VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN TOÀN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ THEO

PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN TẠI PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN TOÀN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ THEO

PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN TẠI PHÚ THỌ

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. HỒ NGỌC HIỂN

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của

luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Phạm Văn Toàn

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ THEO

PHÁP LUẬT VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ THEO

PHÁP LUẬT .................................................................................................... 9

1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật và các trường hợp thừa kế theo

pháp luật ..................................................................................................... 9

1.2. Phân biệt thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật ................ 13

1.3. Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật .............................. 15

1.4. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật ..... 19

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT ..................................................... 22

2.1. Quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật ........................... 22

2.2. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế theo

pháp luật ................................................................................................. 36

2.3. Di sản thừa kế theo pháp luật và chia di sản thừa kế ....................... 44

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO

PHÁP LUẬT .................................................................................................. 51

3.1. Một số đặc điểm chung địa bàn tỉnh Phú Thọ ................................. 51

3.2. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật

trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ........................................................................ 51

3.3. Nguyên nhân .................................................................................... 68

3.4. Kiến nghị .......................................................................................... 70

3.5. Giải pháp .......................................................................................... 74

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

- BLDS: Bộ luật Dân sự

- BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự

- HĐXX: Hội đồng xét xử

- HTND: Hội thẩm nhân dân

- HĐTP: Hội đồng Thẩm phán

- TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao

- TTLT: Thông tư liên tịch

- UBND: Ủy ban nhân dân

- VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.1. Số lượng án tranh chấp di sản thừa kế trên địa bàn tỉnh Phú Thọ .. 52

Bảng 2.2. Bảng biểu số liệu án tranh chấp di sản thừa kế .............................. 54

Bảng 2.3. Số lượng án tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật Bị hủy, sửa

theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm ......................................................... 60

DANH MỤC CÁC BẢNG

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào thì vấn đề thừa kế cũng có vị trí

đặc biệt quan trọng trong các chế định pháp luật, đây là một hình thức pháp lý

quan trọng để bảo vệ các quyền công dân nói chung. Chính vì vậy, thừa kế đã trở

thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia

đình, cộng đồng xã hội. Trong mỗi nhà nước, mỗi giai cấp, mỗi giai tầng chính

trị mặc dù có những xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi vấn đề thừa kế là

một trong những quyền cơ bản của công dân, điều đó đều được quy định rất cụ

thể trong Hiến pháp (đạo luật cao nhất) của quốc gia mình.

Thừa kế và di sản thừa kế là vấn đề mang tính kinh tế, mang tính xã hội

truyền thống nhưng cũng là vấn đề phức tạp về mặt pháp lý. Có thể nói, di sản

thừa kế là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc làm phát sinh và thực hiện quan

hệ dân sự về thừa kế. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế chính là xác định

đúng khối tài sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế theo đúng kỷ phần mà

người thừa kế có quyền được hưởng, việc xác định đúng di sản thừa kế có ý

nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết các án kiện về thừa kế. Tuy nhiên,

trong những năm gần đây, việc xác định di sản thừa kế- yếu tố quan trọng hàng

đầu đối với việc giải quyết các án kiện về thừa kế còn nhiều khó khăn cả về mặt

lý luận và trong thực tiễn áp dụng. Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng của

nền kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay thì

vấn đề tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân ngày càng trở nên phức tạp và đa

dạng Vì vậy, vấn đề di sản thừa kế và xác định di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều

hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết.

Ở nước ta, nhận thức sớm được vai trò đặc biệt quan trọng của chế định

quyền thừa kế, nên ngay từ những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Đinh,

Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê…cũng đã lưu ý và ban hành các quy định pháp luật

về thừa kế nhằm bảo hộ quyền lợi của người dân. Pháp luật về quyền thừa kế ở

1

nước ta lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hồng Đức dưới triều đại của

Vua Lê Thái Tổ và vấn đề này nằm trong chương Điền Sản của Bộ luật. Trải qua

quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, chế định này đã được quy định, mở

rộng và được quy định rất cụ thể trong các bản Hiến pháp của nhà nước ta như:

Điều 19 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ

quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân”; Điều 27 Hiến pháp năm 1980 “Nhà

nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”; Điều 58 Hiến pháp năm 1992

“Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân”…trong

giai đoạn này, sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995, sau đó là Bộ luật Dân sự

năm 2005 đã đánh dấu sự phát triển của hệ thống pháp luật dân sự của nước ta

nói chung, pháp luật về thừa kế nói riêng; Bộ luật Dân sự năm 2005 được xem là

thành quả của quá trình pháp điển hóa những quy định của pháp luật về quyền

thừa kế, nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn, không

ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của công dân nói chung, nhất là những

người được hưởng thừa kế; Chưa dừng lại ở đó, Hiến pháp năm 2013 còn quy

định khá chặt chẽ về quyền thừa kế, cụ thể tại Điều 32 “Quyền sở hữu tư nhân và

quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”, thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp năm

2013, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định khá chặt chẽ về quyền thừa kế nhằm

bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng tăng trong thực tế với

tính chất ngày càng phức tạp. Sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các

cấp Tòa án, sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế của các cá nhân là những yếu tố

làm cho tranh chấp về thừa kế, đặc biệt là các tranh chấp liên quan đến việc xác

định di sản thừa kế và cách phân chia di sản thừa kế ngày một tăng, làm cho các

vụ kiện tranh chấp về bị kéo dài, không dứt điểm. Hơn nữa, khi cơ chế thị trường

được mở ra, con người có điều kiện lao động tốt hơn, vì vậy mà khối tài sản họ

làm ra trước khi chết đi là rất lớn, đồng nghĩa với đó là quyền lợi của những

người được thừa kế khối tài sản đó cùng bị ảnh hưởng rất nhiều. Nếu như không

xác định đúng di sản thừa kế, ngay cả khi xác định đúng di sản thừa kế mà cách

2

phân chia di sản sai thì cũng ảnh hưởng rất nhiều đến quyền lợi của người thừa

kế. Xác định di sản thừa kế và cách phân chia di sản thừa kế là hai mặt của một

vấn đề, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà thực tiễn cũng rất quan trọng.

Tuy vậy, nếu không hiểu rõ những quy định của pháp luật về xác định di sản

thừa kế và cách phân chia di sản để nhận thức được quyền định đoạt tài sản của

người để lại di sản cũng như cách phân chia di sản, thì việc để lại thừa kế lại là

nguyên nhân làm bùng phát tranh chấp giữa những người thừa kế của họ về sau

này. Việc định đoạt tài sản của người để lại thừa kế không đúng phạm vi luật

định có thể còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của một số người khác

dẫn đến những tranh chấp như đã và đang xảy ra trong thực tế là một trong

những nguyên nhân làm tổn hại đến truyền thống đạo đức đã có từ lâu đời của

dân tộc. Thực tế tố tụng tại Tòa án những năm qua cho thấy, việc giải quyết

những tranh chấp thừa kế theo pháp luật gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều vụ việc

đã diễn ra trong nhiều năm nhưng do tính chất phức tạp của quan hệ, cơ quan tố

tụng đã giải quyết nhiều lần nhưng cũng chưa thực sự được thấu tình đạt lý.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Giải quyết tranh

chấp về thừa kế theo pháp luật từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại

Phú Thọ” là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phương diện lý

luận cũng như thực tiễn. Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ thực trạng áp dụng

pháp luật và những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp

về thừa kế theo pháp luật để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, kiến nghị

các cơ quan lập pháp có căn cứ để xây dựng, sửa đổi, bộ sung Bộ luật Dân sự và

Bộ luật tố tụng dân sự ngày một phù hợp hơn với đời sống thực tiễn đặt ra.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:

Hiện nay, các đề tài nghiên cứu về thừa kế tương đối nhiều và ở các cấp độ

khác nhau như các khoá luận cử nhân, luận văn cao học và các luận án tiến sĩ.

Ngoài ra, còn một số bài viết trong các tạp chí Luật học của Trường Đại học Luật

Hà Nội, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật của Bộ Tư Pháp, Tạp chí Toà án Nhân dân.

- Các luận án tiến sĩ:

+ Phùng Trung Tập: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ

3

năm 1945 đến nay”. Luận án nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của

thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Nội dung chủ yếu của luận

án làm rõ các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ảnh hưởng đến việc điều

chỉnh pháp luật về diện và hàng thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam.

+ Phạm Văn Tuyết: “Thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”.

Đề tài nghiên cứu những vấn đề như: khái niệm về di chúc, quyền của người lập

di chúc, các điều kiện có hiệu lực của di chúc.

+ Trần Thị Huệ: “Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam- những vấn đề lý

luận và thực tiễn”. Luận án tập trung nghiên cứu về những vấn đề như: cơ sở lý

luận về di sản thừa kế, quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về di sản thừa kế,

thanh toán và phân chia di sản thừa kế, thực tiễn áp dụng trong việc xác định,

thanh toán, phân chia di sản thừa kế và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp

luật về di sản thừa kế.

- Luận văn cao học:

+ Nguyễn Thị Vĩnh: “Thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam”. Nội

dung chủ yếu gồm các vấn đề sau: khái niệm thừa kế theo pháp luật, diện và

hàng thừa kế, thừa kế thế vị, các trường hợp thừa kế theo pháp luật.

+ Nguyễn Thị Hồng Bắc: “Một số vấn đề thừa kế theo pháp luật trong

BLDS Việt Nam”.

- Các công trình nghiên cứu khác:

+ Viện Khoa học Pháp lý: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của

BLDS”. Các tập bình luận phân tích nội dung cơ bản của các qui định trong

BLDS 1995 nói chung và các qui định về thừa kế nói riêng.

+ Viện Nghiên cứu về Nhà nước và pháp luật: “Những vấn đề cơ bản về

BLDS Việt Nam”. Đây là số tạp chí chuyên đề về BLDS (số 5/ 1995).Trong đó

có chuyên đề về chế định thừa kế trong BLDS. Chuyên đề này nghiên cứu các

nguyên tắc cơ bản của điều chỉnh pháp luật về thừa kế, căn cứ khoa học để phân

chia các hàng thừa kế.

+ Tòa án Nhân dân Tối cao: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng

4

cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại Tòa án nhân dân”.

Đây là công trình cấp bộ nghiên cứu về thừa kế, nội dung chủ yếu của đề tài là các

vấn đề thực tiễn xét xử của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế.

+ Nguyễn Ngọc Điện: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong BLDS”.Tác giả so

sánh pháp luật về thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển và so với chế

định thừa kế trong Bộ luật Dân sự

Những công trình nghiên cứu đó nghiên cứu ở diện rộng và chung nhất về

thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, sau khi BLDS 2015 có

hiệu lực từ 01/01/2017 và BLTTDS 2015 có hiệu lực, chưa có một công trình

nghiên cứu chuyên sâu nào nghiên cứu về các quy định mới của Pháp luật để giải

quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật trên cơ sở tình hình thực tiễn giải quyết

loại án tranh chấp này tại địa phương. Luận văn là công trình đâu tiên nghiên

cứu có tính chất chuyên sâu và có hệ thống về giải quyết tranh chấp về thừa kế

theo pháp luật từ thực tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ ở cấp độ thạc sĩ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận liên

quan đến các quy định về thừa kế theo pháp luật, giải quyết tranh chấp thừa kế

theo pháp luật bao gồm làm rõ khái niệm thừa kế theo pháp luật, các quy định về

giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật, phân tích tiến trình phát triển của

pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật đồng thời có sự so sánh giữa thừa

kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc để rút ra được đặc trưng của mỗi hình

thức và để có thể nhìn nhận vấn đề thừa kế một cách toàn diện.

Nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp thừa kế theo

pháp luật. Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật, thực

tiễn giải quyết giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất tại Tòa án các

cấp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Đồng thời, đề xuất một số ý kiến, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

trong quá trình giải quyết các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại Việt

5

Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu pháp luật giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật theo

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp

thủ tục tố tụng dân sự;

- Đề xuất giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp

luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án tỉnh Phú Thọ;

thừa kế quyền sử dụng đất và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án các cấp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải

quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật và một số công trình nghiên cứu cũng

như những vụ việc cụ thể có liên quan đến vấn đề này.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về

thừa kế theo pháp luật trong một số văn bản pháp luật như: BLDS (các năm

1995, 2005, 2015); Pháp lệnh thừa kế; Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ); và

các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong đó, luận văn tập trung nghiên

cứu các quy định về thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam.

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật tố tụng dân sự về

giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật và các quy định của pháp luật nội

dung liên quan đến các vấn đề về tố tụng.

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp

thừa kế theo pháp luật tại Tòa án cấp xét xử sơ thẩm. Trong phạm vi nghiên cứu,

luận văn không đề cập đến việc giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật tại

Tòa án cấp phúc thẩm cũng như thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.

Luận văn cũng nghiên cứu các quy định trong pháp luật của một số nước

điều chỉnh về thừa kế theo pháp luật, có sự so sánh và đối chiếu với pháp luật

6

thừa kế của Việt Nam, qua đó tham khảo, học hỏi, tiếp thu có chọn lọc những

điểm phù hợp để bổ sung, hoàn thiện các quy định về thừa kế theo pháp luật

trong BLDS Việt Nam.

- Phạm vi không gian: tỉnh Phú Thọ.

- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của triết học

Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực thừa kế.

Các phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong luận văn bao gồm:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích, khái quát

các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng áp dụng quy định của Pháp luật

về quyền thừa kế theo pháp luật.

- Phương pháp hệ thống: luận văn sử dụng phương pháp phân tích theo hệ

thống các vấn đề nghiên cứu đặt trong hệ thống có mối quan hệ biện

chứng, hữu cơ như một chỉnh thể thống nhất.

- Phương pháp lịch sử được sử dụng trong luận văn để nghiên cứu quá trình

hình thành, phát triển và yêu cầu đổi mới pháp luật về thừa kế nói chung và giải

quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật nói riêng

- Luận văn sử dụng phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, xem xét

từng vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, các quy định

pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật.

- Phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa được sử dụng trong Chương 3

nhằm đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thừa kế.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Trên cơ sở kiến giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của các qui định

chung về thừa kế theo pháp luật, nhằm phát triển, mở rộng đối tượng nghiên cứu

quan trọng của ngành khoa học pháp lý dân sự về tài sản. Hiện nay, khoa học

7

pháp lý thừa nhận quyền thừa kế là quyền để lại tài sản cho người khác hưởng, là

quyền hưởng tài sản của người để lại thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm

phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế và các chủ thể khác.

Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý luận pháp

luật về thừa kế đặc biệt là việc giải quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật

nhằm thống nhất nhận thức về bản chất và nguyên tắc về giải quyết tranh chấp

thừa kế theo pháp luật, góp phần bảo vệ các quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức.

- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các Tòa án và

các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan trong việc nghiên cứu, áp dụng pháp luật

về thừa kế theo pháp luật, đồng thời có thể sử dụng được cho việc giảng dạy tại

các cơ sở đào tạo các chuyên gia pháp luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về thừa kế theo pháp luật và giải quyết tranh

chấp thừa kế theo pháp luật

Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật

Chương 3: Thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Phú Thọ và kiến nghị hoàn thiện

8

quy định về thừa kế theo pháp luật

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật và các trường hợp thừa kế theo

pháp luật

1.1.1. Khái niệm về thừa kế

Thừa kế là một chế định xuất hiện ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài

người, tồn tại và phát triển cho đến ngày nay, gắn liền với quyến sở hữu về tư

liệu sản xuất. Với ý nghĩa đó, thừa kế là một phạm trù kinh tế. Theo khái niệm

của từ điển Tiếng việt năm 2008 của Nhà xuất bản Đà Nẵng, thừa kế là “ được

hưởng cái của người đã chết để lại cho (thường nói về tài sản, của cải)” [Từ điển

tiếng Việt, 1206]

Quan hệ thừa kế là một quan hệ xã hội được pháp luật dân sự điều chỉnh và

trở thành một quan hệ pháp luật. Pháp luật thừa kế quy định các quyền và nghĩa

vụ của các chủ thể thuộc quan hệ thừa kế.

Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp

luật thừa nhận. Công dân có quyền để lại thừa kế thuộc quyền ở hữu của mình

cho người khác, nhà nước không hạn chế quyền để lại thừa kế và quyền nhận

thừa kế của công dân.

Theo nghĩa khách quan, thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng

hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của người chết

cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy

định phạm vi quyền và nghĩa vụ, phương thức bảo vệ quyền và nghĩa vụ của

người thừa kế.

1.1.2. Khái niệm thừa kế theo pháp luật

Pháp luật thừa kế của nước ta từ năm 1945 đến nay đều quy định hai hình

9

thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.

Nếu như thừa kế theo di chúc là sự dịch chuyển di sản của một người đã

chết cho người khác theo sự định đoạt hợp pháp của người lập di chúc khi còn

sống thì thừa kế theo pháp luật có thể được hiểu là sự dịch chuyển di sản của

người chết cho người còn sống trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn

nhân, quan hệ nuôi dưỡng hay quan hệ thân thuộc giữa người có tài sản để lại

sau khi họ chết và người nhận di sản.

Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển tài sản của người chết cho những

người còn sống theo hàng thừa kế. Như phân tích ở trên, cá nhân có quyền sở

hữu đối với tài sản của mình, sau khi cá nhân chết, số tài sản còn lại được chia

đều cho những người thừa kế. Người được thừa kế theo pháp luật là những

người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với

người để lại di sản thừa kế. Những người được hưởng thừa kế theo quy định của

pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Mọi người đều bình

đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế của người chết, thực hiện nghĩa vụ mà

người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận.

Như vậy, thừa kế theo pháp luật được hiểu một cách đơn giản là quá trình

dịch chuyển di sản của người chết sang những người còn sống theo quy định của

pháp luật về thừa kế. Mặt khác, theo quy định của pháp luật thì khi không có căn

cứ để dịch chuyển di sản của người chết theo ý chí của họ thì di sản đó phải dịch

chuyển theo quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa

kế. Điều 649 BLDS năm 2015 đã định nghĩa về thừa kế theo pháp luật như sau:

“Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự

thừa kế do pháp luật quy định”.

Thừa kế theo pháp luật về bản chất vừa bảo vệ quyền đương nhiên người có

tài sản được để lại tài sản của họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của những người

có quan hệ huyết thống, gia đình hay thân thuộc với người có tài sản để lại

1.1.3. Khái niệm tranh chấp thừa kế theo pháp luật

“Tranh chấp” là “tranh giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về

10

bên nào” [từ điển tiếng Việt, NXB Đà nẵng 2008, 1268]. Sự tranh giành đó cho

ta thấy số lượng chủ thể tham gia và sự thể hiện của nó ra bên ngoài. Tranh chấp

nào cũng có ít nhất hai chủ thể trở lên. Tranh chấp là sự xung đột các quyền và

lợi ích của các chủ thể trong xã hội.

Tranh chấp thừa kế theo pháp luật là một trong các loại tranh chấp diễn ra

phổ biến trong xã hội. Nó được sử dụng từ khi xuất hiện quan hệ thừa kế và cho

đến ngày nay lại đang diễn ra đa dạng và phong phú hơn về các loại tranh chấp.

Quan hệ thừa kế ở đâu thì tất yếu có sự tranh chấp về thừa kế ở đó.

Từ các khái niệm trên, ta có thể khái niệm “tranh chấp thừa kế theo pháp

luật” là một loại tranh tranh giành về tài sản của người đã chết để lại chưa rõ

thuộc về bên nào, được xem xét theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế

do pháp luật quy định.

1.1.4. Các trường hợp thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật không chỉ phát sinh khi người để lại di sản không có

di chúc mà còn có thể phát sinh trong nhiều tình huống khác. Qua mỗi giai đoạn

phát triển, quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật ngày càng rõ ràng,

chặt chẽ và toàn diện hơn. Theo quy định tại Điều 650 Bộ luật dân sự 2015 thì

thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

Một là, không có di chúc. Đây là trường hợp theo quy định của Pháp luật,

người để lại di sản đáp ứng yêu cầu về năng lực chủ thể trong việc lập di chúc

nhưng lại không thực hiện quyền lập di chúc của mình.

Hai là, di chúc không hợp pháp. Mặc dù người để lại di sản có lập di chúc

nhưng di chúc này lại không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của di

chúc theo quy định cuả Pháp luật dẫn đến di chúc vô hiệu (không có giá trị pháp

lý, di sản sẽ được chia theo pháp luật.

Ba là, những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời

điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc

không còn vào thời điểm mở thừa kế. Trường hợp này, di chúc bị coi là vô hiệu

căn cứ khoản 2 Điều 643 Bộ luật dân sự 2015. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong

11

trường hợp nếu chỉ có một trong số những người thừa kế theo di chúc chết trước

hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản hoặc một trong số các cơ quan,

tổ chức không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di sản liên quan

đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này vô hiệu và được chia thừa kế theo pháp luật.

Bốn là, những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà

không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản. Khi mở thừa kế nếu

người thừa kế theo di chúc vi phạm khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2005 thì không

có quyền hưởng di sản. Trường hợp người được chỉ định trong di chúc có quyền

hưởng di sản nhưng từ chối nhận di sản thì di sản được chia theo pháp luật.

Năm là, phần di sản không được định đoạt trong di chúc. Trường hợp này

xảy ra khi người để lại di sản có nhiều tài sản khác nhau nhưng lại chỉ định đoạt

trong di chúc một phần tài sản trong khối di sản này. Khi đó, phần di sản không

được thể hiện trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật.

Sáu là, phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực.

Theo tinh thần của Khoản 4 Điều 643 Bộ luật dân sự 2015 thì trong trường hợp

di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần

còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật. Điều này có nghĩa là di sản

liên quan đến phần di chúc vô hiệu thì sẽ được chia theo pháp luật còn các phần

khác sẽ được chia theo di chúc.

Bảy là, phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc

nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, chết trước

hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc. Khác với các quy định về thừa

kế dưới thời phong kiến, những người thừa kế của người chết có nghĩa vụ phải

nhận di sản và phải trả các khoản nợ của người chết để lại kể cả di sản không đủ

để trả nợ, pháp luật hiện hành công nhận quyền thừa kế là một quyền năng dân

sự và người thừa kế có quyền khước từ quyền hưởng di sản của mình. Theo quy

định tại Điều 620 Bộ luật dân sự 2015 thì người thừa kế có quyền từ chối nhận

di sản trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài

sản của mình đối với người khác. Bên cạnh đó, pháp luật thừa kế cũng ghi nhận

12

những trường hợp không được quyền hưởng di sản tại Điều 621 Bộ luật dân sự

2015. Đó là những người vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc đạo đức xã hội.

Người để lại di sản không biết những hành vi nêu trên nên đã dành cho những

người này một phần di sản nhất định. Khi đó, phần di sản của những người thừa

kế này sẽ bị coi là vô hiệu và được chia theo pháp luật.

Tám là, phần di sản có liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản

theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế. Điều kiện để một cơ

quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc là cơ quan tổ chức đó phải tồn tại

vào thời điểm mở thừa kế. Điều này có nghĩa là vào thời điểm người để lại di sản

chết mà cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động thì sẽ không được hưởng thừa

kế. Đó là trường hợp pháp nhân bị giải thể hoặc phá sản, quyền và nghĩa vụ của

pháp nhân hoàn toàn chấm dứt nên pháp nhân không còn tồn tại trên thức tế.

Việc xác định các trường hợp thừa kế theo pháp luật là vô cùng quan trọng

nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người có quyền thừa kế theo

pháp luật đồng thời tránh tình trạng để lại di sản bị đóng băng gây lãng phí cho

gia đình và xã hội.

1.2. Phân biệt thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật

Pháp luật thừa kế của Việt Nam cũng như pháp luật thừa kế của nhiều quốc

gia trên thế giới điều ghi nhận hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo

pháp luật. Giữa hai hình thức thừa kế này có mối quan hệ qua lại mật thiết với

nhau, có thể cùng được áp dụng trong việc phân chia di sản hoặc mang tính chất

loại trừ nhau, có thể áp dụng độc lập một hình thức. Phân biệt thừa kế theo di

chúc và thừa kế theo pháp luật để tìm ra điểm giống và khác nhau là hết sức cần

thiết. Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho việc nhìn nhận vấn đề chia thừa kế một

cách toàn diện, áp dụng quy định của Pháp luật một cách chính xác nhằm bảo

đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền thừa kế. Hai hình thức thừa

kế này có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt nhau.

Dưới đây là những điểm chung và điểm khác biệt cơ bản.

Điểm giống nhau cơ bản, nổi trội nhất của hai hình thức thừa kế này được

thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, đều là sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người

13

sống và Thứ hai, người để lại di sản thừa kế đều là cá nhân.

Điểm khác nhau :

+ Thứ nhất, về ý chí của người để lại tài sản:

Thừa kế theo di chúc được thể hiện cụ thể trong những nội dung của di chúc.

Thừa kế theo pháp luật: Không có sự thể hiện ý chí của người để lại di sản

hoặc có ý chí của người để lại di sản nhưng hình thức di chúc không tuân thủ

đúng quy định của Pháp luật dẫn đến không được pháp luật thừa nhận. Di sản

đương nhiên được chia theo pháp luật.

+ Thứ hai, về người thừa kế:

Người thừa kế là người được hưởng tài sản của người chết để lại theo di

chúc hoặc theo quy định của Pháp luật.

Người thừa kế theo di chúc là người được hưởng di sản theo di chúc do

người lập di chúc định đoạt khi còn sống. Do đó người thừa kế theo di chúc có

thể là bất kì ai được chỉ định trong di chúc, có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ

chức, có thể là người có mối quan hệ về hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng

với người để lại di sản hoặc không có các mối quan hệ này. Không áp dụng quy

định về thừa kế thế vị trong trường hợp thừa kế theo di chúc.

Người thừa kế theo pháp luật : là người thừa kế theo hàng thừa kế và trình

tự thừa kế theo quy định của Pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể

là cá nhân và có mối quan hệ về hôn nhân hoặc huyết thống hoặc nuôi dưỡng với

người chết. Thừa kế thế vị được áp dụng trong hình thức thừa kế theo pháp luật.

+ Thứ ba, cách phân chia di sản:

Thừa kế theo di chúc: Tùy thuộc vào sự phân định di sản của người lập di

chúc, người thừa kế có thể được hưởng nhiều hoặc ít hơn toàn bộ di sản thừa kế.

Thừa kế theo pháp luật: những người cùng một hàng thừa kế thì được

hưởng phần di sản ngang nhau.

+ Thứ tư, thứ tự ưu tiên:

Thừa kế theo pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp người chết

không để lại di chúc hoặc di chúc không có giá trị pháp lý và một số trường hợp

14

khác theo luật định

Như vậy, về cơ bản thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật khác

nhau về ý chí chủ thể để lại di sản, người thừa kế, cách thức phân chia thừa kế và

thứ tự áp dụng.

1.3. Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật

1.3.1. Đặc trưng của giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật

1.3.1.1. Đặc trưng về thẩm quyền:

Tranh chấp thừa kế là một loại tranh chấp dân sự đặc thù bởi nó chịu sự

điều chỉnh của quan hệ pháp luật về thừa kế đồng thời cũng chịu sự điều chỉnh

một số quan hệ pháp luật khác như Luật đất đai (trong trường hợp di sản thừa kế

tranh chấp là quyền sử dụng đất), Luật doanh nghiệp (trong trường hợp di sản

thừa kế là các quyền tài sản, quyền sở hữu về cổ phiếu, cổ phần…). Tuy nhiên,

theo quy định pháp luật hiện hành, việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh

chấp thừa kế tài sản căn cứ quy định của BLTTDS. Theo đó Tòa án là cơ quan

duy nhất có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế theo thủ tục tố tụng dân

sự. Ủy ban nhân dân hoặc văn phòng công chứng chỉ có thẩm quyền công nhận,

công chứng sự thỏa thuận phân chia di sản thừa kế. Đây không phải là việc giải

quyết tranh chấp mà chỉ là một hành vi pháp lý công nhận hoặc công chứng một

sự kiện pháp lý trên cơ sở sự thống nhất và thỏa thuận các bên trong quan hệ

pháp luật về thừa kế

1.3.1.2. Đặc trưng về đương sự

Theo quy định tại khoản 1, Điều 68 BLTTDS: “Đương sự trong vụ án dân

sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi

nghĩa vụ liên quan” [BLTTDS]. Như vậy đương sự trong vụ án dân sự nói

chung gồm 3 đối tượng. Nguyên đơn là người khởi kiện hoặc được cá nhân, cơ

quan, tổ chức khác do BLTTDS quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết

vụ án dân sự. Bị đơn là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ

chức khác do BLTTDS quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án

dân sự. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là người tuy không khởi kiện,

15

không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi,

nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và

được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng.

Cũng như các vụ án tranh chấp dân sự khác, đương sự trọng vụ án tranh

chấp thừa kế theo pháp luật cũng gồm nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, đương sự trong vụ án tranh chấp thừa kế theo

pháp luật có những đặc thu riêng. Họ thường là những người thân trong một gia

đình hay dòng tộc, họ có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ

nuôi dưỡng. Đương sự trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế là những người anh,

em hoặc cha, mẹ với các con trong một gia đình, khi không thể tự thỏa thuận

phân chia tài sản hoặc việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại họ

khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Cũng chính vì đặc thù trên, nên các vụ án

tranh chấp thừa kế theo pháp luật thường có nhiều đương sự. Họ có thể ủy quyền

cho một trong số các đồng nguyên đơn hoặc đồng bị đơn tham gia tố tụng với tư

cách là người đại diện theo ủy quyền. Tuy nhiên, việc ủy quyền này chỉ được

chấp nhận sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án và được thực hiện theo đúng trình tự

thủ tục do pháp luật quy định.

Như đã phân tích ở trên, đương sự trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế là

những người cùng trong diện, hàng thừa kế, họ có quan hệ huyết thống, quan hệ

hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng và những mối quan hệ này thường đa dạng,

phức tạp và trải qua một khoảng thời gian rất dài. Do vậy, việc xác định đương

sự tham gia tố tụng là rất khó khăn. Bên cạnh đó, loại tranh chấp thừa kế theo

pháp luật có sự khác nhau trong việc xác định đương sự so với tranh chấp thừa

kế theo di chúc. Đó là chưa kể đến trường hợp những vụ án đặc biệt phức tạp,

chẳng hạn người chết có để lại di chúc nhưng di chúc đó chỉ có hiệu lực một

phần. Khi đó Tòa án sẽ phải xác định rõ những đối tượng được hưởng di sản

theo di chúc và những đối tượng được hưởng di sản theo pháp luật. Do đó,

đương sự trong vụ án cũng sẽ đa dạng và phức tạp hơn. Như vậy, xác định

đương sự trong vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp luật là rất quan trọng đối với

16

việc giải quyết vụ án đúng và hiệu quả. Tòa án xác định sai đương sự trọng vụ án

tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật sẽ dẫn đến việc triệu tập đương sự trong

vụ án không đầy đủ, sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giải quyết vụ án mà

cụ thể là bản án sẽ tuyên tại Tòa. Xác định sai đương sự tham gia vụ án là vi

phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng có thể dẫn việc bản án đã tuyên của Tòa án bị

hủy. Chính vì vậy, việc lập sơ đồ, thống kê một cách đầy đủ và chính xác hàng

thừa kế là rất quan trọng. Để thực hiện được vấn đề này, cần phải xem xét nhiều

văn bản, tài liệu khác nhau như giấy khai sinh, giấy tờ liên quan đến nhận nuôi

con nuôi, giấy đăng ký kết hôn… Việc kiểm tra, xác minh các giấy tờ này càng

trở nên khó khăn, mất nhiều thời gian, chi phí hơn khi đối tượng thừa kế thuộc

diện, hàng thừa kế là người Việt nam định cư ở nước ngoài.

1.3.1.3. Đặc trưng về áp dụng pháp luật

Giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế theo pháp luật là một loại tranh

chấp dân sự đặc thù, về bản chất là tranh chấp thừa kế nhưng tài sản tranh chấp

lại là căn cứ để xác định văn bản áp dụng. Do đó, để giải quyết loại tranh chấp

này cần áp dụng nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Luật đất đai, Bộ luật

dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật nuôi con nuôi, Bộ luật tố tụng dân sự…

Chẳng hạn, di sản thừa kế là quyền sử dụng đất thì cần xem xét các quy định của

Luật đất đai; xác định chính xác những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của

người để lại di sản thì cần tham chiếu quy định của Luật hôn nhân gia đình; Luật

nuôi con nuôi để xác định quan hệ hôn nhân, quan hệ cha, mẹ và các con, quan

hệ nuôi dưỡng theo đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, để xác định di sản là

tài sản do người chết để lại có hợp pháp không? Do đó, nghiên cứu một cách

toàn diện, đầy đủ và thống nhất các văn bản pháp luật có liên quan khi giải quyết

tranh chấp về thừa kế theo pháp luật là rất quan trọng, có vai trò quyết định trong

việc giải quyết vụ án đúng và hiệu quả.

1.3.1.4. Đặc trưng về thu thập, xác minh tài liệu chứng cứ giải quyết các

tranh chấp thừa kế theo pháp luật

Xác định tài liệu, chứng cứ luôn là một vấn đề quan trọng bậc nhất để giải

17

quyết các vụ án dân sự. Trong vụ án tranh chấp thừa kế thì việc xác định, xác

minh tài liệu, chứng cứ là rất khó khăn và phức tạp. Khi giải quyết loại tranh

chấp này, Tòa án cần xác định đầy đủ đương sự tham gia tố tụng, xác định di sản

thừa kế và định giá di sản chính xác, xác minh được nguồn gốc tài sản. Đối với

tài sản thừa kế là quyền sử dụng đất còn phải xác minh được diễn biến quá trình

sử dụng đất là di sản thừa kế đang có tranh chấp. Muốn lập hồ sơ vụ án với đầy

đủ chứng cứ để giải quyết vụ án khách quan đúng quy định của Pháp luật thì Tòa

án cần thu thập chứng cứ từ nhiều nguồn khác nhau. Chứng cứ của vụ án có thể

là những tài liệu do nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan cung cấp. Chứng cứ có thể do Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho

đương sự cung cấp cho Tòa. Đồng thời, Tòa án cũng cần phải tự mình tiến hành

xác minh từ những cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được chính xác những nội

dung vụ việc hoặc họ có lưu giữ những tài liệu có thể được sử dụng là chứng cứ

để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, vì đa phần các tranh chấp thừa kế theo pháp luật

diễn ra trong thời gian dài, do vậy việc xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án

sẽ gặp không ít khó khăn.

1.3.1.5. Đặc trưng về trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp về thừa kế

theo pháp luật

Tranh chấp về thừa kế theo pháp luật được Tòa an giải quyết theo một trình tự,

thủ tục nhất định trên cơ sở quy định của BLTDS. Quy định này thể hiện sự chặt

chẽ của Pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế được

chính xác, khách quan, công bằng và hiệu quả. Trình tự, thủ tục giải quyết các tranh

chấp về thừa kế theo pháp luật cũng giống như trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân

sự nói chung, song nó có những đặc thù riêng. Khi tiến hành thụ lý, giải quyết tranh

chấp thừa kế theo thủ tục tố tụng dân sự, Tòa án cũng cần xem xét các điều kiện thụ

lý vụ án như: điều kiện về chủ thể khởi kiện, điều kiện về thẩm quyền giải quyết,

điều kiện về hình thức và nội dung đơn khởi kiện, điều kiện về các tài liệu chứng cứ

kèm theo đơn khởi kiện, điều kiện tạm ứng án phí. Việc xác định thẩm quyền của

Tòa án khi giải quyết tranh chấp thừa kế mà di sản là quyền sử dụng đất cũng là một

18

đặc trưng của giải quyết loại tranh chấp này.

1.4. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật

1.4.1. Pháp luật nội dung về giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật

Thừa kế được xác định là một chế định quan trọng trong Pháp luật Việt

Nam. Do đó ngay từ trước cách mạng tháng tám năm 1945, pháp luật thời kỳ

phong kiến, thời kì pháp thuộc đã có những quy định về thừa kế nói chung và

thừa kế theo pháp luật nói riêng. Trong đó thừa kế theo pháp luật đã xuất hiện ở

Luật Hồng Đức, Luật Gia Long cũng như pháp luật thời pháp thuộc. Tuy nhiên ở

những thời kì này, do bản chất của giai cấp thống trị, những quy phạm này chủ

yếu để bảo vệ tôn ti trật tự của chế độ phong kiến dẫn tới sự bất bình đẳng trong

quan hệ thừa kế, đặc biệt là giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ.

Ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công, ngày 10/10/1945, Chính phủ

lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh cho phép áp

dụng luật lệ của chế độ cũ trong đó có những quy định về thừa kế. Ngày

22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 97/SL sửa đổi một số quy lệ

và chế định trong dân luật. Ngày 18/9/1956, Bộ tư pháp đã ban hành thông tư số

1742-BNC quy định một số nội dung về thừa kế theo pháp luật.

Hiến pháp 1959 ra đời tiếp tục ghi nhận về quyền thừa kế tài sản của công

dân. Trên tinh thần của Hiến pháp, Luật HNGĐ năm 1959 đã cụ thể hóa quyền

thừa kế tài sản của vợ chồng, con cái.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam chuyển sang

một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập thống nhất. Cùng với sự thống nhất

về chính trị, kinh tế, đòi hỏi thiết yếu phải có sự thống nhất về việc áp dụng pháp

luật. Hiến pháp 1980 được ban hành là cơ sở, nền tảng cho bước phát triển mới

của pháp luật về thừa kế. Để có đường lối thống nhất cho Tòa án các cấp trong

việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế, ngày 24/7/1981, Tòa án nhân dân tối

cao ban hành thông tư số 81/TANDTC. Nội dung của thông tư 81 đã bao quát

khá toàn diện các vấn đề thừa kế so với các văn bản trước đó. Để phù hợp với sự

biến đổi, phát triển của kinh tế, xã hội ở nước ta cũng như nhằm khắc phục

19

những nội dung còn thiếu của những vướng mắc, ngày 30/8/2990, Hội đồng nhà

nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh thừa kế, có

hiệu lực từ ngày 10/9/1990. Pháp lệnh thừa kế năm 1990 là văn bản có hiệu lực

pháp lý cao đầu tiên quy định tương đối đầy đủ về thừa kế ở nước ta sau cách

mạng tháng 8/1945 cho đến khi Bộ luật dân sự 1995 được ban hành.

Bộ luật dân sự 1995 được ban hành là kết quả kiểm nghiệm, sàng lọc hực

tiễn đời sống xã hội và hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy định trước đây. Quyền

thừa kế theo pháp luật của công dân được quy định tại BLDS 1995 đã góp phần bảo

vệ các quyền dân sự và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Tuy nhiên, các quy định về thừa kế trong BLDS 1995 được ban hành trong

giai đoạn đầu của thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa nên nhiều quy định đã bị lạc hậu so với sự phát triển như vũ bão của các hoạt

động kinh kế và các giao lưu trong đời sống xã hội. Chính điều này đã thúc đẩy

mạnh mẽ đòi hỏi phải có quy phạm pháp luật mới điều chỉnh kịp thời những yêu

cầu của thức tiễn. BLDS 2005 ra đời thay thế BLDS 1995 và BLDS 2015 thay thế

BLDS 2015. So với các bộ luật trước, BLDS 2015 đã có sự sửa đổi bổ sung, ghi

nhận cụ thể hơn những người được hưởng di sản thuộc hàng thừa kế thứ hai, thứ ba,

nội dung về thừa kế thế vị, quyền hưởng di sản thừa kế của con nuôi….

1.4.2. Pháp luật tố tụng về giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật

Tranh chấp về thừa kế là nội dung tranh chấp tương đối phổ biến trong

tranh chấp dân sự, đặc biệt là các tranh chấp liên quan đến việc phân chia di sản

thừa kế, vì nó có liên quan trực tiếp đến lợi ích giữa những người có quyền thừa

kế. Vì vậy tranh chấp này pháp luật quy định phương thức giải quyết được thực

hiện theo pháp luật tố tụng dân sự.

Lịch sử tố tụng kể từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến nay xác

định, cơ quan giải quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật thuộc thẩm quyền

của Tòa án. Những tranh chấp về thừa kế thuộc thẩm quyền giải quyết của

TAND cấp huyện, trừ trường hợp đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài thì tranh

20

chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh.

Đối với những tranh chấp liên quan đến việc phân chia di sản thừa kế là bất động

sản, thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết;

Trường hợp di sản thừa kế là động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là

Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Các bên cũng có thể thỏa thuận bằng văn bản

yêu cầu Tòa án nơi nguyên đơn cư trú, làm việc giải quyết tranh chấp.

Tiểu kết chương 1

Quá trình phát triển của thừa kế gắn liền với sự phát triển của lịch sử loài

người. Dù ở thời kỳ nào, thừa kế cũng luôn đóng vai trò quan trọng. Ở chương 1

của luận văn, xuất phát từ việc tham khảo giải nghĩa các cuốn từ điển cũng như

định nghĩa, quy định của pháp luật hiện hành, tác giả đã đưa ra khái niệm về giải

quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật, phân tích các đặc trưng về tranh chấp

thừa kế theo pháp luật, phân tích và chỉ ra các trường hợp được hưởng thừa kế

theo pháp luật; phân biệt thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Để có

cái nhìn toàn diện và thấy được những ưu nhược điểm của các quy định về pháp

luật thừa kế của từng giai đoạn, trong chương này còn phân tích nội dung pháp

luật giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật trong từng giai đoạn pháp luật

kể từ năm 1945 đến nay; Phân tích pháp luật tố tụng giải quyết tranh chấp thừa

kế theo pháp luật, xác định thẩm quyền của cơ quan nhà nước có quyền giải

quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật là cơ quan Tòa án để từ đó nâng cao hiệu

quả giải quyết các tranh chấp cũng như đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp

21

của người thừa kế và những người có liên quan.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

2.1. Quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật

2.1.1. Diện thừa kế theo pháp luật

Pháp luật dân sự hiện hành quy định chế định thừa kế bao gồm hai hình

thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Diện và hàng thừa kế là một

trong những vấn đề chính yếu và chỉ được đặt ra trong hình thức thừa kế theo

pháp luật. Quy định này xuất phát từ bản chất của hình thức thừa kế theo di chúc

là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc, có thể để lại di sản cho bất kỳ ai

không cần phải xác định diện và hàng thừa kế.

Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế.

Tuy nhiên khái niệm về diện thừa kế mới chỉ được quan tâm nghiên cứu trong

lĩnh vực khoa học pháp lý chứ chưa được ghi nhận dưới góc độ quy định của

Pháp luật nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Trong giáo trình Luật dân sự,

Trường Đại học Luật Hà nội đưa ra khái niệm về diện thừa kế như sau: “ Diện

những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa kế của

người chết theo quy định của Pháp luật” [Giáo trình Luật dân sự, tr 432]. Phạm

vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn

phát triển của xã hội cũng như quy định pháp luật của mỗi chế độ nhất định. Quá

trình đất nước đổi mới và phát triển, pháp luật thừa kế ở nước ta đã xóa bỏ

những tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam, khinh nữ và mở rộng diện thừa

kế. Theo đó, người thừa kế theo pháp luật phải có một trong ba mối quan hệ sau

đây với người để lại di sản: quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ

nuôi dưỡng.

2.1.1.1. Quan hệ hôn nhân

Quan hệ hôn nhân là một trong những căn cứ quan trọng để xác định diện

22

thừa kế theo pháp luật.

Theo quy định của Luật HNGĐ Việt Nam thì hôn nhân là quan hệ giữa vợ

và chồng sau khi đã kết hôn. Vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của

nhau khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ

hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ hôn

nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc hưởng di sản của nhau

được đảm bảo bằng các quy định của Pháp luật. Để có thể được Pháp luật thừa

nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp thì việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện

và thủ tục do pháp luật quy định. Hôn nhân hợp pháp phải đảm bảo cả về mặt

nội dung lẫn hình thức nghĩa là phải đảm bảo các điều kiện kết hôn và có đăng

ký kết hôn. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là bằng chứng của cuộc hôn nhân

hợp pháp. Từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận các

bên có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Giấy chứng nhận kết được coi là cơ sở

pháp lý để các bên yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh

chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trong quan hệ hôn nhân. Tuy

nhiên, trong trường hợp giấy chứng nhận kết hôn được cấp không đúng thẩm

quyền sẽ không làm phát sinh giá trị pháp lý, hai bên nam nữ không được coi là

vợ chồng và do đó, không thuộc diện thừa kế của nhau.

Trên thực tế, có một số trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan nên

vẫn tồn tại những quan hệ hôn nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng

lại vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn. Nguyên nhân bắt nguồn từ điều kiện lịch sử,

đất nước ta trải qua nhiều năm chiến tranh, nảy sinh nhiều trường hợp nam nữ

mới chỉ được gia đình tổ chức lễ cưới theo tập quán mà chưa tiến hành thủ tục

đăng ký kết hôn; do ảnh hưởng của những tập tục lạc hậu, dẫn tới ý thức của

người dân rất hạn chế, chỉ tôn trọng nghi thức cưới theo tập quán mà không đăng

ký kết hôn theo luật định, nhất là ở các khu vực nông thôn, miền núi, các vùng

dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo. Thực trạng này đã được giải quyết theo

hướng dẫn tại Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm

23

phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm

1986, Mục 2 của Nghị quyết đã đưa ra hướng dẫn giải quyết về trường hợp kết

hôn vi phạm Điều 8:

Trong thực tế vẫn có không ít trường hợp kết hôn không có đăng ký. Việc

này tuy có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp

luật, nếu việc kết hôn không trái với các điều 5, 6, 7. Trong trường hợp này, nếu

có một hoặc hai bên xin ly hôn, Tòa án không hủy việc kết hôn theo Điều 9 mà

xử như việc xin ly hôn theo Điều 40 [ Nghị quyết 01/1988 của HĐTP]

Quy định về việc thừa nhận hôn nhân thực tế như trên không chỉ góp phần

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của hai bên, đặc biệt là bảo vệ quyền

lợi của phụ nữ và trẻ em mà còn nhằm giải quyết những vướng mắc trong các giao

dịch do hai bên vợ chồng thực hiện với người thứ ba. Như vậy, trong trường hợp

hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng mặc dù không tiến hành thủ tục đăng ký

kết hôn nhưng đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn được Tòa án thừa nhận là trường

hợp hôn nhân thực tế thì vợ chồng vẫn thuộc diện thừa kế của nhau và còn là người

được thừa kế tài sản của nhau không phụ thuộc vào di chúc.

Nhằm giải quyết triệt để những quan hệ vợ chồng không tuân thủ quy định

của Luật HN&GĐ về đăng ký kết hôn, Khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ năm

2000 đã quy định “ Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau

như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng” [ LHNGĐ

2000]. Tiếp đó, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật HN&GĐ năm

2000, hướng dẫn giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng

mà không đăng ký kết hôn như sau: Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được

xác lập trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích

kết hôn, tức là việc đăng ký kết hôn không bị hạn chế về mặt thời gian và quan

hệ vợ chồng được công nhận kể từ ngày bắt đầu chung sống như vợ chồng chứ

không phải ngày đăng ký kết hôn. Nhưng nếu nam, nữ sống với nhau như vợ

chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo

24

quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thờ

hạn hai năm kể từ ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực cho đến ngày

01/01/2003. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật

không công nhận họ là vợ chồng. Kể từ sau ngày 01/01/2003 thì họ mới đăng ký

kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn.

Như vậy, tùy từng trường hợp mà pháp luật công nhận hôn nhân thực tế hay

không và khi đã được công nhận là hôn nhân thực tế thì giữa vợ chồng sẽ phát

sinh đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, trong đó có quyền được hưởng thừa kế theo

pháp luật của nhau.

Giả thiết được đặt ra là trong trường hợp nam nữ sống chung với nhau từ

ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định

Luật HN&GĐ năm 2000 nhưng chưa đi đăng ký kết hôn mà một bên chết trước

trong khoảng thời gian từ sau ngày 01/01/2001 và trước ngày 01/01/2003 thì có

thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau hay không? Mục II.1.b của Nghị

quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 06/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC

quy định: “…. Cho đến trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng

chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại

theo quy định của Pháp luật về thừa kế” [Nghị quyết số 01/2003 của HĐTP].

Quy định này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn.

Có thể nhận thấy việc thùa nhận hôn nhân thực tế chỉ mang tính tạm thời để

giải quyết thấu tình đạt lý những trường hợp do hoàn cảnh khách quan mang lại.

Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực, hôn nhân thực tế không được

thừa nhận nữa. Vì vậy, việc hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà không

đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quan hệ vợ chồng nên không thuộc diện

thừa kế theo pháp luật của nhau.

Luật HN&GĐ năm 2000 và năm 2014 quy định vợ chồng có quyền chia tài

sản chung trong thời kỳ hôn nhân để đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ

dân sự riêng… Vậy trong trường hợp vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung

khi hôn nhân tồn tại, sau đó một bên chết thì bên kia có được quyền hưởng thừa

25

kế di sản của người đã chết không? Theo khoản 1 Điều 680 BLDS 2005 và

khoản 1 Điều 655 BLDS 2015 đều quy định “ Trong trường hợp vợ, chồng đã

chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người

còn sống vẫn được thừa kế di sản” [BLDS 2015]. Quy định này hoàn toàn phù

hợp với bản chất của quan hệ hôn nhân và phù hợp với thực tiễn đời sống bởi

việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không dẫn tới hệ quả chấm dứt

quan hệ vợ chồng, do đó, vẫn phát sinh quyền thừa kế theo pháp luật giữa vợ,

chồng với nhau. Đây là quy định rất tiến bộ của Pháp luật hiện hành phù hợp với

đời sống xã hội cũng như nếp sống văn hóa hiện nay.

Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội. Pháp luật ghi

nhận vợ chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau một mặt xuất phát từ

quan hệ gắn bó tình cảm cùng xây dựng gia đình giữa vợ và chồng, mặt khác tạo cơ

sở vật chất để người còn sống tiếp tục gánh vác, duy trì cuộc sống gia đình.

2.1.1.2. Quan hệ huyết thống

Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dòng máu về

trực hệ hoặc bảng hệ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ. Quan hệ huyết

thống là cơ sở quan trọng, cơ bản quy định diện thừa kế theo pháp luật.

Để đảm bảo quyền và lợi ích về tài sản cũng như lợi ích về nhân thân của

cá nhân, việc xác định quan hệ huyết thống giữa cha, mẹ và các con là hết sức

quan trọng và cần thiết. Vấn đề xác định cha, mẹ cho con (kể cả con trong giá

thú và con ngoài giá thú) được Nhà nước ta rất quan tâm và được thể chế hóa

bằng các quy định của Pháp luật. Theo đó, tại khoản 1 Điều 63 Luật HN&GĐ

năm 2000 và Luật HN& GĐ 2014 đều quy định “ Con sinh ra trong thời kỳ hôn

nhân hoặc do người vợ mang thai trong thời kỳ đó là con chung vợ chồng. Con

sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung

của vợ chồng” [luật HNGĐ 2014]. Thông thường, việc xác định cha, mẹ cho con

ngoài giá thú sẽ phức tạp hơn bởi giữa cha, mẹ của người con không có hôn nhân

hợp pháp nên không thể suy đoán dựa cào “thời kỳ hôn nhân”. Trong trường hợp

cha mẹ không thừa nhận còn thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.

26

Trong trường hợp cần thiết thì phải giám định gen.

Hiện nay, quy định về xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương

pháp khoa học, chẳng hạn như bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm,

trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là rất phù hợp với thực tiễn đời

sống, vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa đảm bảo được quyền lợi của những

người liên quan.

Việc xác định cha, mẹ, con không những là cơ sở để xác định quyền và

nghĩa vụ của cha, mẹ và con đối với nhau trong quan hệ nhân thân mà còn là cơ

sở để xác định diện thừa kế giữa cha, mẹ và con khi một trong các bên đã chết.

2.1.1.3. Quan hệ nuôi dưỡng

Theo quy định của Pháp luật hiện hành, diện thừa kế được xác định trên cơ

sở quan hệ nuôi dưỡng bao gồm quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và

ngược lại. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định một trường hợp ngoại lệ đặc biệt,

đó là trường hợp con riêng với bố dượng, mẹ kế nếu đáp ứng điều kiện nhất

định. Như vậy, có thể khái quát quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ

chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của

pháp luật.

Trước hết xét đến quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Theo quy định tại

Điều 652 BLDS 2015 (kế thừa quy định tại Điều 678 BLDS 2005) thì “ Con

nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di

sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này” [BLDS 2015]. Điều

kiện để xác lập mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi là sự kiện nuôi con

nuôi được pháp luật thừa nhận. Pháp luật Việt Nam quy định khá chặt chẽ việc

nhận nuôi con nuôi nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người được nhận làm con

nuôi. Luật HN&GĐ các năm 1959, 1986, 2000, 2014 đều có những quy định về

điều kiện nhận nuôi con nuôi, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nhận

nuôi con nuôi. Đặc biệt, những quy định này đã được kế thừa và phát triển, ghi

nhận đầy đủ, cụ thể hơn trong văn bản pháp lý chuyên sâu, đó là sự ra đời của

Luật nuôi con nuôi năm 2010. Việc nhận con nuôi dựa trên ý chí chủ quan của

27

các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi.

Việc nuôi con nuôi hợp pháp sẽ dẫn tới hệ quả: kể từ ngày giao nhận con

nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và

con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các

quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình,

pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Hay nói cách

khác, con nuôi có đầy đủ quyền như con đẻ và được coi là hàng thừa kế thứ nhất

của cha, mẹ nuôi.

Như vậy, quan hệ cha, mẹ nuôi và con nuôi sẽ được xác lập nếu đáp ứng

đầy đủ các điều kiện về chủ thể, trình tự, thủ tục. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều

trường hợp họ có mối quan hệ gắn bó, chăm sóc nhau, coi nhau như cha mẹ, con

của nhau nhưng lại không đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Những

trường hợp này có được pháp luật thừa nhận là con nuôi thực tế hay không?

Đường lối giải quyết vấn đề này được quy định tại phần III.A.1 Thông tư 81:

“Con nuôi được thừa kế phải là con nuôi hợp pháp, tức là việc nuôi con

nuôi phải được Ủy ban nhân dân cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc đứa trẻ

công nhận và ghi vào sổ hộ tịch. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp

nhân dân chưa hiểu pháp luật cho nên chưa xin chính quyền công nhận và đăng

ký vào sổ hộ tịch việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, nếu việc nhận nuôi

con nuôi là ngay thẳng, cha mẹ đẻ của đứa trẻ hoàn toàn tự nguyện, việc nuôi

dưỡng đứa trẻ được đảm bảo, thì coi là con nuôi thực tế. Con nuôi và bố mẹ nuôi

có quyền thừa kế lẫn nhau” [Thông tư 81]

Ngoài ra, quan hệ thừa kế được xác định dựa trên cơ sở quan hệ nuôi dưỡng

còn bao gồm quan hệ giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế. Theo quy định tại Luật

HN&GĐ năm 2014 thì bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi

dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống chung với mình và ngược lại,

con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng

sống chung với mình. Mặc dù giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế không có mối

quan hệ sinh thành nhưng giữa họ đã thể hiện nghĩa vụ, chăm sóc, nuôi dưỡng

28

như cha con, mẹ con thì họ được thừa kế theo pháp luật của nhau. Vấn đề này đã

được ghi nhận cụ thể tại Điều 654 Bộ luật dân sự 2015 (kế thừa điều 679 BLDS

2005): “ Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng

nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế

di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này” [BLDS 2015].

Trước đó, thông tư số 81 cho đến Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và BLDS 1995

đều quy định con riêng và bố dượng, mẹ kế thuộc diện thừa kế theo pháp luật

của nhau khi một bên chết trước nếu giữa họ đã thể hiện được nghĩa vụ chăm

sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Như vậy, trải qua các thời kỳ, pháp

luật về thừa kế chỉ thừa nhận con riêng và bố dượng, mẹ kế thuộc diện thừa kế

theo pháp luật của nhau khi và chỉ khi đáp ứng điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng

nhau như cha con, mẹ con. Quy định này phù hợp với đạo đức xã hội và truyền

thống của người Việt Nam tuy nhiên vẫn còn mang tính chung chung. Việc chăm

sóc, nuôi dưỡng nhau như thế nào thì sẽ được coi là như cha con, mẹ con thì vẫn

chưa có những tiêu chí cụ thể. Điều này đã nảy sinh thực tế giữa các Tòa án khác

nhau sẽ có sự áp dụng khác nhau, không thống nhất đối với cùng một sự việc tương

tự. Do đó cần phải có sự hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để trước hết bảo vệ được quyền

và lợi ích chính đáng của con riêng, bố dượng, mẹ kế đồng thời tạo cơ sở pháp lý

cho việc áp dụng pháp luật thống nhất tránh tranh chấp có thể xảy ra.

Ngoài ba quan hệ: hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản

thì không có bất cứ quan hệ nào khác để xác định diện thừa kế theo pháp luật.

2.1.2. Hàng thừa kế theo pháp luật

Không phải ai thuộc diện thừa kế theo pháp luật cũng được hửng di sản

thừa kế mà họ chỉ có thể được hưởng nếu thỏa mãn các điều kiện do pháp luật

quy định. Điều kiện do pháp luật quy định hoàn toàn không phụ thuộc vào ý chí

chủ quan của người thừa kế. Trên cơ sở xác định phạm vi những người thuộc

diện thừa kế, pháp luật sắp xếp những người đó theo từng nhóm với thứ tự ưu

tiên dựa trên tính chất gần gũi giữa họ với người để lại di sản. Mỗi nhóm được

gọi là một hàng thừa kế và những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di

29

sản bằng nhau.

Theo pháp luật hiện hành, số lượng hàng thừa kế được chia thành ba hàng

và cơ sở để ghi nhận những người trong cùng một hàng tùy thuộc vào mức độ

gần gũi, thân thích với người để lại di sản. Hàng thừa kế được sắp xếp theo

nguyên tắc ưu tiên. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu

không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết hoặc bị truất quyền hưởng thừa kế

hoặc từ chối nhận di sản một cách hợp pháp.

Số lượng các hàng thừa kế và nguyên tắc phân chia người thừa kế theo các

hàng thừa kế

Pháp luật về thừa kế của nước ta quy định ba hàng thừa kế và những người

thuộc cùng một hàng thừa kế bao gồm cả những người có quan hệ huyết thống,

quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.

Nguyên tắc chia di sản thừa kế, trước kết sẽ chia di sản cho những người

thừa kế ở hàng trước, theo thứ tự ưu tiên chia trước, chia hết và chia đều bằng

nhau cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất. Nếu không có ai ở hàng thừa kế

thứ nhất do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản

hoặc từ chối quyền hưởng di sản, thì di sản mới đươc chuyển xuống và chia đều

cho những người ở hàng thừa kế thứ hai. Tương tự như vậy đối với hàng thừa kế

thứ ba. Theo quy định hiện hành, việc phân nhóm của những người thừa kế về

từng hàng thừa kế sẽ phụ thuộc vào mức độ thân thích, gần gũi với người để lại

di sản xét trên cả quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.

2.1.2.1. Hàng thừa kế thứ nhất

Theo quy định tại Điều 651 BLDS 2015, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm:

vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

Những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất dựa trên cả ba mối quan hệ bao

gồm quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Những người

thuộc hàng thừa kế thứ nhất đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau, là giám

hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều kiện luật định.

Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là mối quan hệ mang tính đối nhau,

30

nghĩa là bên này chết thì bên kia thuộc hàng thừa kế thứ nhất và ngược lại. Căn

cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân như với

các điêu kiện đã được phân tích ở trên. Bên cạnh đó, cần lưu ý trường hợp cán

bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ hoặc chồng ở miền Nam, tập kết ra Bắc năm 1954

lại lấy vợ hoặc chồng khác. Sau khi đất nước thống nhất (30/4/1975) họ trở về

đoàn tụ gia đình và thực tế đã tồn tại một người có hai vợ hoặc hai chồng. Do đó,

việc kết hôn của họ mặc dù đã vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng

nhưng không bị coi là việc kết hôn trái pháp luật. Khi giải quyết các trường hợp

này, quyền và lợi ích của tất cả các bên (trong đó có quyền được hưởng di sản

thừa kế của nhau) được Pháp luật quan tâm và bảo vệ

2.1.2.2. Hàng thừa kế thứ hai

Hàng thừa kế thứ hai được xác định căn cứ theo quy định tại điểm b khoản

1 Điều 651 BLDS năm 2015 bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh

ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là

ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Như vậy, những người thừa kế thuộc hàng

thừa kế thứ hai dựa trên mối quan hệ huyết thống. Ông nội, bà nội là người sinh

ra cha của cháu. Ông ngoại, bà ngoại là người sinh ra mẹ của cháu. Ông bà nội

ngoại là những người thân thích thuộc bề trên của người để lại di sản, có quyền

và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương

tốt cho con cháu. Do đó, nếu ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại còn sống vào

thời điểm người cháu chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ hai của

người cháu đó. Ngược lại, trong trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại chết thì

cháu ruột là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ hai. Quy định này hoàn

toàn phù hợp với nét đẹp đặc thù trong văn hóa Việt Nam: "kính trên, nhường

dưới, ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền. Anh ruột, chị ruột, em ruột là

anh, chị, em cùng mẹ hoặc cùng cha, nghĩa là một người mẹ sinh bao nhiêu

người con thì bấy nhiêu người con đó đều là anh, chị, em ruột của nhau không

phụ thuộc vào việc các người con đó là cùng cha hay khác cha. Cùng tương tự

như vậy, một người cha sinh ra bao nhiêu người con thì bấy nhiêu người con đó

31

đều là anh, chị, em ruột của nhau, không phụ thuộc vào việc các người con đó

cùng mẹ hay khác mẹ. Con riêng của vợ và con riêng của chồng thì không phải

là anh, chị, em ruột của nhau. Nếu anh hoặc chị hoặc cả anh chị chết thì em ruột

sẽ là người thuộc hàng thừa kế thứ hai đối với di sản của anh, chị đã chết và

ngược lại. Như đã chỉ ra ở trên, con nuôi không đương nhiên trở thành anh, chị,

em của con đẻ của người nuôi nên giữa con nuôi và con đẻ không phải là người

thừa kế theo pháp luật của nhau.

Tương tự như những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, những người thừa

kế thuộc hàng thứ hai cũng được hưởng phần di sản bằng nhau, không phân biệt

là người bề trên, người bề dưới hay người cùng bậc với người để lại di sản. Quy

định như vậy là phù hợp với mục đích duy trì, bảo vệ và phát triển di sản thừa kế

qua các thế hệ trong gia đình.

2.1.2.3. Hàng thừa kế thứ ba

Hàng thừa kế thứ ba được quy định đã dự liệu trường hợp cả hai hàng trên

không còn người thừa kế. Quy định như vậy nhằm đảm bảo sự nối tiếp về quyền

sở hữu tài sản trong dòng họ, đảm bảo quyền lợi của những người thân thích, gần

gũi với người để lại di sản. Những người thừa kế ở hàng thứ ba được quy định

tại điểm c khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015, bao gồm "cụ nội, cụ ngoại của

người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột

của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt

ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại" [BLDS 2015]. Có thể

nhận thấy, những người ở hàng thừa kế thứ ba gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc

trên - dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống.Cụ nội là ông nội, bà nội, ông

ngoại, bà ngoại của cha đẻ. Cụ ngoại là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của

mẹ đẻ. Khi người để lại di sản (chắt) chết thì cụ là người thuộc hàng thừa kế thứ

ba và ngược lại.

So sánh với quy định tương ứng trong BLDS năm 1995, cũng giống như

trường hợp giữa ông bà và cháu, BLDS năm 1995 không xếp chắt là hàng thừa

32

kế thứ ba của cụ nội, cụ ngoại. Đến BLDS năm 2005 đã có sự bổ sung, khắc

phục những hạn chế của những qui định trước đó, ghi nhận chắt thuộc hàng thừa

kế thứ ba của cụ nội, cụ ngoại.

Bác ruột là anh ruột hoặc chị ruột của cha đẻ hoặc mẹ đẻ của người chết để

lại di sản. Chú ruột là em trai ruột của cha đẻ của người chết để lại di sản. Cậu

ruột là em trai ruột của mẹ đẻ của người chết để lại di sản. Cô ruột là em gái ruột

của cha đẻ của người chết để lại di sản. Dì ruột là em gái ruột của mẹ đẻ của

người chết để lại di sản.

Quan hệ thừa kế giữa những người này và người để lại di sản hình thành

trên cơ sở mối quan hệ huyết thống giữa hai đời liền kề nhau.

Như vậy, khi chia thừa kế theo pháp luật, những người thừa kế trong cùng

một hàng sẽ được hướng phần di sản bằng nhau và theo thứ tự ưu tiên tuyệt đối

giữa các hàng. Trước hết, quyền ưu tiên thuộc về những người ở hàng thừa kế

thứ nhất bởi giữa họ có mối quan hệ thân thích, gần gũi nhất. Tiếp đó, nếu không

còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất

quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thì hàng thừa kế thứ hai sẽ được ưu

tiên nhận di sản. Tương tự, chỉ xét đến hàng thừa kế thứ ba khi không còn ai ở

hai hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai. Khi tất cả các hàng thừa kế không còn

người thừa kế thì di sản thuộc về Nhà nước.

Tuy nhiên, trên thực tế xét theo trình tự hàng thừa kế và thứ tự ưu tiên, rất

hiếm trường hợp những người ở hàng thứ ba được hưởng thừa kế và việc lập hồ sơ

đối với hàng thừa kế thứ ba gặp nhiều khó khăn so với việc lập hồ sơ đối với hàng

thừa kế thứ nhất và thứ hai. Lý do là bởi hàng thừa kế thứ ba được cơ cấu gồm nhiều

thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau, cả bên nội và bên ngoại của người để lại di

sản. Do đó, để xác minh liệt kê, tập hợp được đầy đủ những người thuộc hàng thừa kế

thứ ba không phải là đơn giản và rất dễ xảy ra tình trạng bỏ sót.

2.1.3. Thừa kế thế vị

2.1.3.1. Khái niệm thừa kế thế vị và đặc điểm của thừa kế thế vị

Theo nguyên tắc, người thừa kế là người có khả năng được hưởng di sản

33

theo qui định của pháp luật và phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy

nhiên, trên thực tế có những trường hợp người thừa kế không còn sống vào thời

điểm mở thừa kế (chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản).

Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích cho những người có quan hệ huyết thống

trực hệ gần gũi, thừa kế thế vị đã được quy định tại Điều 652 BLDS 2015 (kế

thừa Điều 634 BLDS năm 2005) “ Trường hợp con của người để lại di sản chết

trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần

di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết

trước hoặc cùng một thời điểm vớ người để lại di sản thì chắt được hưởng phần

di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. [BLDS 2015].

Theo nghĩa Hán – Việt, từ “thế” có nghĩa là “thay vào”, từ “vị” có nghĩa là

“ngôi thứ”, “ngôi vị”, “vị trí”. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học của

Trường Đại học Luật Hà Nội (xuất bản năm 1999), thừa kế thế vị được giải thích

như sau “Thừa kế thế vị là thừa kế bằng việc thay thế vị trí để hưởng thừa kế [Từ

điển giải thích thuật ngữ Luật học].

Như vậy, thừa kế thế vị được hiểu là việc cháu (chắt) được thay thế vị trí

của cha hoặc mẹ (ông hoặc bà) để hưởng di sản của ông hoặc bà (cụ) trong

trường hợp cha hoặc mẹ (ông hoặc bà) đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm

với ông hoặc bà (cụ).

Từ định nghĩa nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của thừa kế

thế vị như sau:

Thứ nhất: thừa kế thế vị chỉ phát sinh trong quan hệ thừa kế theo pháp luật.

Điều này được lý giải bởi người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chết trước

người lập di chúc thì phần di chúc liên quan đến người chết trước đó sẽ vô hiệu.

Thứ hai, thừa kế thế vị được quy định để bảo vệ quyền và lợi ích chính

đáng của cháu, chắt trong trường hợp cha, mẹ của cháu, chắt chết trước hoặc

chết cùng thời điểm với ông bà hoặc các cụ. Đây là những người có quan hệ

huyết thống gần gũi nhất với người để lại di sản.

Thứ ba, thừa kế thế vị phát sinh trên cơ sở quan hệ huyết thống và quan hệ

34

nuôi dưỡng giữa người để lại di sản với con cháy của người đó. Về quan hệ

huyết thống, thừa kế thế vị xét trên các yếu tố quan hệ huyết thống giữa người để

lại di sản và người thuộc hàng thừa kế thứ nhất có quan hệ cha con, mẹ con.

Thừa kế thế vị không những phát sinh giữa những người có quan hệ huyết thống

mà còn phát sinh giữa những người có quan hệ nuôi dưỡng nhau. Con nuôi chết

trước cha, mẹ nuôi thì con của con nuôi được hưởng thừa kế thế vị thay cha, mẹ

nuôi. Con riêng của vợ hoặc chồng với cha kế, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc,

nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì con đẻ của họ sẽ được hưởng thừa kế

thế vị khi học chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha kế, mẹ kế.

Thứ tư, thừa kế thế vị có mối quan hệ mật thiết với thừa kế theo hàng. Mặc

dù quan hệ thừa kế thế vị không phải là quan hệ thừa kế theo trình tự hàng

nhưng hàng thừa kế là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị trong trường

hợp con của người để lại di sản là người được hưởng thừa kế theo hàng nhưng đã

chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Những người thừa

kế thế vị chỉ được hưởng chung một suất thừa kế được chia theo pháp luật mà

người được thừa kế theo hàng được hưởng nếu còn sống nhưng đã chết trước

hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản

2.1.3.2. Các trường hợp thừa kế thế vị

BLDS 2005 và BLDS 2015 quy định cụ thể thừa kế thế vị được áp dụng

trong trường hợp con hoặc cháu chết trước hoặc chết cùng với thời điểm người

để lại di sản. Đây là điểm mới phù hợp với thực tế và bản chất của thừa kế thế vị

bởi lẽ BLDS 1995 chỉ quy định trường hợp con hoặc cháu chết trước thời điểm

người để lại di sản chết.

Thứ nhất, cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông bà

Thứ hai, chắt thế vị cha hoặc mẹ của chắt để hưởng di sản của cụ.

Chắt sẽ được thay thế vị trí của cha hoặc mẹ của chắt để hưởng di sản của

cụ khi thuộc một trong các trường hợp sau:

Một là, trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản,

35

cháu của người để lại di sản cũng chết trước với người để lại di sản nhưng chết sau

con của người để lại di sản sẽ được hưởng phần di sản mà cháu của người để lại di

sản được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết.

Hai là, trường hợp con, cháu của người để lại di sản đều chết cùng thời

điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cháu của người

để lại di sản được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.

Ba là, trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản,

cháu của người để lại di sản chết sau con của người để lại di sản nhưng chết

cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cháu

của người để lại di sản được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.

Trường hợp con của người để lại di sản không được quyền hưởng di sản

của người để lại di sản và cháu của người để lại di sản chết trước người để lại di

sản thì chắt cũng không được thế vị cháu để hưởng thừa kế đối với di sản của

người để lại di sản (nếu người để lại di sản không còn người thừa kế di sản ở

hàng thứ nhất).

2.2. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế theo

pháp luật

2.2.1. Khởi kiện và thụ lý giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật

2.2.1.1. Khởi kiện tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật

Khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình là một trong những quyền cơ bản của công dân để họ bảo vệ các quyền

dân sự của mình. Theo quy định tại Điều 4 của BLTTDS thì “Cơ quan, tổ chức,

cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải

quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý,

bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của mình hoặc người khác…” [BLTTDS, Điều 4].

Trong các vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp luật thì các đương sự thường

phát sinh mâu thuẫn về quyền hưởng di sản thừa kế hoặc mâu thuẫn về thực hiện

nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, khi giữa các bên không thể tự thỏa thuận

36

được, thì họ nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, có thể hiểu khởi kiện

vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp luật là người khởi kiện nộp đơn yêu cầu Tòa

án có thẩm quyền giải quyết mâu thuẫn về quyền thừa kế hoặc mâu thuẫn khi

thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại theo quy định của pháp luật tố

tụng dân sự. Tòa án chỉ có thể thụ ly đơn khởi kiện khi người khởi kiện nộp đơn

và được Tòa án ghi vào sổ nhận đơn. Ngày khởi kiện được xác định là ngày nộp

đơn. Nếu đương sự gửi đơn đến Tòa án qua bưu điện thì ngày khởi kiện được

xác định là ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Trường hợp không xác định được ngày

tháng năm theo dấu bưu điện thì ngày khởi kiện được xác định là ngày Tòa án nhận

được đơn do bưu điện chuyển đến. Quá trình xem xét đơn, nếu thấy đơn khởi kiện

không có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 192 BLTTDS thì Tòa án thông

báo cho người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy định.

2.2.1.2. Thụ lý vụ án tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật

Việc giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật cũng như giải quyết tranh

chấp thừa kế khác đều thuộc thẩm quyền của TAND các cấp. UBND không có

quyền giải quyết tranh chấp này. Đây là điểm đặc thù về thẩm quyền hoàn toàn

khác với các tranh chấp có liên quan như tranh chấp đất đai. Việc giải quyết

tranh chấp thừa kế không được giải quyết theo thủ tục hành chính mà tuân thủ

theo trình tự tố tụng tại Tòa án với những thủ tục chặt chẽ do BLTTDS và các

văn bản hướng dẫn thi hành.

Thẩm quyền của Tòa án các cấp đối với tranh chấp thừa kế theo pháp luật

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 BLTTDS thì Tòa án nhân dân cấp

huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự

quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này trong đó có tranh chấp về thừa

kế. Sự phân định thẩm quyền giữa Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án cấp

tỉnh trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế được BLTTDS quy định theo

phương pháp loại trừ. Cụ thể Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết

các vụ án tranh chấp di sản thừa kế có yếu tố nước ngoài; Trường hợp theo quy

định tại khoản 3 Điều 37 BLTTDS thì Tòa án cấp tỉnh sẽ giải quyết những tranh

37

chấp thừa kế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện nhưng Tòa án

tỉnh lấy lên để giải quyết. Đây là một trong những vướng mắc trong việc xác

định thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bởi vì, BLTTDS cũng như các văn bản

hướng dẫn thi hành không có quy định cụ thể trong trường hợp nào thì Tòa án

cấp tỉnh sẽ lấy các vụ án lên để giải quyết.

Bên cạnh đó, trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp xét xử

trong vụ án tranh chấp thừa kế cũng cần lưu ý những trường hợp Tòa án cấp tỉnh

đang giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế theo đúng thẩm quyền nhưng trong quá

trình giải quyết có sự thay đổi như đương sự không còn ở nước ngoài hoặc

không cần phải thực hiện việc ủy thác tư pháp thì không cần phải chuyển vụ án

cho Tòa án cấp huyện giải quyết mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh vẫn tiếp tục giải

quyết vụ án.

2.2.1.3. Xác định người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không

Khi xem xét điều kiện thụ lý vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp luật, Tòa

án cũng cần xác định người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không? Giống như

trong các vụ án dân sự khác, người khởi kiện tranh chấp thừa kế theo pháp luật

phải có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, tức là khả năng tự mình thực hiện

quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố

tụng dân sự. Người có quyền khởi kiện trong vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp

luật là người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Họ thường là những

người được hưởng quyền thừa kế, quyền này có thể được xác lập trên cơ sở pháp

luật khi họ là người thuộc diện thừa kế của người chết. Thực tế tranh chấp

thường xảy ra trường hợp các đồng thừa kế cùng khởi kiện một người để yêu cầu

Tòa án chia di sản thừa kế do người chết để lại. Sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án,

các đồng thừa kế có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho một trong số các đồng

thừa kế tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Sau khi xem xét đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định

được người khởi kiện có quyền khởi kiện, Tòa án phải tiến hành thụ lý vụ án,

phân công thẩm phán giải quyết vụ án theo thủ tục chung được quy định tại

38

BLTTDS.

2.2.2. Chuẩn bị xét xử và hòa giải trong giai quyết tranh chấp thừa kế

theo pháp luật

2.2.2.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử

Tòa án chính thức có thấm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế sau khi đã

tiến hành thụ lý vụ án. Nếu hòa giải không thành, Tòa án sẽ tiến hành củng cố

hoàn thiện hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm. Để chuẩn bị

xét xử Tòa án sẽ phải tiến hành các công việc chủ yếu sau: phân công thẩm phán

giải quyết vụ án; thông báo thụ lý vụ án; lập hồ sơ vụ án thu thập chứng cứ. Tuy

nhiên, thủ tục chuẩn bị xét xử tranh chấp thừa kế theo pháp luật, đặc biệt đối với

di sản tranh chấp là quyền sử dụng đất có những đặc thù, khác với thủ tục chuẩn

bị xét xử trong những vụ án dân sự khác.

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất là một tranh chấp phức tạp, luôn có

nhiều đương sự tham gia trong cùng vụ án, các đương sự có thể cư trú ở nhiều

địa điểm khác nhau. Để có thể giải quyết đúng vụ án, việc xác định tư cách

đương sự và những người tham gia tố tụng trong vụ án một cách đầy đủ đòi hỏi

kỹ năng của thẩm phán trong quá trình nghiên cứu hồ sơ.

Cũng như những vụ án tranh chấp dân sự khác hồ sơ vụ án tranh chấp thừa

kế theo pháp luật thường được xây dựng dựa trên nhiều nguồn chứng cứ khác

nhau. Chứng cứ để giải quyết vụ án thường do nguyên đơn, bị đơn hoặc người

bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên,

trong trường hợp Tòa án xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chưa đủ cơ sở

để giải quyết thi Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bố sung chứng cứ.

Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu

thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ

như: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; Trưng cầu giám định; Quyết

định định giá tài sản; Xem xét, thẩm định tại chỗ...

Trong quá trình giải quyết, tranh chấp thừa kế theo pháp luật, cần phải làm

rõ mối quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng với người

39

chết để lại di sán. Trong trường hợp có mâu thuẫn trong lời khai của đương sự,

Tòa án sẽ tiến hành đối chất để làm rõ nhũng nội dung còn mâu thuẫn, những

nội dung đương sự đã thống nhất với nhau. Trong quá trình lấy lời khai của

đương sự, Tòa án cũng phải làm rõ nguồn gốc, diễn biến quá trình sử dụng tài

sản - là di sản trong vụ án thừa kế. Đối với di sản thừa kế là quyền sử dụng đất

nhiều khi không tồn tại độc lập mà có thể nằm trong khối tài sản chung với

người khác. Do đó, trong trường hợp này Tòa án cần trao đổi, hướng dẫn đương

sự khai để làm rõ quyền sử dụng đất của người chết là bao nhiêu mét trong tổng

thể tài sản chung với đồng sở hữu? Trên đất có tài sản gắn liền với đất hay

không? Tài sản này là của ai?...

Cũng như các vụ án thừa kế khác, trong vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp

luật thì thời điểm mở thừa kế được xác định là thời điểm người để lại di sản chết,

thời điểm này được xác định dựa trên giấy chứng tử của người đó. Việc xác định

diện và hàng thừa kế sẽ dựa trên các tài liệu chứng minh quan hệ hôn nhân, quan

hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng giữa người chết và người thừa kế.Trên cơ

sở tài liệu, chứng cứ đương sự cung cấp, đề giải quyết hiệu quả vụ án tranh chấp

thừa kế theo pháp luật, Tòa án cần xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng,

lập sơ đồ huyết thống, sơ đồ quan hệ thừa kế như diện thừa kế, hàng thừa kế....

Bên cạnh đó, khi chuẩn bị xét xử vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp luật

Tòa án cũng cần thu thập các chứng cứ về nghĩa vụ tài sản và các chi phí liên

quan đến thừa kế được thanh toán từ di sản. Tòa án cần xác định xem người để

lại di sản thừa kế có để lại nghĩa vụ về tài sản và các chi phí liên quan đến thừa

kế được thanh toán từ di sản hay không? Đó là những nghĩa vụ nào? Chi phí

nào? Có liên quan đến ai?

* Về các biện pháp thu thập chứng cứ

- Trưng cầu giám định: Trong vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp luật, vấn

đề trưng cầu giám định thường xảy ra trong trường hợp giám định chữ ký, chữ

viết trong di chúc, giám định AND để xác định quan hệ huyết thống. Nhiều

trường hợp người để lại di sản thừa kế có để lại di chúc nhưng một hoặc một số

40

đương sự nghi ngờ về tính xác thực của di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án

trưng cầu giám định để xác định di chúc đó là thật hay giả. Một đặc thù khác về

giám định trong tranh chấp thừa kế là giám định AND. Theo quy định của pháp

luật thừa kế theo pháp luật thì quan hệ huyết thống là căn cứ quan trọng để xác

định người được hưởng thừa kế. Trong trường hợp người chết để lại di sản có

con ngoài giá thú thì việc trưng cầu giám định AND sẽ là cơ sở quan trọng để

xác định mối quan hệ huyết thống người đó với người để lại di sản.

- Định giá, thẩm định giá di sản thừa kế

Cơ sở để Tòa án tuyên một bản án hợp pháp, phân chia chính xác kỷ phần

thừa kế cho các đồng thừa kế là việc xác định giá trị của di sản thừa kế. Di sản

thừa kế trong trường hợp là quyền sử dụng đất thì việc định giá đúng tài sản là

không đơn giản. Hoạt động định giá, thẩm định giá di sản thừa kế có thể được

thực hiện thông qua Hội đồng định giá nhà nước hoặc các tổ chức, cơ sở định

giá tư nhân được Nhà nước cấp phép hoạt động.

- Ủy thác thu thập chứng cử

Trường hợp trong vụ án có đương sự hoặc nhân chứng ở quá xa hoặc bị ốm

đau; tài sản tranh chấp ở một huyện, tỉnh khác, thì Tòa án đang thụ lý vụ án có

thể uý thác cho Toà án huyện nơi ở của đương sự, nhân chứng hoặc nơi có tài

sản đang tranh chấp lấy lời khai của đương sự, nhân chứng hoặc xem xét tài sán

đó. Đối với tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất quy định về ủy thác thu thập

chứng cứ thực sự có ý nghĩa thiết thực, bởi đương sự trong vụ án thường rất

đông và có thể cư trú ở nhiều địa phương khác nhau. Mặt khác, quy định về

thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với tranh chấp này sẽ dẫn đến biện pháp ủy

thác thu thập chứng cứ sẽ được sử dụng thường xuyên hơn. Trong trường hợp

nơi cư trú của bị đơn không đồng thời là nơi có bất động sản thì thẩm quyền giải

quyết vụ án là của Tòa án nơi bị đơn cư trú. Khi đó, để giải quyết vụ án thuận

lợi và hiệu quả Tòa án có thẩm quyền sẽ tiến hành ủy thác cho Tòa án nơi có bất

động sản xem xét, xác minh tài liệu chứng cứ liên quan đến di sản là quyền sử

41

dụng đất.

2.2.2.2. Thủ tục hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của đương sự

Cũng như việc hòa giải trong các tranh chấp dân sự khác, theo quy định tại

Điều 208 BLTTDS Thẩm phán phải tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp,

tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử để các

đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ tranh chấp thừa kế theo

pháp luật. Quy định này là phù hợp, có ý nghĩa nhân văn và thật sự cần thiết

trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. theo pháp luật. Như

đã đề cập ớ trên, đặc thù của đương sự trong tranh chấp này là những người có

cùng quan hệ huyết thống, dòng tộc, quan hệ hôn nhân... những mối quan hệ rất

gần gũi về mặt tinh cảm. Họ là cha, mẹ, vợ chồng, anh chị em của nhau, vì

không thể giải quyết được mâu thuẫn nên đã nhờ Tòa án giải quyết. Vỉ vậy, hòa

giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là tạo cho họ cơ hội được thỏa thuận lại sau

khi được tư vấn, giải thích, tạo điều kiện cho họ hàn gắn lại tình cảm, đoàn tụ lại

với nhau, giữ gìn được gắn kết gia đình. Không những vậy, hòa giải thành sẽ

giúp giải quyết vụ án hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí. Tuy nhiên, một số

trường hợp không thể hòa giải được do gặp những khó khăn nhất định, chẳng

hạn bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt hay

đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.. .vv;

Khi hòa giải, thẩm phán phải giữ vai trò trung gian trong việc hòa giải các

bên đương sự. Thẩm phán có thể phân tích cho các bên thấy được nội dung vụ

việc, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp thừa kế, phổ biến các quy định có liên

quan đến nội dung tranh chấp thừa kế theo pháp luật; phân tích hậu quả pháp lý

của việc hoà giải thành cho các đương sự biết (như mối quan hệ giữa các đương

sự, việc chịu án phí...) Thấm phán không được nói trước với các đương sự ai sai,

ai đúng ở chỗ nào hoặc nếu các đương sự không thoả thuận được, thì hướng xét

xử của Toà án như thế nào... Khi giải thích, Thẩm phán cần có thái độ khách

quan, vô tư, không áp đặt và tuyệt đối không được tiết lộ đường lối xót xử.

Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu

42

các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán chỉ

ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, nếu các đương sự thoả

thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ tranh chấp thừa kế theo pháp luật

và cả về án phí.

2.2.2.3. Phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu các đương sự không thỏa thuận được

với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nhưng không thoả thuận được với

nhau về trách nhiệm phải chịu án phí hoặc mức án phí, thì Toà án không công

nhận sự thoả thuận của các đương sự mà tiến hành mở phiên toà để xét xử vụ án.

Thủ tục phiên tòa sơ thẩm được BLTTDS quy định cụ thể tại Chương XIV,

từ Điều 222 đến Điều 269.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung, rút một

phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; bị đơn có quyền thay đổi, bổ sung, rút một

phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố; những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu độc lập. Việc thay

đổi, bổ sung yêu cầu không được vượt quá yêu cầu khởi kiện.

trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và

thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái

đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của

các đương sự về việc giải quyết vụ án.

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp

luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục

phúc thẩm.

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị

nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức

xã hội.

Trường hợp các đương sự không thể thỏa thuận được với nhau về toàn bộ

nội dung vụ án thì HĐXX tiếp tục xét xử, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại

43

phiên tòa gồm các bước: trình bày của đương sự, hỏi tại phiên tòa, tranh luận,

phát biểu của Kiểm sát viên. Sau khi kết thúc phần tranh tụng tại phiên tòa,

HĐXX nghị án và tuyên bản án. Quá trình diễn biến tại phiên tòa, HĐXX có thể

thực hiện việc hoãn phiên tòa hoặc tạm ngừng phiên tòa nếu xét thấy có các căn

cứ quy định pháp luật.

Sau khi HĐXX tuyên bản án, các đương sự có quyền kháng cáo bản án

theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự vẫn có quyền

thỏa thuận toàn bộ nội dung vụ án, nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện hoặc giữ

nguyên yêu cầu khởi kiện; đưa ra quan điểm về quyết định của bản án sơ thẩm.

Bản án phúc thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật ngay.

2.3. Di sản thừa kế theo pháp luật và chia di sản thừa kế

2.3.1. Di sản thừa kế theo pháp luật

Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp, quyền về tài

sản của người đã chết (gồm cả quyền sử dụng đất) mà không bao gồm các nghĩa

vụ tài sản của người đó và được chuyển dịch hợp pháp cho những người thừa kế

có quyền hưởng.Theo quy định tại Điều 612 BLDS 2015 thì "Di sản bao gồm tài

sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với

người khác" [BLDS 2015].

Di sản thừa kế theo pháp luật được xác định như sau:

Thứ nhất, tài sản riêng của người chết.

Theo quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015 thì "Tài sản là vật, tiền, giấy

tờ có giá và quyền tài sản" [BLDS 2015]. Như vậy, thành phần di sản bao gồm

nhiều loại tài sản khác nhau và không bị hạn chế về số lượng, giá trị. Tài sản

riêng là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập hợp pháp, được tặng cho, được

thừa kế,... Tài sản riêng thuộc quyền sở hữu độc lập của người đó khi còn sống,

chẳng hạn như tiền lương, tiền thưởng, tư trang. Trong quan hệ hôn nhân, tài sản

riêng của vợ hoặc chồng bao gồm tài sản của vợ hoặc chồng có trước khi kết

hôn; tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong

thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ hoặc chồng được chia trong trường hợp chia tài

44

sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Thứ hai, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.

Di sản của người chết không chỉ bao gồm tài sản riêng của người đó để lại

mà còn bao gồm cả tài sản trong khối tài sản chung với người khác. Trên thực tế,

có nhiều trường hợp tài sản là tài sản chung của nhiều người do được tặng cho

chung, thừa kế chung hoặc cùng góp vốn để hợp tác kinh doanh tìm kiếm lợi

nhuận... Do đó, khi một đồng chủ sở hữu chét thì phần tài sản thuộc sở hữu của

người đó có trong khối tài sản chung được xác định là di sản. Theo qui định của

pháp luật có hai hình thức sở hữu chung đó là sở hữu chung hợp nhất và sở hữu

chung theo phần. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất và

tài sản chung với người khác là sờ hữu chung theo phần.

Trong trường họp người để lại di sản khi còn sống là một trong những đồng

sở hữu chung theo phần, khi chết phần quyền tài sản của người này trong khối

tài sản chung sẽ là di sản thừa kế.

Ngoài những trường hợp điển hình ở trên, BLDS hiện hành còn quy định rõ

các quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, các khoản

tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tiền bảo hiểm là di sản thừa kế

của người chết để lại.

Điểm đáng chú ý ở trường hợp này là không phải tất cả các tài sản, quyền

tài sản của người đã chết đều được coi là di sản thừa kế quyền tài sản và nghĩa

vụ tài sản gắn liền với nhân thân người để lại di sản không được coi là di sản

thừa kế như quyền nhận trợ cấp, quyền được nhận lương, nghĩa vụ cấp dưỡng

của người để lại di sản khi còn sống cho con chưa thành niên, con đã thành niên

nhưng không có khả năng lao động....vì đây là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá

nhân không thể chuyển giao cho người khác.

2.4.2. Chia di sản thừa kế theo pháp luật

Người được hưởng thừa kế theo pháp luật có trách nhiệm thực hiện nghĩa

vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản mà họ được hưởng. Sau khi

45

đã thanh toán xong nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại theo thứ tự ưu tiên và

các khoản chi phí liên quan đến thừa kế, phần di sản còn lại sẽ được chia cho

những người thừa kế.

Khác với việc phân chia di sản theo di chúc, phân chia di sản theo pháp luật

không dựa vào ý chí của người để lại di sản mà phân chia theo ý chí của Nhà

nước đồng thời có tính đến sự thỏa thuận của những người thừa kế. Nếu như

phân chia di sản theo di chúc, người được hưởng di sản có thể là bất kỳ ai, phần

di sản mỗi người được hưởng có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau thì phân

chia di sản theo pháp luật, người được hưởng thừa kế chỉ có thể là cá nhân, xét

theo hàng thừa kế và phần di sản được hưởng ngang nhau.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 660 BLDS năm 2015 thì khi phân chia di

sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải

dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng. Nếu

người này được sinh ra và còn sống sau thời điểm người để lại di sản chết nhưng

đã thành thai trước khi người để lại di sản chết thì được hưởng phần di sản này.

Trong trường hợp người này được sinh ra mà chết ngay hoặc chết trước khi được

sinh ra thì phần di sản này sẽ được chia đều cho những người thừa kế khác ở

cùng hàng. Quy định như vậy nhằm báo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người

có quan hệ huyết thống gần gũi sẽ được sinh ra.

Theo tinh thần tại khoản 2 Điều 660 BLDS năm 2015, khi tiến hành phân

chia di sản theo pháp luật, những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di

sản bằng hiện vật. Tuy nhiên, di sản để lại vô cùng đa dạng, gồm nhiều loại khác

nhau và không phải vật nào cũng chia được.

Giải pháp đặt ra đối với trường hợp vật không chia được thì những người

thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận

hiện vật, nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

Nếu di sản là các quyền tài sản (quyền sử dụng đất, quyền tác giả, quyền sở

hữu công nghiệp,...) thì giá trị của quyền tài sản được xác định bằng khoản tiền

46

cụ thể sau đó chia đều cho những người được hưởng thừa kế.

Xác định di sản thừa kế và phương thức phân chia thừa kế theo pháp luật có

ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi không có di sản thừa kế thì sẽ không bao giờ

phát sinh quan hệ thừa kế.

2.4.3. Những trường hợp mới phát sinh khi chia di sản thừa kế theo pháp luật

Chia di sản thừa kế theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền thừa kế của những

người có quyền hưởng thừa kế trong trường hợp không được định đoạt theo ý chí

của người để lại di sản trong di chúc. Liên quan đến vấn đề phân chia di sản thừa

kế theo pháp luật, theo quy định tại Điều 662 BLDS năm 2015 đã đưa ra giải

pháp giải quyết cho hai trường hợp có thể phát sinh, đó là có người thừa kế mới

hoặc người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế.

Thứ nhất, trường hợp có người thừa kế mới: Người thừa kế mới được hiểu

là sau khi di sản được phân chia mới xuất hiện người thừa kế này. Trước hết phải

kể đến trường hợp những người thừa kế dành lại một suất di sản cho người thừa

kế cùng hàng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết được sinh ra và còn

sống sau khi người để lại di sản chết, nhưng sau đó lại xảy ra sự kiện sinh đôi

hoặc sinh ba,... Hoặc trường hợp bản án, quyết định của Tòa án xác nhận một

người là cha, mẹ, con của người chết nhưng bản án, quyết định này có hiệu lực

sau thời điểm phân chia di sản thừa kế. Trong những trường hợp này, theo quy

định tại Điều 662 BLDS 2015, hướng dẫn xử lý như sau: không thực hiện việc

phân chia lại di sản bằng hiện vật nhưng những người đã nhận di sản phải thanh

toán cho người thừa kế mới khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó

tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận. Bên

cạnh đó, những người thừa kế có thể thỏa thuận với nhau theo phương thức nhất

định nhưng không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.

Trên thực tế có thê phát sinh trường hợp cha, mẹ, con của người để lại di

sản bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết, sau khi phân chia xong di sản,

người đó lại trở về. Đối với tình huống này, thì người bị tuyên bố là đã chết mà

còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản,

47

giá trị tài sản hiện còn.

Như vậy, người hưởng di sản thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết sau

đó lại trở về có nghĩa vụ hoàn trả cho người trở về phần tài sản, giá trị tài sản

hiện còn. Tài sản hiện còn được hiểu là tài sản đó vẫn còn tồn tại ở dạng tài sản

này hay dạng tài sản khác đều mang giá trị tài sản. Trong trường hợp người thừa

kế của người bị tuyên bố là đã chết mặc dù biết người này còn sống nhưng vẫn

cố tình giấu giếm tài sản có được do được thừa kế thì phải hoàn trả lại toàn bộ tài

sản đã nhận bao gồm cả hoa lợi, lợi tức và nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Thứ hai, trường hợp người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế: người thừa kế

bị bác bỏ quyền thừa kế được hiểu là người sau khi phân chia di sản họ mới

được xác định là không có quyền hưởng di sản. Người thừa kế bị bác bỏ quyền

thừa kế có thể là người nhận di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Khoản 2 Điều 662 BLDS năm 2015 quy định như sau:

Trong trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền

thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương

đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người

thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác [BLDS 2015],

Người bị bác bỏ quyền thừa kế được xác định trong trường hợp họ không

có quyền hưởng thừa kế hoặc có thế xảy ra trong trường hợp người thừa kế theo

di chúc đã nhận di sản thừa kế được chia nhưng sau đó phần di chúc liên quan

đến người này bị xác định là vô hiệu.

Người thừa kế đã nhận di sản mà sau đó bị bác bỏ quyền thừa kế thi người

này phải trả lại di sản hoặc thanh toán khoản tiền tương đương với giá trị di sản

được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế hoặc phương

thức trả lại được xác định theo sự thỏa thuận của những người thừa kế và người

bị bác bỏ quyền thừa kế.

Phần di sản mà người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế hoàn trả sẽ được

chia cho những người thừa kế trong cùng hàng có quyền hưởng di sản.

Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc đã nhận phần di sản nhưng

48

sau đó bị bác bỏ quyền thừa kế do phần di chúc liên quan đến người này bị vô

hiệu, thì người bị bác bỏ có nghĩa vụ thanh toán như đã nêu ở trên và phần di sản

này được chia theo pháp luật cho những người thừa kế theo hàng có quyền

hưởng thừa kế.

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ, giai đoạn lịch

sử khác nhau, thừa kế (bao gồm hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế

theo pháp luật) luôn được coi là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự

Việt Nam. Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển di sản của người đã chết cho

người còn sống theo điều kiện, trình tự hàng thừa kế. Nội dung chính để xác định

những người thừa kế theo pháp luật chính là việc xác định diện và hàng thừa kế.

Theo đó, pháp luật hiện hành quy định diện thừa kế dựa trên quan hệ huyết

thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế với người

để lại di sản. Điểm đặc biệt và tiến bộ là không có sự phân biệt giữa con trai, con

gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, tất cả đều được bảo đảm quyền và

lợi ích hợp pháp. Trên cơ sở diện thừa kế, pháp luật còn quy định cụ thể về hàng

thừa kế theo thứ tự ưu tiên dựa trên tính chất gần gũi với người để lại di sản. Một

điểm đặc biệt nữa tạo nên sự khác biệt giữa thừa kế theo pháp luật và thừa kế

theo di chúc chính là thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị chỉ phát sinh trong quan hệ

thừa kế theo pháp luật, về bản chất là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

những người có quan hệ huyết thống gần nhất với người để lại di sản mà ở đây

không ai khác ngoài các con, các cháu của người để lại di sản. Trên cơ sở đó, các

cháu, chắt sẽ được thay thế cha, mẹ hoặc ông bà để hưởng di sản của ông, bà, cụ

trong trường hợp cha mẹ hoặc ông bà đã chết trước hoặc chết cùng một thời

điểm với ông, bà hoặc cụ. Bên cạnh đó, pháp luật về thừa kế còn dự liệu và đưa

ra giải pháp giải quyết các trường hợp mới phát sinh khi chia di sản thừa kế theo

pháp luật, chẳng hạn như trường hợp có người thừa kế mới hoặc người thừa kế

bị bác bỏ quyền thừa kế. Những qui định này không những bảo vệ được quyền

thừa kế của công dân mà còn thể hiện chủ trương đường lối phù hợp với thực

49

tiễn đời sống xã hội.

Tiểu kết chương 2

Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người

còn sống theo các điều kiện, trình tự hàng thừa kế. Nội dung chính được xác

định những người thừa kế theo pháp luật chính là việc xác định diện và hàng

thừa kế. Theo đó, pháp luật hiện hành quy định diện thừa kế dựa trên quan hệ

huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế với

người để lại di sản. Điểm đặc biệt và tiến bộ là không có sự phân biệt giữa con

trai, con gái, con trong giá thú hoặc con ngoài giá thú, tất cả đều được đảm bảo

quyền và lợi ích hợp pháp. Trên cơ sở diện thừa kế, pháp luật còn quy định cụ

thể về hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên dựa trên tính chất gần gũi với người để

lại di sản. Một điểm đặc biệt nữa tạo nên sự khác biệt giữa thừa kế theo pháp luật

và thừa kế theo di chúc chính là thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị chỉ phát sinh trong

quan hệ thừa kế theo pháp luật, về bản chất là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của những người có quan hệ huyết thống gần nhất với người để lại di sản

mà ở đây không ai khác ngoài các con, các cháu của người để lại di sản. Trên cơ

sở đó, các cháu, chắt sẽ được thay thế cha, mẹ hoặc ông bà để hưởng di sản của

ông, bà, cụ trong trường hợp cha mẹ hoặc ông bà đã chết trước hoặc chết cùng

một thời điểm với ông, bà hoặc cụ. Bên cạnh đó, pháp luật về thừa kế còn dự

liệu và đưa ra giải pháp giải quyết các trường hợp mới phát sinh khi chia di sản

thừa kế theo pháp luật, chẳng hạn như trường hợp có người thừa kế mới hoặc

người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế.

Pháp luật tố tụng dân sự quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về di

sản thừa kế nói chung, thừa kế theo pháp luật nói riêng thuộc thẩm quyền giải

quyết của Tòa án. Trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp này được quy

định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Việc quy định cụ thể về trình tự tố tụng và pháp

luật nội dung thừa kế theo pháp luật góp phần giải quyết tốt loại tranh chấp về

thừa kế. Những qui định này không những bảo vệ được quyền thừa kế của công

50

dân mà còn thể hiện chủ trương đường lối phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội.

Chương 3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ VÀ KIẾN NGHỊ

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

3.1. Một số đặc điểm chung địa bàn tỉnh Phú Thọ

Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng miền núi trung du Bắc Bộ. Địa giới hành chính

của tỉnh tiếp giáp với tỉnh Tuyên Quang về phía Bắc; tỉnh Hòa Bình về phía

Nam; tỉnh Vĩnh Phúc về phía Đông; thành phố Hà Nội về phía Đông Nam; tỉnh

Sơn La, Yên Bái về phía Tây.

Nằm trong khu vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và

vùng Tây Bắc, Phú Thọ có vị trí địa lý mang ý nghĩa là trung tâm tiểu vùng Tây

– Đông – Bắc; cách trung tâm Hà Nội khoảng 80km về phía Bắc, cách sân bay

Quốc tế Nội Bài khoảng 60km. Với vị trí “ngã ba sông” – điểm giao nhau của

sông Hồng, sông Đà và sông Lô, là cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội, Phú

Thọ là đầu mối trung chuyển, giao lưu kinh tế giữa các tỉnh vùng đồng bằng Bắc

Bộ với các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và hai tỉnh Quảng Tây, Vân Nam,

Trung Quốc. Nằm trong vành đai của các tuyến trục giao thông quan trọng:

đường bộ có Quốc lộ 2, Cao tốc Nội Bài – Lào Cai, đường Hồ Chí Minh, đường

sắt có tuyến đường xuyên Á, đường sông chạy từ Trung Quốc qua các tỉnh phía

Tây vùng Đông Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới tỏa đi Hà Nội, Hải Phòng và

các khu vực khác.

Dân số toàn tỉnh trên 1,37 triệu người, gồm 34 dân tộc anh em, mật độ

dân số 388 người/km2 (Theo niên giám Thống kê năm 2015).

3.2. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật trên

địa bàn tỉnh Phú Thọ

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng

đa dạng của các quan hệ xã hội, các tranh chấp về thừa kế nói chung và thừa kế

theo pháp luật nói riêng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cũng như trong cả nước ta đều

51

có xu hướng gia tăng về số lượng vụ án và phức tạp về nội dung, đặc biệt là các

tranh chấp thừa kế về nhà ở, quyền sử dụng đất bởi đây là loại tài sản có giá trị

lớn và có liên quan mật thiết đến chính sách đất đai của nhà nước. Thực tiễn giải

quyết các trường hợp tranh chấp thừa kế, Tòa án các cấp đã gặp phải ít khó khăn

bởi các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống thực tiễn hết sức đa dạng trong

đó tranh chấp về thừa kế nói chung, tranh chấp về thừa kế theo pháp luật nói

riêng xảy ra ngày một nhiều. Trước đây, do cuộc sống vật chất còn đơn giản, di

sản thừa kế mà người chết để lại chỉ đơn thuần là các vật phẩm tiêu dùng, cao

hơn nữa là nhà cửa, đất đai. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã

hội thì việc mỗi cá nhân có một giá trị tài sản lớn, nếu khi họ chết đi mà ý chí

định đoạt về tài sản không được thể hiện bởi các chứng cứ pháp lý hoặc có thể

hiện nhưng chưa đúng theo trình tự luật định dẫn đến xảy ra các tranh chấp.

3.2.1. Những kết quả đạt được

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về vấn đề thụ lý

và giải quyết các vụ việc về thừa kế trong 05 năm gần đây (từ 2014 đến năm

2018) thì số lượng vụ án tranh chấp về thừa kế chiếm một tỷ lệ ngày càng tăng.

Dưới đây là bảng thể hiện số lượng các vụ án về thừa kế được thụ lý, giải quyết

ở cấp sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2014 đến năm 2018)

Bảng 2.1. Số lượng án tranh chấp di sản thừa kế trên địa bàn

tỉnh Phú Thọ

Năm

2015 2016 2017 2018 Tổng Tổng số án dân sự thụ lý 4.818 4.241 4.530 4.948 18.537 Tổng số án tranh chấp di sản thừa kế 102 95 97 125 419 Tỉ lệ (%) 2,117 2,240 2,141 2,526 2,226

(Nguồn: Báo cáo (hoặc số liệu) của TAND tỉnh Phú Thọ từ năm 2015 đến năm 2018)

Qua bảng thống kê số liệu từ năm 2015 đến 2018 cho thấy số lượng án

tranh chấp di sản thừa kế 04 năm trở lại đây chiếm khoảng 2,226% tổng lượng

án dân sự đã thụ lý,giải quyết của tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ. So với

52

các quan hệ pháp luật tranh chấp của loại án dân sự là rất đa dạng với nhiều loại

quan hệ khác nhau, vì vậy tỷ lệ trên cho thấy tranh chấp thừa kế là một quan hệ

tranh chấp phức tạp trong đời sống xã hội. Năm 2015 số lượng án tranh chấp di

sản thừa kế là 102 vụ chiếm tỷ lệ 2,117% lượng án dân sự mà Tòa án nhân dân

hai cấp tỉnh Phú Thọ đã giải quyết. năm 2016 số vụ án chia di sản thừa kế có

giảm nhưng so với tỷ lệ vụ án dân sự mà Tòa án giải quyết thì tỷ lệ án thừa kế lại

tăng so với các loại án khác. Năm 2018, số lượng các vụ án thừa kế mà Tòa án

nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ thụ lý và giải quyết tăng so với các năm trước.

Tổng số vụ án về tranh chấp di sản thừa kế là 125 vụ, so với năm 2017 đã tăng

28 vụ. Ngoài nguyên nhân do sự phát triển của xã hội, sự chuyển biến về mặt

kinh tế dẫn đến việc tăng loại tranh chấp này thì còn có một nguyên nhân dẫn

đến sự gia tăng về tranh chấp di sản thừa kế, đó là sự thay đổi về các quy định

của Pháp luật về thời hiệu khởi kiện. Tại Điều 645 BLDS 2005 quy định “thời

hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của

mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm kể từ thời điểm

mở thừa kế”[BLDS 2005]. Tuy nhiên, tại Điều 623 BLDS 2015 đã có sự thay

đổi về thời hiệu khởi kiện, cụ thể “ Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di

sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở

thừa kế..”[BLDS 2015]. Quy định này đã mở rộng tăng thời hiệu khởi kiện chia

di sản thừa kế đối với bất động sản là từ 10 năm lên 30 năm. Thực tiễn cho thấy

các tranh chấp về di sản thừa kế chủ yếu là bất động sản. Vì vậy, đối với một số

vụ án, trước thời điểm ngày 01/01/2017 Bộ luật dân sự sửa đổi có hiệu lực, một

số tranh chấp thừa kế do hết thời hiệu khởi kiện nên họ không tiến hành khởi

kiện vụ án. Sau khi BLDS 2015 có hiệu lực pháp luật, họ nhận thấy thời hiệu

khởi kiện vẫn còn nên họ đã tiến hành các thủ tục khởi kiện tranh chấp tại Tòa

án. Qua xem xét số liệu các vụ án đã giải quyết, tỷ lệ giải quyết tranh chấp di sản

thừa kế theo di chúc ở các thành phố lớn, nơi có trình độ dân trí đồng đều hơn

cũng như người dân có điều kiện để tiếp cận các dịch vụ tư vấn pháp luật là cao

hơn so với tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật. Ngược lại, tại các huyện

53

vùng nông thôn, tỷ lệ tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật diễn ra nhiều hơn

bởi lẽ, họ thường không quan tâm đến hình thức di chúc. Thậm chí họ không

lường trước được mâu thuẫn giữa nội bộ gia đình nên vấn đề thực hiện di chúc

trước khi chết không được lưu tâm.

Bảng 2.2. Bảng biểu số liệu án tranh chấp di sản thừa kế

Năm

Tổng số lượng án tranh chấp thừa kế

Số lượng án tranh chấp di sản thừa kế theo di chúc

Số lượng án tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật 55 50 52 68 225 47 45 45 57 194 2015 2016 2017 2018 Tổng cộng 102 95 97 125 419

(Nguồn: Báo cáo (hoặc số liệu) của TAND tỉnh Phú Thọ)

Qua số liệu thống kê cho thấy, số lượng án tranh chấp di sản thừa kế theo

pháp luật qua các năm từ 2015 đến 2018 có sự gia tăng. Lượng án tranh chấp

năm 2018 tăng nhiều so với các năm trước. Trong số các vụ án tranh chấp di sản

thừa kế thì khoảng 80% là tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản trên đất.

Mặc dù số lượng các vụ án tranh chấp về di sản thừa kế theo pháp luật có xu

hướng tăng lên, nhưng do chủ động nắm bắt được tình hình, đội ngũ thẩm phán

hiện nay được đào tạo cơ bản và chuyên sâu, Tòa án nhân dân hai cấp đã đề ra

nhiều biện pháp tổ chức và thực hiện nghiêm túc, trong đó chú trọng công tác tập

huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nên công tác xét xử có những chuyển

biến tích cực và đạt được những kết quả nhất định. Chỉ tiêu xét xử các loại vụ án

tranh chấp thừa kế nói chung cũng như những vụ tranh chấp thừa kế theo pháp

luật nói riêng tiếp tục được bảo đảm. Hầu hết các vụ án đều được giải quyết, xét

xử trong thời hạn luật định.

Mặt khác, việc giải quyết các vụ việc tranh chấp thừa kế di sản theo pháp

luật đã được thực hiện đúng các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự, áp dụng

đúng các quy định của Pháp luật nội dung, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của

các bên đương sự; đồng thời Tòa án hai cấp tỉnh Phú Thọ đã làm tốt công tác hòa

54

giải trong giải quyết các tranh chấp này, thông qua đó giúp cho việc giải quyết

vụ án nhanh chóng, góp phần củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân và

tăng cường uy tín của Nhà nước. Đồng thời trong công tác giải quyết tranh chấp

thừa kế, Tòa án đã thực hiện nhiều giải pháp như tăng cường kiểm tra việc thực

hiện nhiệm vụ công tác của cán bộ, công chức; chủ động nắm bắt tiến độ và xây

dựng kế hoạch công tác xét xử của các đơn vị; tăng cường sự phối hợp của các

cơ quan liên quan. Khi giải quyết vụ tranh chấp, Tòa án quan tâm làm tốt việc

hướng dẫn đương sự thực hiện nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, đồng thời tích

cực xác minh, thu thập chứng cứ trong các trường hợp cần thiết. Công tác hòa

giải được chú trọng giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, đồng thời góp

phần củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Tỷ lệ hòa giải thành khi giải

quyết tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật là khoảng 30%.

Sau đây là một ví dụ điển hình về thực hiện tốt công tác hòa giải trong quá

trình giải quyết tranh chấp di sản thừa kế. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cụ Đào Văn Q và cụ Nguyễn Thị T chung sống với nhau từ năm 1952 và

sinh được 04 người con gồm ông Đào Văn B, ông Đào Văn Tr, bà Đào Thị H và

bà Đào Thị M. Tài sản chung 2 cụ gây dựng được là 1200m2 đất trong đó có

400m2 đất ở và 800m2 đất vườn tại khu 11, xã Minh Tiến, huyện Đoan Hùng,

tỉnh Phú Thọ. Trên đất có 01 ngôi nhà gỗ 3 gian. Năm 2000 cụ Đào Văn Q chết.

Trước khi chết cụ có viết 01 bản di chúc với nội dung giao cho ông Đào Văn B

400m2 đất ở + 200m2 đất thổ cư và ngôi nhà gỗ. Còn lại 600m2 đất thổ cư giao

cho ông Đào Văn Tr (là con trai thứ hai sử dụng). Bản di chúc này do ông B giữ,

chỉ có một mình cụ Q ký và không có xác nhận của cơ quan chức năng nào cũng

như không có người làm chứng. Sau khi cụ Quy chết thì vợ chồng ông Đào Văn

B (vợ là bà Trương Thị A) về ở chung với cụ Nguyễn Thị T và chăm sóc cụ T.

Tháng 3/2016 thì cụ T chết. Cụ T không để lại di chúc.

Tháng 2/2018 Bà Đào Thị H và bà Đào Thị M có đơn khởi kiện gửi đến

TAND huyện Đoan Hùng để nghị chia thừa kế di sản của cụ Q và cụ T để lại. Bà

H và bà M cho rằng hai cụ chết không để lại di chúc, đề nghị chia thừa kế theo

55

Pháp luật. Quá trình Tòa án tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án, ông B xuất trình

bản di chúc của cụ Q, yêu cầu được hưởng di sản như trong nội dung di chúc,

không nhất trí chia di sản cho bà H và bà M. Ông Tr cũng cho rằng ông được

hưởng di sản theo di chúc của cụ Q để lại, không nhất trí chia tài sản cho 2 bà.

Các bên đều thừa nhận chữ ký trong bản di chúc là của cụ Q. Tuy nhiên, hai bà

cho rằng, cụ Q biết kí chữ ký tên của mình nhưng bản di chúc đó không phải của

cụ Q viết mà do người khác viết, cụ Q chỉ có chữ ký trong bản di chúc. Vấn đề

được đặt ra khi giải quyết vụ án là Thẩm phán được giao vụ án ngoài kỹ năng

xác định tính pháp lý của di chúc có hiệu lực hay không còn phải có kỹ năng hòa

giải vụ án. Thẩm phán giải thích pháp luật như thế nào, phân tích hậu quả pháp

lý ra sao để đương sự có thể hiểu được giá trị của hòa giải thành những vẫn

không gây hiểu lầm cho rằng thẩm phán thiên vị đối với một bên đương sự. Để

đương sự có thể hiểu được các quy định pháp luật trong trường hợp này cần có

sự dẫn chiếu, hướng dẫn các đương sự tự tìm hiểu các quy định của pháp luật về

tính hợp pháp của di chúc, các điều kiện thuận lợi khi các đương sự thỏa thuận

được với nhau để tránh gây mất đoàn kết trong gia đình họ. Sau khi kiên trì hòa

giải, tháng 6/2018, ông B và ông Tr, bà H, bà M đều nhất trí thỏa thuận với nhau

để ông Q được sử dụng ngôi nhà gỗ cùng 400m2 đất (300m đất ở và 100m đất

vườn); ông Tr được sử dụng 400m2 đất (trong đó 100m2 đất ở và 300m2 đất vườn);

bà H và bà M mỗi người được sử dụng 200m2 đất vườn. Tòa án đã ra quyết định

công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định của Pháp luật.

Thực tiễn cũng cho thấy tranh chấp di sản thừa kế có nhiều loại tranh chấp

khác nhau như: tranh chấp về hiệu lực của di chúc do di chúc lập không đúng thủ

tục mà pháp luật đã quy định; tranh chấp về hiệu lực của di chúc do người làm

chứng di chúc không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; tranh chấp di sản

thừa kế mà người để lại di sản không có di chúc; Tranh chấp giữa những người

thừa kế theo luật với nhau vì việc phân chia di sản không đồng đều; Tranh chấp

về thừa kế vì những người thừa kế cho rằng có người thừa kế không được quyền

56

hướng di sản; Tranh chấp thừa kế do xác định không chính xác về di sản thừa kế.

Sau đây là một ví dụ về tranh chấp thừa kế do các bên đương sự xác định

không chính xác về di sản thừa kế. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cụ Vi Văn Th và cụ Lê Thị C kết hôn với nhau năm 1948 và sinh được 06

người con gồm: Bà Vi Thị Huyền Ng- sinh năm 1950, bà Vi Thị B- sinh năm

1952, Bà Vi Thị V - sinh năm 1958, ông Vi Quang H - sinh năm 1957, ông Vi

Quang A -sinh năm 1962, ông Vi Văn Nh, sinh năm 1967. Tài sản cụ Th và cụ C

để lại gồm: Diện tích đất 4.032m2 tại khu 6, phường Thanh Vinh, thị xã Phú

Thọ, tỉnh Phú Thọ. Trên đất có 01 nhà gỗ, 01 nhà bếp, giếng nước, sân gạch và

cây cối trên đất. Cụ C chết năm 1984. Cụ Vi Văn Th chết năm 2016. Năm 2003,

khi cụ Vi Văn Th còn sống đã chia cho bà Vi Thị Huyền Ng 01 sào đất ở cổng

vào, chia cho bà Vi Thị B 01 sào đất ở cổng vào, chia cho bà Vi Thị V 01 sào đất

ở cổng vào, chia cho H được 1,5 sào đất phía sau nhà, chia cho ông Vi Quang A

được 1,5 sào đất ở phía sau nhà, chia cho ông Vi Văn Nh 04 sào ở phía sau nhà,

còn 01 sào đất có nhà gỗ và công trình phụ trên đất cụ Th giữ lại chưa chia cho

ai. Năm 2003 cụ Th cho ông Nh 1 sào đất và ngôi nhà gỗ với điều kiện ông Nh

phải ở cùng cụ để chăm sóc, nuôi dưỡng cụ cho đến khi qua đời; Năm 2007 ông

Vi Quang A viết giấy bán 1,5 sào đất được chia cho bà Vi Thị Huyền Ng với giá

70.000.000đ ; ông Vi Văn Nh bán 01 sào đất kèm theo 01 nhà gỗ + 04 sào đất đã

được chia trước đó cho bà Ng với giá 300.000.000đ. Bà Vi thị B bán cho bà Ng

01 sào đất với giá 40.000.000đ. Kể từ 2008 cho đến nay bà Ng sinh sống trên

toàn bộ nhà và đất của cụ Th, còn cụ Th đến nhà ông A ở cho đến khi chết (năm

2016). Năm 2018, ông Vi Quang H khởi kiện đến Tòa án yêu cầu chia toàn bộ di

sản thừa kế là nhà và đất trên của cụ Th để lại theo pháp luật, xin được hưởng

toàn bộ cây cối trên đất phần mình được chia. Ông H xin được hưởng 540m2 đất

được chia trồng cây lâu năm phía sau nhà; Ngoài ra phần diện tích 360m2 đất có

01 nhà gỗ ông đề nghị giao cho ông và ông A sở hữu, sử dụng chung. Ông đề

nghị bà Ng phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông 40.000.000 đồng tiền thu nhập

từ cây cối trong vườn từ năm 2007 đến tháng 9/2018. Đối với phần diện tích 1,5

57

sào đất chia cho ông A, 04 sào đất chia cho ông Nh, 1 sào đất cho bà V, 01sào

đất chia cho bà B, 01 sào đất chia cho bà Ng ông đồng ý để cho các ông bà sử

dụng. Còn việc các ông bà đã bán tài sản cho nhau ông không có ý kiến gì và

không tham gia.

Quá trình TAND thị xã Phú Thọ giải quyết vụ án, bà Ng đã xuất trình 02

bản di chúc của cụ Vi Văn Th trong đó có 01 bản di chúc có nội dung đã cho các

con diện tích đất như trên, tuy nhiên đối với 01 nhà gỗ và 01 sào đất thì không có

trong nội dung di chúc (Trong bản di chúc có đầy đủ các chữ ký của các con);

còn 01 bản di chúc có nội dung cho tặng bà Ng toàn bộ cây cối trên đất.

Mặc dù tất cả các con trong hàng thừa kế thứ nhất của cụ Th đều thừa nhận

ý chí trong nội dung bản di chúc do bà Ng xuất trình là đúng nhưng lại không

thừa nhận bản di chúc đó là của cụ Th. Nguyên đơn và những người có quyền lợi

nghĩa vụ liên quan đều cho rằng bản di chúc đó là giả mạo, các chữ ký trong bản

di chúc đó không phải chữ ký của cụ Th và của các con cụ Th. Di chúc không

được công chứng, chứng thực. Những người có tên trong chữ ký của người làm

chứng đều đã chết và không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh chữ ký của họ

là đúng. Đối với bản di chúc cho tặng bà Ng toàn bộ cây cối trên đất, các thừa kế

đều không thừa nhận nội dung di chúc đó.

Quá trình Tòa án thu thập chứng cứ thì trước khi chết, cụ Vi Văn Th còn

phải có nghĩa vụ nộp 23.794.000 đồng tiền án phí với nhà nước trong 01 bản án

dân sự khác từ năm 2003.

Vấn đề đặt ra khi giải quyết tranh chấp di sản thừa kế trong vụ án trên là thẩm

phán cần xác định được di sản thừa kế ở đây là những tài sản gì ? Di chúc do bị đơn

(bà Ng) xuất trình có hiệu lực pháp luật không ? Việc mua bán tài sản là quyền sử

dụng đất khi cụ Th còn sống mà không có ý kiến của cụ Th bằng văn bản, chưa phát

sinh quyền tài sản đối của các thừa kế như trên có được công nhận ?

Di chúc của cụ Th trong vụ án này không được xác định là di chúc hợp

pháp bởi các lý do: Di chúc không do người để lại di sản tự viết. Các con cụ Th

đều xác nhận cụ Th có biết đọc chữ nhưng chữ viết trong di chúc do bà Ng xuất

58

trình không phải chữ của cụ Th. Hơn nữa bản di chúc không tuân thủ hình thức

được quy định tại BLDS. Chữ ký của ông H, ông A, bà V, bà B đều là chữ kí

giả, không phải là chữ kí của những người này. Di chúc có 03 người làm chứng

nhưng tất cả những người làm chứng đó đều đã chết trước thời điểm Tòa án tiến

hành thụ lý vụ án, các con của những người làm chứng đều xác nhận các chữ kí

trong bản di chúc đó không phải của người thân của họ.

Mặc dù các đồng thừa kế gồm ông H, bà V, bà B, ông Nh, ông A đều

không thừa nhận bản di chúc đó nhưng đều thừa nhận tinh thần của bản di chúc

về việc cụ Th đã đồng ý cho các con tài sản gồm ông H, ông A mỗi người 1,5

sào đất ; bà V, bà B, bà Ng mỗi người 01 sào đất ; ông Nh 04 sào đất. Bà V hiện

đã làm nhà ở cố định trên đất. Ông A, ông Nh, bà B đã chuyển nhượng cho bà

Ng, thực tế bà Ng đã ở trên đất và canh tác trên đất từ năm 2017 đến nay. Các

bên đều không có tranh chấp gì về diện tích đất đã bán và diện tích đất thực tế

của bà V. Vì vậy Tòa án công nhận sự phân chia, mua bán và thỏa thuận của các

đương sự đối với phần diện tích đất này. Riêng 01 sào đất và 01 nhà gỗ trên đất,

các bên không thống nhất được quan điểm, vì vậy Tòa án đã xác định, di sản

thừa kế của cụ Th và cụ C còn lại là tài sản chung của hai cụ gồm 01 nhà gỗ, 01

sào đất và toàn bộ cây cối trên diện tích 01 sào đất này. Do ông Nh đã bán lại

cho bà Ng, nên xác định hợp đồng mua bán này là vô hiệu, ông Nh có nghĩa vụ

trả lại tiền cho bà Ng theo giá trị tài sản tại thời điểm giải quyết vụ án. Khi chia

di sản thừa kế, các thừa kế phải có thanh toán nghĩa vụ của cụ Th (khoản án phí

đối với Nhà nước) theo tỉ lệ tương ứng với kỉ phần tài sản mà họ được chia.

3.2.2. Những tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, thực tiễn giải quyết tranh chấp

thừa kế theo pháp luật vẫn còn tồn tại nhiều bất cập.

Theo số liệu thống kê TANDTC nói chung và số liệu giải quyết án năm

2018 thì trong những năm gần đây số vụ án tranh chấp thừa kế được Tòa án đã

thụ lý nhưng kéo dài thời gian giải quyết. Có những vụ án kéo dài nhiều năm.

Bên cạnh đó, số lượng các vụ án có người báo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

59

đương sự đặc biệt là luật sư còn ít, vai trò của luật sư chưa được coi trọng. Theo

thống kê từ báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án thì tỷ lệ luật sư tham gia các

vụ án tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp thừa kế nói riêng chỉ chiếm

trung bình khoảng 10 - 20%. Điều này cho thấy các đương sự chưa chú trọng tới

việc nhờ người bảo vệ quyền lợi cho mình do chưa ý thức được tầm quan trọng

của việc này.

Số lượng án đã xét xử sơ thẩm bị kháng cáo chiếm tỷ lệ cao, vẫn còn có những

vụ án bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và bị sửa, hủy.

Bảng 2.3. Số lượng án tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật

Bị hủy, sửa theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm

Năm

Tổng số án chia tài sản thừa kế bị KC, KN Tỉ lệ (%)

Tổng số án tranh chấp di sản thừa kế bị hủy, sửa

Án bị sửa Án bị bủy

Phúc thẩm Giám đốc thẩm

2015 2016 2017 2018 Tổng 30 23 27 33 02 0 0 01 05 04 03 06 02 0 01 01

(Nguồn: Báo cáo (hoặc số liệu) của TAND tỉnh Phú Thọ từ năm 2015 đến

năm 2018)

Năm 2015, số án tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật kháng cáo, kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm là 30 vụ/ 55 vụ án tranh chấp di sản thừa kế mà Tòa

án hai cấp tỉnh Phú Thọ đã xét xử; Năm 2016 số liệu này giảm xuống còn 23

vụ/50 vụ đã xét xử; năm 2017 tăng lên là 27 vụ/ 52 vụ đã xét xử và năm 2018

tăng lên 33 vụ/ 68 vụ đã xét xử. Số lượng án tranh chấp thừa kế theo pháp luật

bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm năm 2015 là 02 vụ và năm 2018 là 01

vụ. Cũng theo số liệu báo cáo của tỉnh Phú Thọ từ năm 2015 đến năm 2018 cho

thấy số lượng án tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật bị hủy, sửa chiếm tỷ lệ

cao. Cụ thể năm 2015, số vụ án bị sửa là 05 vụ /55 vụ án tranh chấp di sản thừa

kế theo pháp luật, chiếm tỷ lệ 0,90% tổng số án tranh chấp thừa kế theo pháp

luật mà tòa án hai cấp tỉnh Phú Thọ đã thụ lý. Con số này đã chứng tỏ giải quyết

60

tranh chấp di sản thừa kế là loại vụ việc khó, đòi hỏi kỹ năng giải quyết của

thẩm phán ngoài trình độ chuyên môn còn phải có kiến thức thực tế.

Những tồn tại, hạn chế trong giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật có

thể được nhìn nhận từ những bất cập trong quy định pháp luật và từ thực hiện

giải quyết tranh tranh chấp này tại Tòa án. Cụ thể:

Thứ nhất, xác định đương sự trong giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật.

Hiện nay, quy định của pháp luật thừa kế vẫn còn tồn tại những bất cập gây

khó khăn cho việc xác định đương sự trong vụ án tranh chấp thừa kế theo pháp

luật. Chăng hạn, việc xác định đối tượng hưởng di sản thừa kế trong trường hợp

thừa kế thế vị hay xác định đối tượng hưởng di sản trên cơ sở mối quan hệ nuôi

dưỡng giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế. Cụ thể:

Đối với trường hợp xác định người được hưởng di sản thừa kế tài sản theo

thừa kế thế vị. Khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 quy định về hành vi của người

không có quyền hưởng di sản thừa kế của người để lại di sản. Vấn đề đặt ra,

trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người

để lại di sản nhưng người con đó khi còn sống lại bị kết án về một trong những

hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 621 BLDS thì cháu có được hưởng thừa kế

thế vị không? Pháp luật chưa có quy định cụ thể về vấn đề này, do đó, khi Tòa

án giải quyết những tranh chấp thừa kế tài sản liên quan đến thừa kế thế vị trong

trường họp này vẫn còn gây nên nhiều tranh cãi.

Đối với trường hợp quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế.

Điều 654 BLDS quy định con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm

sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được hưởng di sản thừa kế của

nhau. Như vậy, tiêu chí để xác định con riêng với bố dượng, mẹ kế có được

hưởng thừa kế của nhau hay không là dựa vào quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng

lẫn nhau. Nếu hai phía không có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau thi

không được hưởng thừa kế của nhau. Tuy nhiên, xác định thế nào là có quan hệ

chăm sóc, nuôi dưỡng? Thế nào là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như cha

con, mẹ con thì pháp luật chưa quy định rõ ràng, cụ thể. Hoàn toàn không có cơ

sở, tiêu chí để xác định thể nào là quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng giữa con riêng

và bố dượng, mẹ kế. Thời gian, mức độ nuôi dưỡng, chăm sóc thế nào thì đáp

61

ứng được đủ điều kiện được hưởng thừa kế của nhau? Bên cạnh đó, quan hệ

chăm sóc, nuôi dưỡng một chiều có được xem như là cha con, mẹ con được

hưởng thừa kế không? Xét đến quan hệ nuôi dưỡng không nhất thiết phải quy

định điều kiện họ cùng chung sống với nhau. Bởi trên thực tế, nhiều trường hợp

người con riêng ờ xa nhưng vẫn chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ kế chu đáo, tận

tâm. Vậy họ có được coi là quan hệ nuôi dường, chăm sóc không? Việc xác định

đúng những vấn đề này là tiền đề quan trọng để giải quyết những tranh chấp

thừa kế theo pháp luật mà người được thừa kế với người đồ lại di sản có quan hệ

con riêng, mẹ kế và con riêng, cha dượng. Trên thực tế, có rất nhiều những tranh

chấp thừa kế theo pháp luật, do không xác định được thế nào là có quan hệ

chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con mà khi giải quyết đã ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích của những người con riêng, bố dượng, mẹ kế, làm

cho công tác xét xử, giải quyết thiếu tính chính xác, hiệu quả.

Vấn đề xác định người được hưởng di sản thừa kế là con ngoài giá thú của

người chết cũng là một khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án.

Thông thường trong trường hợp có mâu thuẫn khi xác định đối tượng hưởng di

sản thừa kế có liên quan đến con ngoài giá thú, Tòa án sẽ tiến hành trưng cầu

giám định DNA. Tuy nhiên, pháp luật không có những quy định cụ thể về cơ

quan nào có thẩm quyền tiến hành giám định AND, trình tự, thủ tục như thế

nào? Thiết nghĩ, đây là một trong những vướng mắc cần phải nhanh chóng có

những quy định cụ thể để hướng dẫn và áp dụng trên thực tế, đảm bảo hiệu quả

giải quyết các tranh chấp thừa kế theo pháp luật nói riêng cũng như các tranh

chấp thừa kế nói chung.

Trong thực tế nhiều Tòa án sai lầm trong thu thập, đánh giá chứng cứ, bỏ

qua việc giám định ADN dẫn đến sai sót trong xác định đương sự.

Ví dụ: Cụ Ngô Văn Ng và cụ Nguyễn Thị Tr kết hôn năm 1952. Quá trình

chung sống, cụ Ng và cụ Tr sinh được 08 người con gồm: Ông Ngô Văn Th (đã

chết), ông Ngô Quang L, ông Ngô Văn H, ông Ngô Văn T, bà Ngô Thị Đ, bà

Ngô Thị Th, bà Ngô Thị Kh, ông Ngô Ngọc A. Năm 1996 cụ Nguyễn Thị Tr chết, năm 2016 cụ Ngô Văn Ng chết. Di sản của cụ Ng và cụ Tr để lại là 1000m2

đất tại xã Tiên Phú, huyện Phù Ninh, Phú Thọ. Ông Ngô Văn H là người quản

62

lý toàn bộ di sản trên.

Tháng 7/2018, anh Ngô Văn Q (là con của ông Ngô Văn Th) có đơn khởi

kiện đối với ông Ngô Văn H, đề nghị chia thừa kế di sản thừa kế của cụ Ng và

cụ Tr. Anh Q cho rằng cụ Ng và cụ Tr khi chết không để lại di chúc. Quá trình

Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án, ông H đã xuất trình 01 bản di chúc được lập từ

22/4/2003 của cụ Ng có nội dung giao toàn bộ tài sản cho ông H được toàn

quyền sử dụng nhưng ông H phải có nghĩa vụ chăm sóc cụ Ng cho đến khi cụ

Ng chết. Bản di chúc có chữ ký xác nhận nội dung di chúc của trưởng khu. Tại

phiên tòa, các đồng thừa kế đều xác định và thừa nhận chữ trong nội dung bản di

chúc là chữ viết của cụ Ng, chữ ký là của cụ Ng nhưng các bên đều cho rằng chữ

ký của cụ Tr thì không đúng bởi cụ Tr không biết đọc, không biết viết và cũng

không biết ký. Bản thân ông H cũng thừa nhận chữ ký đó không phải của cụ Tr

mà là của cụ Ng viết luôn tên của cụ Tr do cụ Tr không biết chữ. Tuy nhiên, anh

Q khai thực tế cụ Tr còn có một người con riêng tên là Ngô Quang C, ông C đã

chết từ năm 2013 (chết trước cụ Ng). Ông C có 01 con trai là Ngô Văn D. Anh

D không xuất trình được tài liệu pháp lý nào để chứng minh ông C là con của cụ

Ng. Trong khi đó, các đồng thừa kế đều không thừa nhận việc ông C là con riêng

của cụ Ng.

Vấn đề được đặt ra khi giải quyết vụ án là bản di chúc của cụ Ng có hiệu

lực không? Đối với phần di sản của cụ Tr, do không thể hiện được ý chí của cụ

Tr trong bản di chúc (không có chữ ký, chữ viết) nên việc cụ Ng định đoạt cả

phần tài sản của cụ Tr dẫn đến di chúc bị vô hiệu một phần. Đối với phần di

chúc của cụ Ng, anh D không thừa nhận chữ ký và chữ viết của cụ Ng. Tòa án

đã tiến hành giám định đối với chữ ký và chữ viết của cụ Ng, nhưng lại không

thực hiện việc giám định AND đối với anh D (là con của ông C) để xác định

quan hệ huyết thống và xác định anh D có thuộc diện hưởng thừa kế thế vị

không là việc xác minh, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ khi giải quyết vụ án.

Thứ hai: Xác định thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế.

Theo quy định Điều 645 BLDS 2005 thì thời hiệu khởi kiện trong vụ án

thừa kế là 10 kể từ thời điểm mở thừa kế, hết thời hiệu trên đương sự không có

quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, tiểu

63

mục 2.4, mục 1, Phần I của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 đã

hướng dẫn cụ thể trường họp không xác định thời hiệu chia thừa kể, cụ thể là

việc chuyển sang chia tài sản chung đối với di sản thừa kế trong trường hợp hết

thời hiệu chia thừa kế. Pháp luật đã quy định rõ điều kiện để Tòa án thụ lý vụ án

chia tài sản chung trong trường hợp này đó là các đồng thừa kế không có tranh

chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia.

Thực tế giải quyết tranh chấp thừa kế trong trường hợp này cũng tồn tại không ít

những vướng mắc, khó khăn. Chẳng hạn, trường hợp các đồng nguyên đơn đều

thống nhất là tài sản chung do người chết để lại chưa chia nhưng bị đơn - người

đang trực tiếp quản lý sử dụng tài sản thì cho rằng mình đã được người để lại di

sản tặng cho riêng. Các đương sự trong vụ án thường có lời khai mâu thuẫn

nhau, thậm chí các bên đều không có chứng cứ đề chứng minh cho lời khai của

mình. Bên cạnh đó, việc thống nhất của các đồng thừa kế cần thể hiện dưới hình

thức gì? Phải thể hiện nội dung ra sao? Thực tế, nội dung thống nhất của các

đồng thừa kế nhiều khi được chứa dựng trong biên bản họp gia đình, biên bản

hòa giải...vậy sự thống nhất này của các đồng thừa kế có được thừa nhận? Pháp

luật cần có những quy định cụ thể để giải quyết những vướng mắc kể trên, tránh

trường họp các Tòa án có thể hiểu quy định luật theo hướng khác nhau ảnh

hướng đến việc giải quyết tranh chấp.

Tại Điều 623 BLDS 2015 đã có sự sửa đổi về thời hiệu chia thừa kế, theo

đó thời hiệu chia thừa kế đối với bất động sản là 30 năm (mở rộng hơn so với

quy định 10 năm của BLDS 2005). Vì vậy, đối với những hồ sơ khởi kiện chưa

được giải quyết thì kể từ 01/01/2018 được áp dụng quy định thời hiệu của

BLDS 2015 để giải quyết vụ án, giải quyết được bài toán vướng mắc về chia tài

sản chung sau khi hết thời hiệu chia thừa kế.

Thứ ba: Những vướng mắc về thụ lý án

Trong quá trình thụ lý vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất thường

có những tồn tại, vướng mắc sau:

- Một là, Tòa án tự đặt ra những điều kiện không phù hợp với quy định

pháp luật, gây khó khăn cho người khởi kiện. Theo quy định pháp luật, Tòa án

chỉ trả lại đơn khởi kiện cho đương sự trong trường hợp đương sự ghi không đầy

64

đủ, hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, nhiều trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện

hoặc yêu cầu người khởi kiện phải cung cấp thêm những tài liệu không đúng

quy định. Chẳng hạn, Tòa án yêu cầu người khởi kiện phải có xác nhận bằng

văn bản của chính quyền địa phương về địa chỉ, nơi cư trú của người bị kiện.

Yêu cầu trên của Tòa án là không có căn cứ bởi lẽ đơn khởi kiện của đương sự

đã ghi đúng và đầy đủ nội dung thông tin về người bị kiện và gửi kèm theo tài

liệu đúng quy định của BLTTDS. Mặt khác, BLTTDS cũng như các văn bản

hướng dẫn thi hành không quy định người khởi kiện trong trường hợp này phải

xuất trình thêm văn bán xác nhận của chính quyền địa phương về tên, địa chỉ

của người bị kiện.

Hai là, nhận thức chưa đúng về yêu cầu phản tố của bị đơn trong việc giải

quyết các tranh chấp thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại Điều 200

BLTTDS thì bị đơn có quyền có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có

quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, việc nhận định thế nào là yêu cầu phản

tố của bị đơn là vấn đề mà quá trình áp dụng giải quyết tranh chấp đang gặp rất

nhiều vướng mắc. Mặc dù, Khoan 2 Điều 200 BLTTDS và hướng dẫn tại Điều

12 Nghị quyết số 05/2012 /NQ - HĐTP thì được coi là yêu cầu phản tố của bị

đơn nếu: Độc lập, không cùng về yêu cầu của nguyên đơn/người liên quan; Bù

trừ, loại trừ nghĩa vụ của bị đơn đối với nguyên đơn/ người liên quan, vấn đề

vướng mắc xuất phát chính từ việc chưa có khái niệm cụ thể nào về yêu cầu

phản tố và yêu cầu phản bác trong tố tụng dân sự được ghi nhận trong luật. Thực

tiễn xét xử còn tồn tại nhiều quan điểm về xác định yêu cầu phản tố và phân biệt

yêu cầu phản tố với phản đối. Yêu cầu phản tố của đương sự trong vụ án tranh

chấp thừa kế theo pháp luật, đặc biệt đối với quyền sử dụng đất thường xảy

trong trường hợp người chết để lại khối di sản có nhiều mảnh đất khác nhau

nhưng nguyên đơn chỉ khởi kiện yêu cầu chia 01 mảnh đất, sau đó bị đơn yêu

cầu chia thừa kế đối với những mảnh còn lại.

Thứ tư, một số vấn đề còn tồn tại trong các quy định về thừa kế theo pháp

luật theo Bộ luật Dân sự hiện hành

65

* Trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học.

Sinh con theo phương pháp khoa học là một vấn đề rất phức tạp và nhạy

cảm bởi biện pháp này không đơn thuần thuộc lĩnh vực khoa học mà còn liên

quan đến vẩn đề đạo đức, tình cảm, pháp lý. Bên cạnh đó, biện pháp này không

chỉ phát sinh trong quan hệ giữa cặp vợ chồng vô sinh với nhau mà còn liên quan

đến cả người thứ ba, đó là người cho tinh trùng, cho trứng, cho phôi. Trước thực

tế đó, Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật HN & GĐ năm 2014 đã quy định về việc

xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học.

Theo các quy định hiện hành của BLDS năm 2015, vấn đề thừa kế trong trường

hợp con được sinh ra theo phương pháp khoa học chưa được ghi nhận cụ thể. Việc

xác định cha, mẹ và con sinh ra trong trường hợp này là một yêu cầu hết sức bức

thiết. Điều đó không những có ý nghĩa trong việc đảm bảo quyền lợi cho những đứa

trẻ mà còn mang lại tình thương yêu, tạo ra những suy nghĩ tốt đẹp trong việc hình

thành nhân cách trẻ thơ đồng thời tránh những tranh chấp không đáng có. Với tầm

quan trọng như trên, thiết nghĩ pháp luật cần phải quy định cụ thể trường hợp những

người thuộc diện thừa kế được sinh ra theo phương pháp khoa học.

* Về vấn đề thừa kế thế vị.

Nếu hiểu theo câu chữ của Điều 652 BLDS 2015 về thừa kế thế vị thì trong

trường hợp cha hoặc mẹ của cháu hoặc chắt không có quyền hưởng di sản của

ông, bà hoặc cụ do vi phạm khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 thì đương nhiên cháu,

chắt cũng không thể hưởng di sản của ông, bà hoặc cụ. Cha, mẹ của cháu hoặc

của chắt phải có quyền hưởng di sản thì cháu hoặc chắt mới được hưởng thế vị

thay cha, mẹ khi cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di

sản. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều ý kiến ủng hộ quan điểm trái ngược hẳn

quan điểm này. Theo đó, để bảo vệ quyền hưởng di sản của cháu và chắt khi bản

thân họ không bị Tòa án tước quyền hưởng di sản, không bị người để lại di sản

truất quyền hưởng di sản, họ có năng lực pháp luật để thừa hưởng di sản thì nên

cho họ được hưởng thừa kế thế vị, dù cho cha mẹ của họ trước khi chết thuộc

một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS.

Trường hợp thứ hai cần lưu ý, đó là thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi.

Thực tế, Tòa án đã gặp một số trường hợp điển hình như sau: Một là, người

66

nhận nuôi con nuôi chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với cha mẹ đè của

họ thì người con nuôi của họ có được hưởng thừa kế thế vị không? Hai là, người

con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với

người để lại di sản thì con nuôi của người con nuôi đó có được nhận thừa kế thế

vị không?

Nói đến thừa kế thế vị, một vấn đề nữa đang được các nhà làm luật rất quan

tâm, đó là quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế. Theo quy định tại

Điều 654 BLDS năm 2015, con riêng và cha dượng, mẹ kế được thừa kế theo

pháp luật của nhau (ở hàng thứ nhất) và con của người đó còn được thừa kế thế

vị trong trường hợp người con riêng đó chết trước cha dượng, mẹ kế. Điều kiện

để con riêng và cha kế, mẹ kế được thừa kế theo pháp luật của nhau nếu họ có

quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Tuy nhiên, cần phải

hiểu và dựa trên những tiêu chí nào để đánh giá có sự chăm sóc, nuôi dưỡng

nhau như cha con, mẹ con thì pháp luật lại chưa đề cập đến, chẳng hạn như thời

hạn nuôi dưỡng, chăm sóc nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế, hành vi

chăm sóc được thể hiện từ hai phía hay chi từ một phía. Như vậy nếu một phía

chỉ thể hiện hành vi chăm sóc, nuôi dưỡng, nhưng về tình cảm giữa họ đối với

nhau không như cha con, mẹ con thì họ có được thừa kế theo pháp luật của nhau

không? Có quan điểm cho rằng nên bỏ quy định về thừa kế thế vị của con riêng

vì giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế không có mối quan hệ huyết thống và

cũng không có mối quan hệ pháp lý ràng buộc nào cả. Quan điểm này còn xuất

phát từ sự so sánh với trường hợp người con dâu (vợ của người con) không được

hưởng thừa kế thế vị đối với phần di sản của bố chồng vì giữa họ không có mối

quan hệ huyết thống. Do đó, việc quy định con riêng được hưởng thừa kế thế vị

thay bố dượng, mẹ kế là không thuyết phục, cần phải xóa bỏ.

Từ thực tiễn cuộc sống xã hội hiện nay, còn phát sinh trường hợp thừa kế

thế vị liên quan đến con được sinh ra theo phương pháp khoa học. Về vấn đề

này, theo quan điểm của chúng tôi, không được hủy số tinh trùng đang được lưu

giữ trừ trường hợp người vợ đồng ý bởi trước đó cả hai vợ chồng đã thể hiện

mong muốn được sinh con theo phương pháp khoa học, nên nếu sau khi người

chồng chết, người vợ vẫn muốn tiếp tục thực hiện việc sinh con theo phương

67

pháp đó thì phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Trong tình huống này, người

con được sinh ra rõ ràng là con của người cha đã chết, và nếu cha chết trước

hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà nội thì xét về mặt đạo lý, đứa bé hoàn toàn

có quyền hưởng thừa kế thế vị thay cho cha mình. Tuy nhiên, xét về mặt pháp lý

thì chưa có quy định nào của pháp luật về trường hợp này. Như đã trình bày về

điều kiện hưởng thừa kế của người thừa kế theo pháp luật thì cá nhân phải sinh

ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để

lại di sản chết. Nghĩa là đứa bé sinh ra theo phương pháp khoa học muốn thừa kế

thế vị hưởng di sản của ông bà thì cũng phải sinh ra và còn sống sau thời điểm

mở thừa kế nhưng đã thành thai trước thời điểm ông hoặc bà chết. Như vậy pháp

luật đã vô tình tước mất quyền hưởng thừa kế thế vị di sản từ ông bà của người

cháu khi người cha chết trước hoặc chết cùng thời điểm đó. Thiết nghĩ pháp luật

nước ta cần có quy định bổ sung các trường hợp về thừa kế thế vị để quyền lợi

của cá nhân sinh ra theo phương pháp khoa học được bảo vệ tốt hơn nữa.

3.3. Nguyên nhân

Từ nghiên cứu về thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế trong

những năm gần đây đã cho thấy nhiều vụ việc bị kéo dài, tỷ lệ án bị sửa, bị hủy,

bị đình chỉ giải quyết còn khá cao. Xét trên khía cạnh pháp lý và xã hội, việc

phát sinh nhiều tranh chấp phức tạp về thừa kế trong những năm gần đây xuất

phát từ nhiều nguyên nhân bao gồm cả mặt khách quan và chủ quan.

Về mặt khách quan:

Thứ nhất, các qui định của pháp luật thừa kế còn chưa đầy đủ, thiếu đồng

bộ. Nhiều quy định trong các văn bản có liên quan còn chồng chéo nhau, thẩm

quyền giải quyết vụ việc còn nhập nhằng dẫn đến hiện tượng các cơ quan đùn

đấy trách nhiệm. Các quy định về thừa kế tuy còn nhiều điểm phải hoàn thiện

nhưng được đánh giá là một trong những chế định hoàn thiện nhất của BLDS.

Tuy nhiên cũng như việc hoàn thiện hộ thống pháp luật Việt Nam, các quy định

về thừa kế cũng phải được hoàn thiện để không một quan hệ thừa kế nào nằm

ngoài sự điều chinh của pháp luật.

Thứ hai, sự thay đổi về chính sách đất đai cụ thể là việc cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất còn chậm trễ, chưa rõ ràng khiến cho việc xác định

68

người thừa kế và di sản không thuận lợi.

Thứ ba, xuất phát từ công tác điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ.

Việc thu thập chứng cứ gặp nhiều khó khăn do những vụ án tranh chấp thừa

kế thường liên quan đến rất nhiều thế hệ có thể cư trú ở nhiều nơi khác nhau, tài

sản cũng phong phú đa dạng và phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Đặc biệt,

các vụ án tranh chấp về thừa kế có yếu tố nước ngoài thường khá phức tạp về cả

chủ thế và đối tượng tranh chấp, nên khó tránh khói tình trạng bị kéo dài. Mặt

khác, theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, nghĩa vụ chứng minh

và cung cấp chứng cứ thuộc về đương sự, Tòa án chỉ tiến hành điều tra xác minh

khi cần thiết. Tuy nhiên, khi giải quyết các vụ án cụ thể, Tòa án thường phải tự

điều tra, thu thập chứng cứ để xây dựng hồ sơ vụ án. Bản thân các đương sự

trong nhiều trường hợp, vì nhiều lý do khác nhau không tạo điều kiện thuận lợi

cho Tòa án điều tra mà còn có những hành vi gây cản trở làm cho việc giải quyết

vụ án càng khó khăn, phức tạp hơn.

Thứ tư, liên quan đến nhận thức của người dân về pháp luật thừa kế còn hạn

chế. Cũng như nhận thức về pháp luật nói chung của người Việt Nam, nhận thức

pháp luật về thừa kế của người dân còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở các vùng nông

thôn, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Nhiều địa phương vẫn còn chịu ảnh

hưởng của các phong tục tập quán lạc hậu. Xuất phát từ nhận thức pháp luật còn hạn

chế, người dân không nhận thấy được đến việc kê khai tài sản hoặc lập di chúc để

định đoạt tài sản của mình sau khi qua đời. Điều này dẫn đến việc xác định tài sản

gặp nhiều khó khăn, chăng hạn như trường hợp tài sản ở nhiều nơi.

Thứ năm, do điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam có nhiều đặc thù. Các quan hệ

truyền thống và các quan hệ xã hội mới luôn luôn đan xen tồn tại làm tăng tính phức

tạp của các tranh chấp về thừa kế. Bên cạnh đó còn phải kể đến nền kinh tế thị trường

phát triển với tốc độ chóng mặt đã phá vỡ nhiều mối quan hệ kinh tế và xã hội truyền

thống của nhân dân ta, tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh làm cho các quan

hệ kinh tế xã hội phát triển và có nhiều thay đổi lớn. Con người ngày càng coi trọng

lợi ích cá nhân, giá trị vật chất hơn nên nhiều vụ án khi được đưa ra xét xử, các

đương sự tìm cách chống đối, trì hoãn nhằm trục lợi cho bản thân.

Về mặt chủ quan:

Ngoài những khó khăn, vướng mắc mang tính khách quan nói trên, thực tiễn

69

giải quyết tranh chấp còn gặp nhiều khó khăn xuất phát từ nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, công tác xét xử của Tòa án còn rất nhiều thiếu sót, hạn chế:

Thiếu sót trong việc điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án chưa đầy đủ,

chưa chính xác. Khâu định giá tài sản còn nhiều bất cập. Do trình độ chuyên

môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu nên nhiều vụ án, công tác điều tra,

thu thập chứng cứ không đảm bảo.

Sai sót về thủ tục tố tụng, đặc biệt là không triệu tập người có quyền lợi liên

quan. Thực tiễn cho thấy, rất nhiều vụ án về tranh chấp thừa kế có nhiều người

có quyền lợi liên quan nhưng không ai được triệu tập đến Tòa, thậm chí họ

không hề biết về vụ việc đó.

Thứ hai, công tác theo dõi, quản lý nhà ở, đất đai còn lỏng lẻo, chồng chéo,

đặc biệt là những trường hợp mua bán, chuyển nhượng qua nhiều chủ sở hữu

khác nhau dẫn đến việc xác minh gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ của các Thẩm phán, đặc biệt là tại các địa phương cũng

còn nhiều hạn chế, khả năng tiếp cận, cập nhật thông tin, văn bản mới còn yếu.

Từ đó dẫn tới việc còn nhiều án bị sửa hoặc phải hủy để xét xử lại, làm giảm

lòng tin của người dân vào những người cầm cân nảy mực nói riêng, hệ thống

pháp luật nói chung cũng như gây tốn kém thời gian, công sức, tài chính của các

đương sự và Nhà nước.

Những khó khăn này đang trực tiếp ảnh hưởng đến sự công minh của bản

án, quyết định của Tòa án. Vì vậy, cùng với việc bổ sung những qui định mới,

hướng dẫn cụ thể một số quy định chưa rõ ràng, Tòa án cần nỗ lực hơn nữa,

đồng thời cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng khác để giải quyết

tốt các vụ án, mang lại sự công bằng, niềm tin cho các đương sự nói riêng và

người dân nói chung.

3.4. Kiến nghị

3.4.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Pháp luật về

thừa kế theo pháp luật

Hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo

pháp luật nói riêng không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những

người có quyền hưởng thừa kế cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người

70

thứ ba nói chung, mà còn tạo hành lang pháp lý cần thiết cho Tòa án giải quyết

các tranh chấp phát sinh. Trên tinh thần đó, việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh

quan hệ thừa kế theo pháp luật cần phái đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau đây:

Thứ nhất, phải đảm bảo được sự phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế

thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay, phát huy

được tính tích cực của quy định về thừa kế theo pháp luật. Dưới ảnh hưởng của

nền kinh tế mở đó đã tạo ra nhiều thay đổi trong đời sống xã hội đồng thời cũng

tạo ra khó khăn, thách thức mới. Để cho các quan hệ thừa kế theo pháp luật nói

chung và thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng diễn ra một cách

thuận lợi, để quyền và lợi ích của những người thừa kế được đảm bảo trong cơ

chế mới, thì hệ thống pháp luật về thừa kế phải thường xuyên được hoàn thiện

trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, xích

lại gần với thông lệ, chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế.

Thứ hai, phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Pháp luật về thừa kế hiện hành ở Việt Nam hiện nay chưa theo kịp với yêu cầu

đổi mới của đất nước và xu thế hội nhập đời sống kinh tế quốc tế. Nhiều qui định

của pháp luật còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy

ra tình trạng không nhất quán trong cách hiểu cũng như giải quyết tranh chấp

làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp về thừa kế của công dân. Quy

định về thừa kế theo pháp luật không chỉ được điều chỉnh bằng BLDS mà còn

liên quan đến các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật HN&GĐ, Luật

Nuôi con nuôi, Luật Đất đai, Luật Nhà ở,... Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho

việc áp dụng cũng như đảm bảo được quyền lợi chính đáng của công dân trong

quan hệ thừa kế, cần phải có sự thống nhất nội dung giữa BLDS và các luật

chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn.

Thứ ba, phải đảm bảo tính khả thi của các quy phạm pháp luật trên thực tế.

Đây là yêu cầu rất quan trọng được đặt ra trong suốt quá trình xây dựng, hoàn

thiện các quy phạm pháp luật. Những qui định của pháp luật về thừa kế theo

pháp luật phải có khả năng đi vào cuộc sống, phản ánh chính xác, kịp thời những

vấn đề đặt ra từ thực tiễn chứ không thể chỉ dừng lại trên giấy tờ. Sẽ là vô nghĩa

và gây ra những tốn kém không cần thiết cả về thời gian, công sức, chi phí khi

71

văn bản được ban hành xa rời thực tế.

3.4.2. Hoàn thiện quy định của Bộ luật dân sự

Giải quyết tranh chấp thừa kế là thẩm quyền của ngành Tòa án, các tranh

chấp này được giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự, nhưng việc phân xử và

giải quyết vụ án lại căn cứ vào quy định pháp luật thừa kế. Chính vỉ vậy, để giúp

ngành Tòa án giải quyết có hiệu quả tranh chấp này thì hoàn thiện những thiếu

sót, chưa rõ hoặc còn bất cập của pháp luật nội dung cũng là hết sức quan trọng

và cần thiết. Chẳng hạn, những tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất có liên quan

đến di sản thờ cúng pháp luật chưa quy định rõ phần đất dành để thờ cúng là bao

nhiêu trong tổng di sản do người chết đồ lại. Thực tế, khi gặp những vụ án thừa kế

có liên quan quyền sử dụng đất được dành để thờ cúng nhiều Thấm phán cũng khó

khăn, vướng mắc trong việc giải quyết, vấn đề này chỉ được giải quyết khi pháp

luật thừa kế có quy định cụ thể phần diện tích đất tối thiểu và tối đa được dùng vào

việc thờ cúng, quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp quản lý di sản thờ cúng. Bên

cạnh đó, phần nhiều Thấm phán hiện nay gặp khó khăn trong việc xác định quan hệ

nuôi dưỡng giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế để quyết định xem họ có được

hưởng di sản thừa kế của nhau hay không? Pháp luật nên quy định cụ thể thế nào là

quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng? Thế nào là quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như cha

mẹ với con? Pháp luật nên ghi nhận các quan hộ nuôi dưỡng theo hướng các con

không nhất thiết phải cùng sống với cha, mẹ mà phụ thuộc vào mức độ và sự chăm

sóc, nuôi dưỡng hàng tháng của các con với cha mẹ kế dù ờ xa hay gần.

Trên cơ sở phân tích những vướng mắc về việc xác định người thừa kế theo

pháp luật, di sản thừa kế qua những vụ việc cụ thể và một số tồn tại phát sinh

trong việc áp dụng pháp luật xung quanh vấn đề này cũng như tham khảo quy

định tương ứng trong pháp luật của một số nước, tác giả xin được đưa ra một số

giải pháp, kiến nghị cụ thể để khắc phục những vướng mắc, góp phần hoàn thiện

pháp luật về thừa kế theo pháp luật như trình bày dưới đây:

Một là, thừa kế theo pháp luật trong trường hợp con sinh ra theo phương

pháp khoa học: Pháp luật thừa kế cần quy định cụ thể về trường hợp sinh con

theo phương pháp khoa học để bảo vệ quyền và lợi ích trước hết là cho đứa trẻ

được sinh ra và của những người thân thích nói chung và dễ dàng giải quyết các

72

tranh chấp (nếu phát sinh). Theo chúng tôi, cần quy định trong trường hợp con sinh

ra theo phương pháp khoa học thì giữa con và cha, mẹ thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh

sản được xác định như cha mẹ đối với con đó và họ có quyền thừa kế di sản của

nhau. Người con sinh ra theo phương pháp khoa học không được quyền yêu cầu

thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi.

Hai là, hoàn thiện các quy định về thừa kế thế vị.

Trường hợp vi phạm khoản 1 Điều 621 BLDS 2015.

Trong trường hợp này, cháu hoặc chắt không có lỗi và cũng không có nghĩa

vụ phải chịu trách nhiệm về hành vi do cha, mẹ minh gây ra. BLDS năm 2015

quy định về việc tước quyền thừa kế những người đã có hành vi vi phạm các quy

định tại khoản 1 Điều 621. Trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng với những

người có hành vi phạm tội, do vậy các cháu hoặc chắt của người đế lại di sản

không có nghĩa vụ gánh chịu những hành vi độc lập của cha mẹ trong quan hệ cụ

thể này. Quyền thừa kế thế vị của các cháu hoặc chắt không thể bị pháp luật tước

bỏ khi mà giữa cha, mẹ và các con hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự với tư

cách cá nhân và hành vi của họ hoàn toàn độc lập với nhau. Nếu chỉ hiểu một

cách máy móc là cha hoặc mẹ của cháu khi còn sống không có quyền hưởng di

sản thì cháu cũng không có quyền hưởng thừa kế thế vị nếu cha, mẹ của cháu

chết trước hoặc chết cùng với ông bà thì trái với bản chất của pháp luật hiện đại,

trái với truyền thống, tập quán, quan niệm về thừa kế trong nhân dân. Tham khảo

pháp luật của một số nước trên thế giới, thấy rằng trong trường hợp cha hoặc mẹ

của cháu (chắt) khi còn sống bị pháp luật tước quyền thừa kế do những hành vi

vi phạm thì cháu (chắt) vẫn được hưởng di sản thừa kế của ông bà hoặc cụ.

Do vậy, nên sửa đổi lại quy định tại Điều 652 BLDS 2015, theo đó, điều

kiện để các cháu, chắt được thừa kế thế vị của cha, mẹ mình nhận di sản của

người để lại di sản chỉ cần quy định điều kiện cha hoặc mẹ của cháu chết trước

hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, trừ khi chính con, cháu họ cũng

vi phạm khoản 1 Điều 621 BLDS 2015.

3.4.3. Hoàn thiện pháp luật về tố tụng dân sự

Thứ nhất: Hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng về thời hạn thông báo

thụ lý vụ án

Theo quy định hiện nay, thời hạn thông báo thụ lý vụ án là 3 ngày làm

73

việc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tranh chấp thừa kế thường có tính chất phức

tạp, số lượng đương sự đông và có thể không cùng nơi cư trú. Chính vì vậy,

pháp luật nên quy định kéo dài thời hạn thông báo thụ lý vụ án từ 03 ngày làm

việc lên tối thiểu 05 ngày làm việc để việc tống đạt thông báo thụ lý vụ án có

hiệu quả hơn, đảm báo quyền lợi của đương sự và quyền giám sát của VKSND.

Thứ hai: Xác định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cá nhân, cơ

quan, tỏ chức lưu giữ, quản lý chứng cứ.

Đổ khắc phục tình trạng các cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý

chứng cứ không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ kịp thời tài liệu, chứng cứ

cho Tòa án dẫn đến việc giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn BLTTDS cần bồ

sung quy định các chế tài xử phạt cụ thể để áp dụng trong trường hợp này. Về lâu

dài cơ quan lập pháp nên nghiên cứu để ban hành luật về cung cấp thông tin.

Thứ ba: về chi phí cho thủ tục thẩm định tại chỗ

TANDTC cần ban hành văn bản hướng dẫn quy định cụ thể về loại chi phí

này trong đó cần xác định nghĩa vụ nộp tạm ứng chi phí, nghĩa vụ nộp chi phí,

mức chi phí cụ thể để tránh việc áp dụng pháp luật mỗi tòa án một khác, mỗi nơi

thu một định mức khác nhau gây mất uy tín trong ngành tư pháp.

Thứ ba, về kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thừa kế theo

thủ tục tố tụng dân sự

Để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các tranh

chấp thừa kế theo pháp luật nói riêng, yếu tố nhân lực trong đội ngũ Thẩm phán,

thư ký và cán bộ Tòa án đóng một vai trò vô cùng quan trọng, cần phải xây dụng

đội ngũ Thấm phán, cán bộ Tòa án có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và tư

cách đạo đức tốt. Đây sẽ là nền tảng cơ bản để công tác giải quyết tranh chấp thừa

kế theo pháp luật cũng như các loại tranh chấp khác đạt được hiệu quả cao.

3.5. Giải pháp

Để nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp quyền thừa kế theo pháp

luật cần tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát kịp thời phát hiện và xử

lý nghiêm đối với các tập thể và cán bộ, công chức ngành Tòa án có vi phạm, lợi

dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ để tham nhũng, nhận hối lộ,

74

tiêu cực..., cũng như những biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm

quy tắc ứng xử cán bộ, công chức ngành Tòa án. Kiên quyết loại ra khòi ngành

những Thẩm phán, cán bộ Tòa án vi phạm quy chế hoạt động của ngành.

Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm xét xứ của

đội ngũ Thẩm phán, thư ký và cán bộ tòa án. Một mặt cần chăm lo bồi dưỡng

Thấm phán đương nhiệm theo hướng thường xuyên cập nhật các văn bản pháp

luật, kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, bồi

dưỡng kỹ năng xét xử và kiến thức thực tiễn. Hàng năm các Thẩm phán phải

được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ theo chuyên ngành xét xử. Mặt khác,

cần chú trọng đối mới nội dung phương pháp đào tạo cán bộ nguồn để bổ nhiệm

thẩm phán. Đào tạo thẩm phán phải theo hướng ưu tiên bồi dưỡng kỹ năng mà

không thiên về đào tạo theo bằng cấp, học vị. Thường xuyên tổ chức các buổi

tập huấn nghiệp vụ, rút kinh nghiệm qua thực tiễn giải quyết các vụ án. Thực

hiện chế độ kiểm tra giám sát đối với hoạt động tố tụng của các Thấm phán, Thư

ký khi họ trực tiếp giải quyết các tranh chấp.

Thứ ba, đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán. Với mục đích

xây dựng đội ngũ thẩm phán thật sự có năng lực, cần tuyển chọn thẩm phán

không chỉ từ đội ngũ cán bộ Tòa án mà còn từ đội ngũ các chức danh tư pháp khác

như điều tra viên, công tố viên, luật sư, kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề

thẩm phán nhưng chưa làm thẩm phán. Đồ được làm thẩm phán, các ứng viên cần

trải qua một kỳ thi quốc gia nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, bình đắng giữa

họ cho chức danh này. Cơ chế thi tuyển tạo điều kiện cho các ứng viên vào chức

danh thẩm phán có điều kiện cạnh tranh lành mạnh, bỉnh đắng, hạn chế tiêu cực

đồng thời giảm bớt sự phụ thuộc của thẩm phán vào các thiết chế quyền lực ở địa

phương, tăng cường tính độc lập của thẩm phán. Vì vậy, cần nghiên cứu từng bước

chuyển từ chế độ xét tuyển thẩm phán ở từng cấp Tòa án hiện hành sang chế độ thi

tuyển cấp quốc gia. Những người trúng tuyển kỳ thi quốc gia nếu có đủ các tiêu

chuẩn khác mà pháp luật quy định sẽ được Chủ tịch nước xem xét và ra quyết định

bồ nhiệm làm thẩm phán. Thẳm phán sẽ là thẩm phán của quốc gia, có thể điều

động họ dỗ dàng khi thấy cần thiết. Qua đó giải quyết được dứt điểm tình trạng

thiếu thẩm phán ở một số địa phương trong khi nhiều địa phương khác số lượng

75

thẩm phán hoặc nguồn để bố nhiệm thấm phán lại đang thừa.

Mặt khác, nhiệm kỳ của thẩm phán cần được kéo dài và tiến tới bổ nhiệm

không thời hạn. Pháp luật quy định nhiệm kỳ thẩm phán nhằm mục đích tăng

trách nhiệm của thẩm phán trong hoạt động xét xử của mình. Nhiệm kỳ ngắn

cùng với cơ chế xét tuyển gây ra nhiều sức ép đối với thẩm phán, làm cho thẩm

phán không thực sự yên tâm với công việc xét xử, hạn chế khá năng tích lũy

kinh nghiệm xét xử của thẩm phán và đặc biệt ảnh hưởng tới tính độc lập của

thẩm phán. Có thể quy định nhiệm kỳ đối với mỗi ngạch thẩm phán như sau:

Nhiệm kỳ 15 năm đối với thẩm phán sơ cấp và thẩm phán trung cấp và áp dụng

chế độ bổ nhiệm không thời hạn đối với thẩm phán TANDTC.

Thứ tư, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn

của Hội thẩm nhân dân và các chức danh tư pháp khác trong ngành Tòa án. Một

trong các mục tiêu cải cách tư pháp hiện nay là đổi mới hoạt động tố tụng của

Tòa án. Hoạt động giải quyết vụ việc dân sự nói chung và giải quyết các tranh

chấp thừa kế nói riêng đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng của những

người tiến hành tố tụng bao gồm: Thẩm phán, HTND, Thư ký Tòa án...Sự tham

gia của HTND vào HĐXX nhằm đảm bảo việc xét xừ đúng pháp luật, khách

quan và công bằng. Thấm phán và HTND là độc lập trong giải quyết các vụ án,

do vậy để tham gia giải quyết vụ án đúng và hiệu quá HTND cần phải có trình

độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật vững vàng. Họ cần được bồi

dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở mức độ rất cơ bản để có thể tham gia hiệu

quả vào hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế về nhiệm vụ,

quyền hạn và trách nhiệm của HTND để nguyên tắc độc lập với thẩm phán khi

tham gia xét xử được thực hiện trong thực tế.

Thứ năm, tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn cho thẩm phán. Các

tranh chấp dân sự, nhất là tranh chấp thừa kế vì giá trị tài sản tranh chấp là rất

lớn nên đương sự thường chống đối quyết liệt. Không ít trường hợp khi giải

quyết vụ án, Thấm phán bị đe dọa và xâm phạm sức khỏe, danh dự. Nhiều vụ

tranh chấp thừa kế sau khi phiên tòa kết thúc hay ngay tại phiên tòa đương sự đã

dùng những lời lẽ xúc phạm hay có những hành vi tấn công HĐXX. Tình trạng

này ờ nước ta đang diễn ra ngày một nhiều hơn làm cho thẩm phán hoang mang,

76

lo lắng khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Nhiều nước trên thế giới đã quy định các

biện pháp bảo vệ cần thiết để bảo đảm an toàn cho hoạt động của Thấm phán khi

giải quyết vụ án thì ở nước ta, pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề

này. Trước tình hình trên, yêu cầu cấp bách hiện nay là cần nghiên cứu áp dụng

các biện pháp bảo đảm an toàn cho thẩm phán, giúp họ yên tâm khi thực hiện

nhiệm vụ của mình.

Thứ sáu, tăng cường cơ sở vật chất, có chế độ khen thưởng, chế độ đãi

ngộ, kỷ luật đối với thẩm phán tương xứng với vị trí, vai trò của họ để thẩm

phán có thể toàn tâm, toàn ý với công việc. Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây

dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các Tòa án nhằm tạo điều

kiện cho các thẩm phán thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mặt

khác, để đảm bảo cho thẩm phán chuyên tâm thực hiện tốt công việc xét xử, độc

lập, công minh trong việc đưa ra phán quyết, một vấn đề rất quan trọng là phải

có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với thẩm phán. Chế độ sử dụng và đãi ngộ cần

đảm bảo cho thẩm phán không phải lo mưu sinh, giúp cho họ và gia đình có thể

đảm bảo cuộc sống bằng chính đồng lương, không phụ thuộc vào những tác

động vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức liên quan đến công việc của họ.

Tiểu kết chương 3

Qua số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ, thực tiễn có thấy

tranh chấp về thừa kế là loại tranh chấp dân sự rất phổ biến trong xã hội ở Việt

Nam. Tranh chấp này qua thực tiễn xét xử, giải quyết án dân sự không có chiều

hướng giảm. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân bao gồm cả nguyên

nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, cả từ phía cơ quan nhà nước có thẩm

quyền và nhận thức của công dân. Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân, tác

giả đã chỉ ra những vấn đề còn vướng mắc, hạn chế khi áp dụng quy định của

pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật. Từ đó kiến nghị, đề xuất các giải

pháp nhằm hoàn thiện các quy định trong BLDS về thừa kế theo pháp luật trên

cơ sở bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nội dung kiến nghị chủ

yếu tập trung vào các quy định còn chung chung, có nhiều cách hiểu khác nhau

dẫn đến khó áp dụng trên thực tiễn, chẳng hạn như vấn đề về thừa kế thế vị, vấn

77

đề chăm sóc lẫn nhau giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế để xác định quyền thừa

kế hay vấn đề quyền thừa kế của người con sinh ra theo phương pháp khoa học.

Mục tiêu cuối cùng hướng tới hoàn thiện hơn nữa các quy định về thừa kế theo

pháp luật để giảm thiểu các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật, đồng thời giúp

cho các cơ quan chức năng, đặc biệt là Tòa án giải quyết tốt các tranh chấp về

78

thừa kế theo pháp luật, góp phần ổn định xã hội.

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây các tranh chấp về thừa kế đặc biệt là tranh chấp

thừa kế theo pháp luật ngày càng phổ biến. Khác với các tranh chấp dân sự khác,

tranh chấp thừa kế theo pháp luật là một tranh chấp có những đặc thù về quan hệ

pháp luật, về thẩm quyền, về đương sự tham gia vụ án và trình tự thủ tục giải

quyết...vv. Đương sự tham gia vụ án là những người đã có sự gắn bó thân thiết

về mặt tình cảm bởi họ cùng dòng tộc, cùng huyết thống hoặc có mối quan hệ

hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng. Tranh chấp thừa kế theo pháp luật được giải

quyết theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản

hướng dẫn thi hành quy định, về nguyên tắc, giải quyết tranh chấp thừa kế quyền

sử dụng đất cũng tuân thủ theo trình tự khởi kiện, thụ lý vụ án; hòa giải và chuẩn

bị xét xử và mở phiên tòa xét xử. Tuy nhiên, trong từng thủ tục giải quyết tranh

chấp thừa kế theo pháp luật có những đặc trưng riêng để phù hợp quan hệ tranh

chấp này.

Hiện nay, nền kinh tế thị trường cũng dần xâm chiếm vào cuộc sống của

các gia đình, những xung đột, mâu thuẫn giữa các thành viên gia tộc, gia đình

không còn là điều quá mới lạ thậm chí nó ngày càng phổ biến. Thực tế, trong

những năm qua tranh chấp thừa kế cũng chiếm với một số lượng lớn trong các

tranh chấp dân sự. Công tác giải quyết tranh chấp đã đạt được những kết quả

tích cực nhưng cũng không tránh khỏi còn tồn tại nhiều hạn chế, vướng mắc cần

phải khắc phục.

Vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng không phải là

vấn đề mới nhưng nó lại luôn mang tính thời sự và phát sinh nhiều tình huống

mới. Do đó, việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định về thừa kế theo pháp

luật phải luôn được quan tâm và xem xét trong mối quan hệ qua lại với nhau,

trong đó có việc phát sinh các mối quan hệ mới của đời sống xã hội.

Xây dựng các luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết

tranh chấp thừa kế theo pháp luật trong nền kinh tế thị trường là một đòi hỏi cấp

79

bách, đồng thời cũng là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Nó đòi hỏi phải có

quá trình nghiên cứu, tập trung trí tuệ của đội ngũ đông đảo các nhà khoa học

nước ta. Trong khuôn khổ của một bản luận văn thạc sỹ luật học chưa thể giải quyết

thấu đáo được các yêu cầu của đề tài đặt ra. Luận văn này chỉ đóng góp một tiếng

nói nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về thừa kế nói chung và pháp

80

luật về giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật ở nước ta hiện nay.

1. Quốc hội (1959), Hiến pháp năm 1959

2. Quốc hội (1980), Hiến pháp năm 1980

3. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992

4. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013

11. Quốc Hội (1993), Luật Đất đai năm 1993

12. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự năm 1995

13. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự năm 2005

14. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015

15. Quốc hội (1959), Luật Hôn nhân và gia đình 1959

16. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình 1986

17. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình 2000

18. Quốc hội (2013), Luật Hôn nhân và Gia đình 2013

19. Quốc hội (2005), Luật nhà ở 2005

20. Quốc hội (2003), Luật Đất đai 2003

21. Quốc hội (2014), Luật Đất đai 2014

22. Phùng Trung Tập (2008) và (2010 - Tái bản),“Luật thừa kế Việt Nam”,

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

23. Phùng Trung Tập (2004),“Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam

Nxb. Hà Nội.

24. Phùng Trung Tập (2006), “Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt Nam

từ 1945 đến nay”; Nxb. tư pháp, Hà Nội.

25. Nguyễn Minh Tuấn “Pháp luật về thừa kế của Việt Nam - Những vấn đề lý

trong 60 năm qua”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2.

26. Phạm Văn Tuyết (2010), “ Thừa kế - quy định của pháp luật và thực tiễn

luận và thực tiễn”, Nxb Lao động xã hội.

27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật dân sự, Tập 1, Nxb.

áp dụng”; Nxb Chính trị quốc gia.

81

Công An nhân dân.

28. Học viện Tòa án (2017), Giáo trình Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử.

29. Tòa án nhân dân tối cao (1981), Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981 của

30. Quốc hội (2009), Luật sở hữu trí tuệ 2009

31. Quốc hội ( 2013), Luật Doanh nghiệp 2013

32. Quốc hội (2000), Nghị quyết số 35/2000/QH10, ngày 9-6-2000 về việc thi

hướng dẫn giải quyết các tranh chấp thừa kế;

33. Lê Kim Quế (1994), 90 câu hỏi - đáp pháp luật về thừa kế, Nxb Chính trị

hành Luật Hôn nhân và Gia đình.

34. Bộ tài chính (1991), Quy tắc bảo hiểm tai nạn người (Ban hành kèm theo

quốc gia, Hà Nội.

35. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 97/SL, ngày

Quyết định số 391-TC/BH ngày 20/9/1991 của Bộ Tài chính).

36. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích luật ngữ luật học,

22-5-1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật.

37. Tòa án nhân dân tối cao (1972), Thông tư số 02-TATC, ngày 2-8-1972 về

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

38. Tòa án nhân dân tối cao (1972), Thông tư số 112-NCPL, ngày 19-8-1972

thừa kế di sản của liệt sĩ.

39. Tòa án nhân dân tối cao (1978), Thông tư số 60-TATC, ngày 22-2-1978

hướng dẫn xử lý về dân sự những hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn.

40. Tòa án nhân dân tối cao (1968), Thông tư số 594-NCPL, ngày 27-8-1968

hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình.

41. Tòa án nhân dân tối cao (1974), Thông tư số 15-TATC, ngày 27-9-1974

hướng dẫn giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế.

42. Tòa án nhân dân tối cao (1981), Thông tư số 81-TANDTC, ngày 24-7-1981

hướng dẫn xử lý một vài loại tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình.

82

hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế.

43. Tòa án nhân dân tối cao (1972), Thông tư số 173-UBTP, ngày 23-3-1972

44. Tòa án nhân dân tối cao (1959), Chỉ thị số 772-CT/TATC, năm 1959 về việc

hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

45. Tòa án nhân dân tối cao (1965), Báo cáo tổng kết công tác năm 1965 của

đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến.

46. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015

47. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016

48. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017

49. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2018

50. Tòa án nhân dân tối cao (1994), Báo cáo tổng kết công tác tòa án toàn quốc

ngành Tòa án nhân dân

51. Tòa án nhân dân tối cao (1997), Báo cáo tổng kết công tác năm 1997 của

năm 1994 và phương hướng nhiệm vụ ngành Tòa án năm 1995.

52. Thủ tướng Chính phủ (1959), Thông tư số 449/TTg, ngày 17-12-1959 ban

ngành Tòa án.

53. Tòa án nhân dân tối cao –VKSNDTC (1999), Thông tư liên tịch số

hành Điều lệ mẫu hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp.

01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-1-1999, Hướng dẫn một số

54. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà

quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10.

55. Nguyễn Thị Vĩnh (1996), Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Việt

ở được xác lập trước ngày 1-7-1991, số 58/1998/NQ-UBTVQH10.

56. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

57. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996-1999 (2000), Nxb Chính trị

IX , Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

83

quốc gia, Hà Nội.