intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Địa phương học

Chia sẻ: Nguyen Anh Bon | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:119

553
lượt xem
104
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Địa phương là một đơn vị lãnh thổ xác định về mặt không gian, một bộ phận của một quốc gia thống nhất. Khái niệm địa phương hay vùng, theo quan điểm cổ điển, vùng là một trạng thái tổ chức chặt chẽ được thể hiện ở cảnh quan, thể hiện quan hệ ổn định giữa các sự kiện nhân văn và môi trường tự nhiên. Theo quan điểm chức năng, vùng là một cấu trúc, có một trung tâm chỉ huy điều tiết với tư cách là một yếu tố cơ bản của vùng....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Địa phương học

  1. Giáo trình Địa phương học 1
  2. Mục Lục 2
  3. MỞ ĐẦU KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊA PHƯƠNG HỌC 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN * Địa phương Địa phương là một đơn vị lãnh thổ xác định về mặt không gian, một bộ phận của một quốc gia thống nhất . Khái niệm địa phương hay vùng, theo quan điểm cổ điển, vùng là một trạng thái tổ chức chặt chẽ được thể hiện ở cảnh quan, thể hiện quan hệ ổn định giữa các sự kiện nhân văn và môi trường tự nhiên. Theo quan điểm chức năng, vùng là một cấu trúc, có một trung tâm chỉ huy điều tiết với tư cách là một yếu tố cơ bản của vùng . Như vậy, địa phương hay vùng có một mạng quan hệ: con người, hàng hóa, năng lượng, thông tin,... Theo cách hiểu thông thường, địa phương hay vùng là một đơn vị lãnh thổ phụ thuộc vào một cấp lãnh thổ cao hơn, đồng thời lại là một vùng lãnh thổ có các đơn vị lãnh thổ nhỏ hơn. Việc phân chia cấp lãnh thổ cao hơn thành các địa ph ương tùy thu ộc vào mục đích hướng tới. Việc chọn các chỉ tiêu để phân chia phụ thuộc vào quy mô không gian của lãnh thổ được phân chia và vào t ỉ l ệ nghiên c ứu. Nh ư vậy, nghiên cứu địa phương phải sử dụng phương pháp phân tích vùng, nghiên cứu các chỉ tiêu phân vùng, các tập hợp vùng, phân tích các mối quan hệ trong vùng. Địa phương trong khuôn khổ giáo trình này là Vùng Bắc Trung Bộ, trong đó, chủ yếu là Khu vực Thanh - Nghệ - Tĩnh. * Địa phương học + Quan niệm về địa phương học Địa phương học là tập hợp các bộ môn có nội dung và ph ương pháp nghiên cứu khác nhau nhưng đều tập trung vào nhiệm vụ nhận thức toàn diện một địa phương nhằm mục đích xây dựng địa phương đó (A. O. Berrkov 1961). Nghiên cứu một địa phương là nghiên cứu tổng h ợp các vùng, các đ ơn vị nghiên cứu trong vùng đó (Petter Hagg). Nghiên cứu một địa phương là nghiên cứu tất cả các thành phần của điều kiện tự nhiên, từ vị trí địa lý đến tài nguyên thiên nhiên; các đặc điểm nhân văn, từ dân cư, dân tộc, các khía cạnh cơ bản của dân số (số dân, kết cấu, động lực,...) đến lịch sử hình thành và phát triển của địa phương; các vấn đề về văn hóa; các hoạt động kinh tế của con người trên lãnh thổ; nghiên cứu cấu trúc kinh tế, các đặc điểm cũng như sự phân bố trong không gian, sự biến đổi theo thời gian, các mối quan hệ kinh tế ngành, đa ngành ở trong và ngoài vùng; nghiên cứu vai trò của con người với tự nhiên, những tác động tích cực, tiêu cực đối với môi trường tự nhiên bao quanh,... Nghiên cứu một địa phương là nghiên cứu các đặc tính, sự phân bố và mối quan h ệ giữa các thành ph ần riêng biệt của địa phương với nhau và giữa các thành phần với môi trường. Nghiên cứu địa phương nhất thiết phải vận dụng quan điểm nghiên cứu h ệ 3
  4. thống, quan điểm tổng hợp, quan điểm lãnh thổ, quan điểm sinh thái, quan điểm lịch sử, quan điểm dự báo. Nghiên cứu địa phương là tìm hiểu và đánh giá đúng th ực trạng ti ềm năng các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, kinh t ế, xã h ội c ủa đ ịa phương. Các công trình nghiên cứu về địa phương chủ yếu gắn với việc tìm hiểu tự nhiên, lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người của địa phương đó. Ở Liên Xô (trước đây) và các nước Đông Âu đã có nhi ều công trình nghiên cứu cả về lý luận (phương pháp luận) và th ực tiễn (tài li ệu v ề các vùng lãnh thổ cụ thể). Theo K. F. Stroev (1974) các tài li ệu v ề đ ịa ph ương là cơ sở tốt nhất để hình thành biểu tượng và là môi trường tốt nhất để người học vận dụng những kiến thức đã học vào thực ti ễn sinh đ ộng ở đ ịa ph ương người học. Ở Pháp, kiến thức về địa phương được đưa vào chương trình địa lý ph ổ thông, bắt đầu từ việc tìm hiểu quê hương cho tới việc công bố các công trình nghiên cứu và hướng dẫn giảng dạy địa lý địa ph ương (M. Beautier và C. Daudel 1981). Ở Việt Nam, với Dư địa chí của Nguyễn Trãi được xem là người đầu tiên đặt nền móng cho địa phương học. (Dư địa chí còn gọi "An Nam vũ cống"), tác phẩm địa chí về nước Đại Việt, khoảng đầu thế kỉ 15. Sách viết bằng chữ Hán, do Nguyễn Trãi soạn năm 1435, dâng lên vua Lê Thái Tông. Sách còn có lời tập chú của Nguyễn Thiên Túng, cẩn án của Nguyễn Thiên Tích và thông luận của Lý Tử Tấn là những tác gia đ ương thời. Văn b ản còn lại hiện nay ở trong bộ "Ức Trai di tập" khắc in 1868, thời Tự Đức. Sách gồm 54 mục, trình bày về vị trí địa lí, hình thế núi sông, lịch sử, thổ nhưỡng, đặc sản, một số nghề thủ công truyền thống và tập quán của cư dân các đ ạo. Một số mục kèm theo số lượng và tên gọi của các đơn vị hành chính như phủ, huyện, xã, thôn thuộc các đạo đó. Tiếp theo là các công trình Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn; Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. Gần đây, hàng loạt "địa chí" các tỉnh, các huyện, kể cả các xã, thậm chí trong các hương ước của các làng cũng đề cập đến các vấn đề địa lý, lịch sử, văn hóa,... của địa phương, với mục đích bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử và giáo dục cho các thế hệ tình yêu, qua đó thể hiện thái độ, hành vi của mình đối với quê hương. Việc dạy - học Địa phương học ở Việt Nam hiện đang gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính là thiếu tài liệu. Các thông tin v ề đ ịa ph ương th ường mang một nội dung cụ thể trong khi địa phương học lại yêu cầu tính tổng hợp cao. + Mục đích nghiên cứu và dạy - học địa phương học Mục đích nghiên cứu, giảng dạy và học tập địa phương học là góp phần nâng cao lòng yêu quê hương Việt Nam nói chung, yêu địa phương có mái trường nơi sinh viên gắn bó trong trong quãng th ời gian đ ẹp nh ất, n ơi nghiên cứu, học tập, rèn luyện và trưởng thành của bản thân. Địa phương học cũng góp phần bồi dưỡng cho sinh viên khả năng tìm hiểu và năng l ực t ư duy tổng hợp đối với các vấn đề của một địa phương cụ thể. 4
  5. - Nghiên cứu địa phương ở quy mô tổng hợp là điều tra c ơ bản t ổng h ợp m ột lãnh thổ về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, kinh t ế xã h ội, l ịch s ử, văn hóa,... với mục đích đánh giá từng thành phần của thể tổng hợp lãnh thổ nghiên cứu; đánh giá mối quan hệ giữa các hợp phần trong lãnh thổ, với các lãnh thổ kế cận và với cả nước. Kết quả nghiên cứu giúp các nhà quản lý, các nhà quy hoạch có cơ sở khoa học và th ực ti ễn trong hoạch đ ịnh chi ến lược, tổ chức, điều hành các hoạt động phát triển kinh tế - xã h ội c ủa đ ịa phương. - Kết quả nghiên cứu địa phương có thể phục vụ trực tiếp cho các m ục đích cụ thể như: quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, quy hoạch phát tri ển một ngành công nghiệp cụ thể, quy hoạch trồng và tu bổ rừng; triển khai đề án di dân, khai hoang, định canh định cư. - Nghiên cứu nghiên cứu địa phương có ý nghĩa quan trọng đối với giáo dục, giúp người học có khả năng nhận biết, phân tích một số hiện t ượng ngay t ại địa phương; hiểu biết môi trường và thực trạng môi trường địa ph ương; m ối quan hệ giữa khai thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; ng ười học có thể viết lịch sử, văn hóa, truyền th ống địa ph ương; xây d ựng các bi ểu đồ, bản đồ về thực trạng tài nguyên, môi trường của địa ph ương để theo dõi, phổ biến, tuyên truyền cho cộng đồng về các kiến thức, thực trạng đó. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỊA PHƯƠNG HỌC Đối tượng nghiên cứu của địa phương học là nghiên cứu vùng - nghiên cứu tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, kinh tế, lịch sử, văn hóa của lãnh thổ vùng. Địa phương nghiên cứu là một lãnh th ổ th ống nhất, trong đó bao gồm các hệ thống tự nhiên và các hệ thống nhân văn. Các hệ thống đó lại bao gồm các phân hệ và các hợp phần của mình. Các h ệ thống, các phân hệ, các hợp phần có mối quan hệ tương tác với nhau và có mối quan hệ với môi trường. Trong quá trình nghiên cứu, các đối tượng luôn được đặt trong môi trường của địa phương; trình bày được nguồn gốc phát sinh, các đặc điểm chính, sự tác động qua lại giữa các phân h ệ, các h ợp ph ần tự nhiên với tự nhiên, tự nhiên với nhân văn, tự nhiên với con người,... Nghiên cứu các đối tượng trong địa phương học không những phải thấy được sự phân bố của các đối tượng ở địa phương mà còn phải nêu đ ược quy luật đã hình thành sự phân bố đó, ảnh hưởng của sự phân bố đó đ ến các h ọat động của con người và ngược lại. Từ yêu cầu đó, nghiên cứu của địa phương h ọc được xác đ ịnh g ồm các nội dung: Lịch sử, Địa lý, Văn hóa và Kinh tế của địa phương mà cụ th ể là của Vùng Bắc Trung Bộ, chủ yếu là Khu vực Thanh - Nghệ - Tĩnh. - Đối tượng và nội dung nghiên cứu lịch sử vùng Bắc Trung Bộ Nghiên cứu lịch sử của địa phương là nghiên cứu quá trình hình thành về mặt lịch sử và sự phát triển qua các thời kỳ của lãnh thổ/địa phương đó. Đối tượng nghiên cứu của lịch sử Bắc Trung Bộ là các thời kỳ lịch sử của Bắc Trung Bộ. Theo quan điểm hệ thống và quan điểm lịch sử, các thời kỳ này được phân chia về mặt thời gian, tương ứng với các th ời kỳ lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nội dung nghiên cứu là các vấn đề chung về lịch sử 5
  6. Bắc Trung Bộ, sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử của B ắc Trung B ộ, trong đó, chú ý nhiều hơn là khu vực Thanh - Nghệ - Tĩnh. Các thời kỳ lịch sử được phân chia thành các mốc quan trọng sau: Th ời tiền sử và sơ sử; Thời Bắc thuộc; Thời kỳ độc lập tự ch ủ (từ năm 905 đến năm 1858); Thời kỳ 1858 đến 1945; Thời kỳ từ năm 1945 đến nay. Bắc Trung Bộ là một bộ phận của quốc gia Việt Nam th ống nh ất. Lịch sử hình thành và phát triển của Bắc Trung Bộ gắn liền với lịch sử của Việt Nam từ thời tiền sử đến thời điểm hiện tại. Đó là một quá trình dựng nước và giữ nước oanh liệt của tổ tiên, cha anh và các th ế h ệ ngày nay. V ị trí tr ọng yếu của Bắc Trung Bộ gắn với trách nhiệm nặng nề, sứ mệnh lớn lao của Bắc Trung Bộ đối với dân tộc. Các thế hệ của Bắc Trung Bộ luôn hoàn thành nhiệm vụ và sứ mệnh của mình, luôn là tấm gương sáng cho mọi th ế hệ khắp cả nước noi theo. Lịch sử Bắc Trung Bộ gắn với thiên anh hùng ca c ủa dân tộc Việt Nam bất khuất, có cả đau thương, mất mát và vinh quang. Nghiên cứu lịch sử địa phương góp phần giáo dục các thế hệ sau tình yêu đối với dân tộc, lòng kính trọng đối với tổ tiên và các thế h ệ trước. Người học tự hào với lịch sử quê hương nhưng qua đó cũng thấy được trách nhiệm của mình với địa phương, với dân tộc, với tổ tiên và với các th ế h ệ mai sau. - Đối tượng và nội dung nghiên cứu địa lý vùng Bắc Trung Bộ Nghiên cứu điều kiện địa lý tự nhiên luôn gắn với nhiệm vụ tìm hiểu để khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên của địa phương. Xuất phát từ quan điểm hệ thống và quan điểm lãnh thổ, nghiên cứu địa lý Bắc Trung Bộ được quan niệm là nghiên cứu vùng. Theo lý thuyết nghiên cứu địa lý vùng, đối tượng nghiên cứu ở đây là tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và đi ều ki ện kinh t ế - xã hội. Bắc Trung Bộ là một địa hệ (địa tổng thể, thể tổng hợp địa lý ), trong đó bao gồm các địa hệ tự nhiên và các địa hệ kinh tế - xã hội . Các địa hệ có mối quan hệ tương tác với nhau và với môi trường tao nên một thể lãnh thổ hoàn chỉnh. Trong quá trình nghiên cứu vùng, các đối tượng luôn được đặt trong môi trường của địa phương. Nghiên cứu đối tượng, cần chỉ ra được nguồn gốc phát sinh, các đặc điểm chủ yếu và sự tác động qua lại giữa các thành phần của tự nhiên, giữa tự nhiên và kinh tế, giữa tự nhiên với con người; sự phân bố và quy luật hình thành nên sự phân bố đó; ảnh hưởng của các hợp phần trong địa hệ đến các hoạt động kinh tế - xã h ội c ủa con ng ười và ngược lại. Như vậy, xuất phát từ quan điểm hệ thống, quan điểm lãnh thổ và theo lý thuyết nghiên cứu địa lý vùng, nội dung nghiên cứu địa lý vùng Bắc Trung Bộ gồm: Điều kiện tự nhiên - tài nguyên thiên nhiên; Dân cư và Kinh t ế. Tuy nhiên, ba nội dung này không nghiên cứu riêng rẽ, tách rời nhau và đ ược chú ý trong mối tác động và ảnh hưởng qua lại giữa chúng. 3. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊA PHƯƠNG HỌC - Quan điểm nghiên cứu địa phương học 6
  7. Nghiên cứu vùng là nghiên cứu tổng hợp các điều kiện, đặc điểm Địa lý, Lịch sử, Văn hóa, Kinh tế,... của địa phương; phải nghiên cứu các y ếu t ố, phân tích các mối quan hệ tương tác giữa các hợp phần với nhau. Do đó cần vận dụng các quan điểm nghiên cứu sau: + Quan điểm hệ thống Quan điểm hệ thống vận dụng vào nghiên cứu địa phương học là coi địa phương được nghiên cứu như một hệ thống (mọi sự vật, hiện tượng đều có mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo thành một th ể th ống nh ất, hoàn chỉnh, được gọi là hệ thống,). Nghĩa là, địa phương đó là một hệ thống gồm nhiều hợp phần; đồng thời địa phương đó lại là một hợp ph ần của một hệ thống cấp cao hơn. Nghiên cứu địa phương theo quan điểm h ệ thống là nghiên cứu đồng thời tất cả các hợp phần cấu tạo nên hệ thống, không nghiên cứu riêng rẽ một số hợp phần trong hệ thống. Theo quan điểm hệ thống, Bắc Trung Bộ là một hợp phần của h ệ thống cấp cao hơn là lãnh thổ Việt Nam; đồng th ời B ắc Trung B ộ l ại là m ột hệ thống, bao gồm nhiều hợp phần cấp thấp hơn: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Đó là cấu trúc ngang của hệ thống Bắc Trung Bộ. Cấu trúc thẳng đứng của Bắc Trung Bộ bao gồm các hợp phần tự nhiên (địa hình, khí hậu, thủy văn,...), kinh t ế (nông nghi ệp, công nghiệp,...), văn hóa (phong tục, kinh nghiệm sản xuất,...), l ịch s ử (s ự ki ện, nhân vật,..). Cấu trúc chức năng của hệ thống Bắc Trung B ộ là các m ối quan hệ tồn tại giữa các hợp phần để hệ thống tồn tại và phát triển. + Quan điểm lãnh thổ Quan điểm lãnh thổ được vận dụng cùng với quan điểm hệ thống vào nghiên cứu sự phân hóa lãnh thổ Bắc Trung Bộ về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, l ịch sử,... đồng thời cũng có mối quan hệ gắn bó với nhau theo ch ừng m ực nh ất đ ịnh. Theo lý thuyết nghiên cứu vùng và theo quan điểm nghiên cứu lãnh th ổ, nghiên cứu những khác biệt trên ở Bắc Trung Bộ còn nhằm phát hiện các mối quan hệ hữu cơ trong một tổng thể đã hoặc đang phân hóa. Ngoài ra, nghiên c ứu sự khác biệt lãnh thổ còn nhằm phát hiện những đặc trưng quan trọng nhất để chuẩn bị cho việc quy hoạch, thiết kế không gian sản xuất và c ư trú trong lãnh th ổ h ợp lý nhất. + Quan điểm sinh thái Quan điểm sinh thái có ý nghĩa quan trọng và đặc thù trong nghiên cứu vùng và được ứng dụng ngày càng nhiều trong nghiên cứu ảnh h ưởng c ủa tự nhiên, mối quan hệ tác động qua lại giữa tự nhiên và con người, gi ữa con người với việc khai thác, sử dụng, phá hủy và tái tạo hệ th ống tự nhiên. Con người là chủ thể trong hoạt động sản xuất và tiêu dùng, tác đ ộng đ ến các h ệ sinh thái môi trường khác nhau nhằm đạt hiệu quả nh ất định. Các h ệ đ ịa sinh thái của địa phương vốn rất khác nhau, tùy thuộc vào các dạng đ ịa hình (mi ền núi, trung du, đồng bằng, biển). Sự khác biệt không ch ỉ về tự nhiên mà c ả v ề con người và các thuộc tính của con người. Sự khác biệt đó tạo nên các chu trình khác biệt trong sản xuất ở từng bộ phận lãnh thổ của địa phương (chu trình vật chất, chu trình năng lượng, chu trình thông tin). + Quan điểm động lực - hình thái và Quan điểm lịch sử - viễn cảnh 7
  8. Mỗi hệ thống tự nhiên, dân cư, kinh tế ở một lãnh thổ đều có nguồn gốc phát sinh, hiện tại đang phát triển và trong tương lai sẽ phát triển trong những điều kiện, thời gian và xu hướng phát triển nhất định; từ quá khứ, hiện tại để đi đến tương lai theo những quy luật của tự nhiên và của xã hội. Quan điểm động lực - hình thái vận dụng vào nghiên cứu vùng với mục đích nghiên cứu những động lực trong quá khứ dựa trên nh ững hình thái hi ện tại của hệ thống và dự báo sự phát triển trong tương lai của hệ thống. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh vận dụng vào nghiên cứu vùng dựa trên cơ sở: các sự kiện, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và di ễn bi ến trong tương lai đều có mối quan hệ nhân quả, diễn ra trong nh ững chu kỳ khép kín. Một hiện tượng, sự kiện hiện đang tồn tại, vốn đã xẩy ra trong quá khứ, sẽ còn tiếp tục phát triển, và con người có thể dự báo sự phát triển ti ếp t ục trong tương lai dựa trên các nguyên tắc, quy luật phát triển của hiện tượng, sự kiện đó. - Phương pháp nghiên cứu địa phương học Nghiên cứu địa phương học, có thể vận/áp dụng và phối kết hợp nhi ều phương pháp nghiên cứu khác nhau (tùy thuộc vào yêu cầu, nguồn t ư li ệu, thời gian, kinh phí,...). Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: + Phương pháp nghiên cứu thực địa Phương pháp này thông thường là phương pháp mở đầu và kết thúc trong nghiên cứu địa phương: quan sát, đo vẽ, tìm hiểu, phỏng vấn trực tiếp hay bằng phiếu, nghiên cứu trực tiếp hiện tượng, sự kiện về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, lịch sử của địa phương; kiểm tra đối chiếu trên th ực tế với các tư liệu thu tập được và với kết quả nghiên cứu. Đây được coi là ph ương pháp chính trong nghiên cứu địa phương, đem lại hiệu quả cao nhất. + Phương pháp thu thập, xử lý, phân tích, tổng h ợp các ngu ồn tài lệu Tài liệu cần thu thập gồm thông tin kênh ch ữ (văn bản) và kênh hình (bản đồ, biểu đồ, phim, ảnh,...), từ các nguồn: công trình khoa học, dự án, báo cáo, niên giám thống kê, sách báo,... Nguồn tài liệu thường thiếu, không đồng bộ, có khi thiếu chính xác, vì vậy cần xử lý từ các tài liệu thô thành các tài liệu tinh chính xác, đ ồng b ộ. Việc xử lý tài liệu phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Lấy từ một nguồn chính, các nguồn khác để tham khảo; - Đưa về cùng một thời gian. - Đối với bản đồ, đưa về tỉ lệ thích hợp. - Đối với số liệu thiếu, cần sử dụng phương pháp ngoại suy. + Phương pháp thống kê toán học Trong quá trình xử lý số liệu cần sử dụng ph ương pháp xác su ất th ống kê để có kết quả làm cơ sở phân tích nội dung nghiên cứu liên quan đến s ố liệu thống kê. Phương pháp thống kê toán học được sử dụng ngày càng nhi ều do tính năng của phương pháp này và do yêu cầu nghiên cứu đ ịa ph ương ngày càng cần đến sự cụ thể, chi tiết và định lượng. 8
  9. + Phương pháp bản đồ Bản đồ là phương tiện thể hiện kết quả nghiên cứu địa phương trực quan nhất tất cả các nội dung về tự nhiên, kinh tế, lịch sử, văn hóa c ủa đ ịa phương nghiên cứu. Phương pháp bản đồ được vận dụng trong suốt quá trình nghiên cứu địa phương: phân tích xử lý số liệu, biên tập thông tin b ản đ ồ, l ựa chọn phương pháp thể hiện, phân tích đánh giá các bản đồ để xác đ ịnh s ự phân bố của đối tượng, hiện tượng, sự kiện,... Kết quả nghiên cứu của phương pháp này là các bản đồ, sản phẩm được các nhà nghiên cứu (địa lý, lịch sử, kinh t ế, văn hóa,...), các nhà qu ản lý, các nhà kinh tế, các nhà quy hoạch,... dùng làm tài li ệu gốc đ ể nghiên c ứu thành lập các bản đồ chuyên đề phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. CHƯƠNG 1. ĐỊA LÝ VÙNG BẮC TRUNG BỘ 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÙNG BẮC TRUNG BỘ 2.1.1. Vị trí địa lý, giới hạn lãnh thổ 2.1.1.1. Đặc điểm Bắc Trung Bộ là phần phía bắc của miền trung Việt Nam. Có vị trí địa lý 19 18’- 16oVB; 103o50’25’’- 108o12’KĐ. o Lãnh thổ kéo dài trên nhiều vĩ độ, hẹp ngang ở ngay phần giữa của đất nước (nơi hẹp nhất tại Quảng Bình là 50 km, từ biên giới Việt Lào ra tới biển) . Phía Bắc là ranh giới của tỉnh Thanh Hóa giáp ranh với các tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình; ranh giới phía Nam là đường chia nước của kh ối núi B ạch Mã đâm ra biển; Phía Tây là sườn Đông Trường Sơn, giáp với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào với đường biên giới 1.294 km; phía Đông hướng ra biển Đông với tuyến đường bộ ven biển dài 700 km từ Nga Sơn (Thanh Hóa) đến tận phía Nam Lăng Cô ở mũi Chân Mây đèo Hải Vân. Vị trí địa lý của vùng giống như chiếc cầu nối giữa phần phía Bắc với phần phía Nam nước ta, giữa Lào với biển Đông. Diện tích tự nhiên 51552 km2 (chiếm 15,6% diện tích tự nhiên của cả nước). Vùng Bắc Trung Bộ (BTB) là một trong 8 vùng kinh tế được Chính ph ủ giao lập quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội. Về ranh giới hành chính, Bắc Trung Bộ bao gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. 1.1.1.2. Ý nghĩa của vị trí địa lý Bắc Trung Bộ có vị trí đặc biệt quan trọng - đó là v ị trí trung gian gi ữa miền Bắc và miền Nam, giữa Việt Nam với CHDCND Lào. Tính chất trung gian thể hiện trong sự phân hoá đa dạng các thành phần khác nhau c ủa t ự nhiên, từ thổ nhưỡng, khí hậu đến thực - động vật. 9
  10. Lãnh thổ kéo dài, hành lang hẹp, Tây giáp Trường Sơn và Lào, phía Đông là biển Đông, đồng bằng hẹp, cũng có cả trung du và miền núi, ven bi ển, h ải đảo dọc suốt lãnh thổ, có thể hình thành cơ cấu kinh tế đa dạng phong phú. Nhiều vũng nước sâu và cửa sông có thể hình thành cảng lớn nh ỏ phục vụ việc giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh trong vùng, với các vùng trong nước và quốc tế. Vùng Bắc Trung Bộ nằm kề bên vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng KTTĐ miền Trung, trên trục giao thông Bắc Nam về đường sắt, bộ; nhiều đường ô tô hướng Đông Tây (7,8,9,29) nối Lào với Biển Đông . Nơi đây có hệ thống đô thị ven biển (như Thanh Hóa, Vinh, Đồng Hới, cố đô Huế) gắn liền với các khu cụm công nghiệp, các trung tâm thương mại, dịch vụ du lịch và các cảng biển hoặc trong phạm vi ảnh hưởng của chúng (như các cảng Nghi Sơn, Cửa Lò, Cửa Hội, Vũng Áng, Hòn La, Cửa Việt, Cửa Gianh, cửa Thuận An, Chân Mây). Bắc Trung Bộ gần đường hàng hải quốc tế, chịu ảnh hưởng trực tiếp của các vùng phát triển năng động trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Do vậy, vùng này có vị trí thuận lợi cho việc giao lưu với các địa phương trong cả nước và quốc tế, trước hết là với thủ đô Hà Nội, địa bàn trọng điểm Bắc Bộ, địa bàn trọng điểm miền Trung và nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Điều đó mở ra triển vọng về khả năng hợp tác với bạn trong các lĩnh vực khai thác, chế biến gỗ và lâm sản, sản xuất và trao đổi vật liệu xây dựng, khai thác và sử dụng tiềm năng thuỷ điện, tổ chức vận tải quá cảnh, đặc biệt khi đường 9 được chọn là một trong những tuyến đường xuyên ASEAN. Do vậy, Lao Bảo trở thành khu vực trọng điểm phát triển kinh tế và thương mại. Việc quan hệ về mọi mặt với các nước trong khu vực Đông Nam Á và thế giới thông qua hệ thống đường biển mở ra khả năng to lớn hơn nhiều đối với vùng Bắc Trung Bộ. 2.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên Theo kết quả phân vùng Địa lí tự nhiên Việt Nam của Vũ T ự Lâp, B ắc Trung Bộ nằm trong Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ với đặc trưng cơ bản của miền là sự suy yếu dần của gió mùa Đông Bắc, tương ứng là sự mạnh dần của tính chất nhiệt đới ẩm và cấu trúc địa chất - địa hình đã phân thành cấu trúc dạng dải của địa máng Tây Bắc và địa máng Trường Sơn. Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ được chia thành 5 khu: khu Hoàng Liên S ơn, khu Tây Bắc, khu Hoà Bình - Thanh Hoá, khu Nghệ - Tĩnh, khu Bình - Tr ị - Thiên. Trong phạm vi giáo trình chỉ tìm hiểu 3 khu: khu Hoà Bình - Thanh Hóa, khu Nghệ - Tĩnh, khu Bình - Trị - Thiên. 2.1.2.1. Địa chất - Bắc Trung Bộ là khu vực có lịch sử địa chất khá lâu đời Khối Trường Sơn Bắc nguyên là một địa máng tồn tại từ đầu Đại Cổ sinh giữa địa khối Kon Tum phía Nam và địa khối Đông Bắc ở phía B ắc; t ừ đầu vận động uốn nếp Hecxini đã nổi lên và dính li ền kh ối Kon Tum. T ừ cuối Trung Sinh trở đi, miền này hầu như nằm trong trạng thái yên tĩnh, ho ạt động bóc mòn - xâm thực diễn ra mạnh mẽ tạo nên những dấu hiệu hình thái như ngày nay. Các vận động kiến tạo mới về sau làm cho khối núi nâng lên dạng vòm, tạo cho dãy núi hơi nghiêng về phía tây thành một n ếp l ồi có s ườn 10
  11. không đối xứng, vì vậy sườn tây của Bắc Trường Sơn chạy dài thoai thoải xuống sông Mê Công, còn sườn phía Đông thì ngắn và d ốc t ạo đi ều ki ện cho sông suối chảy theo sườn này ra biển Đông chia cắt địa hình mạnh h ơn nữa. Các vận động tân kiến tạo cũng đóng vai trò quan trọng trong vi ệc hình thành các đồng bằng duyên hải (vai trò bồi đắp của sông không lớn lắm do đa s ố chúng đều ngắn và có trắc diện gần như nằm ngang khi đổ ra đến đồng bằng). Vận động tân kiến tạo biểu hiện không đồng đều ở các bộ phận: từ Thanh Hoá ra phía Bắc có hiện tượng đất lấn ra biển; từ Ngh ệ An trở vào, vận động nâng lên của đất liền là cho biển lùi (diện tích không lớn); từ mũi Ba Làng An, nhất là từ mũi Nạy trở xuống, độ sâu thay đổi nhanh chóng chứng tỏ tồn tại một đứt gãy lớn chạy sát bờ biển theo h ướng B ắc - Nam và làm cho đồng bằng không phát triển được về chiều rộng. Như v ậy, các đồng bằng duyên hải Bắc Trung Bộ được hình thành vào đầu kỉ Đ ệ Tứ, v ận đ ộng nâng lên làm chao đảo dãy Trường Sơn về phía Tây nâng rìa đá g ốc lên, đ ồng thời làm đứt gãy một phần của rìa đó, tạo điều kiện cho phù sa sông và phù sa biển bồi tụ, lấp đầy các vụng biển nông cũ. - Bắc Trung Bộ nằm trong Miền uốn nếp Đông Dương Đây là một trong hai miền uốn nếp của lãnh thổ Miền Bắc Việt Nam (cùng với Miền uốn nếp Bắc Bộ), chúng ngăn cách nhau bởi đứt gãy sông Mã. Miền uốn nếp Bắc Bộ là phần kéo dài của Calêđôni Hoa Nam, Miền uốn nếp Đông Dương là phần kéo dài của đai Têtit cổ, ổn định vào đầu Paleozoi muộn. Miền uốn nếp Đông Dương chiếm phần rìa Tây và Tây Nam của B ắc Bộ Việt Nam và Trung - Thượng Lào, kể từ sông Mã trở xuống. H ệ u ốn n ếp Trường Sơn là hệ uốn nếp duy nhất của miền này. Hệ uốn nếp Trường Sơn gồm 3 đới thành hệ kiến trúc là: đới phức nếp lồi Pù Hoạt, đới phức nếp lõm sông Cả và đới phức nếp lồi Trường Sơn. + Phức nếp lồi Pù Hoạt giới hạn ở phía Tây Nam Thanh Hoá - B ắc Nghệ An, về phía Bắc bị các trầm tích Triát của đới Sầm Nưa phủ lên, về phía Nam và Đông Nam phân cách với đới sông C ả bởi các đ ứt gãy, phía Tây giáp lãnh thổ Lào. Trầm tích cổ nhất lộ ra ở vùng trung tâm c ủa đới g ồm các đá biến chất thuộc hệ tầng Bù Khạng (thành phần thạch học c ủa h ệ t ầng gồm có gnai và đá phiến kết tinh giàu nhôm, vai trò của amfibolit và đá hoa không đáng kể), tuổi Prôtêrozoi muộn - Cambri sớm, ph ủ không ch ỉnh h ợp trên chúng là các đá Cambri trung - Ocđôvic hạ thuộc h ệ tầng Su ối Mai. Ti ếp lên trên là loạt các trầm tích Silua - Đêvôn thuộc hệ tầng Sông C ả. Lo ạt các trầm tích Palêôzoi thượng bắt đầu ngay bằng trầm tích Cacbon h ạ, ti ếp trên là tầng đá vôi khá đồng nhất tuổi từ Cácbon giữa đến Pécmi s ớm, ph ủ không chỉnh hợp lên trên là các trầm tích được giả thiết là có tuổi Pécmi muộn có chứa Bôxit. Các trầm tích Mêsôzoi lộ ra rất hạn ch ế. Ngoài một di ện tích nh ỏ của trầm tích La đin còn có một dải nhỏ lớp phủ trầm tích nguồn núi lửa Jura ở rìa phía Đông của đới. Chiều dày lớp ph ủ Mêsôzoi khoảng dưới 2.000m trong khi đó chiều dày các đá thuộc móng cổ lên đến 13.000m. + Phức nếp lõm sông Cả giáp đới phức nếp lồi Trường Sơn về phía Nam qua đới đứt gãy Rào Nạy dọc dọc lên Hương Khê rồi sang rồi sang Lào; v ề phía Bắc một mặt ôm vòng qua đới phức nếp lồi Pù Hoạt, còn một ph ần ti ếp 11
  12. giáp với đới sông Mã hoặc ẩn dưới các võng Mêsozoi S ầm N ưa, Phong Sa Lỳ. Đới này tương ứng với phần lớn các đới Trường Sơn, Điện Biên, Mường Tè và gần trùng với đới sông Cả. Từ Đèo Ngang ở phía Đông Nam nó ch ạy lên dọc lưu vực sông Cả qua Tây Trang và phần Tây Bắc lọt giữa th ượng lưu sông Đà và Nậm Na. Đới sông Cả kéo dài trên 600 km và được giới h ạn bằng các đứt gãy lớn phân đới. Đây là một miền núi, phần Tây Bắc có nhiều đỉnh cao (Phu Si Lung: 3.076 m) thấp dần xuống lưu vực sông Cả, địa hình bị chia c ắt thành các thung lũng sâu và các dải song song theo phương Tây Bắc th ấp dần về phía biển. Những phức hệ trầm tích đặc trưng ở đới ph ức nếp lõm ch ủ y ếu là thành hệ lục địa - phun trào, cácbonat - Palêôzoi trung - th ượng. Chồng lên chúng là các thành tạo chứa than và màu đỏ Mêsôzôi và Kainôzôi. Ki ểu thành hệ flisơ bao gồm cát kết - quaczit, đá phiến sét xêrixit lẫn silic - vôi xen k ẽ nhau, đá phun trào thành phần axit đôi nơi là bazơ có tuổi Silua - Đêvôn c ấu thành tầng cấu trucá thấp chiếm hầu hết diện tích phức n ếp lõm. Thành h ệ trầm tích này dày từ 3.500 m -4.000 m. Ở vùng trung lưu sông cả đá phiến phân nhịp bị vò nhàu thành nếp uốn rộng dạng hộp theo phương Tây B ắc t ừ Con Cuông đến Anh Sơn - Tân Kỳ, phương nếp uốn lượn dần sang Đông Bắc để ôm lấy phức nếp lồi Pù Hoạt. Độ nghiêng của các cánh nếp uốn thường từ 40 - 500, nhiều nơi 70 - 850 hoặc dựng đứng. Ở vùng Phủ Quỳ các nếp uốn rộng và ngắn. Lưu vực sông Nậm Chông có nếp uốn nghiêng về Đông Nam, còn ở sông Con thì cắm về Tây Bắc đến 80 0, có nơi đảo lộn và tạo ra những nếp lồi bé ở vùng Mường Lầm. Theo bờ phải Nậm Mô và sông Cả qua Cửa Rào đến t ận Đèo Ngang là một cánh của phức nếp lõm gặp nhiều nếp uốn nhỏ, cắm ch ủ yếu về Đông Bắc 50 - 600. Dọc khe Choang, khe Mọi gặp nhiều lớp xtilit, riôlit, porfia xen với đá phiến sét, cát bột kết với góc dốc 70 - 850. Các hố trũng Nêôgen kéo dài từ Mường Xén, Cửa Rào, Khe B ố hình thành do chuyển động kiến tạo mới dọc hệ đứt gãy sông C ả. Thành ph ần chính là Cuội - Dăm kết, bột kết với ít vỉa than. Bề dày chung khoảng 300m. Phá huỷ kiến tạo trong đới diễn ra mãnh liệt. Trong đó đáng kể là đứt gãy Rào Nạy, Sông Cả... đã khống chế suốt quá trình phát triển của đới. Thêm vào đó các đứt gãy nhỏ khác đã chia cắt vùng này thành các kh ối kiểu cấu tạo bậc thang, tạo ra các địa hào hẹp kéo dài nh ư ở Tây Trang, ki ểu nêm như ở Kì Sơn, Con Cuông. Ven rìa Đông Bắc, đặc biệt nơi giáp Pu Ho ạt, phát triển đứt gãy gián đoạn có xuất hiện kiểu chờm nghịch. + Phức nếp lồi Trường Sơn nằm dọc dãy Trường Sơn. Tại đây, thành tạo Palêôzôi phát triển khá đầy đủ dạng tuyến dài, Tây Bắc - Đông Nam t ừ vùng Bắc Xiêng Khoảng vào đến Đà Nẵng trên chiều dài 600 km. Đ ơn v ị này tương ứng với phía Tây Nam đới Trường Sơn; Phần Đông Bắc của nó giáp với đới sông Cả; Tây Nam giáp địa khối Kon Tum. Đặc trưng địa hình của đới này là dãy núi Trường Sơn hùng vĩ v ới nh ững núi cao có trục theo phương Tây Bắc. Sườn Tây thoải thấp dần theo sông Mê Công, còn sườn Đông khá dốc phân cắt khá mạnh, nghiêng về biển thành những vùng núi trung bình - thấp dọc Bình - Trị - Thiên. Trong phạm vi này này còn phát triển kiểu địa hình Karstơ phổ biến ở Quảng Bình d ọc biên gi ới Việt - Lào. 12
  13. 2.1.2.2. Khoáng sản - Bắc Trung Bộ là khu vực giàu tài nguyên khoáng sản Trường Sơn Bắc có nhiều khoáng sản quý nhưng chỉ có một số mỏ có quy mô quốc gia, phần nhiều có quy mô không lớn và phức tạp về mặt khai thác chế biến. Nếu phần lớn các mỏ miền Bắc Vi ệt Nam đều hình thành trong chu kì tạo núi vào đại Trung Sinh thì ở đây lại hình thành trong chu kì tạo núi Hecxini cổ hơn nhiều và từ đó đến nay, đã trải qua nhiều th ời kì bóc mòn và xâm thực dữ dội nên quy luật tạo mỏ cũng không giống nh ư nh ững vùng khác. + Trong vùng có một số mỏ khoáng sản lớn như mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh), mỏ Crômit Cổ Định (Thanh Hoá), mỏ Thiếc Quỳ Hợp (Ngh ệ An), Rubi Quỳ Châu (Nghệ An). Các tỉnh Bắc Trung Bộ đều giàu vật liệu xây dựng: đất sét, cao lanh, đá vôi. Đá ốp lát là một trong những nguồn tài nguyên phong phú của Bắc Trung Bộ. Chiếm ưu thế là trầm tích Cacbonat bao gồm đá vôi và đá hoa. Nước khoáng là loại khoáng sản dạng lỏng, có tác d ụng ch ữa một s ố bệnh ngoài da, tuần hoàn, hô hấp,... Trên lãnh th ổ 6 t ỉnh B ắc Trung B ộ đã phát hiện được khá nhiều điểm nước khoáng: * Thanh Hoá có ở Làng Ao, Làng Mún, Làng Lay, B ản Pàng vùng Thường Xuân - Ngọc Lặc; * Nghệ An có ở Bản Khạng, Bản Tạt, Bản Bọ, Bản Lang, Cồn Soi vùng Quỳ Hợp và Nghĩa Đàn; * Hà Tĩnh có ở Bản Chót, Sơn Kim, Hương Sơn; * Quảng Bình có ở Nô Bồ - Tuyên Hoá; Khe Bang - Lệ Th ủy; Động Nghèn, Sông Trooc - Bố Trạch; * Quảng Trị có ở Đakrông - Hương Hoá; Tân Lâm - Cam Lộ; * Thừa Thiên - Huế có ở Xuân Lộc, Phú Lộc. Trong các nguồn nước khoáng đó mới chỉ một số điểm đưa vào đánh giá khai thác, sử dụng ở Bản Khạng - Quỳ Hợp (Nghệ An), Sơn Kim - H ương Sơn (Hà Tĩnh), Nô Bồ - Tuyên Hoá và Khe Bang - Lệ Thuỷ (Quảng Bình). - Tài nguyên khoáng sản được phân bố ở các tỉnh + Thanh Hóa có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng nhưng nhìn chung có trữ lượng không lớn và thường phân bố không tập trung, khó phát triển công nghiệp khai khoáng. Các loại khoáng sản có giá trị đáng kể: * Đá vôi: trữ lượng 370 triệu tấn, chất lượng tốt, phân bố ở các huy ện: Quan Hóa, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Bỉm Sơn, Hà Trung. * Sét sản xuất xi măng: trữ lượng 85 triệu tấn, phân bố chủ yếu ở các huyện: Hà Trung, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Tĩnh Gia. * Sét sản xuất gạch ngói: trữ lượng trên 20 triệu m 3, chất lượng tốt, phân bố chủ yếu ở các huyện: Thạch Thành, Hà Trung, Thiệu Hóa, Yên Định, Thọ Xuân, Quảng Xương, Tĩnh Gia. * Sét cao lanh: trữ lượng 5 triệu tấn, sản xuất gạch chịu lửa, gạch ốp lát. * Cát xây dựng: trữ lượng rất lớn, phân bố khắp tỉnh. 13
  14. * Đá ốp lát: trữ lượng 2-3 tỉ m 3, chất lượng tốt có nhiều màu sắc đẹp, độ bền cao, làm phụ gia xi măng. * Quặng sắt: có 5 mỏ đã được thăm dò, trữ lượng 3 triệu tấn. * Quặng crôm: trữ lượng 2,066 triệu tấn (đặc biệt cả nước ch ỉ có ở Triệu Sơn và Ngọc Lặc của Thanh Hóa). * Vàng sa khoáng: tập trung ở Cẩm Thủy, Bá Thước, Thường Xuân. * Vàng gốc: tập trung chủ yếu ở làng Nèo huyện Bá Thước. * Đá quý, đá bán quý: tập trung ở vùng Tây Nam, chưa được kiểm chứng, khảo sát về trữ lượng và chất lượng. * Phốtphorit: trữ lượng 1 triệu tấn, chất lượng trung bình. * Secpentin: trữ lượng 15 triệu tấn, chất lượng khá tốt. Trong tỉnh hiện tại có một số nhà máy sản xuất xi măng ở B ỉm Sơn, Nghi sơn; phân bón ở Hàm rồng. Đa số nguồn tài nguyên đang bị th ất thoát do kiểm soát không chặt chẽ. + Nghệ An có các loại sau: * Đá vôi có trữ lượng lớn tập trung ở huyện Quỳnh Lưu, Quỳ Châu, Quế Phong. Riêng khu vực Quỳnh Lưu có trữ lượng 350 triệu m3. * Sét xi măng 40 triệu m3, phân bố nhiều nhất các huyện Quỳnh Lưu, Anh Sơn. * Đá bazan hàng trăm triệu tấn (trữ lượng dự báo toàn vùng 260 triệu 3 m ). * Đá xây dựng có trữ lượng rất lớn. Đá có giá trị kinh tế cao là Granit và đá gốc cácbonat phân bố nhiều ở vùng Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Con Cuông, Hưng Nguyên. * Thiếc có trữ lượng lớn nhất Việt Nam 42.000 tấn (chiếm 30% trữ lượng thiếc cả nước) đang được khai thác ở quy mô công nghiệp, khá tập trung ở vùng Quỳ Hợp và Quế Phong. * Sét gạch ngói phân bố rộng ở vùng đồng bằng và trung du, là nguyên liệu lớn cho phát triển vật liệu xây dựng. * Sét xi măng trên 40 triệu m3, phân bố ở Quỳnh Lưu và Đô Lương. * Mangan có ở Hưng Nguyên (tại làng Yên Cứ 1,4 triệu tấn); Nam Đàn (mỏ Hoa Sen 111.000 tấn, mỏ Nam Lộc 665.000 tấn, mỏ Khe Su 501.000 tấn); ở Kẻ Li (Quỳ Châu); ở Nghi Lộc. * Bôxít khoảng 3 triệu tấn ở Sơn Thành (Yên Thành), Diễn Lâm (Di ễn Châu), Nghĩa Lâm (Nghĩa Đàn), trong đó mỏ Sơn Thành có trữ l ượng l ớn nh ất 257.000 tấn. * Phốtphorít có trữ lượng dự báo 130.000 tấn, phân tán ở các huy ện Thanh Chương, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Đô Lương, Anh Sơn và Con Cuông. * Titani có ở Cửa Hội và Nghi Thọ tồn tại dưới dạng inmenhít (TiO 2). Tổng trữ lượng 22.600 tấn trong đó Cửa Hội 20.500 tấn. 14
  15. * Vàng trữ lượng được đánh giá khoảng 20 tấn, chủ yếu là vàng sa khoáng ở dọc sông Cả, sông Hiếu. Mỏ vàng gốc Tà Sỏi với trữ l ượng d ự báo 8 tấn. * Đá quý tập trung ở Quỳ Hợp, Quỳ Châu, chủ yếu là rubi * Nước khoáng có nhiều mỏ dễ khai thác. Mỏ Bản Khạng -Quỳ Hợp thuộc loại khoáng cacbonic là loại được ưa chuộng, có lưu l ượng 0,5 lít/giây. Các mỏ Bản Hợp, Bản Bo, Bản Lang (Quỳ Hợp), Cồn Soi - Nghĩa Đàn, Vĩnh Giang - Đô Lương đều có thể khai thác sử dụng ngay. * Than đá: có ở Khe Bố -Tương Dương, Đôn Phục -Con Cuông) + Hà Tĩnh có một số mỏ có trữ lượng lớn và chất lượng tốt: * Sắt Thạch - Thạch Hà, trữ lượng 540 triệu tấn, hàm lượng s ắt 62,15% nằm dưới mặt đất 40-100 m). * Thiếc Sơn Kim - Hương Sơn trữ lượng 70 000 tấn, hàm l ượng thi ếc trung bình 1%. * Titan trữ lượng 3-5 triệu tấn chạy dọc bờ biển, thuộc loại quặng giàu, có hàm lượng imenhít từ 63,3-147,4 kg/m 3, Zircon từ 3-5,2 kg/m3. Hiện nay, Tổng công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh đã khai thác, ch ế bi ến và xuất khẩu mỗi năm từ 10 - 12 vạn tấn. * Nước khoáng Sơn Kim nhiệt độ nước bề mặt trên 76 0C, có mùi sunfuahydrô, thuộc loại nước bicacbonat - natri; lưu lượng 400 m 3/ngày; đã được khai thác và lưu thông trên thị trường nhưng quy mô còn nhỏ. * Đá ốp lát tập trung ở Kỳ Anh, Thạch Hà và Hương Sơn, trữ lượng 1,1 tỷ m . Một số khoáng sản khác chưa được khảo sát địa chất nh ư: mangan, đá 3 quý, than bùn,… + Quảng Bình có nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt, titan, pyrit, chì, kẽm... và một số khoáng sản phi kim loại nh ư cao lanh, cát th ạch anh, đá vôi, đá mable, đá granit... * Đá vôi và cao lanh có trữ lượng lớn, đủ điều kiện để phát tri ển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng với quy mô lớn. * Nước khoáng Bang nóng 1050C tại huyện Minh Hoá. * Vàng có tiềm năng để phát triển công nghiệp khai thác và ch ế tác vàng. + Quảng Trị có 48 mỏ và điểm quặng, trong đó 17 điểm thuộc nhóm kim loại, 22 điểm thuộc nhóm vật liệu xây dựng (1995). Các mỏ đá vôi và nguyên liệu sản xuất xi măng kéo dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, trữ lượng đạt khoảng 3,5 tỷ tấn. Khoáng titan phân bố dọc bờ biển Vĩnh Thái – Vĩnh Kim trữ lượng 1 triệu tấn. Một số khoáng sản khác nh ư vàng, ăngtimoan; nguồn nước khoáng và cát thuỷ tinh tương đối lớn. 15
  16. + Thừa Thiên Huế cũng có một số mỏ khoáng sản nhưng trữ lượng nhỏ. Víi nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng, mà nổi bật là một số loại có tỉ trọng lớn so với vùng khác. So với cả nước, Bắc Trung Bộ chiếm 100% trữ lượng crômít, 60% trữ lượng sắt, 44% trữ lượng đá vôi xi măng. Các khoáng sản có giá trị kinh tế của vùng bao gồm: + Đá vôi xây dựng: 37,8 tỉ tấn có ở hầu hết các tỉnh. + Quặng sắt: 556,62 triệu tấn, trong đó mỏ Thạch Khê (Hà Tĩnh) là 553,72 triệu tấn. + Cát thuỷ tinh: 573,6 triệu m3, có ở 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. + Sét làm gạch, ngói: 3,09 tỉ tấn, có ở khắp nơi trong vùng. + Đá vôi làm xi măng: 172,83 triệu tấn, có nhiều ở Thanh Hoá, Nghệ An. + Titan: 6,32 triệu tấn, có nhiều ở Quảng Trị. + Đá cát két: 200 triệu tấn, có nhiều ở Nghệ An và một số nơi khác. + Nhôm: trên 100 nghìn tấn ở Nghệ An. + Crômít: 2066 nghìn tấn ở Thanh Hoá. C¸c kho¸ng sản khác như đá ốp lát (362 triệu m 3) ở Nghệ An, Thanh Hoá, Hà Tĩnh; cao lanh 50 triệu tấn ở Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế; Đôlômit (6 triệu tấn) ở Quảng Bình; sét (19,75 triệu m3) có nhiều ở Nghệ An... Đây là những thế mạnh góp phần không nhỏ vào việc hình thành các ngành công nghiệp của Bắc Trung Bộ như sản xuất xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng... 2.1.2.3. Địa hình Địa hình của Bắc Trung Bộ ph©n hãa thµnh các bộ phân khá rõ nÐt, nhưng lại rất gắn bó: vùng đồi núi phía Tây (Trường Sơn B ắc), d ải đ ồng bằng ven biển và tiếp nối là miền bờ biển phía Đông. Bắc Trung Bộ có địa hình phức tạp, chia cắt lớn, hẹp ngang và lại kéo dài. Đại bộ phận lãnh thổ là đồi núi, sườn phía Đông hướng ra biển có độ dốc lớn, đồng bằng nhỏ hẹp và bị chia cắt, sông suối dốc, chảy xiết, thường gây lũ lụt bất ngờ - Vùng đồi núi phía Tây. Trường Sơn Bắc như một bức tường thành kéo dài suốt từ Nam thung lũng sông Cả đến tận các ngọn núi phía Bắc thung lũng sông Bung, ngăn cách Bình - Trị - Thiên và Quảng Nam - Đà Nẵng. Trường Sơn Bắc có diện tích 142.500 ha nằm trong miền núi thấp, cấu tạo kéo dài theo hướng Tây B ắc - Đông Nam, chạy từ thượng nguồn sông Cả vào đến Quảng Nam. G ồm nhi ều dãy núi nằm so le với nhau, độ cao trung bình 600 m - 800 m, hẹp bề ngang, có hai sườn không đối xứng, dốc xuống phía đồng bằng duyên hải, càng về phía Nam dãy núi càng ăn sát ra biển; có những dãy đâm ngang ra biển như Hoành Sơn, Bạch Mã. 16
  17. - Phía Bắc thung lũng sông Cả là khối Pù Hoạt chạy dọc biên giới Việt - Lào với vùng đồi chân núi của nó, thấp dần về phía Đông, trong vùng Nghệ An độ cao trên dưới 1.500 m. Vào cuối Đệ Tam, đầu Đệ Tứ có phun trào badan dày 300 m ở vùng Như Xuân, Phủ Quỳ tạo nên dạng địa hình bán bình nguyên lượn sóng. Khu vực Pù Hoạt có mức độ chia cắt dày, sông su ối ch ằng chịt. Thanh Hoá hình thành trên phần Đông Nam của các đới kiến tạo - nham tướng từ khu Tây Bắc xuống nhưng do trong giai đoạn Tân ki ến t ạo nâng lên yếu nên địa hình ngày nay chủ yếu là đồi dưới 500 m, xen ít núi thấp, trong đó có nhiều núi đá vôi tiếp tục của dải đá vôi Tây bắc. - Khu Nghệ - Tĩnh kéo dài từ Nam sông Chu cho đến dãy Hoành Sơn, đâm ra biển ở đèo Ngang. Nằm trong địa máng Trường Sơn, đây là địa máng hoạt động và kết thúc sớm: trong Đại Cổ sinh. Địa máng Trường Sơn s ụt lún với tốc độ lớn, tạo nên bề dày trầm tích tới 12.000 m, chủ y ếu là đá phi ến xen cát kết, có ít đá vôi Cacbon - Pecmi dày 600 m - 800 m hình thành vào giai đoạn cuối. Địa máng Trường sơn kết thúc vào vận động tạo sơn Hecxini. Từ hữu ngạn sông Cả đến Hoành Sơn là dãy Pu Lai Leng - Rào Cỏ hẹp ngang nhưng dài liên tục, tiếp nối của dãy Pu Sao (Lào), có ng ọn cao nh ất nằm ngay sát biên giới với độ cao 2.711 m (gần hữu nnganj sông Cả). Dãy núi này còn chạy tiếp về phía Đông với các nhánh tỏa ra phía đông từ C ửa H ội đến Ba Đồn (dãy Hồng Lĩnh). Phía Đông Nam (Tây Hà Tĩnh) là dãy Rào C ỏ đỉnh cao 2.286 m. Cả Pu Lai Leng và Rào Cỏ đều được cấu tạo bằng đá Granít nên đỉnh tương đối nhọn, sườn dốc và bị các sông suối chia c ắt dữ d ội (d·y nói nµy cã tªn ®Þa ph¬ng lµ nói d¨ng mµn). Cuối huyện Kì Anh - Hà Tĩnh là Đèo Ngang, một m ạch núi đâm ra bi ển theo hướng Tây - Đông, cao khoảng 400 m, đỉnh cao nhất lên đến 1.046 m. Tiếp đó là khối Hoành Sơn có diện tích khoảng 1.500 km 2, không cao lắm nhưng do hướng chạy nên có vai trò là ranh giới khí h ậu gi ữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Chỉ cách nhau 10 km nhưng Hà Tĩnh thuộc về khí hậu mi ền B ắc trong khi từ Quảng Bình trở đi, khí hậu đã mang nh ững nét c ủa khí h ậu mi ền Nam. Bản thân Hoành Sơn cũng có sự phân hoá: mùa đông ch ịu ảnh h ưởng của gió Đông Bắc, mùa hạ chịu ảnh hưởng của gió Lào. - Một bộ phận rất quan trọng của vùng đồi núi phía tây B ắc Trung B ộ là vùng đá vôi Kẻ Bàng, rộng tới 10.000 km2, núi đá vôi ở đây tập trung chủ yếu ở Kẻ Bàng và Khe Ngang, độ cao 700-800m. Khối núi Kẻ Bàng chạy lan đến tận phía tây Trường Sơn theo khối Ma Ha Xai ở Lào, cả hai khối đứng sừng sững thành một vòng cánh cung khổng lồ chạy từ phía tây Đồng H ới ra quá Kham Kơt như một bức tường thành kéo dài hơn 260 km. Cao hơn cả là đỉnh Phu Et Va (1.515 m), trông xa nh ư một kim t ự tháp đang s ụp đ ổ. Các dạng địa hình hiện tại thể hiện quá trính Cacxtơ đang phát tri ển mạnh m Ï, dòng chảy bề mặt ít, sông suối ngầm phát triển, phổ bi ến là các d ạng đ ịa hình: phễu, giếng, hố kacxtơ. Trong khối đá vôi Kẻ Bàng, động Phong Nha được khám phá sớm và nhiều người biết đến nhất. Các hang động trong đó đều do con sông ngầm (sông Chài) hòa tan đá vôi tạo thành. Đ ộng chính g ồm 14 buồng, có hành lang dài 1.500 m, nhiều hành lang phụ dài đến vài trăm mét. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các chuyên 17
  18. gia khảo sát hang động Anh và Việt Nam mới ch ỉ thám hi ểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng. Đ ộng Phong Nha là động giữ nhiều kỷ lục: (1) Hang nước dài nhất; (2) Cửa hang cao và rộng nhất; (3) Bãi cát, đá rộng và đẹp nhất; (4) Hồ ng ầm đ ẹp nh ất; (5) Th ạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất; (6) Dòng sông ngầm dài nh ất Việt Nam; (7) Hang khô rộng và đẹp nhất thế giới. Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, là carxtơ cổ nhất Châu Á. Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, đ ịa hình khu v ực này h ết sức phức tạp. Phong Nha - Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về địa hình karstơ, thể hiện được đặc trưng lịch sử địa ch ất và địa hình của khu vực. Phong Nha - Kẻ Bàng là một trong những mẫu hình riêng bi ệt và đ ẹp nhất về sự kiến tạo carxtơ phức tạp, được UNESCO 2 lần công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, theo tiêu chí đa dạng sinh học vào năm tháng 7 năm 2008. - Từ phía Nam dãy núi đá vôi Kẻ Bàng là vùng núi th ấp chạy từ biên giới Việt - Lào đến gần sát biển. Trong đó, các đỉnh được cấu tạo từ đá Granit cao nhất là các đỉnh Co Ta Run (1624 m), Ba Rền (1137 m), U Bò (1.009 m). Các đỉnh Động Ngài (1.774 m) ở đầu nguồn sông B ồ, Voi M ẹp (1.701 m) phía Tây Cam Lộ, Núi Mang (1.708 m) và các đỉnh cao 1.200 - 1.300 m nằm ở trung tâm, là các đỉnh phân thuỷ giữa các sông suối ch ảy v ề phía b ờ biển Trị - Thiên và các sông suối chảy về phía tây sang cao nguyên Ta Hoi của Lào. Các dãy núi còn lại được cấu tạo bởi đá phiến hay cát kết có độ cao từ 500 - 800 m, quá trình bóc mòn mãnh liệt tạo nên nh ững b ề mặt san b ằng trong vùng. Tại khu vực đồi 300 - 400 m, có một vệt đá phun trào badan t ừ Vĩnh Linh chạy qua Gio Linh, Cam Lộ đến Lao Bảo, diện tích 20.000 ha. Đ ịa hình badan đỉnh bằng, sườn thoải, dễ khai phá trồng trọt. Bán bình nguyên Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam lộ nằm gần biển, cao xấp xỉ 100 m. Vùng Lao Bảo - Khe Sanh nằm trên sườn dải Trường Sơn ở độ cao 300 - 400 m. Đồi badan Vĩnh Linh, Gio Linh được khai phá từ lâu đời, trồng cây ăn qu ả nhi ệt đ ới và h ồ tiêu. Vùng Cam Lộ dài 12 km, rộng 5 km, là một bồn đ ịa đ ược dung nham badan lấp đầy. Từ phía Nam dải núi đá vôi khe Ngang đến đèo Lao Bảo là vùng đồi núi sa thạch tỏa rộng thành 2 bậc xuống phía biển, bậc 1.000 m và bậc 300 - 400 m. Do quá trình xâm thực giật lùi mạnh của các sông su ối đ ổ xu ống bi ển Đông, có nơi đỉnh cao đi lệch về phía Đông trên các nhánh phân thuỷ phụ, vì vậy ở đây biên giới Việt - Lào không phải là núi cao nhất như ở Ngh ệ Tĩnh. Vùng Khe Sanh - Lao Bảo bao gồm một số ngọn đồi t ừ cây s ố 56 đ ến cây s ố 73 dọc đường số 9 từ Đông Hà đi Xavanakhet. 18
  19. Độ cao trung bình của dãy Trường Sơn Bắc khoảng 2. 000 m, thỉnh thoảng có những đỉnh cao trên 2.500 m. Các đỉnh núi cao nhất là: Pu Xai Lai Leng (biên giới Việt-Lào, Nghệ An) 2.711 m, Pu Ma (Nghệ An) 2.194 m, Pu Đen Đin (Nghệ An) 1.540 m, Rào Cỏ (biên giới Việt - Lào, Hà Tĩnh) 2.235 m, Động Ngài (Thừa Thiên - Huế) 1.774 m, Bạch Mã 1444 m. Kh ối núi K ẻ Bàng ở tỉnh Quảng Bình cao tới 1178 m. Dãy Trường Sơn Bắc chấm dứt ở phía Nam Thừa Thiên Huế bằng một mạch núi cao trên 1.000 m, đâm thẳng ra biển và kết thúc bởi hòn Sơn Trà ở phía đông núi Hải Vân được cấu tạo bằng đá Granit. - Dải đồng bằng ven biển Đi từ khu vực đồi núi phía Tây ra biển, địa hình thấp dần: 40 - 25 m, 25 - 15 m, 15 - 5 m, 5 - 4m, có tuổi trẻ dần. Điều đó chứng tỏ địa hình được nâng cao dần và liên tục về phía Tây lãnh th ổ. Bờ bi ển có nhi ều c ồn cát, đ ược gió vun lên thành những đụn cát và ngăn chặn các đầm phá. Cùng th ời gian đó hình thành nên các đảo. Địa hình đồng bằng bị cắt xẻ bởi các nhánh núi ăn sát ra tới biển như: Hoành Sơn, Đèo Ngang. Vì vậy, địa hình đồng bằng duyên hải miền Trung mang tính chất của đồng bằng chân núi - ven biển. Ngoài bị c ắt x ẻ ngang b ởi các nhánh núi ăn sát ra biển, còn có sự phân chia dọc theo đ ồng b ằng: c ồn cát, đụn cát, đồi núi sót, mõm đá. Phía trong các cồn cát là các đ ồng b ằng nh ỏ h ẹp có thể canh tác, ở dưới chân núi là vùng sỏi đá khô cằn, c ỏ cây hoang d ại mọc. Các đồng bằng duyên hải của Bắc Trung Bộ có đặc điểm hẹp ngang, khu vực từ Nghệ An vào đến Đà Nẵng bề ngang đồng bằng chỉ từ 40 - 60 km, chỗ hẹp nhất ở Đồng Hới (Quảng Bình) chỉ khoảng 37 km. + Đồng bằng châu thổ Thanh Hoá rộng nhất, 2.900 km 2, mang tính chuyển tiếp từ đồng bằng Bắc Bộ màu mỡ rộng lớn xuống đồng b ằng duyên 19
  20. hải Miền Trung nhỏ bé nghèo phì liệu. Rìa phía B ắc và Tây Bắc c ủa đ ồng bằng là dải đất cao được cấu tạo bằng phù sa cũ của sông Mã - Chu, cao 2- 15 m. Châu thổ phù sa mới cao trung bình 3- 4m, có khi lên đ ến 9 - 10 m. Trong vùng còn những chỗ trũng, thường là các lòng sông cũ. Giữa sông Chu và sông Yên còn nhiều vết tích cũ của dòng sông Chu, ch ứng t ỏ x ưa kia sông Chu chảy tách riêng với sông Mã và đi thẳng ra biển. Ở phía Bắc sông Chu, giữa sông Chu và sông Mã cũng phát hiện vô số lòng máng. Vùng đất th ấp ở trung tâm châu thổ cao trung bình 1 - 2m, rộng ở phía B ắc, càng v ề phía Nam càng hẹp. Đất thịt nặng, sét, hơi chua, nơi nào ảnh h ưởng của cacbonat có đ ộ pH trung tính. Phía Bắc có nhiều cánh đồng rất trũng t ại H ậu L ộc, Hà Trung, Nga Sơn, độ cao 0,30 - 0,70 m, thường ngập nước. Trong đồng bằng có nhiều đồi núi sót cao trung bình từ 200 - 300 m cấu tạo bằng nhi ều lo ại đá khác nhau (macma phun trào, đá vôi, cát kết, đá phiến). Vùng trung tâm có đ ịa hình cao thấp không đồng đều vì đây là nơi các dòng sông l ớn ch ảy qua. Theo quy luật chung, nơi nào là sống đất do lũ bồi thì đất sẽ cao lên và có thành ph ần cơ giới nhẹ, nơi nào là lòng sông cũ thì đất lại trũng xuống và có thành ph ần cơ giới nặng. Về phía Nam cho đến sông Yên vùng đất thấp bị thu h ẹp giữa một bên là thềm phù sa cổ, một bên là dải cồn cát ven biển. Vùng ven bi ển có nhiều cồn cát nối thành những chuỗi dài chạy theo h ướng Đông Bắc - Tây Nam dạng xoè nan quạt, phía Bắc rộng trên 5 km, phía nam chỉ hẹp 1,5 km. Bờ biển của đồng bằng châu thổ Thanh Hoá là một miền bờ biển phẳng với một thềm lục địa tương đối nông và rộng. Phía bắc Nga s ơn, hàng năm đất liền tiến ra biển với tốc độ khá lớn nhờ phù sa sông Hồng và sông Đáy đổ về, nhưng từ Nga sơn đến mũi Ròn, các cồn cát đã nối li ền nh ững mũi đá nhô ra biển lại với nhau, tạo thành các bãi biển ph ẳng và dài nh ư ở Lạch Trường, Sầm Sơn, Khoa Giáp. Đất phù sa châu thổ Thanh Hoá nghèo hơn phù sa châu thổ Bắc Bộ: khu vực cao của đồng bằng đ ất chua và có hi ện tượng bạc màu; ở khu vực đất thấp và gần biển đất thể hiện tính ch ất ven biển ở tỉ lệ lớn của đất mặn, đất cát, đất nhẹ hơn do sự có mặt c ủa các tr ầm tích biển. + Đồng bằng Nghệ - Tĩnh nhỏ bé, kém phì nhiêu và nhiều đ ất m ặn, đ ất cát, vỏ sò, hến. Cả vùng đồng bằng Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành ba mặt giáp đồi núi, phía Đông hướng ra biển. Khi chưa được bồi lấp xong, vùng biển vẫn thông với Thanh Hoá qua eo biển Hoàng Mai có nhiều đá vôi về phía Bắc; phía Nam thông với đồng bằng châu th ổ sông Cả qua eo Đò Cấm. Đồng bằng duyên hải Diễn Châu - Nghệ An nguyên là một vụng biển bị vùi lấp bởi trầm tích biển, vận động nâng lên làm cho đ ường b ờ bi ển d ịch ra phía sườn dốc thoải của thềm lục địa, trên đó ho ạt đ ộng c ủa sóng bi ển đã dựng nên những cồn cát dài gần như song song, đánh dấu những vị trí tu ần t ự của đường bờ biển cũ. Dấu hiệu rõ của vận động nâng lên này biểu hiện ở các bậc thềm biển tồn tại dưới dạng những đồi riêng rẽ trên đó có nh ững lớp vỏ sò dày 4 - 5 m thuộc xã Diễn Hồng, Diễn Kỷ, Diễn Tháp ngày nay. Nếu phía ngoài giáp biển nhiều đất cát và vỏ sò thì phía trong giáp núi, ít đ ược b ồi lấp nên đất trũng thấp, tập trung nhiều ở Yên Thành - Ngh ệ An. T ừ Đò C ấm đến Bến Thuỷ là đồng bằng Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nghi Xuân. Phía Tây đường Quốc lộ 1A được phù sa sông Cả bồi đắp nên rộng và phì nhiêu hơn, 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2