Sức ép về việc làm cho lao động nông thôn ngày một tăng, do dân số tăng, hằng năm nước ta có thêm ít nhất 1,4 - 1,6 triệu người đến tuổi lao động được bổ sung vào lực lượng lao động, trong đó, 0,9 triệu lao động tăng thêm ở khu vực nông nghiệp và nông thôn. Trong khi đó, quỹ đất nông nghiệp tiếp tục suy giảm do công nghiệp hóa và đô thị hóa. Điều này tạo ra sức ép lớn về việc làm và dòng người di cư từ nông thôn vào thành thị1. Hai là, vị thế của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn bị động. Bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp như cần cù lao động, thuần khiết tronng nếp sống tinh thần, đùm bọc sẻ chia, chấp nhận gian khó, hi sinh…nông dân Việt Nam vẫn còn bộc lộ những hạn chế mang tính cố hữu như: bảo thủ, tư hữu, thiếu tinh thần hợp tác; tự thỏa mãn với những gì đã có. Nhiều vùng nông thôn trình độ dân trí thấp, sản xuất nhỏ lẻ bằng kinh nghiệm truyền đời. Hầu hết nông dân không được đào tạo nghề để tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp hiện đại cũng như các nghề khác để chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang phi nông nghiệp (12% qua đào tạo). Chính vì vậy, khi bị mất đất hoặc những ảnh hưởng lớn do thiên tai, dịch bệnh gây ra, họ trở nên bị động, rơi vào tình trạng thất nghiệp hữu tình hoặc phải bán sức lao động với giá rẻ tại các đô thị, khó có cơ hội tạo việc làm mới có thu nhập cao hơn. Nông dân khó có thể bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, hầu như các tổ chức xã hội với vai trò là tổ chức giám sát, phản biện xã hội và đại diện cộng đồng dân cư về lợi ích hoạt động yếu, chưa hiệu quả. Ba là, những vấn đề bức xúc nổi cộm hàng đầu của nông dân hiện nay. Trên lĩnh vực kinh tế, một số lợi ích kinh tế của nông dân bị vi phạm nghiêm trọng. Quyền làm chủ của nông dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm nghiêm trọng. Đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, miền còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề bức xúc. Những bất cập trong chính sách quản lý, thu hồi đất đai khiến tình trạng khiếu kiện gia tăng (70% số vụ khiếu kiện liên quan đến đất đai). Thực tế do thu hồi đất, đời sống của hàng trăm nghìn hộ gia đình với 2,5 triệu người và 950 nghìn lao động phải gánh chịu ảnh hưởng tiêu cực. Tình trạng thiếu việc làm diễn ra hết sức gay gắt ở nông thôn. Trong5 năm 2001 - 2005, gần nửa triệu lao động nông thôn di cư tham gia thị trường “dịch vụ phi chính thức” bán sức lao động, trong đó số người đến khu vực thành thị chiếm 57%. Số lao động này, ngoài việc gia hàng loạt những hậu họa khác như ma túy, cờ bạc, cướp bóc, trấn lột, mại dâm… Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho 1 Xem: http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/xay-dung-giai-cap-nong-dan-theo-nghi-quyet-26-nqtw-19617.html, truy cập ngày 26/8/2020. 292
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững rằng, kỷ nguyên công nghệ bùng nổ làm gia tăng nguy cơ mất việc làm. Tổ chức này đã có cảnh báo về việc Việt Nam sẽ mất 5 triệu việc làm vào năm 2020, vì chất lượng nhân lực lao động chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10); đứng thứ 11/12 nước ở châu Á tham gia xếp hạng và chỉ số cạnh tranh nhân lực cũng chỉ đạt 4,3/10 điểm xếp thứ 56/133 nước; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ trong năm 2015 chỉ đạt 20,3%. Nhân lực Việt Nam còn thiếu kỹ năng mềm, như: ngoại ngữ, công nghệ thông tin, kỹ năng làm việc nhóm, tác phong giao tiếp công nghiệp và trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp. Cách mạng 4.0 tạo ra thách thức cho doanh nghiệp trong nước, đòi hỏi phải chuyển từ lao động giản đơn sang lao động trong những ngành nghề công nghệ, sử dụng nhiều chất xám mà Việt Nam có thế mạnh, như: dịch vụ, nông nghiệp công nghệ cao, người lao động phải tự học để thay đổi, đáp ứng với công nghệ thay đổi nhanh1. Công bằng xã hội chưa được giải quyết thỏa đáng. Mức hưởng thụ các phúc lợi xã hội của dân cư nông thôn còn quá thấp, thua thiệt nhiều so với khu vực đô thị (với 75% dân số nông thôn nhưng chỉ hưởng thụ 25% mức đầu tư về giáo dục và y tế). Mức sống của cư dân nông thôn chỉ bằng 47% so với đô thị, chênh lệch giữa nhóm có thu nhập thấp và thu nhập cao là 8,4 lần; người dân nông thôn phải đóng góp để tự xây dựng cơ sở hạ tầng làng xóm, trong khi đó ở đô thị hoàn toàn do ngân