intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lý (THẾ KỈ XI - XIII)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

75
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xuất phát từ yêu cầu xây dựng chính thể thống nhất và ổn định, củng cố tiềm lực đất nước về mọi mặt, vương triều Lý nhận thấy sự cần thiết phải dựa vào Nho giáo và Nho học. Và như vậy, sau một thời gian dài du nhập vào Việt Nam, đến những năm 80 của thế kỉ XI, nền giáo dục và khoa cử Nho học đã được thừa nhận một cách chính thức qua các sự kiện như lập Văn miếu thờ Khổng tử và các vị thánh hiền (năm 1070), tổ chức khoa thi (năm 1075), dựng Quốc tử giám (năm 1076). Giáo dục và khoa cử Nho học được nhà Lý chủ động tiếp nhận là biểu hiện rõ rệt nhãn quan chính trị, kế sách trị nước của các vua đầu triều Lý, đặc biệt là Lý Thánh Tông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lý (THẾ KỈ XI - XIII)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/ GIÁO DỤC VÀ KHOA CỬ NHO HỌC THỜI LÝ (THẾ KỈ XI - XIII) Education and examination of confucianism in Lý dynasty (XI-XIII century) PGS.TS. Trần Thị Thái Hà Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Xuất phát từ yêu cầu xây dựng chính thể thống nhất và ổn định, củng cố tiềm lực đất nước về mọi mặt, vương triều Lý nhận thấy sự cần thiết phải dựa vào Nho giáo và Nho học. Và như vậy, sau một thời gian dài du nhập vào Việt Nam, đến những năm 80 của thế kỉ XI, nền giáo dục và khoa cử Nho học đã được thừa nhận một cách chính thức qua các sự kiện như lập Văn miếu thờ Khổng tử và các vị thánh hiền (năm 1070), tổ chức khoa thi (năm 1075), dựng Quốc tử giám (năm 1076). Giáo dục và khoa cử Nho học được nhà Lý chủ động tiếp nhận là biểu hiện rõ rệt nhãn quan chính trị, kế sách trị nước của các vua đầu triều Lý, đặc biệt là Lý Thánh Tông. Từ khoá: giáo dục Nho học, khoa cử Nho học, vương triều Lý ABSTRACT Due to the need to build and consolidate the centralized political monarchy, the Lý dynasty recognized the need to rely on Confucianism. Therefore, after a long time of being introduced to Vietnam, by the 80s of the 11th century, the education and examination of Confucianism was officially recognized through events such as establishing the Temple of Confucius and Sage Saints (in 1070), organizing examinations (in 1075), building Quốc tử giám (in 1076). The education and examination of Confucianism, actively received by the Lý dynasty, were a clear manifestation of the political vision and the plan to rule the country of the Lý kings, especially Lý Thánh Tông. Keywords: education of Confucianism, examination of Confucianism, Lý dynasty 1. Mở đầu học. Các nguồn tư liệu còn lại đến nay cho Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, trải phép khẳng định: triều Lý khởi đầu cho qua các triều Ngô-Đinh-Tiền Lê chính nền giáo dục và khoa cử Nho học ở Việt quyền độc lập tự chủ ngày càng được củng Nam, đặt những viên gạch đầu tiên cho sự cố và phát triển. Tuy nhiên, phải từ thời Lý phát triển của văn hoá Thăng Long và văn trở đi thì nhà nước phong kiến dân tộc mới hoá Đại Việt. dần được kiện toàn, phát triển về mọi mặt 2. Nội dung và đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh 2.1. Tầm nhìn của nhà Lý trong vực của đời sống đất nước. Góp một phần việc phát triển nền giáo dục và khoa cử quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể Nho học chế chính trị của vương triều Lý phải kể Ngày 2 tháng 11 năm Kỉ Dậu, tức là đến vai trò của giáo dục và khoa cử Nho ngày 21 tháng 11 năm 1009, được thế lực Email: hatranxbgd.72@gmail.com 3
  2. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) Phật giáo đứng đầu là sư Vạn Hạnh cùng “Đặt các cấp bậc của tăng đạo” vào tháng các triều thần ủng hộ, Lý Công Uẩn lên 11 năm Mậu Thìn - 1028 (Ngô Sĩ Liên và ngôi hoàng đế, lập ra vương triều Lý. các sử thần triều Lê, 2009, tr. 211) đã cho Là người sớm tiếp nhận sự giáo dưỡng thấy bộ phận sư sãi, tăng quan trong triều nơi cửa Phật, lại có được ngôi báu nhờ sự đình Lý khá đông đảo. hậu thuẫn của Phật giáo, có thể nói vị vua Phật giáo đầu thời Lý phát triển mạnh đầu tiên của vương triều Lý - Lý Thái Tổ như vậy, nhưng hơn 60 năm sau kể từ ngày là người sùng Phật, chịu ảnh hưởng sâu Lý Thái Tổ đăng quang, Lý Thánh Tông và sắc của tư tưởng Phật giáo. Mới lên ngôi, tiếp theo là Lý Nhân Tông lại quyết định ông đã cho dựng nhiều chùa, thuê thợ đúc lựa chọn và từng bước sử dụng Nho giáo, chuông lớn đặt ở các chùa, độ hàng ngàn làm cho Nho học trở nên như một phương người làm tăng. Lê Văn Hưu ở thế kỉ XIII tiện để tăng cường hiệu lực của bộ máy nhận xét: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được quản lí nhà nước. Có thể lí giải hiện tượng hai năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa này bằng chính hiện thực xã hội Việt Nam lập mà đã đựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, đầu thời Lý, cụ thể là: lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho Trước hết, sau khi mới lên ngôi, nhà làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư” Lý phải mất nhiều thời gian để từng bước (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, ổn định đất nước về mọi mặt. Dần dần, tr. 298). dựa trên chính thực tiễn phát triển của xã Các vua Lý kế nghiệp cũng không hội Việt Nam khi đó, triều Lý đã từng ngừng cho xây dựng chùa chiền, đúc bước nhận thấy cần phải sử dụng một học chuông, tô tượng, cho người sang nhà thuyết chính trị phù hợp để quản lí và phát Tống xin kinh Phật. Tinh thần mộ Phật lan triển xã hội (Đỗ Hương Thảo, 2009, tr. rộng trong các tầng lớp xã hội, từ quý tộc, 603), bởi lẽ Phật giáo không cung cấp cho quan lại đến giới bình dân. Chùa chiền vương triều những điều cần thiết: bài học được xây dựng ở khắp nơi, đến mức như sử để bảo vệ ngai vàng, xây dựng đất nước, cũ miêu tả: “Nhân dân quá nửa làm sư, kiến lập nền chính trị hành chính, trị quốc trong nước chỗ nào cũng có chùa” (Ngô Sĩ an dân” (Nguyễn Hải Kế, 2008, tr. 21) - Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 306). những điều mà Nho giáo có thể đem lại. Có thể thấy rằng, mọi hoạt động liên quan Nho giáo và Phật giáo đều được truyền đến Phật giáo đều được vương triều Lý vào Việt Nam vào khoảng đầu Công quan tâm và ủng hộ mạnh mẽ. nguyên. Trong suốt thời Bắc thuộc, Nho Không chỉ đóng vai trò quan trọng giáo tuy chưa chiếm được vị trí độc tôn trong đời sống tôn giáo của đất nước, Phật trong xã hội Việt Nam song ngay từ khi giáo còn thể hiện vị trí của mình trong hệ đó, văn tự Hán đã được dùng để phục vụ thống chính trị đương thời. Bộ phận tăng cho các công việc hành chính của chính quan trong triều đình có từ thời Đinh, Tiền quyền đô hộ phương Bắc trong quá trình Lê sang thời Lý, các nhà sư vẫn có tiếng thực hiện công cuộc cai trị, đồng hoá nhân nói và tầm ảnh hưởng đến nhà vua. Sư Vạn dân ta, là phương tiện chủ yếu để dịch Hạnh, người đỡ đầu cho Lý Thái Tổ qua kinh, in sách Phật. Trong bối cảnh đó, dù đời năm 1026 (Ngô Sĩ Liên và các sử thần muốn hay không, người Việt dần tiếp thu triều Lê, 2009, tr. 314). Tuy nhiên, sự kiện chữ Hán bằng nhiều con đường khác nhau, 4
  3. TRẦN THỊ THÁI HÀ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN dần hình thành nên một tầng lớp trí thức Gián nghị đại phu. Trung thư sảnh là một Nho học người Việt. Sau khi giành nền tự trong các văn thư phòng, có trách nhiệm chủ, nhà nước Ngô, Đinh, Tiền Lê rồi đến tham mưu cố vấn và chuyên việc giấy tờ, Lý được thiết lập, tiếp tục coi chữ Hán là hành chính cho nhà vua. Cũng do tầm quan văn tự chính thức, sử dụng trong các văn trọng và đặc thù công việc, các quan Trung bản hành chính. Việc học chữ Hán trở thư sảnh phần đông là những người có thành một nhu cầu cấp thiết lúc này nhằm trình độ học vấn và am hiểu thuật trị nước. để phục vụ giao tiếp, đối ngoại, soạn thảo Vào thời điểm biên soạn bộ luật Hình thư, công văn, xử lí các vụ việc hành chính, ghi tuy nhà Lý chưa tổ chức khoa thi Nho học, chép sổ sách, thu thuế.v.v. nhưng vai trò và dấu ấn của các trí thức Mặc dù Nho giáo đã được các thế hệ Nho trong bộ luật này là điều không thể phong kiến đô hộ phương Bắc liên tục phủ nhận (Phạm Đức Anh, 2015, tr. 326). truyền bá, đưa vào nước ta từ trước, nhưng Đây có lẽ cũng là một trong những nhân tố cho đến thế kỉ X, trật tự, kỉ cương, lễ nghi, tác động đến sự lựa chọn Nho học của nhà tập tục theo khuôn mẫu Nho giáo chưa có Lý, khi bộ phận quan chức có học vấn tác dụng chi phối, ràng buộc xã hội. Xã hội khẳng định vai trò không thể thay thế của thời Đinh, Tiền Lê chưa có sự hiện diện họ trong những công việc hệ trọng của của bất kì bộ luật thành văn nào. Tục lệ, quốc gia. tập quán được lưu truyền qua các thế hệ Những biến đổi về kinh tế - xã hội được nhà nước và làng xã thực hiện khá Việt Nam từ cuối thời Bắc thuộc và trong phổ biến. Sang thời Lý, cùng với việc sử suốt thế kỉ X, rồi tiếp tục trong thế kỉ XI dụng quyền lực chính trị, tôn giáo, quân cũng là một nhân tố cần tính đến khi xem đội, luật tục để điều tiết, chi phối và quản lí xét bối cảnh xác lập nền giáo dục và thi cử các lực lượng trong xã hội, nhu cầu về xây Nho học ở thời Lý. Sử liệu đã gián tiếp đề dựng nhà nước quân chủ trung ương tập cập đến sản nghiệp của một tầng lớp thổ quyền mạnh trong điều kiện chính trị, xã hào, cự tộc nổi bật trong xã hội Việt Nam hội có nhiều thay đổi đòi hỏi những người trước và trong thế kỉ X-XI. Đó có thể là tổ đứng đầu triều đình nhà Lý phải sớm chế tiên của các dòng họ Lý (Lý Bí) (Thái định ra luật pháp để giữ gìn kỉ cương, phép Nguyên), họ Dương (Dương Đình Nghệ) ở nước. Việt sử lược cho biết: “Vua xuống vùng Dương Xá (Thanh Hoá), họ Khúc ở chiếu cho Trung thư sảnh san định sách Hồng Châu, họ Phạm ở Nam Sách (Hải luật” (Việt sử lược, 2005, tr. 83). Năm Dương), họ Hồ ở Nghệ An, họ Đinh ở 1042, bộ luật Hình thư của nhà Lý được Ninh Bình, họ Vũ ở Mộ Trạch (Hải hoàn thành, “Sách làm xong, xuống chiếu Dương), họ Lê ở Đông Sơn (Thanh Hoá), ban hành, dân lấy làm tiện” (Ngô Sĩ Liên họ Nguyễn ở Bắc Ninh, họ Kiều ở Vĩnh và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 330). Phúc. Những người này đồng thời là chủ Trung thư sảnh hay Trung thư tỉnh đất, chủ trang trại với cơ ngơi lớn. Theo bia được khởi lập dưới triều Lý (năm 1028), Càn ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh và đứng đầu là viên Trung thư lệnh có nhiệm gia phả thì Bộc xạ Lê Lương có hơn 100 vụ cùng nhà vua dự bàn các việc chính sự lẫm chứa thóc và hàng nghìn người cày, quan trọng. Bên dưới gồm các chức Trung nổi tiếng ở đất Đông Sơn (Thanh Hoá). thư Thị lang và Trung thư Xá nhân, Tả hữu Con cháu của ông đến đầu thời Lý đứng ra 5
  4. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) đòi lại ruộng đất xưa của ông cha (Ban nhiều. Một thời gian dài trước thế kỉ X và Tuyên giáo tỉnh uỷ Thanh Hoá, 2018, tr. ngay ở thế kỉ XI, Phật giáo đóng vai trò 117). Hoặc như dòng họ La của La Quý quan trọng trong hoạt động giáo dục, “Bấy An, người đã từng bỏ tiền của xây dựng giờ nhà chùa là nhà trường, nhà sư là nhà hàng loạt chùa chiền ở vùng Tiên Du (Bắc giáo” (Nguyễn Khắc Thuần, 1998, tr. 53). Ninh) (Trương Hữu Quýnh, 1984, tr. 54); Vì thế, tuy chữ Hán đã trở thành chữ viết họ Dương ở vùng Dương Xá đã “nuôi ba chính thức nhưng số người biết chữ, biết nghìn tráng sĩ làm nha binh” (Quốc sử đến Nho học còn chưa nhiều. Các nhà sư quán triều Nguyễn, 1998, tr. 220). Thêm thường là lớp trí thức quan trọng trong vào đó, chính sách ban cấp thực ấp được triều đình Đinh, Tiền Lê và đầu thời Lý. nhà nước Đinh - Tiền Lê học hỏi từ Cùng với đó, khi việc xây dựng Nhà phương Bắc và áp dụng triệt để càng làm nước theo mô hình của phong kiến phương gia tăng số lượng và quy mô sở hữu của Bắc trở thành tất yếu thì Nho học cũng người được ban cấp. Như vậy, cho đến ngày càng có vai trò quan trọng. Phạm Đức cuối thế kỉ X - đầu thế kỉ XI, trong xã hội Anh trong Mô hình tổ chức Nhà nước ở Việt Nam đã hiện diện một tầng lớp đông Việt Nam thế kỉ X-XIX cho biết, trong quan đảo các chủ đất lớn, chi phối và có ảnh chế của triều Lý có 28 danh chức, nếu so hưởng đến đời sống xã hội của một địa sánh với Trung Hoa, triều Lý gần như vay phương nhất định. Thực tế trên cũng cho mượn toàn bộ từ quan chế nhà Tống với thấy, lúc này trong xã hội Việt Nam, chế 23/28 chức giống nhau. Trong 23 chức đó, độ sở hữu công cộng về ruộng đất của làng triều Tống sử dụng lại 19 chức từ quan chế xã cổ truyền không phải là chế độ sở hữu thời Đường (Phạm Đức Anh, 2015, tr. 40). duy nhất, thống trị. Do nhiều nguyên nhân Xây dựng bộ máy chính quyền theo mô khác nhau mà chế độ sở hữu tư nhân về hình Đường, Tống, các vua Lý cũng từng ruộng đất tiếp tục phát triển. Sang thời Lý, bước tiếp nhận phương thức tuyển dụng bộ phận ruộng đất tư nhân ngày càng lớn quan lại qua thi cử của phong kiến Trung mạnh. Đi cùng với sự phát triển của kinh tế Hoa. Nhu cầu về nhân lực cho bộ máy hàng hoá đương thời, các hiện tượng như hành chính từ trung ương đến địa phương mua bán, cầm cố ruộng đất, kiện cáo, tranh luôn thường trực, nhất là trong bối cảnh giành thừa kế... xung quanh vấn đề đất đai cần khẳng định và củng cố quyền lực của xuất hiện ngày một nhiều trong xã hội. Nhà nước trung ương ở các địa phương của Thực tế này đòi hỏi Nhà nước thời Lý phải nước Đại Việt. Ngay từ khi mới thành lập, có biện pháp để điều tiết, quản lí và can nhà Lý đã có sự ưu ái dành cho những thiệp có hiệu quả nhằm bảo vệ nguồn lợi từ người trong hoàng tộc, những tướng lĩnh tô thuế, ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy sản có công lao phò tá và hình thức tuyển lựa xuất nông nghiệp. Để làm được điều đó, quan lại chủ yếu được thực hiện bằng con cần thiết phải xây dựng một thể chế đủ đường bảo cử, tập ấm. Tuy nhiên, các vua mạnh với các cơ quan chuyên trách cùng Lý cũng sớm nhận ra rằng, để khách quan đội ngũ quan chức biết chữ Hán, am hiểu và lựa chọn rộng rãi được nhiều nhân tài rộng và có uy tín xã hội. Có thể phỏng tham gia vào bộ máy chính quyền từ trung đoán rằng trong xã hội Việt Nam thời bấy ương đến địa phương, không có con đường giờ số người biết chữ chắc chắn không nào hiệu quả hơn là thông qua khoa cử. Có 6
  5. TRẦN THỊ THÁI HÀ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN thể thấy rằng, qua hàng trăm năm thử Đường, đặc biệt phải kể đến thế hệ thứ hai thách, Phật giáo và giáo dục Phật giáo cũng có vua Lý Thánh Tông, thế hệ thứ 4 có vua đã tự bộc lộ những điểm không phù hợp Lý Anh Tông, thế hệ thứ 6 có vua Lý Cao với yêu cầu của xã hội lúc này, “Trong đó Tông (Nguyễn Lang, 1993, tr. 190). Như nổi bật nhất là việc học mà không thi”, vậy, rõ ràng những tư tưởng của dòng thiền không có hệ thống các kì thi chuẩn mực Thảo Đường không chỉ được các vua Lý cũng như học vị “để đánh dấu quá trình dùi tiếp nhận mà bản thân nhà vua còn trở mài đèn sách” (Nguyễn Khắc Thuần, 1998, thành những cao tăng, có ảnh hưởng lớn tr. 54). Đặt trong bối cảnh như vậy, rõ ràng trong xã hội và được lịch sử của Thiền phái giáo dục và khoa cử Nho học đã tỏ rõ ưu ghi nhận. Trong đó, vua Lý Thánh Tông thế trong so sánh với Phật giáo, phù hợp thuộc thế hệ thứ hai của phái Thảo Đường với những thay đổi của thời cuộc, đáp ứng cũng chính là người đã cho xây dựng Văn nhu cầu của xã hội Việt Nam đang trên đà miếu, tổ chức kì thi đầu tiên năm 1075 và phát triển ở thế kỉ XI. lập ra Quốc Tử Giám vào năm sau đó. Trong những yếu tố tác động đến sự Tựu trung lại, do yêu cầu xây dựng và chú ý của các vua Lý tới Nho giáo và hình củng cố chế độ quân chủ tập quyền mà nhà thành trong họ tư tưởng dung hoà giữa Lý cần dựa vào Nho giáo và Nho học để Phật giáo, Nho giáo có lẽ cũng cần xem xét xây dựng thiết chế chính trị. Và như vậy, đến vai trò của Thiền phái Thảo Đường. sau một thời gian dài, Nho học đã có cơ hội Nếu Thiền phái Tì ni đa lưu chi chịu nhiều thuận lợi để thâm nhập vào xã hội Việt ảnh hưởng của Mật giáo, có nhiều nhà sư Nam, xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính nổi tiếng về pháp thuật, dùng sấm vĩ và thể đương thời. Giáo dục và khoa cử Nho phong thuỷ trong hoạt động chính trị, học được nhà Lý chủ động tiếp nhận là biểu Thiền phái Vô ngôn thông mang nhiều ảnh hiện rõ rệt nhãn quan chính trị, kế sách trị hưởng của Thiền phái Nam phương ở nước của các vua triều Lý, đặc biệt là Lý Trung Quốc và có phần chịu ảnh hưởng Thánh Tông. Vương triều Lý có lẽ cũng của Tịnh Độ tông – chủ trương niệm Phật như các triều đại phong kiến sau này vì để đạt đến “nhất tâm bất loạn”, nhấn mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đã “đốn ngộ” và “vô đắc” (Nguyễn Lang, tiếp nhận, khai thác những yếu tố Nho giáo 1993, tr. 184), thì Thiền phái Thảo Đường phù hợp với xã hội, tiếp nhận Nho học – - một Thiền phái mới xuất hiện ở Việt Nam Nho giáo như một công cụ tư tưởng để tổ vào cuối thập niên 70 của thế kỉ XI lại chức xã hội, trước hết ở các phương diện mang khuynh hướng coi trọng trí thức và như nhân cách cá nhân, gia đình được củng thi ca, chủ trương dung hoà Phật giáo và cố, xã hội và đất nước được ổn định: “Các Nho giáo (Phan Huy Lê, 2006, tr. 590). nhà Nho Việt Nam không bàn nhiều về lí “Thiền phái này không cắm rễ được trong luận phức tạp mà chú trọng vào củng cố quần chúng mà chỉ ảnh hưởng được tới nhân luân hiếu đễ, củng cố nền kinh tế nông một số trí thức có khuynh hướng văn học” nghiệp, củng cố khối cộng đồng gia đình - và “ảnh hưởng của Thiền phái này chỉ đáng họ tộc – xóm làng, củng cố việc học hành kể về mặt học tập” (Nguyễn Lang, 1993, tr. khoa cử” (Phan Đại Doãn, 1999, tr. 10). 191). Thiền uyển tập anh còn ghi phổ hệ 9 2.2. Thành tựu của giáo dục và khoa đời gồm 19 người thuộc Thiền phái Thảo cử thời Lý 7
  6. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) Có thể điểm qua những thành tựu tiêu được dựng năm 1070. Theo ghi chép của biểu của giáo dục và khoa cử Nho học thời Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Lý qua hai nội dung chính như sau: vào năm 1156, vua Lý Anh Tông theo lời 2.2.1. Văn miếu và Quốc Tử Giám của Tô Hiến Thành cho dựng miếu thờ được xây dựng, mở đầu cho nền giáo dục riêng Khổng Tử ở phía Nam thành Thăng Nho học ở Việt Nam Long (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1998, Năm 1070, vua Lý Thánh Tông đã tr. 409), năm 1171, cho sửa lại miếu này chấp thuận việc xây Văn miếu ngay tại (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1998, tr. kinh thành Thăng Long. Về sự kiện này, sử 415). Như vậy phải chăng trong thế kỉ XI- chép: “Mùa thu, tháng 8, làm Văn miếu, XII, ở kinh thành Thăng Long có hai Văn đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và tứ miếu. Văn miếu thứ hai được xây dựng phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa năm 1156 chỉ để thờ riêng một mình cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây” Khổng Tử, không phối thờ bất kì nhân vật (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, nào khác và chỉ thực hiện một chức năng tr. 348). duy nhất là nơi thờ Khổng Tử. Mặc dù Nho giáo vào Việt Nam từ rất Về thời điểm xuất hiện chính xác của sớm, nhưng cho đến thế kỉ XI, việc xây Quốc Tử Giám hiện chưa thể xác định, dựng Văn miếu mới được chính sử lần đầu nhưng căn cứ vào sự kiện năm 1076, vua tiên đề cập tới. Một số nước khác có ảnh Lý Nhân Tông“chọn quan viên văn chức, hưởng của Nho giáo như Nhật Bản, Hàn người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Quốc cũng đều có miếu thờ Khổng Tử Giám” (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều nhằm tôn vinh ông và nền Nho học do ông Lê, 2009, tr. 352), cho thấy Quốc Tử Giám sáng lập. Là một dạng kiến trúc của các rất có thể đã được xây dựng gần với thời nước phương Đông chịu ảnh hưởng của điểm của Văn miếu. Quốc Tử Giám đào văn hoá Nho giáo, Văn miếu vừa là chỗ để tạo học trò ở nhiều trình độ cao thấp khác thờ các vị thánh hiền của Nho giáo như nhau, trong đó cao nhất là bậc tương đương Khổng Tử, Chu Công, Nhan Tử, Tăng Tử, với đại học (Nguyễn Khắc Thuần, 1998, tr. Tử Tư, Mạnh Tử, đồng thời được sử dụng 55). Do vậy, nhiều nhà nghiên cứu đồng ý như một địa điểm để dạy học. Về sau này, với quan điểm: cũng từ Quốc Tử Giám, Văn miếu còn là nơi bảo tồn những tấm bia nền đại học nước ta được khai sinh. Đúng đá khắc ghi tên tuổi những người đỗ đại như tên gọi của nó, Quốc Tử Giám là khoa của quốc gia hay địa phương nơi lập trường chỉ dành riêng cho con em quý tộc, Văn miếu. quan viên văn chức biết đôi chữ. Đây là Thông tin từ chính sử cho biết, Văn trường do Nhà nước thành lập, thuộc hệ miếu ở kinh thành Thăng Long ngay từ khi giáo dục công lập. Tuy đối tượng đào tạo được nhà vua cho xây dựng năm 1070 đã có phần hạn hẹp, nhưng bản thân sự hiện đồng thời thực hiện hai chức năng: tôn giáo diện của Quốc Tử Giám ở ngay chính kinh và văn hoá, vừa là miếu thờ và là nơi học đô của đất nước là nguồn khích lệ lớn lao tập của vị vua tương lai. Sự nghèo nàn về đối với nền giáo dục Nho giáo đương thời. tư liệu không cho phép có thể đưa ra bất cứ Thăng Long thời Lý là một đô thị đa phác hoạ nào về quy mô, kiến trúc cũng chức năng. Với vai trò là trung tâm chính như việc thờ phụng diễn ra tại Văn miếu trị, hành chính của đất nước, Thăng Long 8
  7. TRẦN THỊ THÁI HÀ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN là nơi tập trung đông đảo tầng lớp quan lại, Công Ẩn tiên sinh làm thầy. Mỗi ngày cắp quý tộc. Nhu cầu học tập để hiểu biết, để sách đi học ắt men trên bờ sông Tô Lịch phục vụ xử lí các mối quan hệ của cư dân đến phường Bái Ân. Ông Phạm Đan Phong đô thị có lẽ chính là yếu tố thúc đẩy sự ra cho rằng, con đường Lý Thường Kiệt đi đời của các trường tư bên cạnh Quốc Tử học, nay là con đường nhỏ từ An Ninh đến Giám. Tây Hồ chí cho biết ít nhất là từ đời An Thái” (Tây Hồ chí, 1962, tr. 23). vua Lý Thái Tông (1028-1054), tức là Như vậy, mặc dù trước khi Quốc Tử trước khi Quốc Tử Giám ra đời đã xuất Giám xuất hiện thì đã có cơ sở tự phát hiện dạng trường tư thục. Khảo cứu về vấn giảng dạy Nho học ở kinh thành Thăng đề này, Bùi Xuân Đính cho rằng: “Trong Long. Tuy nhiên, sự ra đời của Quốc Tử khi hệ thống trường công quá ít, không đáp Giám – trường học do Nhà nước thành lập ứng được yêu cầu học tập của các tầng lớp có thể coi là quyết định chính thức lựa cư dân. Vì thế trường tư được mở và xuất chọn giáo dục Nho học của vương triều Lý. hiện đầu tiên ở Thăng Long là một hệ quả Chính vì thế, Quốc Tử Giám có ý nghĩa tất yếu. Điều này phù hợp với ghi chép quan trọng đối với sự phát triển của giáo trong sách Tây hồ chí về trường của Lý dục Nho học ở Việt Nam. Cùng với công Công Ẩn và đó là một minh chứng” (Bùi cuộc xây dựng Thăng Long thành một kinh Xuân Đính, 2009, tr. 595). đô – trung tâm quyền lực của vương triều Lý Công Ẩn sống vào đời vua Lý Thái với hệ thống thành quách và đền đài tráng Tông, người thôn Bái Ân nay thuộc lệ, thì các vua Lý đã thể hiện rõ định hướng phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phát triển quốc gia tự chủ về mọi mặt, phố Hà Nội. Ông là tôn thất nhà Lý nhưng cường thịnh và văn hiến với những bước đi không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Theo vững chắc, mà sự ra đời của Văn miếu, Tây Hồ chí: “Lý Công Ẩn lúc còn trẻ học Quốc Tử Giám là một trong những sự kiện Nho, nửa chừng giác ngộ bí quyết của sư khởi đầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vạn Hạnh mà nổi tiếng về đạo học. Từ nền móng ban đầu của Quốc Tử Giám Khoảng niên hiệu Càn phù hữu đạo đời vua thời Lý, dần dần Quốc Tử Giám qua các Thái Tông (1039-1041), ông lên tiên. Nơi triều đại đã từng bước phát triển và hoàn chứng quả là núi Trung Hàng, châu Đông thiện: Quốc tử viện, Quốc học viện thời Ba” (Tây Hồ chí, 1962, tr. 80). Cũng theo Trần, Quốc Tử Giám thời Lê và thời tư liệu này, vị trí dạy học của Lý Công Ẩn Nguyễn. Nhìn xuyên suốt một chặng ở phía Tây Bắc của Hồ Tây, vào khoảng đường tồn tại của Quốc Tử Giám và giáo giữa phường Bái Ân khi đó. Lưu truyền dục, khoa cử Nho học (cho đến những năm dân gian cho rằng chỗ dạy học ấy nằm ở vị đầu thế kỉ XX), vai trò khai mở nền giáo trí cánh đồng thôn Bái Ân sau này, tuy dục Nho học của Quốc Tử Giám dưới thời nhiên hiện nay do tốc độ đô thị hoá mạnh Lý càng được khẳng định rõ. mẽ mà toàn bộ khu vực cánh đồng đó đã 2.2.2. Tổ chức các kì thi Nho học và không còn dấu vết. Cũng theo Tây Hồ chí, thi Tam giáo ngôi trường này còn là nơi Lý Thường Kiệt Chủ động tiếp nhận Nho học bằng việc từng theo học. Sách chép chuyện về “con cho xây Văn miếu, dựng Quốc Tử Giám, đường Việt quốc công Lý Thường Kiệt đi nhà Lý đồng thời mở các kì thi Nho học, học: “Thuở nhỏ, Ngô Công thờ ông Lý tuyển dụng quan lại bằng con đường khoa 9
  8. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) cử. Trên tinh thần lấy giáo dục để bồi dưỡng Sau khoa thi năm 1075, trong thời gian hiền tài, nhà Lý từng bước có một đội ngũ tồn tại của mình, vương triều Lý còn tổ quan chức được tuyển lựa qua thi cử. Bằng chức thêm một số khoa thi khác. cách này, vương triều Lý đã xây dựng được Đại Việt sử kí toàn thư chép lại một số một hệ thống quan chức mang phong cách kì thi do nhà Lý tổ chức như sau: riêng của dòng họ với phương thức tuyển Bính Dần (Quảng Hựu) năm thứ 2 - dụng bằng ba con đường chính là tuyển cử, 1086 (Tống Triết Hú Nguyên Hựu năm thứ nhiệm tử và khoa cử. 1). Mùa thu, tháng 8, thi chọn người có văn Theo sử cũ, khoa thi đầu tiên trong học trong nước, sung làm quan ở Hàn lâm lịch sử khoa cử Việt Nam được tổ chức viện. Mạc Hiển Tích trúng tuyển, bổ làm dưới thời vua Lý Nhân Tông, năm 1075. Hàn lâm học sĩ (Ngô Sĩ Liên và các sử thần Đại Việt sử kí toàn thư chép về sự kiện này triều Lê, 2009, tr. 356). như sau: “Ất Mão, Thái Ninh năm thứ 4 Nhâm Thân (Đại Định) năm thứ 13 - (1075), Tống Hy Ninh năm thứ 8. Mùa 1152 (Tống Thiệu Hưng năm thứ 22). Mùa Xuân, tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh đông, tháng 10, thi Điện. (Ngô Sĩ Liên và kinh bác học và thi Nho học tam trường. các sử thần triều Lê, 2009, tr. 406). Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua Ất Dậu (Chính Long Bảo Ứng) năm học” (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, thứ 3 - 1165 (Tống Càn Đạo năm thứ 1). 2009, tr. 351). Mùa thu, tháng 8 thi Thái học sinh (Ngô Sĩ Khoa thi đầu tiên năm 1075 cùng với Liên và các sử thần triều Lê, 2009, tr. 411). sự ra đời của Văn miếu (năm 1070) và Ất Tỵ (Trinh Phù) năm thứ 10 - 1185 Quốc Tử Giám (1076) có thể coi là những (Tống Thuần Hy năm thứ 12). Mùa xuân, dấu hiệu quan trọng cho thấy sự chuyển tháng giêng, thi sĩ nhân trong nước, người biến của vương triều Lý trong lựa chọn hệ nào từ 15 tuổi mà thông thi thư thì được tư tưởng làm rường cột cho chính sách nội vào hầu học ở ngự điện. Lấy đỗ bọn Bùi trị, hướng đến sự phát triển về lâu dài và Quốc Khái, Đặng Nghiêm 30 người, còn bền vững của quốc gia Đại Việt. Với thì đều ở lại học (Ngô Sĩ Liên và các sử những sự kiện này, địa vị của Nho học thần triều Lê, 2009, tr. 418). được chính thức hoá, các vị vua Lý bắt đầu Quý Sửu (Thiên Tư Gia Thuỵ) năm được đào tạo bởi các trí thức Nho học và thứ 8 - 1193 (Tống Thiện Hy năm thứ 4). cũng tạo nên các chuẩn mực để lựa chọn Khảo khoá các quan văn võ trong ngoài để nhân tài cho đất nước. Trần Thị Vinh trong rõ nên giáng hay thăng. Thi các sĩ nhân một nghiên cứu về thể chế chính trị của trong nước để chọn người vào hầu vua học vương triều Lý cũng đưa ra nhận định (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, 2009, “Tuyển chọn nhân tài qua con đường học tr. 420). vấn bắt đầu có từ thời Lý. Lần đầu tiên Ất Mão (Thiên Tư Gia Thuỵ) năm thứ trong lịch sử chế độ phong kiến quân chủ 10 - 1195 (Tống Ninh Tông Khuếch, Việt Nam, khoa cử được sử cũ nhắc đến Khánh Nguyên năm thứ 1). Thi Tam giáo, vào năm Ất Mão (1075). Nho học được coi cho đỗ xuất thân (Ngô Sĩ Liên và các sử trọng và đội ngũ Nho sĩ đỗ đạt bắt đầu thần triều Lê, 2009, tr. 421). được gia nhập vào trong thiết chế Nhà Có thể nhận thấy, các khoa thi do nhà nước” (Trần Thị Vinh, 2009, tr. 295). Lý tổ chức chưa có định lệ về thời gian tiến 10
  9. TRẦN THỊ THÁI HÀ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN hành, quy chế thi cử. Số người dự thi và đỗ huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Theo văn đạt qua từng khoa thi được ghi chép không bia từ chỉ Bằng Liệt thì ông đứng thứ hai đầy đủ nên khó khảo cứu cụ thể. Phan Huy trong số 3 người đứng đầu trong kì thi Chú khi viết về phép thi thời Lý, phần Đình, khoa thi năm Ất Tỵ đời vua Lý Anh Khoa mục chí đã nhận xét: “Phép thi bấy Tông, làm quan đến chức Đô ngự sử (Đinh giờ chưa có cách thức nhất định. Hoặc Khắc Thuân, 2010, tr. 369). thỉnh thoảng có chiếu của vua cử học trò Đặng Nghiêm người thôn An Đề, trong nước vào thi, nhà vua tự xem thi ở huyện Vũ Thư (Thái Bình). Ông đỗ khoa điện đình. Sử chép không rõ nên không thi năm 1185, được chọn vào hầu vua học. khảo được” (Phan Huy Chú, 2006, tr. 7). Sau này, ông làm quan đến chức Công bộ Căn cứ vào tên gọi các kì thi cũng Thị lang. như yêu cầu của triều đình nhà Lý về đối Số lượng Nho sĩ đỗ đạt qua mỗi kì thi tượng dự thi, nội dung thi, có thể hình cũng như chức vụ họ từng đảm trách trong dung tài liệu học tập dùng trong giáo dục triều đình nhà Lý hiện vẫn là một khoảng Nho học thời kì này không nằm ngoài các trống nhận thức do thiếu nguồn tư liệu tin bộ sách kinh điển của Nho giáo như Ngũ cậy, chính xác về học thuật. Mặc dù vậy, kinh, Tứ thư. qua 4 trường hợp đỗ đạt và thành danh trên Theo những ghi chép của Đại Việt sử kí quan trường đã trình bày ở trên, cho thấy toàn thư và Lịch triều hiến chương loại chí các Nho sĩ được tuyển lựa qua thi cử được (phần Khoa mục chí), thời Lý mở tổng cộng vương triều Lý trọng dụng, cho giữ những 7 khoa thi vào các năm 1075, 1086, 1152, chức vụ quan trọng ở triều đình. 1165, 1185, 1193, 1195 và những người Một hiện tượng đặc biệt trong khoa cử đứng đầu kì thi có Lê Văn Thịnh, Mạc Hiển thời Lý, đó là bên cạnh các khoa thi Nho Tích, Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm. giáo, nhà Lý còn tổ chức cả kì thi Tam Lê Văn Thịnh đỗ đầu khoa thi năm giáo, “Thi tam giáo là thi xét những người 1075 (Phan Huy Chú, 2006, tr. 60). Ông thông hiểu cả đạo Nho, đạo Lão, đạo Phật người làng Đông Cứu, huyện Gia Định, thì cho đỗ” (Phan Huy Chú, 2006, tr. 7). nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Sau Những người đỗ khoa thi này cũng được khi thi đỗ ông được cử dạy học cho hoàng trao học vị như các kì thi Nho học. Bùi tử và giữ chức Thị lang bộ Binh. Thành Xuân Đính cho rằng, “Việc thi Tam giáo tích nổi bật của ông được sử sách ghi lại là xuất phát từ hiện tượng Tam giáo đồng tôn dẫn đầu sứ bộ của ta đàm phán với sứ bộ rất phổ biến vào thời Lý, trong đó Nho giáo nhà Tống vào tháng 6 năm 1084 để đòi lại là hệ tư tưởng thống trị xã hội, Phật giáo là đất hai động Vật Dương và Vật Ác. Hoàn Quốc giáo, còn Đạo giáo là đạo được các thành nhiệm vụ trở về nước, ông giữ chức tầng lớp nhân dân tin theo, với sự hấp dẫn Thái sư trong khoảng thời gian từ năm riêng của nó” (Bùi Xuân Đính, 2009, tr. 1085 đến năm 1096 (Trịnh Mạnh, 2008, tr. 598). Nếu so sánh về số lượng (qua thông 48, 49). tin từ chính sử đã nêu ở trên) thì rõ ràng kì Mạc Hiển Tích người xã Lũng Động, thi Tam giáo được tổ chức ít hơn so với các huyện Chí Linh (Hải Dương). Ông đỗ đầu kì thi Nho giáo. Như vậy, mặc dù coi trọng khoa thi năm 1086, làm quan đến Thượng đạo Phật, cho phép Đạo giáo tồn tại trong thư (Phan Huy Chú, 2006, tr. 60). xã hội song nhà Lý vẫn lựa chọn Nho giáo Bùi Quốc Khái người xã Bình Lãng, làm bệ đỡ tư tưởng cho sự nghiệp cai trị 11
  10. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) của mình; mong muốn tạo nên những Tông, Lý Nhân Tông đều có những việc rường cột vững chắc để duy trì ổn định xã làm tích cực, góp phần vào sự lớn mạnh hội và phát triển đất nước. Đó là sự lựa của quốc gia Đại Việt, nâng cao lòng tự tôn chọn hoàn toàn mang tính chủ động của dân tộc. Quyết định cho xây dựng Văn vương triều Lý: tiếp nhận văn hoá Hán để miếu, Quốc Tử Giám, tổ chức các kì thi xây dựng và phát triển quốc gia. Nho học là những đóng góp có giá trị của Nhìn chung, nếu so sánh về mọi vương triều Lý cho sự phát triển về lâu dài phương diện, thì nền giáo dục và khoa cử của đất nước. Sự hiện diện của hai công Nho học ở thời Lý không thể ngang bằng trình Văn miếu, Quốc Tử Giám ở kinh đô các triều Trần, Lê, Nguyễn sau này. Có thể Thăng Long vào những thập niên 80 của thấy rằng, nhà Lý đã thể hiện sự quan tâm, thế kỉ XI đã đánh dấu mốc khởi đầu cho chú trọng đến Nho học, bộ phận Nho sĩ đỗ nền giáo dục Nho học ở Việt Nam. Hơn đạt bắt đầu tham gia vào trong thiết chế thế, đây còn là minh chứng rõ rệt về sự Nhà nước. Nhưng trong thời kì trị vì của nhạy bén, chủ động của vương triều Lý vương triều Lý, khoa cử mới bắt đầu, chưa trong tiếp nhận Nho học và giáo dục khoa trở thành chế độ thường xuyên, số lượng cử Nho học, tầm nhìn xa, rộng của các vua nho sĩ chưa nhiều và khoa cử cũng chưa Lý về chiến lược xây dựng Đại Việt thành chiếm vị trí áp đảo trong phương thức quốc gia cường thịnh, văn hiến. Cùng với tuyển dụng quan lại của thời Lý (7 kì thi việc dạy, học theo sách của Nho gia, những trong 216 năm tồn tại của vương triều, tính kì thi Nho học đã được nhà nước tổ chức, trung bình khoảng 30 năm mới có 1 kì thi). tuy chưa đều đặn theo định kì và số lượng Do vậy mà vai trò của bộ phận Nho sĩ trong còn ít so với thời gian tồn tại 216 năm của triều đình và ở chính quyền địa phương các vương triều. Mặc dù vậy, qua các kì thi, cấp chắc chắn cũng còn hạn chế. vương triều Lý đã bước đầu chọn lựa và 3. Kết luận gây dựng được một đội ngũ tri thức, có Có thể thấy rằng, ngay sau khi hoàn năng lực và phẩm chất theo chuẩn mực thành cơ bản công cuộc định đô ở Thăng Nho giáo. Những cái tên như Lê Văn Long, ổn định tình hình đất nước, các vua Thịnh, Mạc Hiển Tích, Bùi Quốc Khái, Lý đã triển khai nhiều biện pháp để xây Đặng Nghiêm... không chỉ ghi dấu ấn trong dựng, củng cố quyền lực nhà nước quân những hoạt động chính trị, mà còn trở chủ trung ương. Trong điều kiện đất nước thành gương mặt văn hoá tiêu biểu, đại độc lập, tự chủ, các vua đầu triều Lý từ Lý diện cho sự phát triển của giáo dục Nho Thái Tổ đến Lý Thái Tông, Lý Thánh học thời kì vương triều Lý. TÀI LIỆU THAM KHẢO Phạm Đức Anh. (2010). Chính trị và pháp luật triều Lý trong bối cảnh Đại Việt thời kì đầu tự chủ. Kỉ yếu Hội thảo 1000 năm vương triều Lý với kinh đô Thăng Long, 326. Hà Nội: NXB Thế giới. Phạm Đức Anh. (2015). Mô hình tổ chức Nhà nước ở Việt Nam thế kỉ X-XIX, 40. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 12
  11. TRẦN THỊ THÁI HÀ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thanh Hoá. (2018). Danh xưng Thanh Hoá, 117, 118. Thanh Hoá: NXB Thanh Hoá. Phan Huy Chú. (2006). Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, 6, 7, 60. Hà Nội: NXB Giáo dục. Phan Đại Doãn. (Chủ biên) (1999). Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam (tái bản), 10. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. Bùi Xuân Đính. (2009). Tầm nhìn của nhà Lý trong việc đặt nền móng cho nền giáo dục và khoa cử Nho học. Kỉ yếu Hội thảo 1000 năm vương triều Lý với kinh đô Thăng Long, 598. Hà Nội: NXB Thế giới. Nguyễn Hải Kế. (2010). Giáo dục Thăng Long – Hà Nội. Quá trình, kinh nghiệm lịch sử và định hướng phát triển, 27. Hà Nội: NXB Hà Nội. Nguyễn Lang. (1993). Việt Nam Phật giáo sử luận, 184, 191, 193. San Jose – CA USA: NXB Lá Bối. Phan Huy Lê. (2006). Lịch sử Việt Nam, tập 1 (bộ 4 tập), 590. Hà Nội: NXB Giáo dục. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. (2009). Đại Việt sử kí toàn thư, tập 1 (bộ 3 tập), 211, 255, 298, 306, 314, 330, 348, 351, 356, 406, 411, 418, 420, 421. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Trịnh Mạnh. (2008). Gương hiếu học thời xưa, tập 1, 48, 49. Hà Nội: NXB Giáo dục. Quốc sử quán triều Nguyễn. (1998). Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1, 220, 409, 415. Hà Nội: NXB Giáo dục. Trương Hữu Quýnh. (1984). Thử dựng lên một hình ảnh về chế độ ruộng đất nước ta hồi thế kỉ X. Thế kỉ X - Những vấn đề lịch sử, 54, 55. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Tây Hồ chí (1962), Bản dịch, 23, 80, Sài Gòn: Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn. Đỗ Hương Thảo. (2009). Quốc Tử Giám thời Lý – Tiền đề cho sự phát triển của giáo dục quốc gia (qua khảo sát vùng Thăng Long – Hà Nội). Kỉ yếu Hội thảo 1000 năm Vương triều Lý với kinh đô Thăng Long, 603. Hà Nội: NXB Thế giới. Đinh Khắc Thuân. (2010). Văn bia từ chỉ Bằng Liệt và vị khai khoa Thăng Long Bùi Quốc Khái. Thông báo Hán nôm học, 369. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Nguyễn Khắc Thuần. (1998). Đại cương lịch sử văn hoá Việt Nam, 53, 54. Hà Nội: NXB Giáo dục. Việt sử lược. (2005). 83. Hà Nội: NXB Thuận Hoá, Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây. Trần Thị Vinh. (2009). Thể chế chính trị Việt Nam thế kỉ XI - XIII dưới triều Lý. Kỉ yếu Hội thảo 1000 năm Vương triều Lý với kinh đô Thăng Long, 295. Hà Nội: NXB Thế giới. Ngày nhận bài: 27/3/2020 Biên tập xong: 15/4/2020 Duyệt đăng: 20/4/2020 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
26=>2