Giải quyết tranh chấp đầu tư - những vấn đề đặt ra đối với Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư
lượt xem 4
download
Trong phạm vi bài viết này, tác giả giới thiệu những nét chính về cơ chế giải quyết tranh chấp theo CPTPP, EVIPA và Luật PPP; phân tích chỉ ra một số khác biệt cũng như các hạn chế, bất cập trong cơ chế giải quyết tranh chấp giữa CPTPP, EVIPA và Luật PPP; và đưa ra các kiến nghị.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giải quyết tranh chấp đầu tư - những vấn đề đặt ra đối với Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư
- THỰC TIỄN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƯ - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬT ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ Lê Đức Ngọc* *ThS. Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khóa: CPTPP, EVIPA, PPP, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020 (Luật PPP) có giải quyết tranh chấp về đầu tư. hiệu lực từ ngày 01/01/2021 được kỳ vọng sẽ tạo dựng một nền tảng pháp lý cởi mở, minh bạch, công bằng nhằm thu hút các nhà đầu tư thực hiện Lịch sử bài viết: các dự án về cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Tuy nhiên, liên quan đến các quy Nhận bài : 23/3/2021 định về giải quyết tranh chấp về đầu tư, Luật PPP vẫn còn tồn tại những sự Biên tập : 14/4/2021 khác biệt so với hai điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp Duyệt bài : 16/4/2021 định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVIPA). Trong phạm vi bài viết này, tác giả giới thiệu những nét chính về cơ chế giải quyết tranh chấp theo CPTPP, EVIPA và Luật PPP; phân tích chỉ ra một số khác biệt cũng như các hạn chế, bất cập trong cơ chế giải quyết tranh chấp giữa CPTPP, EVIPA và Luật PPP; và đưa ra các kiến nghị. Article Infomation: Abstract: Keywords: CPTPP; EVIPA; PPP; The Law on Public-Private-Partnership (Law on PPP), coming into investment; dispute settlement effectiveness from January 1, 2021, is expected to create an open, transparent and fair legal foundation to attract investors to do projects Article History: related to infrastructure in Vietnam. However, regarding the provisions Received : 23 Mar. 2021 on the investment dispute settlement, the Law still exists some differences compared to the two international treaties to which Vietnam is a member, Edited : 14 Apr. 2021 the Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Approved : 16 Apr. 2021 Partnership (CPTPP) and the Investment Protection Agreement between Vietnam and the European Union (EVIPA). In the scope of this article, the author provides introduction of the main features of the dispute settlement mechanism under CPTPP, EVIPA and the Law on PPP, an analysis of some differences as well as shortcomings in the dispute settlement mechanism between CPTPP, EVIPA and the Law on PPP; and also recommendations. Trong năm 2019 và năm 2020, Việt Nam đời được kỳ vọng sẽ trở thành một khung đã tham gia và thiết lập ba nền tảng pháp lý pháp lý mang hướng “tiêu chuẩn” để minh quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu thu hút định rõ ràng mục tiêu thu hút đầu tư mà Việt tốt hơn dòng vốn đầu tư trực tiếp từ nước Nam đã đề ra. Không khó để nhận ra, trong ngoài (FDI) vào Việt Nam: Hiệp định Đối các dự án đầu tư theo phương thức đối tác tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình công tư (dự án PPP), mục tiêu của nhà đầu Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự tư không nhất thiết phải giống với mục đích do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam của Nhà nước, và do vậy, khả năng xảy ra và Liên minh châu Âu (EVFTA/EVIPA) và xung đột luôn sẵn sàng thường trực. Trong Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công các hợp đồng đầu tư, một khía cạnh thường tư (Luật PPP). Trong đó, việc Luật PPP ra bị các bên bỏ qua nhưng lại đóng vai trò 28 Số 08(432) - T4/2021