sách nhà nước trang trải. Đất đai và lao động và hai vấn đề “nóng” hiện chưa có lời giải thỏa đáng ở nước ta. Thực tế mất đất của nông dân ngày càng phổ biến cho đến nay vẫn chưa ngăn chặn được, thậm chí còn với các thủ đoạn tước đoạt ngày càng tinh vi, thô bạo hơn2, đã nói lên tình trạng đất đai canh tác hiện đang có những thay đổi, xóa trộn làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống, thu nhập, công ăn việc làm của nông dân.Hiện tương, một bộ phận nông dân thiếu đất sản xuất, nhưng việc một số địa phương cho các tổ chức nước ngoài thuê đất, thuê rừng, hoặc tập trung trong một số nông, lâm trường, khiến nông dân phải đi thuê lại đất với giá cao và sự yếu kém trong quản lý của cơ quan chức năng khiến tình trạng nông dân mất ruộng, nông dân chán ruộng, nông dân chán thôn quê đã và đang diễn ra ngày một phổ biến và đáng báo động, đây cũng tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định xã hội. Môi trường bị ô nhiễm nặng nề, cảnh quan của nông thôn bị tàn phá do ảnh hưởng của tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hóa một cách thiếu cân nhắc ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe, đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó, văn hóa làng xã cũng đang có những sự giao thoa, xáo trộn làm cho những nét đẹp của văn hóa truyền thống ít nhiều bị biến dạng hoặc phá vỡ. Về thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nông dân ở nhiều nơi còn bị vi phạm, cá biệt có nơi đã vi phạm nghiêm trọng, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân chưa tốt. Con em nông dân còn chịu nhiều thiệt thòi, khó khăn trong việc tiếp cận với các phúc lợi xã hội. Như vậy, có thể thấy nông dân là nhóm xã hội, là lực lượng đông đảo và là đồng minh chính trị của giai cấp công nhân, có vai trò to lớn, quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển nhưng còn chưa được nhận thức và đánh giá đầy đủ. Việc nhận thức và đánh giá đầy đủ những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân là điều hết sức cần thiết để hướng tới mục tiêu cải thiện nhanh đời sống vật 1 Xem: http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/xay-dung-giai-cap-nong-dan-theo-nghi-quyet-26-nqtw-19617.html, truy cập ngày 26/8/2020. 2 Dẫn theo: Báo cáo tổng hợp Đề tài KX.04.10/06-10 vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại (Chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà nước, Mã số: KX.04/06-10) , tháng 5/2010, tr.153. 293
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất chất, tinh thần của nông dân, đồng thời tạo điều kiện để nông dân có đủ năng lực tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách chủ động. Góp phần tăng cường hơn nữa liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong những năm tới. 2.2. Một số khuyến nghị chính sách nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong giai cấp nông dân nhằm tăng cường khối liên minh công, nông, trí thức hiện nay Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định rõ phương hướng: “Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp,… cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giám nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp”1. Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Hội nông dân Việt Nam, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa nhấn mạnh: “Đảng và Nhà nước ta đã xác định: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh - quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã định hướng "xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu". Vấn đề đặt ra là, trước ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của khoa học - công nghệ thì phát triển nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại có những thuận lợi và khó khăn gì? Người nông dân cần có những thay đổi gì trong tư duy và hành động để có thể làm chủ được công nghệ, làm chủ được nền nông nghiệp hiện đại? Bối cảnh mới đặt ra những yêu cầu gì cho việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn của nước ta trong thời gian tới để có thể đủ sức cạnh tranh toàn cầu và phát triển bền vững? Tình hình đó đòi hỏi phong trào nông dân và tổ chức Hội phải không ngừng đổi mới, nỗ lực phấn đấu vươn lên, nâng cao chất lượng tổ chức, phương thức và hiệu quả hoạt động, phát huy mạnh mẽ vai trò, vị thế của giai cấp nông dân, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới”2. Để giải quyết những bức xúc nảy sinh trong giai cấp nông dân nhằm tăng cường khối liên minh công, nông, trí thức trong điều kiện hiện nay, theo chúng tôi cần tập trung vào những giải pháp chủ yếu sau đây: Thứ nhất là giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông dân và ruộng đất, làm cho nông dân thực sự quan tâm, gắn bó và được hưởng lợi ích thỏa đáng với tư cách là chủ sử dụng ruộng đất được giao. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong việc phát huy sức mạnh của nông dân trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Mối quan hệ này giúp phân biệt nông dân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Bài học kinh nghiệm trong các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta là thắng lợi hay thất bại đều bắt nguồn từ giải quyết đúng hay sai mối 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.161. 2 Xem: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-nguyen-phu-trong-tai-dai-hoi- lan-thu-vii-hoi-nong-dan-viet-nam-343755/, truy cập ngày 26/8/2020. 294
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững quan hệ này. Trên thực tế, quan hệ về đất đai luôn là nơi phát sinh những vấn đề phức tạp, khó giải quyết nhất. Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện luật và chính sách đất đai theo hướng thị trường hóa và vốn hóa đất nông nghiệp, đảm bảo sự quản lý, điều tiết có hiệu lực của nhà nước và tôn trọng trên thực tế vị thế của người nông dân với tư cách là chủ sở hữu về quyền sử dụng đất. Tạo điều kiện cho nông dân có quyền sử dụng đất lâu dài để canh tác, lập trang trại, chuyển đổi mô hình sản xuất nhằm xóa đói, giảm nghèo, tăng thu nhập cải thiên cuộc sống của người nông dân, làm cho người dân thực sự làm chủ ruộng đất của mình. Khắc phục tình trạng nông dân không có đất và mất đất. Thứ hai là giải quyết việc làm cho nông dân là một vấn đề cấp bách cho từng ngành, từng địa phương và từng gia đình. Tạo việc làm cho người nông dân một mặt nhằm phát triển tiền năng lao động, nguồn lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác tăng thêm thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao cuộc sống của nhân dân. Đồng thời, quan tâm tới việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trước hết là việc xây dựng trường lớp nhằm phát triển giáo dục, đào tạo, xóa nạn mù chữ cho con em nông dân, giúp họ được đào tạo nâng cao kiến thức, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ; Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu và khám chữa bệnh; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế, dân số, giảm tỉ lệ sinh ở nông thôn. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, xây dựng các hương ước, phát huy truyền thống tốt đẹp, tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm, bài trừ các hủ tục, thực hiện nếp sống mới ở nông thôn; Xây dựng hệ thống an sinh xã hội ở nông thôn. Tiếp tục thực hiện các chính sách bảo hiểm y tế đối với người nghèo, chăm sóc trẻ em dưới 6 tuổi, chế độ cứu trợ đối với hộ thiếu đói, vùng khó khăn, cấp học bổng cho học sinh nghèo, cận nghèo. Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp, bảo đảm mức sống tối thiểu cho cư dân nông thôn. Rà soát, giảm thiểu các khoản đóng góp có tính chất bắt buộc đối với nông dân. Tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện và thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ cơ sở; Đấu tranh, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu kiện của nhân dân, không để gây thành những điểm nóng ở nông thôn. Tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện bình đẳng giới, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển năng lực và vị thế của phụ nữ ở nông thôn. Thứ ba là phát huy hơn nữa vai trò và chức năng giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội và nghề nghiệp có liên quan trực tiếp tới đời sống chính trị, kinh tế - xã hội của nông dân (như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam…). Vai trò chủ thể của nông dân trong đổi mới và phát triển cần được thể hiện thông qua tiếng nói của họ trong đời sống chính trị của đất nước, không chỉ những gì liên quan trực tiếp mà còn cả liên quan gián tiếp tới nông nghiệp, nông thôn, nông dân.Tiếng nói của nông dân, giai cấp nông dân hơn bao giờ hết cần được tăng cường nhiều hơn trong đời sống chính trị. Nhiều kết quả nghiên cứu và khảo sát xã hội học về nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam đều có chung nhận định rằng tiếng nói của nông dân, nhất là nông dân nghèo còn ít được lắng nghe trong thiết kế, hoạch định, ít được quan tâm trong theo dõi, giám sát thực hiện chiến lược, chính sách phát triển. Vì vậy, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp này sẽ là cầu nối giúp người nông dân thực hiện tốt vai trò của mình trong tiến trình phát triển dân tộc. Thứ tư là cần coi trọng hơn nữa tầm quan trọng của vấn đề nông dân và đặt vấn đề nông dân ở vị trí hàng đầu trong việc giải quyết vấn đề “tam nông” ở Việt Nam hiện nay. Coi trọng xây dựng và phát triển toàn diện, bền vững nông thôn mới. 295
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất Quá trình rút ngắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ thành công khi vấn đề nông dân được giải quyết tốt. Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một quốc gia nông nghiệp lạc hậu tức là phải bắt đầu từ nông dân, nông thôn và nông nghiệp; giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn và nông nghiệp. Cần phải nhìn nhận, xem xét vấn đề nông dân ở tất cả các khía cạnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,… với tư các họ là chủ thể phát triển và được hưởng lợi ích từ các thành quả của sự phát triển. Điều này càng trở nên bức xúc vì hiện nay người nông dân đang là đối tượn chịu hy sinh nhiều nhất và được hưởng lợi ít nhất từ những thành quả của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước 35 năm qua. Để khắc phục được điều này, nếu cứ để nông dân tự thân giải quyết thì rất chậm và nhiều khi không mang lại hiệu quả tích cực, cần phải có sự tác động của các ngành, trước hết là công nghiệp và dịch vụ trong chiến lược, quy hoạch phát triển nông thôn mới toàn diện cà đồng bộ. Đẩy nhanh việc quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch tổng thể về nông thôn mới theo hướng hiện đại nhưng vẫn giữ gìn và bảo vệ được bản sắc văn hoá của dân tộc; tạo cơ sở kinh tế, tiềm lực kinh tế và con người kinh tế cho nông thôn mới gắn với việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống của làng xã với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thế giới trong quá trình phát triển và hội nhập. Chăm lo xây dựng và phát triển, phát huy vốn xã hội của nông dân và nông thôn, coi đây là nội dung cơ bản của việc xây dựng nông thôn mới. Thứ năm là tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là Hội nông dân. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của đảng bộ, chi bộ cơ sở để thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện trên địa bàn nông thôn; củng cố và nâng cao năng lực bộ máy quản lý nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương, nhất là cấp huyện, xã và các lĩnh vực khác ở nông thôn. Tiếp tục cải cách hành chính, tăng cường đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức xã. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn; tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho Hội Nông dân Việt Nam trong việc trực tiếp thực hiện một số chương trình, dự án phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống của nông dân, hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Chăm lo xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ sáu là, cần quan tâm chú ý đảm bảo nhiều hơn nữa đến những lợi ích của nông dân. Lợi ích này phải kể tới cả lợi ích về mặt kinh tế - xã hội và cả lợi ích chính trị. Điều này liên quan trực tiếp đến việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nông dân. Đảng cần phải nhận thức đầy đủ giữa mối quan hệ nông dân với tư các là giai cấp và nông dân với tư cách là những con người cụ thể - người nông dân với nhu cầu, lợi ích cá nhân cụ thể, đây cũng chính là động lực trực tiếp trong hoạch định chính sách có liên quan tới họ. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của Nhà nước, của giai cấp công nhân đối với nông dân cũng cần được quan tâm chú ý tăng cường nhiều hơn nữa; sự hỗ trợ này thể hiện ở mối quan hệ liên kết giữa các đối tác mà hiện đang là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước (liên kết “4 nhà”: nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp). Liên kết “4 nhà” này hiện còn rất lỏng lẻo, yếu kém, thậm chí gây thiệt hại cho nông dân đến mức các thiệt hại này được khái quát thành quy luật “được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa”. Những rủi ro cùng những thách thức lớn ngày một có xu hướng gia tăng đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân hiện tại cũng như trong những năm tiếp theo càng đòi hỏi tăng cường sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức. 296
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững 3. KẾT LUẬN Qua 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những chính sách nhằm phát huy vị trí, vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Ở mỗi thời kỳ cách mạng cụ thể, giai cấp nông dân Việt Nam luôn tỏ rõ vai trò quan trọng là “đội quân chủ lực của cách mạng”, là “lực lượng to lớn của dân tộc”, “đồng minh chủ yếu và tin cậy” của giai cấp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng xã hội chủ nghĩa. Để phát huy nữa vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong khối liên minh công - nông - trí thức, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong những năm tiếp theo, Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội cần sớm có những điều chỉnh ở tầm vĩ mô, những quyết sách cần thiết hướng vào giải những vấn đề còn bức xúc trong nhân dân nói chung, đặc biệt là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến người nông dân, giai cấp nông dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng hợp Đề tài KX.04.10/06-10 vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại (Chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà nước, Mã số: KX.04/06-10), tháng 5/2010. 2. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội nông dân Việt Nam (khóa V) tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, ngày 01 đến 03 tháng 7 năm 2013. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016. 4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.. 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7. http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/xay-dung-giai-cap-nong-dan-theo-nghi-quyet-26-nqtw- 19617.html, truy cập ngày 26/8/2020. 8. http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/xay-dung-giai-cap-nong-dan-theo-nghi-quyet-26-nqtw- 19617.html, truy cập ngày 26/8/2020. 9. https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-nguyen- phu-trong-tai-dai-hoi-lan-thu-vii-hoi-nong-dan-viet-nam-343755/, truy cập ngày 26/8/2020. 297
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đường lối xây dựng phát triển nền văn hóa, giải quyết các vấn đề biến đổi xã hội
5 p | 403 | 129
-
Giải quyết hành vi của học sinh khuyết tật trong lớp học hòa nhập
28 p | 156 | 14
-
MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ DÂN SINH Ở VIỆT NAM TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY
5 p | 173 | 12
-
Những vấn đề kinh tế và xã hội cấp bách ở Việt Nam - Những biện pháp giải quyết hiện nay: Phần 2
51 p | 64 | 9
-
Những vấn đề pháp lý đặt ra trong việc giải quyết xung đột giữa bảo hộ quyền tác giả với yêu cầu chuyển đổi số ngành thư viện ở Việt Nam
9 p | 17 | 7
-
Về giải quyết vấn đề xã hội, bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay
6 p | 47 | 7
-
Những vấn đề kinh tế và xã hội cấp bách ở Việt Nam - Những biện pháp giải quyết hiện nay: Phần 1
172 p | 103 | 7
-
Hợp tác Việt Nam và Thái Lan trong việc giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống hiện nay
10 p | 53 | 6
-
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Bình Dương thời kỳ 1997-2006
11 p | 93 | 5
-
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp dụng
6 p | 59 | 4
-
Một số vấn đề xã hội cơ bản trong quá trình phát triển ở Việt Nam hiện nay
7 p | 47 | 4
-
Từ Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đến “chủ nghĩa dân tộc” Hồ Chí Minh
11 p | 52 | 4
-
Bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Bài 7
22 p | 47 | 4
-
Xây dựng khung năng lực giải quyết vấn đề trong giáo dục khoa học robot của học sinh trung học cơ sở
13 p | 66 | 4
-
Phát triển năng lực giải quyết vấn đề trong dạy học môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, phần Kinh tế chính trị cho sinh viên
4 p | 124 | 4
-
Những vấn đề lý luận trong đào tạo công tác xã hội chuyên nghiệp của Liên Bang Nga
5 p | 39 | 3
-
Nhúng văn bản tiếng Việt trong dữ liệu audio dựa vào đặc điểm của chữ viết tiếng Việt
6 p | 66 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn