intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Cơ sở chăn nuôi - Chương 9

Chia sẻ: Dalat Ngaymua | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

138
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chương 9 ĐẠI CƯƠNG VỀ BỆNH TRUYỀN NHIỄM VÀ KÝ SINH TRÙNG 9.1. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH 9.1.1. Các quan điểm về bệnh Khái niệm về bệnh tật được đặt ra từ khi con người có trên Trái Đất, nhưng nó luôn thay đổi qua các thời đại và phản ánh trình độ văn minh với sự tiến bộ xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Cơ sở chăn nuôi - Chương 9

  1. Chương 9 ĐẠI CƯƠNG VỀ BỆNH TRUYỀN NHIỄM VÀ KÝ SINH TRÙNG 9.1. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH 9.1.1. Các quan điểm về bệnh Khái niệm về bệnh tật được đặt ra từ khi con người có trên Trái Đất, nhưng nó luôn thay đổi qua các thời đại và phản ánh trình độ văn minh với sự tiến bộ xã hội. Tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng như quan điểm triết học đương thời. Từ thời nguyên thuỷ cho tới các thời đại văn minh cổ đại mà trong đó y học phát triển như ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, La Mã... cho đến thế kỷ 19 thì các quan điểm về bệnh tật hầu như đều mang tính chất duy tâm thần bí (như là do thần thánh phạt, do ma làm...) hoặc do số mệnh. Các nhà khoa học đương thời thì cho rằng: Bệnh lật là phản ứng cục bộ của cơ thể hoặc bệnh tật là do sự phá hoại các thành phần dịch thể trong cơ thể như máu, mật, dịch nhờn và nước mật gen. Ở Trung Quốc có học thuyết âm dương ngũ hành. Theo học thuyết này, vũ trụ đều do hai lực "âm - dương" và 5 nguyên tố kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ hình thành nên. Âm - dương vừa đối kháng vừa bổ cứu cho nhau trong sự hình thành vạn vật như là đục là cái, nóng và lạnh, sống và chết... Mọi trạng thái đều phụ thuộc vào trạng thái cân bằng giữa hai lực âm - dương và vận động của ngũ hành. Bệnh tật phát sinh là do sự rối loạn âm - dương và ngũ hành thay đổi theo quy luật tháng sinh tương khắc (như là mộc sinh hoả, hoả sinh thổ; thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khác hoả, hoả khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ...). Chuyên khoa đông y, châm cứu cũng dựa trên cơ sở học thuyết này, chia cơ thể thành các hệ kinh lạc. Châm cứu là điều hoà âm dương trong cơ thể giúp cho âm - dương ở trạng thái cân bằng và kinh lạc được thông suốt. Đến cuối thế kỷ XIX, căn cứ vào sự phát minh ra cấu trúc tế bào. Nhà bác học Việc Xốp (1858) đã sáng lập ra học thuyết bệnh lý học tế bào. Theo ông. mọi quá trình bệnh lý đều phát sinh do sự biến đổi trong tế bào. học thuyết này có cơ sở khoa học nhưng phiến diện, cục bộ, coi cơ thể là liên bang các tế bào khác nhau, không liên quan đến nhau. Đến cuối thế kỷ XIX, N.E.Nâykinxky, Bốt kín và Xetrenốp đã nêu khái niệm về bệnh: "Trong cơ thể động vật luôn luôn có những quá trình sống. không ngừng tiến hành trao đổi các chất lipit, protit. gluxit,vitamin với các quá trình tiêu hoá, tuần hoà, hô hấp, bài tiết được tận hành dưới sự điều tiết cơ năng của động vật. Cơ cếê điều tiết 197
  2. này giúp cho cơ thể sống thích nghi với những điều kiện hoàn cảnh bên ngoài luôn luôn thay đổi như dinh dưỡng, chế độ làm việc là môi trường sống. Cho nên bệnh tật không chỉ là sự tổn thương của một cơ quan nào mà trước hết là sự phá vỡ quá trình điều tiết cơ năng hoặc sự mất thăng bằng về cơ năng điều tiết đó” Như vậy, theo các nhà bác học này thì bệnh tật là do rối loạn điều tiết cơ năng nhưng cơ năng điều tiết mọi hoạt động sống của cơ thể là gì thì chưa chứng minh được. Sau đó, Páplốp, nhà sinh lý học thần kinh xuất sác người Nga, người đã đặt nền móng cho sinh lý học hiện đại bằng học thuyết vĩ đại thần kinh - thể dịch. ông đã phát triển quan điểm của Xetrenốp và đưa ra quan điểm khoa học về sự phát sinh bệnh tật trong cơ thể như sau: Theo ông "Cơ thể động vật là một khối thống nhất giữa các cơ quan bộ phận trong cơ thể có ảnh hưởng qua lại với nhau dưới sự điều tiết chung của hệ thống thần kinh là thể dịch (chất nội tiết)". Mặt khác, cơ thể và ngoại cảnh luôn có tác động qua lại tương hỗ nhau, cơ thể luôn thích ứng với ngoại cảnh. Trong hệ thống thần kinh, đặc biệtt lớp bỏ đại não đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo mọi hoạt động cơ năng của cơ thể, đảm bảo tính thống nhất với ngoại cảnh thông qua hoạt động phản xạ có điều kiện và không điều kiện. Khi sự thích ứng bên ngoài vượt quá phạm vi điều hoà sinh lý của thần kinh trung ương sẽ làm rối loạn chỉ đạo hoạt động cơ năng của cơ thể, phá vỡ thế cân bằng giữa cơ thể và ngoại cảnh, khi đó sẽ phát sinh bệnh tật. Như vậy: Bệnh tật không chỉ xảy ra ờ cục bộ mà là phản ứng toàn thân, ảnh hưởng tới mọi hoạt động thống nhất của cơ thể. Đây là quan điểm khoa học và toàn diện nhưng cũng cần phải tránh đi vào quan điểm thần kinh luận cho rằng từ thần kinh có thể sinh ra mọi thứ bệnh và suy diễn cho rằng phản xạ bệnh lý là cơ sở duy nhất của hệ phát triển bệnh hoặc tuyệt đối hoá vai trò của lớp vỏ đại não. Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của ngành hoá sinh và sinh học phân tử, quan điểm bệnh cũng được bổ sung thêm toàn diện hơn như các khái niệm bệnh lý học phân tử. Xác định một số bệnh do gen di truyền gây nên... Trong thực tiễn nhân y và thú y học, người ta chia bệnh tật thành hai nhóm bệnh chính là bệnh truyền nhiễm và bệnh không truyền nhiễm. Bệnh truyền nhiễm là những bệnh do vi trùng, siêu vi trùng, ký sinh trùng, nấm vi thể gây ra cho cơ thể người và động vật. Chúng có khả năng lây truyền nhanh tử cơ thể này sang cơ thể khác, thậm chí từ loài này sang loài khác và phát triển thành dịch nguy hiểm, gây tác hại lớn, làm chết nhiều vật nuôi trong một thời gian. Ví dụ: bệnh dịch tả trâu bò, bệnh tụ huyết trùng... Bệnh không truyền nhiễm là những bệnh do cơ năng sinh lý bị trở ngại tổn thương bộ phận do nhiều nguyên nhân khác nhau như tác động vật lý, hoá học, sinh học... Các loại bệnh này không lây truyền giữa các cá thể như các bệnh nội. ngoại, 198
  3. sản... 9.1.2. Nhiễm trùng và nguyên lý nhiễm trùng Nhiễm trùng là quá trình sinh học phức tạp xảy ra trong cơ thể động vật sau khi vi trùng xâm nhập. Danh từ nhiễm trùng (infection) xuất phát từ chữ la tinh inficire, có nghĩa là tôi bị nhiễm. Vì vậy, nhiều người hiểu danh từ ấy là sự xâm nhập vào cơ thể của vi trùng bệnh này hay bệnh khác. Người ta thường gọi gốc tích lây bệnh là mầm bệnh. Khi sinh sản và phát triển trong cơ thể động vật, vi trùng gây tác động nhiều mặt, để phản ứng lại cơ thể súc vật trung hoà mầm bệnh ngay từ đầu hoặc chiến đấu ác liệt với nó trong suốt quá trình phát triển của bệnh Như vậy, kết quả của nhiễm trùng có thể gây thành bệnh có triệu trứng rõ rệt, đặc trưng cho bệnh đó. Hiện tượng ký sinh của vi trùng đối với cơ thể vật nuôi chỉ là một trường hợp riêng biệt trong nhiều mối quan hệ phức tạp giữa cơ thể và vi trùng. Vì vậy, chỉ có thể hiểu nguyên lý nhiễm trùng nếu là phân tích mối quan hệ giữa cơ thể với ngoại cảnh và vi trùng trong một hoàn cảnh nhất định. Chúng ta biết rằng ngay từ khi sinh ra, vật nuôi đã sống và phát triển trong điều kiện tiếp xúc với nhiều loại vi trùng khác nhau nên vật nuôi phải có khả năng lớn để thích nghi với những điều kiện sống mới. Nhiều loại vi trùng có thể sống và thích nghi trên niêm mạc đường hô hấp, đường sinh dục, đường tiêu hoá cũng như trên da của súc vật. Vi trùng bám vào các niêm mạc do tiếp xúc với môi trường xung quanh như hít thở không khí, ăn uống, bú sữa hoặc tiếp xúc trực tiếp với vật nuôi ốm và đồ dùng xung quanh. Vi trùng trong thiên nhiên có rất nhiều loại: - Vi trùng hoại sinh sống nhờ các chất ở xác của tế bào động thực vật. - Vi trùng ký sinh sống nhờ các tế bào động thực vật sống. - Vi trùng tuỳ tiện có thể vừa sống hoại sinh vừa sống ký sinh. Ngoài ra, có loại vi trùng ký sinh bắt buộc tức là chỉ sống và phát triển trong cơ thể động vật nhất định. Sinh sống bằng thể sống và gây cho cơ thể nhiều thiệt hại đó là các siêu vi trùng, ricketsia. Nhiều loại vi trùng sống ở đất, nước, không khí dần dần đã thích ứng trên cơ thể súc vật. Đầu tiên chúng là các vi trùng ký sinh không thường xuyên, sau trở thành ký sinh bắt buộc và cơ thể động vật đã trở thành môi trường sống thuận lợi duy nhất cho chúng. Việc chuyển từ vi trùng hoại sinh có điều kiện sang vi trùng ký sinh thường kéo theo nhiều biến đổi về tính chất của vi trùng. Khi đó, vi trùng mất đi những khả năng cần thiết để sống ngoài môi trường và chúng đã tiếp thu những tính chất mới cần cho cuộc sống ký sinh. Trong quá trình thích nghi với cơ thể súc vật, nhiều vi trùng ký sinh hướng về các mô bào, nhất là đối với Ricketsia và siêu vi trùng. Mồi loại vi trùng thường thích nghi trên cơ thể một loại vật nuôi nhất định. 199
  4. Ví dụ: Vi trùng sốt lở mồm long móng ký sinh ở loài móng guốc chẵn như trâu bò. Vi trùng tỵ thư ký sinh ở loài móng guốc lẻ như ngựa. Vi trùng viêm màng phối ký sinh ở trâu bò... Có loại gây bệnh cho tất cả các loài súc vật như siêu vi trùng bệnh dại. Kết quả của sự thích nghi là vi trùng tạo thành các kiểu trao đổi chất khác nhau, có hình thái và đặc tính sinh lý đặc trưng cho từng loại vi trùng và truyền từ đời này sang đời khác. Căn cứ vào phương thức trao đổi chất mà người ta chia ra các loại: Vi trùng tự dưỡng: Là những vi trùng sống nhờ các hợp chất muối vô cơ để tổng hợp nên dinh dưỡng cho cơ thể. Vi trùng dị dưỡng: Là những vi trùng sống nhờ các hợp chất hữu cơ có săn trong tự nhiên. Trong đó có loại ký sinh trên cơ thể sống, loại hoại sinh trên tế bào và cơ thể đã chết. Như vậy, giữa cơ thể súc vật và vi trùng xảy ra nhiều tác động qua lại như quan hệ cộng sinh cùng có lợi: Ký sinh khi vi trùng gây độc hại cho cơ thể rõ rệt. Hội sinh khi không bên nào gây hại cho bên nào cũng như không có lợi mặc dù chúng sống trên da gà niêm mạc của súc vật. Ngoài vi trùng ký sinh bắt buộc và tuỳ tiện còn có loại ký sinh huỷ hoại hoại sinh. Chúng thường có nhiều ở môi trường và chỉ gây bệnh khi rơi vào vết thương. Ví dụ: Vi trùng hoại sinh hơi (vi trùng ung khí thán) và vi trùng uốn ván... Vi trùng uốn ván dùng các tế bào chết để dinh dưỡng và sinh sản độc tố mạnh, truyền theo đường máu, thần kinh và gây nên triệu trứng uốn ván. Hoạt tính của vi trùng độc phụ thuộc vào khả năng ức chế sức tự vệ của cơ thể (tính công kích). Khả năng sinh sản và lây lan qua các mô vào cơ quan (tính chất ký sinh) và gây nên ngộ độc cho cơ thể (đặc tính). Theo A.V. AĐÔ (1964), tác động gây bệnh của vi trùng độc là sự phá huỷ mô bào và cơ quan tạo nên triệu trứng điển hình của bệnh. Độc lực của vi trùng lan ra tế bào, mô và các cơ quan, điều khiển hoạt động sống của cơ thể. Vi trùng độc khi sinh sản có thể tích đầy trong máu, dịch lâm ba, mô bào, các khe rãnh giữa các mô và tế bào gây tác động nhiều mặt đến cơ thể. Sự phá huỷ của vi trùng truyền nhiễm diễn ra ở mức độ phân tử và tế bào gây ức chế hô hấp tế bào, gây đông vón tương bào, từ đó phát sinh nhiều thể viêm, phá huỷ các chức năng điều tiết chuyên nghiệp của các cơ quan. Sức gây bệnh của vi trùng phụ thuộc vào sự biến đổi độc lực của chúng. Độc lực tăng khi truyền liên tiếp vi trùng độc vào cơ thể súc vật cảm nhiễm, độc lực giảm khi truyền vi trùng qua cơ thể khác ít cảm nhiễm và cấy truyền lâu đời trên môi trường nhân tạo hoặc tiếp xúc trực tiếp với các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học có ảnh hưởng xấu đến vi trùng. 200
  5. Mức độ độc lực của vi trùng được xác định báng liều chết trung bình (ký hiệu LD50) tức là liều đủ để giết 50% súc vật thí nghiệm. Vi trùng độc vào cơ thể chỉ phát triển được khi yếu tố công kích của vi trùng có khả năng cản sức đề kháng của cơ thể. Trong quá trình đó vi trùng sản sinh ra nhiều yếu tố như nội độc tố, ngoại độc tố chất giáp mô, công kích tố. hêmôlizin, lơcôxidin. coagulaza fibrinolizin... Có những loại vi trùng như vi trùng nhiệt thán, song cầu trùng... trong giáp mô có chứa chất ức chế thực bào của cơ thể động vật nếu làm mất khả năng tạo giáp mô thì chúng sẽ mất độc lực. Nhiều vi trùng gây bệnh là nhờ có lông mao nên dễ dàng xâm nhập và cư trú tại các mô bào, một số còn tiết ra men côagulaza làm đông vón huyết tương động vật, vi trùng Streptoccus, Diplococus là một số vi trùng khác tiết ra chất lơcôxidin phá huỷ bạch cầu và hemôlizin phá huỷ hồng cầu của cơ thể động vật. Độc tố của vi trùng được chia ra làm nội độc tố và ngoại độc tố: Ngoại độc tố: Do vi trùng tiết ru môi trường xung quanh, các mô bào của cơ thể hút vào và bị nhiễm độc. Ví dụ: Độc tố uốn ván truyền theo mạch máu và dây thần kinh vào trung ương thần kinh gây kích thích trung tâm vận động làm bắp thịt co giật. Người ta làm thí nghiệm tiêm nước lọc ngoại độc tố uốn ván vào cơ thể không hề có vi trùng thì cơ thể súc vật vẫn mắc triệu trứng uốn ván như khi có vi trùng. Do đó, người ta gọi ngoại độc tố là độc tố thực. Các loại vi trùng Gr thường tiết ra độc tố thực có trọng lượng phân tử giống như cao phân tử. Độc tố có tích chất kháng nguyên và chỉ ảnh hưởng đến cơ thể sau một thời gian ủ bệnh. Độc tố có kết cấu đản bạch hay polyxaccaris, chúng khác nhau về cấu trúc hoá học, tính tác động trên cơ thể. Ví dụ: Vi trùng uốn ván sinh hai độc tố: Tetamôlizin làm tan vỡ hồng cầu và tetanopanin kích thích trung tâm thần kinh vận động gây triệu trứng tổng hợp của bệnh uốn ván là co giật, cứng cơ. Ngược lai, độc tố bac.botulinus cũng tác động đến trung tâm thần kinh vận động nhưng lại làm nhũn rão các bắp thịt. Ngoại độc tố có tích chất kháng nguyên khi tiêm vào cơ thể súc vật sẽ kích thích cơ thể sinh kháng thể để trung hoà độc tố. Ngoại độc tố cũng dễ dàng bị phá huỷ dưới tác động của điều kiện như nhiệt độ cao, ánh sáng, formalin... Nếu cho formalin vào độc tố với liều lượng 0,3 - 0,5% ở nhiệt đò 37 – 400C độc tố sẽ biến thành độc tố vô hoạt (anatôxin). Anatôxin không còn độc nhưng vẫn còn tính kháng nguyên nên tiêm vào cơ thể sẽ kích thích cơ thể sản sinh kháng thể. Lợi dụng tính chất này mà người ta chế tạo các vacxin. Đặc biệt khi cho thêm phèn chua vào độc tố vô hoạt sẽ làm tảng khả năng miễn dịch cho cơ thể súc vật khi được tiêm phòng. - Nội độc tố: Là sản phẩm của nhiều loại vi trùng, chủ yếu là loại vi trùng Gr - do xác vi trùng chết mà thành. Nội độc tố gắn liền với thân vi trùng. Chúng gây ra các hiện tượng ngộ độc chung cho súc vật như ủ rũ, gầy còm, lãng hoặc giảm thân nhiệt, 201
  6. http://cnty.rumenasia.org, TL tham khao, P.V. Hai xuất huyết màng xoang và niêm mạc ảnh hưởng tới các mạch máu và hệ thân kinh làm giảm huyết áp, rối loạn hô hấp, giảm bạch cầu, ức chế thực bào và huỷ hoại mô bào cục bộ. Điển hình là loại nội độc tố phó thương hàn: Gây sốt, tạo nốt hoại tử cục bộ ở đường ruột và phá huỷ trao đổi chất. Nội độc tố có khả năng chịu nhiệt cao ở nhiệt độ 80-1000C nó vẫn tồn tại trong một thời gian dài. Theo.V.M.Arirtopxki thì nội độc tố và ngoại độc tố có những điểm khác nhau cơ bản sau: Ngoại độc tố Nội độc tố - Dễ thẩm thấu từ tế' bào ra môi - Kết chặt với thân vi trùng. trường. - Rất độc, có tác dụng trên từng cơ quan, - Ít độc hơn, tác dụng chọn lọc không rõ chịu nhiệt kém. rệt, chịu nhiệt cao. - Tạo kháng độc tố trong cá thể động vật. - Tác động kháng nội độc tố không đáng kể. - Bản chất là protit nên bị men tiêu hóa - Nhiều lọai là glucolipoit nên bị men tác động. tiêu hóa tác động. - Tác động của formalin biến thành độc - Formalin ít làm cho nó mất tính độc. tố vô họat. Khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể ít sẽ gây nhiễm cục bộ đặc biệt là ở nhiễm trùng, khi nhiều sẽ gây nhiễm trùng toàn thân. Nhiêu loại vi trùng khi qua cửa nhiễm trùng sẽ đi vào máu, hệ bạch huyết và lan ra các mô bào. Nhiễm trùng cục bộ xảy ra khi cơ thể có khả năng ngăn chặn vi trùng phát triển và lan rộng gáy ra viêm tại chỗ. Quá trình đó thường xảy ra phán ứng mạnh của cơ thể như tăng thân nhiệt, biến đổi một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá máu, tạo kháng thể... Nếu cơ thể không khoanh vùng được mầm bệnh sẽ lan ra toàn thân gây nhiễm trùng toàn thân hoặc nhiễm trùng huyết. 9.1.3. Đặc điểm của bệnh truyền nhiễm Bệnh truyền nhiễm có những đặc điểm sau: - Mầm bệnh (nhân tố gây bệnh): Mầm bệnh có nhiều loại khác nhau bao gồm: Siêu vi trùng, vi trùng, soạn trùng, nấm vi thể, ký sinh trùng đường máu... với nhiều chủng loại khác nhau về kích thước và hình dạng. - Hiện tượng nhiễm bệnh: Xảy ra trong cơ thể súc vật sau khi mầm bệnh xâm nhập cơ thể với các điều kiện gây bệnh sau: + Mầm bệnh phải phát triển được trong cơ thể súc vật, phải có độc lực để có thể cản được sức đề kháng của cơ thể. + Đường xâm nhập của mầm bệnh vào cơ thể theo các con đường tiêu hoá. hô hấp, niêm mạc, máu, đường sinh dục và qua vết xước ở da. + Mầm bệnh phải có số lượng đủ để gây bệnh khi vào cơ thể nó phải phát triển nhanh. Sức gây bệnh của vi trùng phụ thuộc vào sự biến đổi độc lực và sức đề kháng của cơ thể vật nuôi. Mầm bệnh có thể bị cơ thể vật nuôi tiêu diệt, cũng có thể phát triển và gây bệnh truyền nhiễm cho sát nuôi. Đó là cuộc đấu tranh giữa cơ thể bị nhiễm 202
  7. trùng và vi trùng. Tuỳ theo khả năng chống đỡ của cơ thể mà vật nuôi có thể bị nhiễm bệnh đơn thuần (chỉ do một loại vi trùng gây nên) hoặc bị nhiễm trùng kết hợp (do hai hay nhiều vi trùng gây bệnh cùng một lúc) hoặc bị nhiễm trùng kế phát nhau. Tuỳ theo tính chất, mức độ và thời gian của quá trình bệnh mà người ta chia ra các thể bệnh: + Thể quá cấp: súc vật thường chết ngay khi chưa có triệu chứng điển hình. + Thể cấp tính: bệnh diễn biến nhanh có triệu chứng điển hình là thường bị chết trong vòng 7-10 ngày. + Thể á cấp tính: bệnh diễn biến chậm hơn kéo dài vài tuần lễ thể hiện rõ triệu chứng điển hình. + Thể mãn tính: bệnh lúc phát lúc khỏi, kéo dài hàng tháng đến hằng năm. Một số trường hợp có thể có thể ẩn, đó là súc vật mang mầm bệnh nhưng không phát bệnh rõ ràng nhưng lại thường xuyên thải mầm bệnh ra môi trường xung quanh. Đây là nguồn bệnh rất nguy hiểm. - Quá trình tiến triển của bệnh truyền nhiễm được chia thành các thời kỳ như sau: + Thời kỳ ủ bệnh: Dài hay ngắn tuỳ thuộc vào các loại bệnh khác nhau và khả năng đề kháng của cơ thể vật nuôi, được tính từ khi vi trùng xâm nhập cho đến khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên. + Thời kỳ liềm phát: Từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên đến khi bệnh toàn phát. Cơ thể phát sinh các rối loạn nhẹ như sốt, ủ rũ, kém ăn, sổ mũi, chảy nước mãi... + Thời kỳ toàn phát: Các triệu chứng xuất hiện rõ đầy đủ, cơ thể súc vật ở trạng thái mới gọi là trạng thái bệnh lý, quá trình trao đổi chất cũng thay đổi theo. + Thời kỳ kết thúc: Cơ thể khỏi bệnh hoặc chết. 9.2. SỨC ĐỘ KHÁNG TỰ NHIÊN CỦA CƠ THỂ VẬT NUÔI VỚI BỆNH Sức đề kháng của cơ thể với bệnh truyền nhiễm có liên quan đến trạng thái sinh lý của cơ thể vật nuôi, trạng thái sinh lý ấy phụ thuộc vào tuổi điêu kiện thức ăn dinh dưỡng và chăm sóc nuôi dưỡng của con người. Nhiêu nhà bác học đã nghiên cứu vai trò của cơ thể đối với bệnh truyền nhiễm. Thuyết thực bào của J.J.Métnhicốp đã có ảnh hưởng dẫn đến việc phát triển học thuyết về sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh. Song song với sự phát triển của học thuyết miễn dịch của J.J.Métnhicốp, nhiều tài liệu về khả năng diệt vi trùng của máu và hệ bạch huyết cung như khả năng trung hoà độc tố bằng kháng thể đã dược nêu ra. Trong quá trình đó đã xuất hiện nhiều học thuyết miễn dịch thể dịch. Từ các hiện tượng không bị nhiễm bệnh hoặc từ các chức năng bảo vệ cơ thể khác (khả năng trung hoà độc tố, làm tan vỡ vi trùng...), các tác giả tổng hợp thành học thuyết để giải thích các hiện tượng phức tạp thuộc phạm trù miễn dịch. Hệ thống phòng vệ hay sức đề kháng tự nhiên của cơ thể bao gồm: 203
  8. 9.2.1. Da Da là tổ chức thượng bì kép sừng hoá, có tác dụng bảo vệ cho cơ thể tránh được những tác động của các nhân tố cơ học, hoá học và vi sinh vật gây bệnh. Da lành lặn là bức tường bảo vệ vững chắc cho cơ thể. Chỉ có một số ít mầm bệnh truyền nhiễm có thể xuyên qua da lành lặn. Ví dụ: Bruscelloz, tularemia, nấm lông, nấm da. Tế bào chết ớ thượng bì luôn luôn bị rụng cuốn theo nhiều vi trùng, dịch tuyến mồ hôi trên da rửa trôi và có chất lizozym làm dung giải nhiều vi trùng. Người ta thí nghiệm thả vi khuẩn Salmonella sống trên da người. sau 20 phút kiểm tra chỉ có 1% sống, còn 99% bị tiêu diệt. Sự bài tiết của da, rụng vảy, bụi đất... làm bề mặt da và lông, tóc bị bẩn. Vì vậy trên lông, da và nhất là các nếp nhăn thường bị thấm nhiều mồ hôi và mỡ dễ bị phân huỷ sẽ làm giảm độ axit của da và tăng độ thích ứng của vi trùng độc. Da thường xuyên tiếp xúc với ngoại cảnh do đó tiếp xúc với nhiều loại vi trùng (trên lcm2 da bê bị bẩn có chứa hàng triệu vi trùng các loại). Da sạch và lành lặn có chức năng bảo vệ cao: dưới lớp giác mạc của thượng bì là mồ hôi liên kết có nhiều mạch máu và dây thần kinh, các tuyến mồ hôi và tuyến mơ. Nếu vi trùng xuyên qua thượng bì là da liền bị các tế bào mô liên kết và bạch cầu tiêu diệt. Tại nơi vi trùng xâm nhập. Xét nghiệm cho thấy có rất nhiều bạch cầu, nếu bạch cầu không chống nổi thì vi trùng sẽ xâm nhập vào các mô và cơ quan khác. Trạng thái tự vệ của da phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ, không phải ngẫu nhiên mà người ta có thể đánh giá một phần sức khoẻ của gia súc qua trạng thái của lông và da. Nếu da khô, lông dài khô và rối thì sức đề kháng của cơ thể thấp. Nếu da bóng nuột, lông mềm và mượt thì sức đề kháng cao. Cho vật nuôi ăn đầy đủ, đúng mức, tắm trải thường xuyên là những biện pháp tốt nhất phòng bệnh cho da, kích thích trao đổi chất, làm tăng tính ngon miệng và tăng sức đề kháng. thức ăn thiếu vitamin và khoáng sẽ làm da kém sức đề kháng. 9.2.2. Niêm mạc Niêm mạc mắt, mũi, miệng, ruột và đường sinh dục so với da thì vi trùng dễ thích ứng hơn, nhiều loại vi trùng xám nhập vào cơ thể theo đường niêm mạc. Song nếu niêm mạc của cơ thể gia súc khoẻ mạnh có sức đề kháng cao. Niêm mạc đường hô hấp bao bọc bởi lớp thượng bì có lông rung nhỏ cùng với chất nhầy có vai trò giữ bụi và vi trùng rồi tống chúng ra ngoài qua đờm. Hoặc phàn xạ hắt hơi. Niêm mạc còn tiết ra lizozym trong dịch nước bọt. nước mũi, nước mắt... dịch vị và dịch ruột có thể tiêu diệt hầu hết các vi trùng xâm nhập. 9.2.3. Ổ viêm Đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể khỏi nhiễm trùng, phản ứng viêm càng mạnh ở điểm nhiễm trùng chứng tỏ khả năng kháng thề của cơ thể càng cao. Trong ồ viêm có nhiều dịch thẩm xuất từ mạch quản thấm ra bao gồm: - Dịch thể: Chủ yếu là đản bạch xơ xelluloalbumin, fibrinogen hình thành tổ chức xơ trong ổ đêm, ngăn chặn không cho vi trùng lan sang bộ phận khác của các tế bào: 204
  9. Chủ yếu là bạch cầu, theo J.J. Métnhicốp có hai loại chính: + Tiểu thực bào: Gồm bạch cầu đa nhân trung tính di động đến nơi có vi trùng, tiêu diệt vi trùng theo kiểu amip. + Đại thực bào: Gồm bạch cầu đơn nhân và tế bào của hệ thống lưới nội mô sản sinh ra men dung giải đản bạch có tác dụng làm tan vỡ vi trùng hỗ trợ cho tiểu thực bào. Nếu thành phần dịch rỉ viêm có thể gây chèn ép các cơ quan tổ chức, mạch máu, dây thần kinh gây đau nhức và có biểu hiện đỏ, sưng, nóng, đau. Ngoài ra, trong quá trình viêm còn sinh ra nhiều sản phẩm trung gian gây tăng tiết histamin, axetycholine làm cường phó giao cảm gây giãn mạch, tăng tiết serotonin làm tăng axit lactic và các dẫn xuất ADP, AMP... 9.2.4. Máu và bạch huyết Súc vật khoẻ mạnh có thể ngăn cản sự xâm nhập của vi trùng vào máu, tiêu diệt và trung hoà độc của vi trùng, ôpxônin và trôpin trong máu có tác dụng làm yếu vi trùng giúp cho hệ thống thực bào hoạt động thuận lợi, các kháng thể tồn tại trong máu và bạch huyết như yglôbuline, bạch cầu đơn nhân, bạch cầu đa nhân... có vai trò liêu diệt và trung hoà độc tố của vi trùng. Vì vậy các chỉ tiêu sinh hoá của máu cho phép đánh giá trạng thái cơ thể và khả năng tự vệ của gia súc. Qua việc xét nghiệm hồng cầu, bạch cầu và công thức máu có thể đánh giá được quá trình sinh lực trong các mô bào và các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau. 9.2.5. Gan, thận Các chất cặn bã trong quá trình trao đổi chất của cơ thể bao gồm cả độc tố của vi khuẩn đều được đưa về gan để giải độc. Gan đã giữ lại những kim loại nặng, một số cặn bã và vi khuẩn để đưa xuống ruột theo chu trình gan -mật - ruột và được tống ra ngoài theo phân. Một số chất cặn bã còn lại được đưa xuống thận và được thải ra ngoài theo nước tiểu. Các tế bào Kypfe của gan, tế bào vỏ thượng thận và tuyến yên có khả năng giữ lại và tiêu hoá vi trùng. Phản ứng chung của cơ thể khi vi trùng xâm nhập vào là phản ứng thần kinh, thể hiện ở chỗ tăng hoặc giảm nhịp đập của tim, loạn nhu động ruột, tăng hô hấp... Những điều đó gây nên sự biến đổi điều khiển của hệ thần kinh trung ương dẫn đến rối loạn nội tiết và trao đổi chất nói chung của cơ thể. Nếu như sức đề kháng của cơ thể tốt sẽ ngăn chặn được sự phá huỷ của vi trùng đối với từng cơ quan bộ phận và toàn thân. Nếu sức đề kháng kém, vi trùng sẽ phát triển mạnh. Hoạt động phá huỷ cơ quan nội tạng và gây bệnh cho súc vật. * Biện pháp nâng cao sức đề kháng tự nhiên Sức đề kháng tự nhiên của cơ thể vật nuôi đối với vi trùng gây bệnh xâm nhập phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc và quản lý sử dụng vật nuôi. Nếu cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng với tỷ lệ thích hợp như protit, lipit, gluxil, khoáng, vitamin 205
  10. và có chế độ chăm sóc huấn luyện, sử dụng hợp lý sẽ làm tăng sức đề kháng tự nhiên của cơ thể. Ngoài ra, sức đề kháng tự nhiên còn phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh có lợi hay bất lợi cho cơ thể vật nuôi và khả năng ngăn chặn vi trùng gây bệnh phát triển ngoài môi trường như thế nào. Muốn vậy, chúng ta phải nghiên cứu rõ những nguyên nhân phát sinh và phát triển bệnh truyền nhiễm để có biện pháp phòng trừ có hiệu quả tốt nhất. 9.3. NGUYÊN NHĂN PHÁT SINH VÀ PHÁT TRIỂN BỆNH TRUYỀN NHIỄM Nghiên cứu nguyên nhân phát sinh và phát triển bệnh truyền nhiễm, người ta phân biệt: - Những nguyên nhân quyết định: đó là bản thân những nhân tố gây bệnh sống và tồn tại phát triển trong môi trường, quá trình lây truyền các nhân tố gây bệnh (virus, vi khuẩn, nấm vi thể, ký sinh trùng... ) và sự cảm nhiễm với nhân tố gây bệnh của cơ thể vật nuôi. Nhưng nguyên nhân hỗ trợ: Thực chất là những phản ứng của con vật bằng nhiều cách khác nhau, tuỳ theo trạng thái sinh lý và cơ thể của nó trước sức tấn công của nhân tố gây bệnh, điều kiện sống thuận lợi hay trở ngại cho sự tồn tại của nhân tố gây bệnh, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng vật nuôi tốt hay xấu. 9.3.1. Những nguyên nhân quyết định 9.3.1.1. Sự tồn tại và phát kiến của các nhân tố gây bệnh (mầm bệnh) - Virus (còn gọi là siêu vi trùng): Là những phần tử nhỏ bé không nhìn thấy dưới kính hiển vi quang học thường, chúng lọt qua màng lọc bằng sứ có cỡ lỗ nhỏ nhất, do đó người ta còn gọi là virus qua lọc. Chúng không nuôi cấy được trong môi trường nhân tạo, chỉ sống và nuôi cấy trên tế bào sống như phôi trứng gia cầm, cơ thề động vật. Ví dụ: Siêu vi trùng dại, cúm gà H5N1, siêu vi trùng Newcastle... Vi trùng (vi khuẩn): Là những thể đơn bào nhỏ, chỉ nhìn thấy qua kính hiển vi có độ phóng đại lớn sau khi được nhuộm tế bào, bao gồm các loại vi khuẩn, nấm vi thể, các nguyên sinh động vật cỡ nhỏ... + Vi khuẩn là những thể đơn bào, kích thước vài micromet, sinh sản bằng cách tự phân chia hoặc sinh nha bào, có sức đề kháng mạnh, có nhiều hình thái khác nhau: Tròn như liên cầu trùng; tụ cầu trùng thường là loại Gr-; hình gậy thẳng gọi là trực khuẩn; thuộc loại Gr+ như đóng dấu, uốn ván...; hình cong còn gọi là phảy khuẩn; hình sợi còn gọi là xạ khuẩn. + Nấm vi thể: Là những thể thực vật không có khả năng biến đổi thán khí trong không khí thành hydratcacbon, cơ thể sống bằng hình thức hoại sinh hoặc ký sinh. Một số nấm gây bệnh gọi chung là bệnh nấm. Người ta phân biệt: • Nấm ngoại khoa gây bệnh rụng lông như Blastomyces. • Nấm nội khoa do Aspecgilus gây bệnh viêm mạch lâm ba truyền nhiễm. + Nguyên sinh động vật: Là những cơ thể đơn bào nhỏ, đặc trưng nhất là những 206
  11. loại sống và gây bệnh trong bộ máy tiêu hoá như amip, trực trùng bệnh lỵ, cầu trùng gây rối loạn tiêu hoá và bọn sống trong đường máu như dạng trùng piroplasma, babesia, theileria, có loại ký sinh ở đường sinh dục như tiêm mao trùng trypHnosoma evasi ký sinh đường sinh dục ngựa gây bệnh sảy thai truyền nhiễm. - Các nhân tố gây bệnh trên luôn luôn tồn tại và phát triển ngoài môi trường nhất là điều kiện kém vệ sinh, môi trường ô nhiễm, đồng thời chúng tồn tại trong cơ thể động vật dưới dạng thể ẩn, thể mãn tính. Chúng được lây truyền từ con vật này sang con vật khác theo các khâu sau: + Nguồn gốc gây bệnh chủ yếu do con vật ốm, con mang trùng bài xuất ra môi trường, con vật khoẻ ở chung có thể bị cảm nhiễm. Nhân tố gây bệnh còn có thể tồn tại trong những động vật hoang dã, súc vật bị chết khi mắc bệnh... Các nhân tố gây bệnh được bài xuất ra môi trường theo phân, nước tiểu hoặc qua hô hấp. Ví dụ: virus dịch tả, ký sinh trùng đường ruột, trực khuẩn lao đường ruột... bài xuất qua phân, trực khuẩn lao bài xuất qua đường hô hấp; viêm phế quản, tụ huyết trùng bài xuất qua đường hô hấp; bài xuất qua đường sinh dục như một số loại vi trùng, ký sinh trùng ở đường sinh dục như Bruscella gây sảy thai truyền nhiễm, vi trùng gây bệnh viêm âm đạo có hạt. + Một số do giao phối truyền từ con cái sang con đực và ngược lại như tiêm la, ngựa; sảy thai truyền nhiễm viêm âm đạo... Vi trùng bài xuất qua đường tiêu hoá như trực trùng E.coli xoắn trùng Spirocheta, ký sinh trùng sán máng... + Vi trùng bài xuất theo đường máu như các bệnh nhiệt thán, xoắn trùng Leptospira... Đặc biệt, quá trình giết mổ súc vật ốm sẽ làm cho vi trùng lây lan mạnh. Ngoài ra, có một số nhân tố gây bệnh bài xuất qua nước mắt, mũi, niêm mạc như dịch tả trâu, bò, lợn... - Các nhân tố gây bệnh xâm nhập cơ thể qua các con đường riêng, đặc biệt qua da bị xây sát, vết thương, mũi kim tiêm, qua đường niêm mạc, hô hấp, tiêu hoá, sinh dục. - Quá trình lây truyền các nhân tố gây bệnh xảy ra nhanh chóng do súc vật ốm ở chung với con khoẻ hoặc môi trường lưu giữ các nhân tố gây bệnh như nơi tối, thiếu ánh sáng, đất ẩm, nước bẩn và các ký chủ trung gian truyền bệnh như ve mồng, ruồi, muỗi, chuột, chim, dã thú... Đặc biệt chúng được lây truyền qua dụng cụ và người công nhân chăn nuôi do không thực hiện nghiêm ngặt điều lệ thú y. 9.3.1.2. Cơ thể vật nuôi cảm nhiễm với nhân tố gây bệnh Cơ thể cảm nhiễm là những môi trường lý tưởng cho nhân tố gây bệnh phát triển, điều này tuỳ thuộc vào trạng thái sinh lý cơ thể, phụ thuộc vào loài. giống, tuổi và cá thể cũng như trạng thái sức khoẻ, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng. Nếu tăng cường bồi dưỡng cơ thể, tăng sức đề kháng tự nhiên và nhân tạo sẽ góp phần ngăn chặn bệnh truyền nhiễm phát triển. 207
  12. 9.3.2. Những nguyên nhân hỗ trợ - Điều kiện ngoại cảnh thuận lợi hay trở ngại cho sự tồn tại của nhân tố gây bệnh như điều kiện khí hậu, các yếu tố đất, nước, độ ẩm, ánh sáng, các tác nhân vật lý, hoá học, sinh học, các điều kiện xã hội, ô nhiễm môi trường... Sự tồn tại và phát triển của các ký chủ trung gian truyền bệnh như chim, chuột, ve, mồng, côn trùng. Chế độ nuôi dưỡng kém, chế độ sử dụng quá mức đều là những nguyên nhân hỗ trợ làm giảm sức khoẻ, sức đề kháng, tạo điều kiện cho nhân tố gây bệnh phát triển. 9.4. BIỆN PHÁP PHÒNG TRƯ BỆNH TRUYỀN NHIỄM Mục đích của việc phòng trừ bệnh truyền nhiễm là phải ngăn chặn tận gốc rễ, tức là phải tiêu diệt sự tồn lại và phát triển của các nhân tố gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của cơ thể với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh bao gồm một số biện pháp tổng hợp sau. 9.4.1. Vệ sinh vật nuôi Đây là khái niệm rất rộng bao gồm việc vệ sinh thân thể, vệ sinh làm việc, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thức ăn, nước uống nhằm chống lại tác nhân có hại của nhân tố gây bệnh, hạn chế sự xâm nhập của nhân tố gây bệnh vào cơ thể, tăng cường rèn luyện cơ thể, tăng sức đề kháng. 9.4.1.1. Tầm quan trọng của vệ sinh trong chăn nuôi Trong chăn nuôi, dịch bệnh luôn luôn là một thảm hoạ gây nhiều thiệt hại cho ngành chăn nuôi, đồng thời còn ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân. Khi dịch bệnh lan tràn phải huy động sức người, tiền của để dập tắt dịch bệnh, sản phẩm chăn nuôi giảm sút về số lượng và chất lượng, từ đó ảnh hưởng tới đời sống của nhân dân. Ngoài ra, còn có một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có thể lây lan từ vật nuôi sang người, làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, đe doạ tính mạng con người như các bệnh: nhiệt thán, bệnh dịch tả, bệnh xoắn trùng lepto, bệnh sảy thai truyền nhiễm... Để giảm thiệt hại cho chăn nuôi phải ngăn chặn dịch bệnh, vệ sinh chăn nuôi chính là để phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ sức khoẻ vật nuôi và nâng cao được sức sản xuất của vật nuôi. Vệ sinh trước hết là những biện pháp từ bên ngoài tác động đến những nhân tố của môi trường có thể tạo nên mối đe doạ cho vật nuôi, có liên quan trực tiếp đến trình độ của người chăn nuôi trong việc áp dụng những nguyên tắc vệ sinh trong mọi hoạt động hằng ngày dưới sự hướng dẫn của cán bộ chuyên môn. Chữ "vệ sinh" từ tiếng Hy lạp Hugiainein có ý nghĩa là "giữ mình tốt" đó là một phần của khoa y học và thú y học. Phương châm của vệ sinh trong chăn nuôi là: "phòng bệnh hơn chữa bệnh" thực hiện tốt những quy định của vệ sinh trong chăn nuôi sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành chăn nuôi. Chẳng hạn: Tiêm chủng định kỳ các vacxin phòng bệnh cho gia cầm sẽ làm cho gia cầm tăng thêm hàng chục triệu con mỗi năm. Để hạn chế dến mức thấp nhất thiệt hại do dịch bệnh gây ra cho chăn nuôi, cần thực hiện tốt các nguyên tắc sau: 208
  13. - Thực hiện thường xuyên việc vệ sinh môi trường sống của vật nuôi. - Vệ sinh thức ăn, nước uống, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể vật nuôi. - Tiêm chủng vacxin định kỳ cho các loại vật nuôi. - Phát hiện kịp thời các ổ dịch để dập tắt ngay. - Thực hiện tốt nội quy phòng ngừa dịch bệnh ở cơ sở. 9.4.1.2. Vệ sinh môi trường sống của vật nuôi 9.4.1.2.1. Thời tiết: Trong các yếu tố ngoại cảnh thì thời tiết ảnh hưởng nhiều nhất tới vật nuôi. Ba nhân tố chính của thời tiết có tác động nhiều nhất đến vật nuôi là nhiệt độ, độ ẩm và gió. - Nhiệt độ: Cơ thể vật nuôi luôn chịu tác động của nhiệt độ bên ngoài, nhiệt độ môi trường quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng đến sự điều tiết thân nhiệt và có thể làm cho vật nuôi bị cảm nóng hay cảm lạnh. Để đề phòng vật nuôi bị cảm nóng phải tăng tốc độ lưu thông không khí trong chuồng nuôi như mùa hè oi bức phải mở cửa thoáng, vật nuôi làm việc dưới trời nắng phải có biện pháp che đang hoặc hạn chế làm việc khi trời nắng gay gắt. Cho vật nuôi nghỉ ngơi ở nơi rộng rãi thoáng mát, yên tĩnh, cho uống nước mát, không chăn thả khi trời quá nóng sẽ ảnh hưởng đến tiêu hoá và trao đổi chất của con vật. Để chống lạnh cho vật nuôi cần cho ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, chăm sóc tốt như che chuồng chống rét, lót ổ, chăn thả hay làm việc ngoài trời lạnh phải có áo chống rét bằng bao tải, chăn chiến cũ... Đặc biệt trong các ngày giá lạnh, có gió mùa đông bắc phải cho gia súc nghỉ việc, tránh chăn thả ngoài đồng, chú ý bồi dưỡng cơ thể vật nuôi để có đủ dinh dưỡng cho quá trình trao đổi chất, cung cấp năng lượng cho cơ thể điều hoà thân nhiệt. - Độ ẩm không khí : Có ảnh hưởng đến sự bốc hơi nước và sự toả nhiệt của cơ thể. Độ ẩm không khí quá cao sẽ cản trở đến sự bốc hơi nước và thải nhiệt ở nhiệt độ không khí cao hay thấp quá, vật nuôi ở trong chuồng luôn ẩm ướt đều không tốt. Khi nhiệt độ thấp, độ ẩm cao sẽ làm lăng sự tổn nhiệt. Vật nuôi bị cảm lạnh. Khi nhiệt độ cao, độ ẩm cũng cao sẽ cản trở sự toả nhiệt làm vật nuôi mệt mỏi, trao đổi chất bị cản trở. Để chống ẩm trong chuồng nuôi phải thường xuyên quét dọn sạch phân, nước tiểu, ổ lót phải khô làm cho chuồng thoáng khí. - Gió : Trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến sự toả nhiệt của cơ thể vật nuôi. Nếu bị tiếp xúc với gió thổi mạnh và lâu, nhất là gió mùa đông bắc sẽ làm tăng sự toả nhiệt qua da, vật nuôi sẽ bị lạnh. Vì vậy cần phải có biện pháp chống gió lùa vào chuồng nuôi về mùa đông. 9.4.1.2.2. Ánh sáng và không khí -Ánh sáng mặt trời : Giúp tăng cường hoạt động sống và quá trình sinh lý của vật 209
  14. nuôi. Dưới ánh sáng mặt trời có thể phát sinh những phản ứng bên ngoài và bên trong có lợi, tăng cường quá trình sinh trưởng và trao đổi chất. Tia tử ngoại chiếu vào da sẽ biến tiền vitamin D thành vitamin D cho cơ thể, làm tăng cường hấp thu can xi, photpho chống bệnh còi xương, mềm xương, làm mau liền viết thương và có tác dụng diệt khuẩn. Ánh sáng còn ảnh hưởng đến chu kỳ sinh học của vật nuôi. Sống trong điều kiện thiếu ánh sáng, vật nuôi sẽ bị giảm sức sống, ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và chức năng sinh dục của vật nuôi. Tuy nhiên, ánh sáng gay gắt còn làm mỡ vật nuôi béo bị ôxy hoá mạnh, ánh sáng mặt trời chiếu thẳng lúc đứng bóng (buổi trưa từ 11- 13 giờ) có thể làm vật nuôi bị say nắng. Khi trời nóng nực không nên cho vật nuôi làm việc nặng, đứng lâu ngoài trời nắng, tránh ánh nắng chiếu thẳng vào đầu vật nuôi. - Không khí : Trong các thành phần không khí của chuồng nuôi thì nồng độ khí CH4, NH3, H2S. Có ảnh hưởng rất lớn đối với người và vật nuôi. Chuồng nuôi có nhiều phân, rác ẩm ướt trong điều kiện nhiệt độ môi trường cao sẽ sinh nhiều khí độc nhất là NH3 và H2S làm cho vật nuôi bị nhiễm độc, đồng thời có thể gây viêm nhiễm niêm mạc mắt, đường hô hấp, tiêu hoá và làm suy nhược cơ thể... giữ chuồng nuôi sạch sẽ, khô ráo, thoáng khí, chăm sóc vật nuôi chu đáo có thể tránh được sự nhiễm độc không khí. 9.4.1.3. Vệ sinh chuồng trại Chuồng nuôi ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống của vật nuôi, chuồng nuôi hợp lý, đúng hướng, đúng kiểu, phù hợp đặc tính sinh lý của cơ thể vật nuôi. Chuồng nuôi sạch sẽ thoáng mát cao ráo thì vật nuôi sinh trưởng và phát dục tốt, nâng cao khả năng sản xuất. Chuồng nuôi phải đảm bảo các nguyên tắc vệ sinh và yêu cầu kỹ thuật sau đây : - Địa điểm xây dựng : Cao ráo, xa đường quốc lộ, xa nhà máy, yên tĩnh, hạn chế stress cho vật nuôi, không gây ô nhiễm khu dân cư, thuận tiện giao thông chuyên chở thức ăn và xuất bán sản phẩm. - Hướng chuồng : Đảm bảo mùa đông ám áp, mùa hè phải thoáng mát, đủ ánh sáng nhưng tránh nắng quá gắt. - Nền chuồng : Phải có độ dốc vừa phải, không đọng nước, kết cấu đơn giản nhưng bền chắc, không trơn, khô ráo và ấm áp. - Kiến trúc xây dựng : Phải phù hợp đặc tính sinh lý và chức năng sản xuất của từng loại vật nuôi để vật nuôi sinh trưởng phát dục tốt. Ví dụ chuồng nuôi lợn đực giống phải rộng thoáng mát, có sân vận động và cách ly khu chuồng cái giống. Tránh mật độ quá đông trong một chuồng nuôi, thuận tiện chăm sóc, quản lý. Chuồng phải đảm bảo vệ sinh phòng dịch, phải có hệ thống cống rãnh thoát nước và xử lý chất thải. Khoảng cách các chuồng nuôi phải hợp lý. Phải có chuồng nuôi cách ly riêng đối với vật nuôi bị ốm. Chuồng nuôi phải dễ dàng áp dụng các công cụ cải tiến hoặc cơ giới 210
  15. hoá trong chăn nuôi như hệ thống cho ăn uống tự động, hệ thống vận chuyển thức ăn, phân bón... Các khu vực chăn nuôi thường bị các chất thải như phân, nước tiểu làm ô nhiễm môi trường, nguồn nước, không khí, có hại cho sức khoẻ con người và tạo điều kiện để bệnh lây lan thành dịch, ảnh hưởng đến sản xuất. hiện nay, vấn đề gìn giữ và bảo vệ môi trường đang là vấn đề quan tâm lớn của toàn xã hội và cũng là một yêu cầu không thể thiếu khi xây dựng chuồng trại chăn nuôi. Một trong những biện pháp xử lý chất thải chăn nuôi tốt nhất hiện nay là dùng bể lên men vi sinh vật yếm khí sinh ga (hay công nghệ bioga). Khí ga sinh ra khi xử lý chất thải có thể sử dụng làm nhiên liệu đun nấu trong gia đình, đồng thời giảm ô nhiễm môi trường và tăng hiệu quả nguồn phân bón cho trồng trọt. 1.4. Vệ sinh nước dùng trong chăn nuôi 9.4.1.4 Yêu cầu của nước dùng trong chăn nuôi Cho vật nuôi uống nước đầy đủ, hợp lý không kém phần quan trọng như đối với thức ăn. Trong mùa khô, một con bò nặng 250kg nếu thường xuyên đến máng uống nước thì tiêu thụ hết 40 lít nước mỗi ngày. Khi thiếu nước uống, vật nuôi dễ mắc chứng bội thực dạ cỏ táo bón và giảm trọng lượng rất rõ do thiếu nước cho quá trình trao đổi chất của tế bào và cơ thể nói chung (trong cơ thể vật nuôi có 70 - 80% nước). Ngược lại, nếu con vật uống quá nhiều nước sẽ gây tình trạng thiếu dinh dưỡng, dễ gây chứng ỉa lỏng. Như vậy, cho vật nuôi uống nước đủ, hợp lý và sạch có tác dụng bảo vệ sức khoẻ và nâng cao sức sản xuất. Ngoài ra, nước còn dùng để tắm rửa cho vật nuôi rửa chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi. Vì vậy, yêu cầu vệ sinh đối với nước dùng cho chăn nuôi là nguồn nước phải trong sạch, đủ, không bị ô nhiễm, không có mầm bệnh các loại. Người ta dùng các chỉ tiêu lý hoá học và sinh vật học để đánh giá chất lượng của nước. Nước sạch phải không có màu. không có mùi và phải trong, độ pH trung tính 6,5 -8... 9.4.1.4.2 . Vệ sinh nước dùng trong chăn nuôi - Nước có thể giữ vai trò làm lây truyền các bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng và ngộ độc. Vì vậy, trước khi dùng nước phải được làm sạch qua các khâu : + Làm lắng cặn, làm cho nước trong, làm mất mùi vị và tiêu độc, khử trùng, tốt nhất là dùng nguồn nước máy hoặc giếng khơi được vệ sinh, không dùng nước ao, ruộng . . . + Làm lắng cặn có thể làm cho nước trong, sạch, loại bỏ được những phù du, mùn bã hữu cơ, vi khuẩn có trong nước. Thông thường, người ta dùng thuốc kết tụ như phèn chua hay Fecl~ dùng cát sỏi sạch để lọc. Tiếp theo, là khử sắt, mùi vị và làm giảm độ cứng của nước, cuối cùng là tiệt trùng để diệt khuẩn nấm và ký sinh trùng. Người ta thường dùng chỉ để diệt trùng. - Cung cấp nước cho vật nuôi cần chú ý một số điểm sau đây : 211
  16. http://cnty.rumenasia.org, TL tham khao, P.V. Hai + Lượng nước cho uống khác nhau từng loài vật nuôi, tính chất khô hay ướt của thức ăn, điều kiện khí hậu môi trường khô nóng hay ẩm ướt, nhiệt độ của nước và phương pháp cho uống. Vật nuôi ăn thức ăn thô khô thì cần phải cho uống nhiều nước hơn thức ăn tươi, trời nóng phải cho uống nhiều hơn trời mưa. Tốt nhất là có máng nước cho vật nuôi uống tự do theo nhu cầu của con vật. + Cần phải giữ vệ sinh sạch sẽ các dụng cụ máng nước, tốt nhất là dùng máng uống tự động, cho uống tự do. 9.4.1.5. Vệ sinh thức ăn cho vật nuôi 9.4.1.5.1 . Những ảnh hưởng có hại của thức ăn - Thức ăn bị thối mốc, bị sương ướt nhiều cho vật nuôi ăn sẽ bị ngộ độc và sinh chướng bụng, đầy hơi . . . - Thức ăn có lẫn tạp chất có hại như đinh, dây thép gai nếu trâu bò ăn phải sẽ bị tổn thương dạ dày, bị viêm màng ngoài tim, có thể dân đến chết. - Thức ăn lẫn bùn, đất, cát, sỏi . . . vật nuôi ăn vào sẽ gây rối loạn tiêu hoá. - Thức ăn có lẫn những chất hoá học có hại như thuốc trừ sâu thuốc sát trùng hạt giống, thuốc diệt cỏ. . . vật nuôi ăn phải sẽ bị ngộ độc. - Thức ăn có mang vi trùng nấm, trứng giun, sán ký sinh nếu vật nuôi ăn phải sẽ bị nhiễm bệnh qua đường tiêu hoá. Ví dụ : Các loại cỏ mọc dưới nước như rau muống, bèo… có thể mang ấu trùng sán lá gan trâu bò và ấu trùng sán lá ruột. Nếu ăn phải những loại thức ăn này, vật nuôi sẽ bị nhiễm bệnh. - Chế biến thức ăn không đúng kỹ thuật. Ví dụ : Thức ăn lên men quá chua gây ngộ độc và ỉa chảy … Phối hợp khẩu phần thức ăn không hợp lý như thiếu khoáng vitamin. prôtit, hoặc tỷ lệ không hợp lý, sau khi ăn khẩu phần thức ăn như vậy trong thời gian dài vật nuôi sẽ sinh bệnh. - Phương pháp cho ăn không hợp lý như số lần cho ăn/ngày, giờ giấc cho ăn, thay đổi loại thức ăn đột ngột … đều có thể gây bệnh cho vật nuôi. - Những loại cây có độc lẫn vào thức ăn như ở bãi chăn cỏ tỷ lệ cỏ độc cao, gia súc ăn phải sẽ bị ngộ độc. Như vậy, thức ăn không tốt, không hợp vệ sinh sẽ dẫn đến bệnh tật cho vật nuôi, ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá và sức đề kháng của cơ thể, từ đó dẫn đến làm giảm sút khả năng sản xuất của vật nuôi, thậm chí, vật nuôi có thể bị chết gây thiệt hại nghiêm trọng cho người chăn nuôi. 9.4.1.5.2.Tiêu chuẩn vệ sinh của thức ăn Tuỳ từng loại thức ăn cần có tiêu chuẩn sau : - Màu sắc hợp lý 212
  17. - Mùi vị phù hợp - Độ ẩm cho phép - Mức độ lẫn tạp chất như bùn đất, sỏi, mọt, chất độc hại. Ví dụ : Thức ăn hạt ngũ cốc phải rắn, chắc, có màu sáng, mùi thơm, không đắng, phải khô, độ ẩm 14 – 16%. Không mốc, mọt và không lẫn tạp chất. 9.4.1.5.3. Vệ sinh khi cho ăn - Khẩu phần ăn cho vật nuôi phải đủ lượng và chất, phù hợp với nhu cầu cơ thể vật nuôi. - Thời gian cho ăn và số bữa/ngày phải ổn định. - Thức ăn phải được lựa chọn và chế biến phù hợp sinh lý tiêu hoá của vật nuôi. - Không thay đổi thức ăn, cách cho ăn, chế độ ăn một cách đột ngột mà phải huấn luyện dần dần từ ít đến nhiều. - Sau bữa ăn phải có thời gian nghỉ ngơi không bắt vật nuôi làm việc ngay, không tắm rửa ngay sau bữa ăn… - Dụng cụ cho ăn phải luôn sạch sẽ và vô trùng. - Thức ăn phải được kiểm tra chất lượng, trước khi cho ăn phải đạt các tiêu chuẩn vệ sinh. Thức ăn xanh phải được rửa sạch sẽ trước khi cho ăn. 9.4.1.6. Vệ sinh thân thể vật nuôi 9.4.1.6.l. Vệ sinh về da Da phải sạch sẽ, lành lặn thì cơ thể mới khoẻ mạnh, da bị bẩn, các tuyến da, lông sẽ bị tắc, da bị ve, ghẻ, rận sẽ làm vật nuôi ngứa ngáy kém ăn, chậm lớn, chậm béo. Khả năng chống bệnh giảm sút. Da bị sây xát nhiễm trùng gây bệnh tật cho vật nuôi. Để vệ sinh về da nên thường xuyên tắm chải về mùa hè, xoa chải về mùa đông cho vật nuôi, xoa chải làm cho da sạch sẽ đồng thời còn có tác dụng kích thích thần kinh ngoại biên, lưu thông mạch máu, ngoài ra làm tăng cường sự trao đổi chất của cơ thể, nâng cao được sức chống bệnh, kích thích tiêu hoá, làm cho sức sản xuất tăng lên. Đối với vật nuôi làm việc sau mỗi buổi làm việc cần xoa bóp 4 chân, u vai cho vật nuôi. Chú ý : Tắm chải trước bữa ăn từ 1- 2 giờ, không tắm chải ngay sau bữa ăn. Nước tắm phải sạch sẽ, không nhiễm độc, phải có biện pháp diệt trùng ve, ghẻ, rận rệp cho vật nuôi. 9.4.1.6.2. Vệ sinh về thân móng Là bộ phận dễ bị bẩn nhất của vật nuôi. Chân móng dễ bị nứt nẻ, thối móng. Về mùa đông giá lạnh nếu không giữ vệ sinh chân móng trâu bò nhất là trâu bò cày phải lội dưới ruộng nước lâu dễ bị bệnh cước chân. Khi chân bị lạnh làm cho máu ít lưu thông, chân sưng tấy không chữa kịp thời trâu bò sẽ bị què không đứng dậy được. 213
  18. Khi chăn thả phải tránh cho vật nuôi đằm mình vào những chỗ lầy lội bẩn. Không để bê nghé lội xuống nước lạnh. Vật nuôi cày kéo sau khi làm việc nặng nên nắn bóp chân từ dưới lên trên, giúp cho máu lưu thông. Chân móng bẩn phải rửa ngay rồi lấy rơm mềm cọ sạch cho nghỉ nơi khô ráo. Chuồng nuôi phải luôn giữ sạch sẽ. khô ráo để bảo vệ móng cho vật nuôi. 9.4.1.6.3 Vệ sinh vận động Vật nuôi được vận động sẽ giúp cho cơ thể chịu đựng được những thay đổi của khí hậu, những chức năng tiêu hoá, tuần hoàn, hô hấp và trao đổi chất đều tăng lên. Vận động hợp lý, giúp vật nuôi giữ được sức khoẻ và nâng cao sức sản xuất. Ví dụ vận động hợp lý sẽ làm cho số lượng tinh dịch và phẩm chất tinh dịch của đực giống tăng lên. Vật nuôi bị nhốt lâu trong chuồng nuôi chật hẹp, nhất là vật nuôi đang sinh trưởng sẽ làm giảm hoạt động của chúng. Vật nuôi sẽ kém ăn, trao đổi chất giảm, sức chống đỡ bệnh tật giảm. Vì vậy mỗi loại vật nuôi đều phải cho vận động một cách hợp lý (trừ vật nuôi vỗ béo). Chuồng trại các loại vật nuôi phải đảm bảo diện tích nhất định, phải có sân chơi, sân vận động phù hợp, có đủ ánh sáng và sạch sẽ, thoáng mát. 9.4.1.7. Vệ sinh vận khi vận chuyển 9.4.1 .7.1 . Yêu cầu khi vận chuyển - Tránh để vật nuôi bị sút cân, gầy yếu, khi vận chuyển. - Tránh nhiễm bệnh trên đường vận chuyển. - Đề phòng lây lan dịch bệnh giữa đàn vật nuôi vận chuyển sang vật nuôi khác và ngược lại. 9.4.1.7.2. Một số biện pháp vệ sinh khi vận chuyển vật nuôi - Đàn vật nuôi vận chuyển cần phải được chọn lọc phân loại những con yếu, khoẻ thành các dàn khác nhau. Đánh số để sắp xếp phân đàn hợp lý. - Cần điều tra đường đi, vẽ sơ đồ, chuẩn bị chỗ nghỉ ngơi, dọc đường phải có bóng mát và nguồn nước uống trong sạch. - Phương tiện vận chuyển : tàu hoả, ô tô, xe máy, ngựa... - Chuẩn bị thức ăn dọc đường. Với các vật nuôi nhỏ. - Chuẩn bị thuốc thú y và các dụng cụ thú y. - Cho ăn và chăm sóc khi vận chuyển. - Nếu vận chuyển bằng ô tô, tàu hoả, thuyền thì phải luôn kiểm tra sức khoẻ đàn vật nuôi. Khi vận chuyển không cho ăn no, phải cho ăn các thức ăn dễ tiêu hoá, cho ăn nhiều bữa, mỗi bữa bằng 1/3 bình thường. - Phải dọn sạch phân, nước tiểu trên sàn xem nếu có vật nuôi chết phải xử lý ngay. 214
  19. - Vận chuyển đi bộ : Chú ý phân đàn hợp lý, định quãng đường và thời gian biểu, nghỉ ngơi hợp lý, tránh tiếp xúc với đàn vật nuôi xung quanh đường đi, tranh thủ đi khi trời mát và nghỉ ngơi khi trời nắng gắt. 9.4.2. Phòng bệnh Bao gồm các phương pháp tiêu diệt nhân tố gây bệnh và môi giới trung gian truyền bệnh bằng các phương pháp tổng hợp như phương pháp vật lý, hoá học, đấu tranh sinh học... - Thực hiện nghiêm ngặt điều lệ thú y, phát hiện và công bố dịch sớm, khoanh vùng tẩy uế ổ dịch bằng các biện pháp hành chính và tổng hợp với hiệu quả cao nhất, phát hiện súc vật ốm, cách ly, tiêu huỷ súc vật ốm và chết theo quy định của thú y. - Miễn dịch chủ động bằng tiêm phòng vacxin thường kỳ cho toàn đàn vật nuôi. Đặc biệt chú ý các loại bệnh thường xảy ra ở địa phương. - Miễn dịch thụ động và điều trị bệnh khi có vật nuôi bị bệnh bằng các loại huyết thanh đặc hiệu hoặc kháng sinh. 215
  20. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Kim Giao, Nguyên Thanh Dương, 1997, Công nghệ sinh sản trong chăn nuôi bò, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 2. Từ Quang Hiển. Phan Đình Thắm, 1885, Thức ăn và dinh dưỡng gia súc Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên. 3. Nguyễn Duy Hoan, 1998, Giáo trình chăn nuôi gia cầm, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Vương Vàn Khể và cộng sự, Thức ăn và dinh dưỡng gia súc,NXB Nông Nghiệp Hà nội. 5. Đáng hữu Lanh, Trần Đình Miền. Trân Đình Trọng, 1999, Cơ sở di truyền chọn giống động vật, NXB Giáo dục, Hà Nội. 6. Bùi Hữu Lũng, Lê Hồng Mận, 1995, Thức ăn và nuôi dưỡng gia cầm, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Phan Cự Nhân, Đáng Hữu Lanh, Lê văn Trực, 1987, Di truyền học đại cương. NXB Giáo dục, Hà Nội. 8. Tôn Thất Sơn và cộng sự, 2001, Chăn nuôi Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội. 9. Nguyên Vàn Thiện, 1995, Di truyền học số lượng ứng dụng trong chăn nuôii, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội. 10. F.B. Hutt, 1978, Di truyền học động vật (Bản dịch của Phan Cự Nhân), NXB Khoa học và kỹ thuật,Hà Nội. 11. J. Hammond, Johanson, 1975, Nguyên lý sinh học của năng suất động vật (Bản dịch của Nguyên Mười, Trần Đình Miền), NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 216
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0