- THỰC TIỄN PHÁP LUẬT quan trọng là nội dung giải quyết tranh chấp 1.1. CPTPP và giải quyết tranh chấp khi có những bất đồng xảy ra. Đối với các đầu tư trong CPTPP nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trước CPTPP là một FTA thế hệ mới, gồm 11 khi có các Hiệp định Thương mại tự do nước thành viên là: Australia, Brunei, Canada, (FTA) thế hệ mới, hầu như chỉ có Tòa án Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mê-hi-cô, New Việt Nam là “địa chỉ” duy nhất để giải quyết Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Hiệp bất kỳ tranh chấp nào trong quá trình thực định đã được ký kết ngày 08/3/2018, và hiện hoạt động đầu tư của họ; chỉ có một chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 số ít các nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện đối với nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ ra các cơ quan tài phán quốc tế. Điều này ít tục phê chuẩn Hiệp định gồm Mê-hi-cô, nhiều đã gây ra những quan ngại nhất định Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Canada cho các nhà đầu tư nước ngoài trên thực tế. và Australia. Đối với Việt Nam, Hiệp định Hầu hết các dự án cơ sở hạ tầng đều là các có hiệu lực từ ngày 14/01/20191. Tính đến dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, chi phí vận ngày 14/01/2021, Việt Nam đã trải qua 02 hành cao và thời gian dài tính từ thời điểm năm thực thi CPTPP. bắt đầu triển khai đến lúc hoàn thiện dự án. CPTPP đưa ra các điều khoản và điều Các nhà đầu tư đến từ các nước thành viên kiện để đảm bảo thủ tục đầu tư sẽ dễ dàng CPTPP và các nước thành viên Liên minh và minh bạch hơn cho các nhà đầu tư nước châu Âu (EU) thường có nguồn lực và kinh ngoài. Chương 9 Hiệp định quy định cơ chế nghiệm đáng kể và có thể mang lại lợi ích bảo vệ đầu tư nước ngoài vào các quốc gia cho Việt Nam về mặt này. Tuy nhiên, tâm CPTPP, đề cập cụ thể về giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các lý chung của các nhà đầu tư nước ngoài khi quốc gia tiếp nhận đầu tư. Trong trường hợp mang vốn và sức của mình sang một “phương các tài sản được đầu tư bị quốc hữu hóa, trời xa lạ” đều là muốn các khoản đầu tư của CPTPP yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bồi mình được bảo vệ một cách hợp lý nhất có thường tương đương với giá trị thị trường thể. Do vậy, các điều khoản giải quyết tranh ngay trước khi việc quốc hữu hóa diễn ra. chấp sẽ đóng vai trò như là một phương tiện Liên quan đến vấn đề giải quyết tranh mà các nhà đầu tư nước ngoài có thể sử dụng chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nước tiếp để đảm bảo an toàn và bảo vệ thận trọng cho nhận đầu tư, CPTPP khuyến khích các bên nỗ hàng triệu đô-la đầu tư của họ. lực giải quyết thông qua các biện pháp như 1. Giải quyết tranh chấp đầu tư trong tham vấn, đàm phán hoặc thông qua bên thứ CPTPP, EVIPA và Luật PPP ba. Trong trường hợp tham vấn không thành Hiện nay, trên thế giới phổ biến ba (03) công, nhà đầu tư có thể đơn phương gửi yêu cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế cầu ra trọng tài. Nhà đầu tư nước ngoài, với là: Trọng tài, Tòa án hai cấp xét xử, Tòa án tư cách là bên khiếu nại, có thể chọn Tòa án trong nước. Cho đến nay, theo các cam kết để giải quyết tranh chấp. Khi