intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng phương thức trọng tài lao động

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

24
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giải quyết tranh chấp lao động là một chế định quan trọng của pháp luật lao động. Thực tế cho thấy, các tranh chấp lao động ngày càng có xu hướng gia tăng. Bài viết này phân tích và đánh giá về phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng trọng tài lao động.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng phương thức trọng tài lao động

  1. Soá 11/2020 - Naêm thöù möôøi laêm GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI LAO ĐỘNG Trần Mỹ Linh1 Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp lao động là một chế định quan trọng của pháp luật lao động. Thực tế cho thấy, các tranh chấp lao động ngày càng có xu hướng gia tăng. Năm 2015, Tòa án thụ lý 6.663 vụ, giải quyết 6.386 vụ. Năm 2016, Tòa án thụ lý 7.428 vụ, giải quyết 6.949 vụ. Năm 2017, Tòa án thụ lý 4.980 vụ, giải quyết 4.516 vụ. Năm 2018, Tòa án thụ lý 3.747 vụ, giải quyết 2.414 vụ. Năm 2019, Tòa án thụ lý 3.132 vụ, giải quyết 2.146 vụ2. Với mục đích mở rộng, tạo sự linh hoạt cho các bên tranh chấp trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp lao động (TCLĐ) và giảm tải các TCLĐ khởi kiện ra Tòa án nhân dân, tiết kiệm thời gian, chi phí và đảm bảo tối đa quyền và lợi ích của các bên khi tham gia vào quan hệ lao động, Bộ luật lao động năm 2019 (BLLĐ năm 2019) đã bổ sung thêm chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là Hội đồng trọng tài lao động. Bài viết này phân tích và đánh giá về phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng trọng tài lao động. Từ khóa: Tranh chấp lao động cá nhân, Hội đồng trọng tài lao động. Nhận bài: 14/10/2020; Hoàn thành biên tập: 28/10/2020; Duyệt đăng: 04/11/2020. Abstract: Labor dispute resolution is an important institution of labor law. In fact, labor disputes are on the increasing trend. In 2015, the Court accepted 6,663 cases and resolved 6,386 cases. In 2016, the Court accepted 7,428 cases and resolved 6,949 cases. In 2017, the Court accepted 4,980 cases and resolved 4,516 cases. In 2018, the Court accepted 3,747 cases and resolved 2,414 cases. In 2019, the Court accepted 3,132 cases, resolved 2,146 cases. With the aim of expanding, creating flexibility for the disputing parties in choosing the method of labor dispute resolution (LDR) , reducing labor dispute cases sent to the People’s Court, saving time and costs and maximizing the rights and interests among parties in labor relations, the Labor Code 2019 (hereinafter called LC 2019) has added labor arbitration council as a competent entity responsible for resolving individual labor disputes. This article analyzes and evaluates how to resolve individual labor disputes by labor arbitration. Keywords: Individual labor disputes, Labor Arbitration Council. Date of receipt: 14/10/2020; Date of revision: 28/10/2020; Date of Approval: 04/11/2020. 1. Quy định của Bộ luật lao động năm 2019 hệ sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển. So với về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng BLLĐ năm 2012, BLLĐ năm 2019 đã bổ sung phương thức trọng tài thêm chủ thể có thẩm quyền giải quyết TCLĐ cá Tranh chấp lao động cá nhân là loại tranh nhân là Hội đồng trọng tài lao động. Đây là điểm chấp phổ biến, dễ xảy ra và chiếm đa số trong các thay đổi tiến bộ trong quy định pháp luật về giải tranh chấp lao động hiện nay. Với bối cảnh khi quyết TCLĐ nói chung và giải quyết TCLĐ cá mà các TCLĐ phát triển cả về số lượng, quy mô nhân nói riêng. và hình thức thì các TCLĐ cá nhân cũng theo đó 1.1. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao mà tăng nhanh. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến động cá nhân của Hội đồng trọng tài lao động hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trật tự xã Theo quy định tại Điều 185 và Điều 187 thì Hội hội. Bởi thế, nếu có một cơ chế giải quyết TCLĐ đồng trọng tài lao động do Chủ tịch Ủy ban nhân cá nhân thích hợp thì không chỉ bảo vệ được dân cấp tỉnh quyết định thành lập có thẩm quyền quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân người lao giải quyết tranh chấp lao động cá nhân. Theo đó, động mà còn góp phần củng cố, bảo vệ các quan Hội đồng trọng tài lao động chỉ có quyền thụ lý và 1 Giảng viên Bộ môn Đào tạo công chứng viên và các chức danh khác, Cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tư pháp. 2 Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2019), Báo cáo về việc tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Bộ luật lao động (sửa đổi), Hà Nội.
  2. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP giải quyết tranh chấp lao động cá nhân khi đáp ứng định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn đủ các điều kiện sau: lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp Một là, về nội dung, đó là vụ TCLĐ cá nhân. luật về an toàn, vệ sinh lao động; (5) Về bồi thường TCLĐ cá nhân thực chất là những mâu thuẫn, bất thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ đồng xung đột giữa người lao động hoặc nhóm chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài người lao động với người sử dụng lao động, tổ theo hợp đồng; (6) Giữa người lao động thuê lại chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với người sử dụng lao động thuê lại, còn lại các theo hợp đồng; giữa người lao động thuê lại với TCLĐ phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa người sử dụng lao động thuê lại về các vấn đề của giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu quan hệ lao động như việc làm, tiền lương, bảo Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án giải quyết. hiểm xã hội,... hoặc có liên quan đến quan hệ lao Thực tế, trong những năm qua, hòa giải viên động. Những nội dung này thường liên quan đến lao động đã phát huy được vai trò của mình trong quyền và nghĩa vụ của cá nhân người lao động. việc giải quyết tranh chấp. Số lượng các vụ TCLĐ Hai là, về không gian, vụ TCLĐ cá nhân đó đưa ra hòa giải tại hòa giải viên lao động cũng khá phải xảy ra trong địa bàn tỉnh, nơi Hội đồng trọng nhiều. Chẳng hạn như ở Thành phố Hồ Chí Minh tài lao động được thành lập. Có thể thấy, thẩm có 3.300 vụ từ năm 2014 đến năm 2018, 135 vụ quyền giải quyết TCLĐ cá nhân của Hội đồng trong 6 tháng đầu năm 2019; ở Hà Nội có 247 vụ trọng tài lao động bị giới hạn bởi phạm vi địa hạt. từ năm 2008 đến năm 2018 và 20 vụ trong 10 tháng Tức là Hội đồng trọng tài lao động của tỉnh này đầu năm 2019; ở Đồng Nai có 689 vụ trong 10 không thể thụ lý và giải quyết TCLĐ cá nhân ở tháng đầu năm 2019; ở Bắc Ninh có 8 vụ từ năm tỉnh khác. 2014 đến năm 2018. Trong đó, tỷ lệ hòa giải thành Ba là, về thủ tục, vụ TCLĐ cá nhân mà Hội ở Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 47%, ở Hà Nội đồng trọng tài lao động thụ lý giải quyết phải qua trên 50%, ở Đồng Nai là 59% và ở Bắc Ninh là thủ tục hòa giải tại hòa giải viên lao động hoặc 87.5%3. trường hợp không bắt buộc phải qua thủ tục hòa Từ thực tiễn đó, có thể thấy, tuy việc hòa giải giải, hoặc trường hợp hết thời hạn hòa giải mà hòa của hòa giải viên lao động số lượng bình quân mỗi giải viên lao động không tiến hành hòa giải, hoặc năm không nhiều nhưng cũng đã góp phần làm trường hợp hòa giải không thành. Như vậy, nếu vụ giảm số lượng các tranh chấp phải đưa ra giải quyết TCLĐ cá nhân chưa qua thủ tục hòa giải tại hòa tại cơ quan khác. Như vậy, việc quy định Hội đồng giải viên lao động hoặc không thuộc trường hợp trọng tài lao động chỉ thụ lý giải quyết TCLĐ đối không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải tại hòa với các TCLĐ đã qua thủ tục hòa giải trừ các tranh giải viên lao động hoặc đã có biên bản hòa giải chấp không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải là thành của hòa giải viên lao động thì Hội đồng trọng hợp lý cả về phương diện lý luận và thực tiễn. tài lao động không được phép thụ lý giải quyết cho Bốn là, Hội đồng trọng tài chỉ tiến hành giải dù có đơn yêu cầu của đương sự. quyết TCLĐ cá nhân khi có sự đồng thuận của các Theo quy định tại Khoản 1 Điều 188 BLLĐ bên tranh chấp. năm 2019 thì trừ các tranh chấp không bắt buộc Theo quy định trên cơ sở đồng thuận, các bên phải qua thủ tục hòa giải như: (1) Về xử lý kỷ luật của TCLĐ cá nhân có thể lựa chọn giải quyết tranh lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp chấp tại Hội đồng trọng tài lao động hoặc khởi kiện bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; (2) đến Tòa án. Điều đó có nghĩa là Hội đồng trọng tài Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp lao động chỉ giải quyết TCLĐ cá nhân khi có thỏa đồng lao động; (3) Giữa người giúp việc gia đình thuận trọng tài. Trong phương thức giải quyết tranh với người sử dụng lao động; (4) Về bảo hiểm xã chấp bằng trọng tài thì yếu tố thỏa thuận đóng vai hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, trò chủ đạo, là yếu tố quyết định sự tồn tại của trọng về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về tài. Bởi bản chất của trọng tài là phương thức giải bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy quyết tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận của các bên 3 Bản tin quan hệ lao động, số 31, Quý IV - 2019, tr. 14.
  3. Soá 11/2020 - Naêm thöù möôøi laêm tranh chấp. Sẽ không có trọng tài nếu không có trọng tài lao động làm việc theo nguyên tắc tập thể thỏa thuận trọng tài. và quyết định theo đa số trừ trường hợp Ban trọng tài Việc quy định Hội đồng trọng tài lao động giải lao động chỉ gồm 01 trọng tài viên lao động. quyết TCLĐ theo cơ chế trọng tài tự nguyện 1.3. Về trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết (không phải là bắt buộc) không chỉ đảm bảo và tranh chấp lao động cá nhân của Hội đồng trọng giúp các bên được linh hoạt trong việc lựa chọn cơ tài lao động quan, tổ chức giải quyết tranh chấp mà còn hướng Về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao tới đạt được mục tiêu của việc giải quyết TCLĐ, động cá nhân của Hội đồng trọng tài lao động: đó là duy trì mối quan hệ lao động sau tranh chấp. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá Khác với việc giải quyết các tranh chấp dân sự hay nhân tại Hội đồng trọng tài hiện nay chưa được thương mại, việc giải quyết TCLĐ ngoài việc khôi pháp luật lao động quy định cụ thể. Tuy nhiên phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thông thường bước đầu của quá trình tố tụng trọng trong quan hệ lao động còn hướng tới việc duy trì tài, nguyên đơn phải gửi đơn kiện đến trung tâm mối quan hệ lao động hài hòa ổn định. Bởi vậy việc trọng tài Ban trọng tài được thành lập và chuẩn bị giải quyết tranh chấp lao động bằng phương thức giải quyết. Quá trình này gồm các công việc: trọng tài sẽ tạo điều kiện để các bên tranh chấp đạt Nghiên cứu hồ sơ, xác định sự việc, thu thập chứng được mục tiêu này. cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ban Khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải trọng tài lao động sẽ mở phiên họp giải quyết tranh quyết tranh chấp, các bên không được đồng thời chấp. Kết thúc phiên họp Ban trọng tài phải đưa ra yêu cầu Tòa án giải quyết trừ trường hợp hết thời phán quyết trọng tài. hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu giải Về thời hạn giải quyết tranh chấp lao động cá quyết tranh chấp mà Ban trọng tài lao động không nhân của Hội đồng trọng tài lao động: Theo quy được thành lập hoặc hết thời hạn 30 ngày kể từ định khi hết thời hạn 05 ngày làm việc mà hòa giải ngày Ban trọng tài lao động được thành lập mà Ban viên lao động không tiến hành hòa giải hoặc hòa trọng tài lao động không ra được quyết định giải giải viên lao động đã hòa giải nhưng không thành quyết tranh chấp. hoặc hòa giải viên lao động đã hòa giải thành 1.2. Về thành lập Ban trọng tài lao động nhưng một trong các bên không thực hiện các thỏa Theo Điều 185 BLLĐ năm 2019 Hội đồng thuận trong biên bản hòa giải thành thì các bên trọng tài lao động được thành lập ở mỗi tỉnh, tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài thành phố trực thuộc Trung ương và do Chủ tịch lao động giải quyết TCLĐ cá nhân. Ban trọng tài Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập với nhiệm kì lao động sẽ được thành lập trong thời hạn 07 ngày là 05 năm. Ngoài ra, nhằm đảm bảo thiết chế Hội làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết đồng trọng tài lao động được triển khai trong thực TCLĐ. Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ tiễn và hoạt động đúng chức năng, BLLĐ năm ngày Ban trọng tài lao động được thành lập, Ban 2019 quy định cơ chế Ban trọng tài lao động được trọng tài lao động phải ra quyết định về việc giải hình thành do Hội đồng trọng tài lao động thành quyết tranh chấp và gửi cho các bên tranh chấp. lập gồm 03 trọng tài viên hoặc 01 trọng tài viên để Khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải giải quyết vụ TCLĐ cụ thể khi có yêu cầu của các quyết tranh chấp, các bên không được đồng thời bên tranh chấp. yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trong Theo đó, Ban trọng tài lao động được thành lập trường hợp lựa chọn giải quyết tại Hội đồng trọng theo nguyên tắc: Đại diện mỗi bên tranh chấp chọn tài lao động thì các bên vẫn tiếp tục được quyền 01 trọng tài viên trong số danh sách trọng tài viên yêu cầu Tòa án giải quyết trong trường hợp: Hết lao động; trọng tài viên lao động do các bên lựa chọn thời hạn 07 ngày mà Ban trọng tài lao động không thống nhất lựa chọn 01 trọng tài viên lao động khác được thành lập hoặc hết thời hạn 30 ngày mà Ban làm Trưởng Ban trọng tài lao động. Trường hợp các trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết bên tranh chấp cùng lựa chọn một trọng tài viên để tranh chấp hoặc một trong các bên không thi hành giải quyết TCLĐ thì Ban trọng tài lao động chỉ gồm quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài 01 trọng tài viên lao động đã được lựa chọn. Ban lao động.
  4. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP Có thể thấy, với thời hạn như trên là hoàn toàn Có thể thấy, thi hành phán quyết trọng tài trước hợp lý, đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhanh gọn hết là hành vi tự nguyện của các bên tranh chấp các TCLĐ cá nhân, đồng thời, đủ để Ban trọng tài hoặc hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền lao động xác minh, thu thập chứng cứ và ra quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện phán quyết định về việc giải quyết tranh chấp để gửi cho các theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. bên tranh chấp. Như vậy, so với thời hạn giải quyết Mục đích cuối cùng của hoạt động thi hành phán tranh chấp của Tòa án (tối đa thời hạn chuẩn bị xét quyết là bảo đảm trên thực tế các nội dung của phán xử vụ án lao động là 03 tháng) thì thời hạn giải quyết được thi hành, chứ không đơn thuần là ra các quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài lao động quyết định có tính chất điều hành như trong hoạt ngắn hơn rất nhiều. Điều này góp phần thúc đẩy động của cơ quan hành chính. Đối với tranh chấp việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại Hội đồng trọng lao động cá nhân, pháp luật lao động chưa có quy tài lao động, giảm tải các TCLĐ khởi kiện ra Tòa định để đảm bảo phán quyết trọng tài được thực thi án nhân dân, hạn chế được tình trạng quá tải của trên thực tế. Cụ thể, trường hợp một trong các bên Tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp. không thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của Đồng thời cũng tránh việc kéo dài thời gian giải Ban trọng tài lao động thì các bên có quyền yêu cầu quyết tranh chấp lao động, sẽ là cản trở lớn cho Tòa án giải quyết. Điều này dễ tạo cho các bên tâm hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị sử lý có thể dễ dàng phá vỡ kết quả giải quyết vụ dụng lao động, sự ổn định việc làm, thu nhập và TCLĐ của Hội đồng trọng tài. đời sống của người lao động. Bởi trong quá trình 1.5. Về thời hiệu yêu cầu Hội đồng trọng giải quyết TCLĐ, các đơn vị sử dụng lao động vẫn tài lao động giải quyết tranh chấp lao động cá phải duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhân người lao động thì cần được làm việc để có thu Thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ được hiểu nhập duy trì cuộc sống. Vì vậy, thời hạn bị kéo dài là khoảng thời gian hiệu lực do pháp luật quy định sẽ không phù hợp với đặc điểm của quan hệ lao mà trong khoảng thời gian đó các bên tranh chấp động nói chung và TCLĐ nói riêng. được quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân 1.4. Về phán quyết của Hội đồng trọng tài có thẩm quyền giải quyết TCLĐ. Điều 190 BLLĐ Khác với việc giải quyết các tranh chấp dân sự năm 2019 quy định về thời hiệu yêu cầu giải quyết hay thương mại, việc giải quyết TCLĐ ngoài việc TCLĐ cá nhân như sau: khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của các “1. Thời hiệu yêu cầu hòa giải viên lao động bên trong quan hệ lao động còn hướng tới việc duy thực hiện hòa giải tranh chấp lao động cá nhân là trì mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định. Do đó, 06 tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên điểm riêng biệt của trọng tài so với các phương tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của thức giải quyết tranh chấp khác là phán quyết của mình bị vi phạm. trọng tài được thể hiện bằng hình thức quyết định. 2. Thời hiệu yêu cầu Hội đồng trọng tài lao Ban trọng tài quyết định theo nguyên tắc tập thể và động giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 09 theo đa số4. Quyết định giải quyết tranh chấp lao tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh động của Ban trọng tài phải được ban hành ngay chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên họp hoặc sau khi kết thúc phiên họp giải bị vi phạm....”. quyết tranh chấp. Về nguyên tắc, phán quyết trọng Như vậy, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là tài mang tính chất chung thẩm không thể bị kháng “ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cáo, kháng nghị theo bất cứ thủ tục nào. Trường cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi hợp các bên muốn hủy phán quyết của trọng tài thì phạm”. Điều đó có nghĩa là kể từ ngày phát hiện ra phải gửi đơn ra Tòa án. Đây là đặc trưng của hoạt hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi động giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài. ích hợp pháp của mình bị vi phạm thì các bên chỉ 4 Khoản 5 Điều 185 BLLĐ năm 2019.
  5. Soá 11/2020 - Naêm thöù möôøi laêm có tối đa 06 tháng để thực hiện quyền yêu cầu hòa Trọng tài viên có năng lực, trình độ và có khả giải viên lao động hòa giải TCLĐ. Sau khi yêu cầu năng giải quyết tốt các tranh chấp lao động một hòa giải tại hòa giải viên lao động, nếu kết quả hòa cách hợp tình, hợp lý sẽ tạo ra sức hút đối với các giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc bên tranh chấp khi lựa chọn giải quyết bằng thực hiện không đúng, hòa giải không thành hoặc phương thức trọng tài. Bởi vậy, thiết nghĩ để giải không hòa giải trong thời hạn do pháp luật quy định quyết tốt các tranh chấp lao động thì trọng tài viên thì có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động phải đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện như sau: hoặc Tòa án giải quyết tiếp vụ tranh chấp. Nói tóm Trọng tài viên lao động là công dân Việt Nam, có lại, thời hiệu mà các bên có quyền yêu cầu Hội năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của đồng trọng tài giải quyết TCLĐ cá nhân là 09 tháng Bộ luật dân sự, có sức khoẻ và phẩm chất đạo đức đã bao gồm cả thời gian để hòa giải viên lao động tốt; có trình độ đại học trở lên, hiểu biết pháp luật, tiến hành hòa giải tranh chấp. và có số năm nhất định làm việc trong lĩnh vực có Vì thế việc xác định chính xác “ngày phát hiện liên quan đến quan hệ lao động; không phải là ra hành vi” là thời điểm bắt đầu tính thời hiện có ý người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc nghĩa vô cùng quan trọng, bởi từ đó mới xác định đang chấp hành án chưa được xóa án tích; có uy được chính xác thời điểm hết thời hiệu yêu cầu giải tín, công tâm và được sự đề cử của một trong các quyết tranh chấp và xác định được người yêu cầu cơ quan như Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, còn quyền yêu cầu hay không; cơ quan, tổ chức, cá Liên đoàn lao động tỉnh, tổ chức đại diện người sử nhân có thẩm quyền giải quyết TCLĐ có thụ lý đơn dụng lao động trong tỉnh và không phải là thẩm yêu cầu để giải quyết hay không. Việc quy định như phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, trên sẽ giảm thiểu được những thiệt hại cho các bên công chức thuộc Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát trong TCLĐ đặc biệt là khi một bên lợi dụng quy nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. định về thời hiệu để gây thiệt hại cho bên kia. Ngoài ra, trọng tài viên lao động cần phải được đào Chẳng hạn như, trong trường hợp tranh chấp về kỷ tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ trọng tài luật sa thải, thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp viên. Đồng thời cần tăng cường tổ chức các khóa thường được tính từ ngày quyết định sa thải có hiệu tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên lực thi hành. Song nếu người lao động vì lý do nào môn nghiệp vụ cho các trọng tài viên lao động để đó không biết mình bị sa thải và lại nhận được các trọng tài viên có đủ năng lực, trình độ giải quyết định sa thải sau ngày quyết định có hiệu lực quyết TCLĐ. thi hành thì thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp Hai là, về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp được tính từ ngày người lao động nhận được quyết tại Hội đồng trọng tài lao động. định sa thải. Như đã phân tích ở trên, BLLĐ năm 2019 chưa 2. Một số khuyến nghị có quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục giải Bằng việc đưa Hội đồng trọng tài lao động vào quyết TCLĐ cá nhân tại Hội đồng trọng tài lao giải quyết TCLĐ cá nhân với tư cách là phương động. Do đó, pháp luật lao động cần có văn bản thức giải quyết tự chọn dựa trên sự đồng thuận của quy định rõ hơn về trình tự, thủ tục giải quyết các bên, BLLĐ năm 2019 đã tạo ra cơ chế giải TCLĐ cá nhân tại Hội đồng trọng tài lao động, về quyết TCLĐ linh hoạt và mềm dẻo, có nhiều điểm quyền và nghĩa vụ của các bên, về việc thay đổi tiến bộ, giải quyết được những vướng mắc của trọng tài viên, về quy trình cung cấp chứng cứ cho BLLĐ năm 2012 và yêu cầu của thực tiễn xã hội. trọng tài viên giải quyết, về tiến trình và diễn biến BLLĐ năm 2019 tuy đã được thiết kế theo hướng phiên họp giải quyết tranh chấp để đảm bảo tính cụ thể hóa các quy định của pháp luật, tuy nhiên thống nhất, hiệu quả và chặt chẽ trong quá trình giải vẫn còn có nhiều quy định cần phải hướng dẫn mới quyết tranh chấp ở các địa phương khác nhau. có thể triển khai thực thi trên thực tế. Ba là, về việc thành lập Ban trọng tài lao động. Một là, về tiêu chuẩn, điều kiện trọng tài viên Theo quy định tại Khoản 2 Điều 189 BLLĐ lao động. năm 2019, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ
  6. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP ngày nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp lao vào đời sống, đảm bảo tính khả thi các quy định động, Hội đồng trọng tài lao động có trách nhiệm của pháp luật. thành lập Ban Trọng tài lao động trong số các Tóm lại, việc BLLĐ năm 2019 bổ sung thêm trọng tài viên lao động của Hội đồng trọng tài lao Hội đồng trọng tài là cơ quan giải quyết TCLĐ cá động. Thành phần Ban trọng tài lao động được nhân nhằm nâng cao vai trò giải quyết tranh chấp xác định theo quy định tại điểm a, b, và c Khoản của trọng tài. Đồng thời, việc bổ sung thêm Hội 4 Điều 185 của BLLĐ năm 2019. Tuy nhiên, đồng trọng tài lao động làm cơ quan giải quyết pháp luật cần quy định bổ sung thêm về trường TCLĐ cá nhân còn nhằm khắc phục và linh hoạt hợp nếu các bên tranh chấp không lựa chọn trọng hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp, giúp các tài viên lao động theo quy định tại điểm a Khoản bên có thêm quyền lựa chọn cơ quan giải quyết 4 Điều 185 của BLLĐ năm 2019 thì Chủ tịch Hội thay vì chỉ khởi kiện đến Tòa án như trước đây, bởi đồng trọng tài có thể tự quyết định trọng tài viên từng cơ quan có những ưu và nhược điểm khác lao động. Trường hợp hai trọng tài viên được lựa nhau. Như vậy, việc giải quyết TCLĐ theo quy chọn không thống nhất được lựa chọn một trọng định của BLLĐ năm 2019 đã góp phần dịch hướng tài viên làm Trưởng Ban trọng tài theo quy định việc giải quyết tranh chấp sang mô hình chủ yếu là tại điểm b Khoản 4 Điều 185 của BLLĐ năm tự nguyện và tự chọn bởi các bên tranh chấp trong 2019 thì Chủ tịch Hội đồng trọng tài có thể lựa thời gian tới. Đồng thời, pháp luật không quy định chọn bổ sung. sự can thiệp của cơ quan hành chính Nhà nước đối Bốn là, cần tuyên truyền pháp luật, nâng cao với giải quyết TCLĐ mà tăng cường vai trò hỗ trợ nhận thức của cả người lao động và người sử dụng của Nhà nước vào quá trình giải quyết tranh chấp lao động về Hội đồng trọng tài lao động để người lao động, phù hợp với điều kiện, đặc điểm bối cảnh lao động và người sử dụng lao động thấy được vai Việt Nam hiện nay, tương thích với các tiêu chuẩn trò và sự hữu ích của việc giải quyết tranh chấp lao quốc tế mà Việt Nam đã cam kết, gia nhập, trong đó động bằng phương thức trọng tài. Có như vậy thì đề cao việc tôn trọng, thúc đẩy đối thoại, thương việc giải quyết TCLĐ tại Hội đồng trọng tài mới đi lượng để giải quyết TCLĐ./. BÀN VỀ CHỦ THỂ CÓ QUYỀN YÊU CẦU TÒA ÁN HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI (Tiếp theo trang 6) Cụ thể sửa đổi, bổ sung như sau: người thứ ba có đủ căn cứ để chứng minh được Khoản 1 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 quy rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc định về căn cứ huỷ phán quyết trọng tài như sau: một trong những trường hợp quy định tại Khoản “Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi 2 Điều 68 của luật này, thì có quyền làm đơn gửi có đơn yêu cầu của một bên hoặc người thứ ba có Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết quyền và lợi ích hợp pháp bị phán quyết trọng tài trọng tài…”. xâm phạm”. Từ những vướng mắc trong quá trình giải quyết Khoản 1 Điều 69 Luật TTTM năm 2010 quy vụ án, tác giả đưa ra vấn đề này để trao đổi và rất định về quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài mong nhận được các ý kiến đóng góp, cũng như đề như sau: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận xuất hướng xử lý của các đồng nghiệp và bạn đọc được phán quyết trọng tài, nếu một bên hoặc để giải quyết vướng mắc đang tồn tại./.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0