thành lập ban quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp hội thẩm, nhà đầu tư cũng có thể chọn một luật về đầu tư của Việt Nam, Việt Nam đã trong ba hội thẩm viên. Hơn nữa, họ có thể tham gia cả ba cơ chế giải quyết tranh chấp thương lượng để áp dụng những quy tắc có này, cụ thể như sau: liên quan, và đưa ra hướng dẫn để đảm bảo 1 Bộ Công Thương, Cổng thông tin về Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), http://cptpp.moit.gov.vn/?page=overview&category_id=9040e56c-c3f5-4592-9fe7-baa47f75a7c0, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2021. Số 08(432) - T4/2021 29
- THỰC TIỄN PHÁP LUẬT các trọng tài viên độc lập và vô tư trong vụ phê chuẩn các FTA của EU, EU đã chính thức việc của họ. Do đó, CPTPP tạo ra cho các đề nghị Việt Nam tách riêng nội dung bảo hộ nhà đầu tư nước ngoài nhiều thời gian và đầu tư, và cơ chế giải quyết tranh chấp giữa kênh hơn để bảo vệ khoản đầu tư của họ ở nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước ra khỏi nước tiếp nhận đầu tư. EVFTA thành một hiệp định riêng2. Hiện tại, Tuy nhiên, có một số ngoại lệ nhất định EVIPA vẫn chưa có hiệu lực. Để có hiệu lực, áp dụng cho Việt Nam. Nhà đầu tư nước Hiệp định này phải được Nghị viện châu Âu ngoài sẽ mất quyền khởi kiện theo điều và từng thành viên EU phê chuẩn. khoản giải quyết tranh chấp nếu nhà đầu tư Đặc điểm nổi bật nhất của EVIPA là nước ngoài tuân theo các thủ tục khiếu nại Hiệp định này thiết lập một Tòa án gồm hai tại Tòa án Việt Nam. Lựa chọn giải quyết cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Các thành tại một Tòa án Việt Nam là cuối cùng và viên của hai cấp xét xử này sẽ đảm nhiệm duy nhất, ngăn cản nhà đầu tư khởi kiện đến vai trò như các thẩm phán trong nhiệm kỳ bất kỳ Trọng tài nào khác. Nếu các quy định 04 năm và có thể được tái bổ nhiệm 01 lần; của Tòa án có lợi cho nhà đầu tư, nhưng 5 trên tổng số 9 thành viên được bổ nhiệm từ Việt Nam từ chối thực hiện, nhà đầu tư thời điểm Hiệp định có hiệu lực sẽ có nhiệm nước ngoài có thể khiếu nại nước sở tại của kỳ 6 năm. Trong số đó, ba thành viên mang mình để yêu cầu đình chỉ lợi ích cho Việt quốc tịch của một trong các nước thành viên Nam cho đến khi Việt Nam tuân thủ. EU, ba thành viên mang quốc tịch Việt Nam Theo các thỏa thuận song phương nhất và ba thành viên mang quốc tịch của nước định của CPTPP, có một số ngoại lệ đối thứ ba, một trong số các thành viên được bổ với các cơ chế mà CPTPP đặt ra cho việc nhiệm là Chủ tịch Hội đồng tài phán và một giải quyết tranh chấp. Ví dụ, New Zealand trong số các thành viên được bổ nhiệm là và Việt Nam đồng ý không áp dụng cơ chế Phó Chủ tịch Hội đồng tài phán, thông qua giải quyết tranh chấp đối với Chính phủ của bốc thăm ngẫu nhiên bởi Chủ tịch Uỷ ban mỗi quốc gia theo Mục B của Chương 9, trừ đầu tư. Ngoài ra, EVIPA cũng quy định, Hội khi Chính phủ đồng ý đặc biệt đối với việc đồng tài phán phúc thẩm xem xét lại các áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp đó. phán quyết tạm thời của Hội đồng tài phán Thỏa thuận song phương này hạn chế một số thông qua thủ tục phúc thẩm; theo đó sẽ có quyền tự do đối với các nhà đầu tư khi gửi hồ 6 trọng tài viên, trong đó 2 trọng tài viên có sơ tranh chấp ra trọng tài. Trong trường hợp quốc tịch một trong số nước thành viên EU, này, các nhà đầu tư từ New Zealand vẫn có 2 trọng tài viên có quốc tịch Việt Nam, và 2 thể sử dụng một cơ chế khác theo luật pháp trọng tài viên có quốc tịch nước thứ ba. Việt Nam hoặc các điều ước quốc tế khác mà Hiện tại, cơ chế này mới bắt đầu manh Việt Nam và New Zealand đã ký kết. nha được sử dụng tại một số ít các hiệp định 1.2. EVIPA và giải quyết tranh chấp về đầu tư, chủ yếu là các hiệp định có sự đầu tư trong EVIPA tham gia đàm phán của EU. Hiệp định EVIPA được ký kết vào ngày Trên thực tế, cơ chế Tòa án hai cấp xét xử 30/6/2019. Ban đầu, EVIPA nằm trong là không mới, đã từng được nhiều quốc gia EVFTA, tuy nhiên vào tháng 9/2017, do phát lựa chọn giải quyết tranh chấp trong các điều sinh một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền ước quốc tế mà mình tham gia. Trong đó, 2 Bộ Công Thương, Cổng thông tin về Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA); http://evfta.moit.gov.vn/?page=overview&category_id=fb203c7b-54d6-4af7-85ca-c51f227881dd, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2021. 30 Số 08(432) - T4/2021
- THỰC TIỄN PHÁP LUẬT phổ biến nhất là cơ chế giải quyết tranh chấp thời và thời hạn giải quyết khiếu nại dựa trên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) yêu cầu của bên tranh chấp sẽ không vượt quá hay các Hiệp định trong khuôn khổ ASEAN 06 tháng. Theo đó, thời hạn thủ tục tố tụng hay ASEAN+. Tuy nhiên, điểm chung của cơ trong EVIPA chỉ kéo dài khoảng 02 năm và chế đó là chỉ giải quyết các khúc mắc, tranh không cho phép bất cứ sự trì hoãn nào đối với chấp giữa Nhà nước với Nhà nước, với phạm quá trình tố tụng nêu trên. vi liên quan đến thương mại hàng hóa, dịch Về phương thức giải quyết tranh chấp vụ, mà không chuyên biệt cho tranh chấp thân thiện, Điều 3.4, 3.29 và 3.31 EVIPA giữa nhà đầu tư với Nhà nước trong lĩnh vực quy định về phương thức giải quyết tranh đầu tư. Do đó, việc EU có cách tiếp cận giải chấp bằng thương lượng, hòa giải và khuyến quyết tranh chấp đầu tư bằng Tòa án hai cấp khích việc đạt được thỏa thuận ngoài tố xét xử là khá mới khi so sánh với các Hiệp tụng. Cụ thể, Phụ lục 10 EVIPA quy định định Bảo hộ đầu tư song phương (BIT) trước về cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua đây hay ngay cả CPTPP. EVIPA đánh dấu trung gian hòa giải4. lần đầu tiên Việt Nam áp dụng phương thức 1.3. Luật PPP và giải quyết tranh chấp giải quyết tranh chấp này trong một hiệp định đầu tư trong Luật PPP bảo hộ đầu tư3. Không chỉ với Việt Nam, EU Điều 97 là điều khoản duy nhất của Luật đã lựa chọn Tòa án hai cấp xét xử làm cơ PPP điều chỉnh về giải quyết tranh chấp. Điều chế giải quyết tranh chấp về đầu tư trong các 97 Luật PPP quy định từng loại tranh chấp hiệp định về đầu tư khác mà EU tham gia trên cơ sở phân định các chủ thể tranh chấp, như Hiệp định Kinh tế và thương mại toàn để từ đó làm cơ sở xác định cơ quan, tổ chức diện EU và Canada (CETA), Hiệp định bảo nào có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp vệ đầu tư giữa EU và Singapore (EUSIPA). đó. Khoản 1 Điều 97 quy định: “Tranh chấp Về trình tự khởi kiện, giống như các phương giữa cơ quan có thẩm quyền, cơ quan ký kết thức giải quyết tranh chấp khác, để bắt đầu quá hợp đồng với nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp trình khởi kiện, trước hết, nhà đầu tư phải gửi dự án PPP và tranh chấp giữa doanh nghiệp yêu cầu tham vấn đến bên còn lại. Nếu tranh dự án PPP với các tổ chức kinh tế tham gia chấp không thể giải quyết bằng cách giải quyết thực hiện dự án được giải quyết thông qua tranh chấp thay thế ngoài tài phán như đàm thương lượng, hòa giải, Trọng tài hoặc Tòa phán hay hòa giải, trong vòng 06 tháng kể từ án”. Theo đó, điều khoản này đã phân nhóm ngày nguyên đơn yêu cầu tiến hành các cuộc các loại tranh chấp hợp đồng PPP cụ thể như đàm phán giải quyết tranh chấp hoặc trong sau: (i) Một là tranh chấp giữa cơ quan nhà vòng 03 tháng kể từ ngày họ gửi thông báo dự nước có thẩm quyền, cơ quan ký kết hợp đồng định nộp hồ sơ khiếu kiện, Hội đồng tài phán sẽ với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP; (ii) được thành lập trong vòng 90 ngày kể từ ngày Hai là tranh chấp giữa doanh nghiệp dự án nộp hồ sơ khiếu kiện và sẽ tiến hành tố tụng PPP với các tổ chức kinh tế tham gia thực hiện theo một thủ tục chặt chẽ về thời gian. Trong dự án. Luật PPP quy định 04 phương thức giải vòng 18 tháng kể từ ngày nộp hồ sơ khiếu kiện, quyết tranh chấp bao gồm thương lượng, hòa Hội đồng tài phán sẽ ban hành phán quyết tạm giải, Trọng tài hoặc Tòa án. 3 Hoàng Phước, Lương Văn Lý, “Thận trọng trong giải quyết tranh chấp theo EVIPA”, Thời báo Kinh tế Sài gòn, https://www.thesaigontimes.vn/301224/than-trong-trong-giai-quyet-tranh-chap-theo-evipa-.html, truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2020. 4 Nguyễn Thị Nhung, “EVFTA, EVIPA và cơ chế giải quyết tranh chấp”, https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh- phap-luat/evfta-evipa-va-co-che-giai-quyet-tranh-chap-318992.html, truy cập ngày 18 tháng 03 năm 2021. Số 08(432) - T4/2021 31
- THỰC TIỄN PHÁP LUẬT 2. Một số hạn chế, bất cập về giải quyết 2.2. Quy định về việc có tiếp tục thực tranh chấp đầu tư trong Luật PPP trên hiện dự án đầu tư trong quá trình giải cơ sở tham chiếu CPTPP và EVIPA quyết tranh chấp hay không 2.1. Thời điểm tiến hành các phương Một trong những thiếu sót của Luật PPP thức giải quyết tranh chấp thân thiện là chưa dự liệu trường hợp, khi các bên Khoản 1 Điều 97 Luật PPP quy định: tranh chấp đang trong quá trình giải quyết “Tranh chấp giữa cơ quan có thẩm quyền, tranh chấp, các bên có tiếp tục thực hiện cơ quan ký kết hợp đồng với nhà đầu tư những nghĩa vụ của mình hay không. Về hoặc doanh nghiệp dự án PPP và tranh vấn đề này, tương tự như Luật PPP, bản thân chấp giữa doanh nghiệp dự án PPP với các CPTPP và EVIPA không đưa ra quy định cụ tổ chức kinh tế tham gia thực hiện dự án thể nào để điều chỉnh. được giải quyết thông qua thương lượng, Thực tế cho thấy, một quy trình giải quyết hòa giải, Trọng tài hoặc Tòa án”. Điều này tranh chấp đầy đủ có thể chiếm một khoảng được hiểu rằng, Luật PPP quy định thương thời gian tương đối dài và trong suốt khoảng lượng, hòa giải là hai phương thức giải thời gian đó, bên khởi kiện có thể sẽ phải liên quyết tranh chấp thân thiện mà các bên có tục chịu các tổn hại về kinh tế. Về sau, ngay tranh chấp có thể sử dụng. Tuy nhiên, quy cả trong trường hợp bên khởi kiện thắng định nay không cho thấy thương lượng, hòa kiện, pháp luật hiện hành cũng không có một giải được sử dụng trong thời điểm nào của điều khoản nào quy định về biện pháp tạm quá trình giải quyết tranh chấp. thời bảo vệ lợi ích của họ trong suốt quá trình Trong khi đó, đối chiếu đến CPTPP và bắt đầu đến khi kết thúc vụ tranh chấp. EVIPA thì trường hợp phát sinh tranh chấp Ví dụ, trong thời gian gần đây, trong khi đầu tư, các bên nên đầu tiên giải quyết tranh hàng chục dự án giao thông theo phương thức chấp thông qua tham vấn và đàm phán, tức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển là sử dụng các thủ tục không mang tính chất giao (BOT) đang hoàn tất quá trình chuyển ràng buộc, có thể có sự tham gia của bên thứ sang thu phí tự động không dừng thì có 9 dự ba (Điều 9.18 CPTPP), và các tranh chấp cần án khác đang tạm dừng thu phí với lý do sắp được giải quyết một cách thân thiện thông kết thúc hợp đồng. Có dự án phải dừng bất khả qua đàm phán và hòa giải, và nếu có thể, kháng do không tìm được phương án thu phí trước khi nộp yêu cầu tham vấn (Điều 3.29 khả thi (BOT Cai Lậy) hoặc có dự án hoàn tất EVIPA). Theo đó, có thể thấy, CPTPP và doanh thu trước thời hạn hợp đồng kết thúc nên EVIPA quy định rất rõ ràng hoạt động thương cơ quan quản lý yêu cầu dừng thu phí. Hiện 9 lượng, hòa giải nên được tiến hành vào thời dự án đó là: Quốc lộ 2 đoạn Nội Bài - Vĩnh điểm nào của hoạt động giải quyết tranh chấp. Yên, Quốc lộ 1 đoạn tránh Hà Tĩnh, Quốc lộ Tuy nhiên, nội dung này lại không được Luật 1K đoạn Km2+478, Quốc lộ 1 đoạn tránh Cai PPP quy định và điều đó không chỉ không Lậy, dự án cầu Đồng Nai, Quốc lộ 20 đoạn qua khuyến khích các bên sử dụng các biện pháp các thị trấn và Quốc lộ 1 đoạn Hòa Cầm - Hòa giải quyết thân thiện, tránh câu chuyện “cơm Phước và Tứ Câu - Vĩnh Điện5. không lành, canh chẳng ngọt”, mà còn sẽ đặt Các dự án nêu trên thuộc diện chưa thanh lý ra câu hỏi về việc công nhận kết quả thương được hợp đồng, bàn giao hoàn tất cho cơ quan lượng, hòa giải sau này. quản lý nhà nước vì giữa Nhà nước và nhà đầu 5 Lan Nhi, “Chín dự án BOT dừng khai thác không có tiền cho hoạt động bảo trì”, Thời báo Kinh tế Sài gòn, https://www.thesaigontimes.vn/td/314736/chin-du-an-bot-dung-khai-thac-khong-co-tien-cho-hoat-dong-bao- tri.html, truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2021. 32 Số 08(432) - T4/2021
- THỰC TIỄN PHÁP LUẬT tư chưa thống nhất được các tiêu chí xác định cùng vấn đề về pháp lý và sự kiện thực tế về lợi nhuận nhà đầu tư trong quá trình xây phát sinh từ cùng sự kiện và hoàn cảnh, bị dựng, các chi phí lãi vay... nên chưa xác định đơn có thể nộp yêu cầu hợp nhất các vụ kiện thời điểm dừng thu phí. Việc tạm dừng mà chưa đó hoặc một phần của các vụ kiện đến Chủ quyết toán xong dự án khiến nhà đầu tư dừng tịch Cơ quan giải quyết tranh chấp. Bị đơn việc bảo trì, không cấp kinh phí vận hành hoặc phải gửi bản yêu cầu đến từng nguyên đơn bảo trì cho có. Nhiều nhà đầu tư dừng không trong từng vụ kiện mà bị đơn yêu cầu hợp bảo trì hoặc bảo trì cho có. Để khắc phục tình nhất”. Điều 9.28 CPTPP quy định: “Nếu trạng này, các cơ quan chức năng của Việt Nam hai hay nhiều khiếu kiện được trình độc lập đang tiến hành đàm phán, thương thảo nhiều ra trọng tài... và các khiếu kiện đó có cùng lần nhưng do không có quy định pháp lý bắt vấn đề về pháp luật hoặc thực tế và phát buộc nhà đầu tư phải bảo trì nên các dự án bị bỏ sinh từ cùng sự kiện hoặc tình huống, bất kỳ mặc, từ đó kéo theo những rủi ro về nguy hiểm bên tranh chấp nào đều có thể yêu cầu hợp cho người và xe đi qua những đoạn tuyến này. nhất các vụ kiện phù hợp với thỏa thuận Thậm chí, có 4 dự án hoàn toàn không được của tất cả các bên tranh chấp...”. bảo trì trong đó có dự án Quốc lộ 1 đoạn tránh Việc Luật PPP thiếu quy định cho phép Cai Lậy (Tiền Giang)6. hợp nhất các vụ tranh chấp có nội dung liên Mặc dù các trường hợp được nêu ở trên quan cùng một vấn đề có thể sẽ gây ra khả chưa đến giai đoạn giải quyết tranh chấp. năng không chỉ tốn kém về chi phí, mà còn Tuy nhiên, điều này cho thấy sự cần thiết dẫn đến những phán quyết khác nhau liên phải quy định về việc có tiếp tục thực hiện quan đến cùng một vấn đề. Điều này gây dự án đầu tư trong quá trình giải quyết tranh khó khăn trong việc áp dụng và thực thi các chấp hay không cho dù CPTPP và EVIPA phán quyết được đưa ra. Do vậy, việc bổ không quy định về vấn đề này. sung quy định về phối hợp giải quyết các 2.3. Quy định về phối hợp giải quyết các tranh chấp có nội dung về cùng một vấn đề tranh chấp có nội dung về cùng một vấn đề là hết sức cần thiết. Các dự án PPP có đặc điểm chung là bao 2.4. Áp dụng tập quán quốc tế trong gồm nhiều hợp đồng riêng biệt với sự tham giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế gia của nhiều bên. Do đó, khi phát sinh Điều 9.6 CPTPP quy định: “Mỗi Bên sẽ tranh chấp trong một hợp đồng thì có thể dành cho khoản đầu tư theo hiệp định này sự gây ra hiệu ứng “Domino”, tác động tiêu đối xử phù hợp với các nguyên tắc áp dụng cực và gây phát sinh tranh chấp trong các của luật tập quán quốc tế, bao gồm đối xử hợp đồng khác. Vì vậy, để tránh tạo ra hiệu công bằng và thoả đáng, và bảo hộ an toàn ứng tiêu cực đó, đòi hỏi mọi tranh chấp liên và đầy đủ”. Để làm rõ phạm vi của “luật quan đến cùng một vấn đề sẽ được kết hợp tập quán quốc tế”, Phụ lục 9-A đã quy định: và giải quyết cùng lúc như một tranh chấp “Các Bên xác nhận cách hiểu chung rằng duy nhất. Tuy nhiên, Luật PPP không quy “luật tập quán quốc tế” nói chung.... được định về nội dung này, trong khi đó, EVIPA hình thành từ thực tiễn chung và nhất quán và CPTPP đã có những quy định để điều mà các Quốc gia tuân theo dựa trên nghĩa chỉnh, cụ thể như sau: vụ pháp lý. Tiêu chuẩn đối xử tối thiểu của Điều 3.59 EVIPA quy định: “Trường hợp luật tập quán quốc tế đối với người nước có hai vụ kiện hoặc nhiều hơn được nộp có ngoài dẫn chiếu đến tất cả nguyên tắc luật 6 Lan Nhi, Tlđd. Số 08(432) - T4/2021 33
- THỰC TIỄN PHÁP LUẬT tập quán quốc tế bảo vệ đầu tư của người bên tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ của nước ngoài”. Luật PPP chưa quy định về mình khi đang trong quá trình giải quyết việc áp dụng tập quán quốc tế. Thay vào đó, tranh chấp. Để đảm bảo công bằng cho trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, Bộ các bên liên quan đến nghĩa vụ thực hiện luật Dân sự (BLDS) năm 2015 là nguồn luật của bên này là tiền đề để bên kia thực hiện duy nhất quy định về nguyên tắc áp dụng nghĩa vụ của mình, bổ sung quy định về tập quán quốc tế. Theo đó, Điều 666 BLDS việc bồi thường thiệt hại gây ra do một bên năm 2015 quy định: “... Nếu hậu quả của không thực hiện nghĩa vụ trong quá trình việc áp dụng tập quán quốc tế đó trái với giải quyết tranh chấp. các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Thứ ba, bổ sung quy định về việc cho Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng”. phép các bên có thể hợp nhất các vụ tranh Có thể thấy rằng, BLDS năm 2015 thể chấp có cùng vấn đề pháp lý và sự kiện thực hiện rõ sự ưu tiên cho phía Nhà nước hơn nhà đầu tư nước ngoài trong việc áp dụng tế phát sinh từ cùng sự kiện và hoàn cảnh. tập quán quốc tế. Thực tế, việc BLDS quy Điều này sẽ giúp các bên tiết kiệm được các định như hiện nay là hoàn toàn dễ hiểu và ở chi phí theo đuổi vụ tranh chấp cũng như khía cạnh nào đó là hợp lý. Bởi lẽ, quy định chắc chắn hơn về kết quả giải quyết các này sẽ đảm bảo các lợi ích của Việt Nam. tranh chấp. Tuy nhiên, quy định này vô hình chung có Thứ tư, bổ sung quy định về việc áp thể gây ra sự quan ngại cho các nhà đầu tư dụng tập quán quốc tế. Trong đó, thay quy nước ngoài. Do đó, điều cần thiết không định điều kiện áp dụng tập quán là “không phải chỉ cần phải có một quy định riêng về trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp việc áp dụng tập quán quốc tế trong giải luật Việt Nam” bằng quy định về điều kiện quyết các tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước “không trái với trật tự công cộng”. Trật tự với nhà đầu tư nước ngoài, mà đòi hỏi quy công cộng là một thuật ngữ chung của thế định đó còn phải hài hòa hóa được lợi ích giới, được dùng để diễn đạt nguyên tắc bảo của cả hai bên là Nhà nước và nhà đầu tư đảm trật tự công cộng hay không trái trật nước ngoài. tự công cộng. Nguyên tắc này vừa có thể 3. Một số kiến nghị cho phép cơ quan có thẩm quyền thực hiện Thứ nhất, bổ sung quy định thương nhiệm vụ bảo vệ cộng đồng thông qua việc lượng, hòa giải là một bước bắt buộc và loại bỏ một hoặc một số điểm không phù phải được tiến hành trước khi các bên đưa hợp với hoàn cảnh tranh chấp cụ thể, vừa vụ tranh chấp ra giải quyết tại Tòa án hoặc đảm bảo không ảnh hưởng tiêu cực đến Trọng tài. Quy định như vậy sẽ đảm bảo mục tiêu thu hút đầu tư chất lượng cao vào được hai mục tiêu: (i) Thúc đẩy và khuyến khích các bên sử dụng các phương thức giải các cơ sở hạ tầng của Việt Nam. quyết tranh chấp thân thiện, không mang Về phương thức quy định, chúng tôi cho tính tài phán để tránh gia tăng căng thẳng, rằng Luật PPP và Luật Đầu tư mới được tiết kiệm thời gian, chi phí, nhân lực, trí lực thông qua năm 2020 nên trước mắt, cần cho giai đoạn tố tụng phức tạp sau này; (ii) đưa những vấn đề nêu trên vào nghị định Đảm bảo sự thống nhất với không chỉ quy hướng dẫn thi hành Luật PPP. Tuy nhiên, về định của Luật Đầu tư năm 2020 mà còn phù lâu dài, cần sửa đổi Luật PPP, Luật Đầu tư hợp với cam kết trong CPTPP, và EVIPA. nhằm bảo đảm hiệu lực pháp lý cao và tính Thứ hai, bổ sung quy định yêu cầu các ổn định của các quy định này 34 Số 08(432) - T4/2021
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Pháp luật kinh doanh quốc tế - Chương 5: Hợp đồng đầu tư quốc tế
7 p | 248 | 31
-
Những vấn đề đặt ra với Việt Nam khi gia nhập WTO - Kinh tế, pháp luật về đầu tư quốc tế: Phần 2
132 p | 148 | 24
-
Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên
14 p | 83 | 12
-
Thực tiễn giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế của trọng tài ICSID và kinh nghiệm cho Việt Nam
7 p | 157 | 9
-
Hiện tượng treaty shopping trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế: Phân tích vụ việc Philip Morris kiện chính phủ Úc và liên hệ với Việt Nam
14 p | 132 | 9
-
Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế trong bối cảnh thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và những thách thức đặt ra cho Việt Nam
10 p | 10 | 7
-
Tranh chấp hợp đồng đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và quốc gia nhận đầu tư: Tranh chấp “dựa trên” hợp đồng và tranh chấp “dựa trên” hiệp định - kinh nghiệm cho Việt Nam trong giải quyết tranh chấp đầu tư
14 p | 43 | 6
-
Quy định của CPTPP về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước tiếp nhận đầu tư
10 p | 33 | 5
-
Trùng tố trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế
10 p | 34 | 5
-
So sánh các phương thức giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư trong Hiệp định CPTPP và EVIPA - một số khuyến nghị cho Việt Nam
8 p | 34 | 4
-
Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư theo ICSID
7 p | 13 | 4
-
Đề cương chi tiết học phần Pháp luật và kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai
11 p | 9 | 4
-
Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa chính phủ và nhà đầu tư nước ngoài trong CPTPP và EVIPA
14 p | 29 | 3
-
Khả năng viện dẫn các quy định về bảo vệ quyền con người trong các tranh chấp đầu tư quốc tế
8 p | 43 | 3
-
Đề cương chi tiết học phần Pháp luật đất đai và kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai
11 p | 13 | 3
-
Bài giảng Luật đầu tư: Chương 5 - TS. Nguyễn Thu Ba
96 p | 5 | 3
-
Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư trong EVFTA và sự chuẩn bị của Việt Nam
9 p | 54 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn