intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình điều dưỡng cơ bản - ThS. Lê Văn Duy

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:303

119
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

(NB) Giáo trình "Điều dưỡng cơ bản" có nội dung trình bày được định nghĩa và tình trạng nghề Điều dưỡng. Trình bày được lịch sử ngành Điều dưỡng trên Thế giới và ở Việt Nam. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của giáo trình này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình điều dưỡng cơ bản - ThS. Lê Văn Duy

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM KHOA ĐIỀU DƯỠNG ThS. Lê Văn Duy (Chủ biên) Giáo trình ĐIỀU DƯỠNG CƠ BẢN (Lưu hành nội bộ) Hà Nội - 2021
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM KHOA ĐIỀU DƯỠNG CHỦ BIÊN: ThS. Lê Văn Duy THAM GIA BIÊN SOẠN: ThS. Lê Văn Duy TS. Ngô Xuân Long ThS. Nguyễn Thị Thanh Hà Giáo trình ĐIỀU DƯỠNG CƠ BẢN (Lưu hành nội bộ) Hà Nội - 2021
  3. 2
  4. MỤC LỤC BẢNG VIẾT TẮT..................................................................................................................... 4 LỜI GIỚI THIỆU..................................................................................................................... 5 BÀI 1: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM .. 6 BÀI 2: VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI ĐIỀU DƯỠNG ........................................................................................................................ 15 BÀI 3: HỌC THUYẾT ĐIỀU DƯỠNG................................................................................ 23 BÀI 4: TƯ DUY BIỆN CHỨNG TRONG THỰC HÀNH ĐIỀU DƯỠNG....................... 38 BÀI 5: NHẬN ĐỊNH ĐIỀU DƯỠNG ................................................................................... 61 BÀI 6: CHẨN ĐOÁN ĐIỀU DƯỠNG .................................................................................. 84 BÀI 7: LẬP KẾ HOẠCH CAN THIỆP ĐIỀU DƯỠNG .................................................. 101 BÀI 8: THỰC HIỆN VÀ ĐÁNH GIÁ CAN THIỆP ĐIỀU DƯỠNG .............................. 119 BÀI 9: MỘT SỐ XÉT NGHIỆM SỬ DỤNG TRONG LÂM SÀNG ............................... 134 BÀI 10: GIẤC NGỦ ............................................................................................................. 147 BÀI 11: QUẢN LÝ ĐAU ...................................................................................................... 175 BÀI 12: LIỆU PHÁP OXY .................................................................................................. 192 BÀI 13: SỬ DỤNG THUỐC CHO NGƯỜI BỆNH........................................................... 200 BÀI 14: TIẾP NHẬN NGƯỜI BỆNH VÀO VIỆN, CHUYỂN VIỆN VÀ RA VIỆN..... 213 BÀI 15: HỒ SƠ NGƯỜI BỆNH VÀ CÁCH GHI CHÉP ................................................. 219 BÀI 16: TRUYỀN DỊCH VÀ TRUYỀN MÁU .................................................................. 224 BÀI 17: CẤP CỨU SỐC PHẢN VỆ ................................................................................... 232 BÀI 18: PHÒNG CHỐNG LOÉT ÉP CHO NGƯỜI BỆNH ........................................... 239 BÀI 19: CÁCH LẤY MẪU XÉT NGHIỆM....................................................................... 246 BÀI 20: CẤP CỨU NGỪNG TUẦN HOÀN VÀ CẤP CỨU VẾT THƯƠNG CHẢY MÁU....................................................................................................................................... 256 BÀI 21: PHÒNG NGỪA SỰ CỐ Y KHOA LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI BỆNH ........... 267 BÀI 22: CHĂM SÓC TRONG THỰC HÀNH ĐIỀU DƯỠNG ....................................... 283 BÀI 23: CHĂM SÓC ĐIỀU DƯỠNG TRẺ VỊ THÀNH NIÊN ....................................... 294 3
  5. BẢNG VIẾT TẮT BYT Bộ Y tế BV Bệnh viện CBYT Cán bộ y tế CSNB Chăm sóc người bệnh CSSKSS Chăm sóc sức khỏe sinh sản ĐD Điều dưỡng ĐDT Điều dưỡng trưởng ĐDV Điều dưỡng viên HS Hộ sinh HSV Hộ sinh viên HST Hộ sinh trưởng KBCB Khám bệnh, chữa bệnh SYT Sở Y tế TCYTTG Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) TTCSSKSS Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản 4
  6. LỜI GIỚI THIỆU Trước nhu cầu về đào tạo nguồn nhân lực cán bộ Y tế không ngừng được nâng cao cùng với sự phát triển toàn diện mọi mặt của nhà trường. Việc dạy và học luôn được đổi mới theo hướng tích cực, từng bước nâng cao tính chủ động của sinh viên trong học tập và nghiên cứu. Khoa học Điều dưỡng đã có nhiều tiến bộ về học thuật và công nghệ. Tốc độ thay đổi của các khái niệm định nghĩa cơ bản đến các tư duy biện chứng trong thực hành điều dưỡng dựa vào bằng chứng, là căn cứ để thúc đẩy một cách nhanh chóng chất lượng cung cấp các dịch vụ điều dưỡng đáp ứng được các nhu cầu cấp bách của người bệnh và xã hội. Nhu cầu cần có một cuốn tài liệu cốt lõi, bao phủ cho toàn bộ cơ sở khoa học Điều dưỡng tên tiếng Anh là “Fundamentals of Nursing” “Nền tảng của điều dưỡng” được dịch sang tiếng Việt là “Điều dưỡng cơ bản”; “Điều dưỡng cơ sở” được cập nhật liên tục, trở thành cẩm nang cho tất cả điều dưỡng viên dù đang công tác hay hoạt động chuyên sau theo các ngành điều dưỡng. Xuất phát từ thực tế đó Khoa Điều dưỡng trường Đại học Đại Nam đã biên soạn và xây dựng cuốn tài liệu giảng dạy “Điều dưỡng cơ bản” nhằm đáp ứng phần nào về tài liệu học tập góp phần nâng cao chất lượng dạy và học cho đối tượng đại học điều dưỡng. Nội dung tài liệu được viết trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, chương trình đào tạo của trường và tham khảo các tài liệu của nước ngoài. Trong cuốn tài liệu này chúng tôi cố gắng chọn lọc những kiến thức cập nhật nhất, phù hợp với chương trình đào tạo đại học là cơ sở cho sinh viên thực hành tốt sau này. Trong quá trình biên soạn không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp và sinh viên để cuốn tài liệu giảng dạy được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn. Trưởng khoa Điều dưỡng ThS. Lê Văn Duy 5
  7. BÀI 1: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM MỤC TIÊU Sau khi học xong bài này sinh viên có khả năng: 1. Trình bày được định nghĩa và tình trạng nghề Điều dưỡng. 2. Trình bày được lịch sử ngành Điều dưỡng trên Thế giới và ở Việt Nam. NỘI DUNG 1. Đại cương Ngày nay, ngành Điều dưỡng đã phát triển khá xa so với Điều dưỡng 50 năm về trước. Bước vào thế kỷ XXI, ngành Điều dưỡng ngày càng tiến bộ. Để hiểu ngành Điều dưỡng ngày nay và chuẩn bị cho tương lai, chúng ta phải hiểu những sự kiện đã xảy ra, đang xảy ra và những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến nó. Rất khó để đưa ra được định nghĩa đầy đủ và toàn diện về ngành Điều dưỡng bởi vì người Điều dưỡng làm quá nhiều việc. Nếu ở lớp học, khi bạn hỏi sinh viên hoàn thành câu: "Ngành Điều dưỡng là gì?" thì sẽ có rất nhiều câu trả lời khác nhau, bởi vì mỗi người sẽ trả lời dựa trên những kinh nghiệm và kiến thức khác nhau của mình về ngành Điều dưỡng. Khi bạn tiếp xúc với chương trình Điều dưỡng, sự định nghĩa về ngành Điều dưỡng của bạn sẽ thay đổi, bạn sẽ biết và hiểu thêm về ngành Điều dưỡng là gì? Nội dung khuôn khổ bài này giới thiệu về ngành Điều dưỡng, chương trình giáo dục, nghề nghiệp và hướng dẫn thực hành nghề Điều dưỡng. 2. Định nghĩa Theo Tạp chí The New Lexicon Wesbter’s đã định nghĩa: "Người Điều dưỡng là người phụ nữ được huấn luyện để chăm sóc những người ốm đau". Tuy nhiên, ngày nay có nhiều nam giới đã chọn nghề Điều dưỡng. Những người Điều dưỡng này được cung cấp những kỹ năng chăm sóc bảo vệ người bệnh tốt qua một chương trình đào tạo. Florence Nightingale đã đưa ra một định nghĩa về ngành Điều dưỡng cách đây hơn 100 năm: "Điều dưỡng là một hành động thiết thực bảo vệ môi trường chung quanh người bệnh để giúp cho người bệnh bình phục". Trong thuyết đầu tiên này, Florence Nightingale đã đề cao vai trò của công tác Điều dưỡng. Người Điều dưỡng không những được huấn luyện để chăm sóc người bệnh ốm đau mà còn được huấn luyện như những người nội trợ. Virginia Henderson là một trong những người Điều dưỡng đầu tiên nêu ra định nghĩa Điều dưỡng (1960): "Chức năng của Điều dưỡng là giúp đỡ các cá thể, đau ốm hoặc khoẻ mạnh, giúp họ cải thiện chất lượng cuộc sống và bình phục nhanh chóng. Người Điều dưỡng cần thiết phải có sức khỏe, thông minh, có kiến thức và phong 6
  8. thái làm việc càng nhanh càng tốt". (Henderson, 1966, p.3). Henderson cho rằng người Điều dưỡng cần phải chăm sóc người bệnh không kể họ ốm đau hay khoẻ mạnh. Bà còn đề cập đến việc giáo dục và ủng hộ vai trò của người Điều dưỡng. Canadian Nurses Association (CAN, 1984) đã nêu một định nghĩa về ngành Điều dưỡng như sau: "Điều dưỡng nghĩa là phải chăm sóc người bệnh phù hợp với bệnh tật của họ bao gồm cả việc luyện tập về tinh thần, chức năng và phục vụ người bệnh trực tiếp hoặc gián tiếp, giúp cho người bệnh cải thiện sức khỏe, ngăn chặn ốm đau, hoà nhập vào cộng đồng và xã hội". Bước vào thế kỷ XXI, người ta đã cố gắng trả lời câu hỏi: "Nếu không có ngành Điều dưỡng thì cái gì sẽ mất?". Người ta đã xem ngành Điều dưỡng như là một nghệ thuật, một môn khoa học. Điều dưỡng liên quan đến sức khỏe quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều dưỡng là một ngành, nghề chăm sóc người bệnh. 3. Điều dưỡng từ nền văn minh cổ đại cho đến thế kỷ thứ XX Ngành Điều dưỡng có một lịch sử phát triển đáng tự hào. Những người phụ nữ ngày xưa với vai trò làm vợ, làm mẹ, họ bao gồm cả việc chăm sóc và nuôi nấng những thành viên của gia đình. Xã hội ngày càng phát triển, dân cư ngày càng đông đúc, có nhiều người đau ốm và họ có thể chăm sóc bản thân, gia đình và xã hội. Từ đó, những người phụ nữ trong gia đình đã tham gia vào các công việc của xã hội. Trong xã hội đã xuất hiện các cá nhân, những tổ chức giúp đỡ những người đau ốm cần chăm sóc và ngành Điều dưỡng ra đời. 3.1. Ngành Điều dưỡng trong nền văn minh cổ đại Ngành Điều dưỡng chưa bao giờ tồn tại một cách riêng biệt. Trong thời gian đầu, vai trò của người Điều dưỡng đã được xác định bởi những cấu trúc xã hội mà con người đang sinh sống. Chăm sóc sức khỏe và Điều dưỡng như chúng ta đã biết ngày nay chịu ảnh hưởng bởi những gì đã xảy ra trong quá khứ. Ở nền văn hoá nguyên thuỷ, con người nghĩ rằng đau ốm là do một nhân vật siêu phàm gây nên. Để giúp giải thích những điều chưa biết này, thuyết duy linh đã mô tả rằng "mọi vật trong tự nhiên sống dưới một thế lực và khả năng không thấy được, những linh hồn tốt sẽ mang lại điều may mắn, những linh hồn tội lỗi sẽ bị ốm đau và chết" (Dolan, 1978). Suốt thời gian này, vai trò của những thầy thuốc và Điều dưỡng tồn tại tách biệt. Người thầy thuốc điều trị bệnh tật qua việc cầu kinh, lo sợ hoặc sự tuyệt vọng làm thế nào để giải thoát những linh hồn tội lỗi. Người Điều dưỡng thông thường là những người mẹ, người mà thường chăm sóc chính gia đình họ khi bị ốm đau bằng những chăm sóc y tế, hoặc những phương thuốc thảo mộc. Vai trò chăm sóc này của người Điều dưỡng tiếp tục được duy trì cho đến bây giờ. Khi mà những bộ lạc trở nên văn minh hơn, những đền thờ trở thành trung tâm của những chăm sóc y tế, bởi vì người ta tin rằng, sự đau ốm được gây ra bởi những dấu hiệu không hài lòng của Chúa. Những vị linh mục, thầy tu được xem như là những người thầy thuốc bậc cao, cuộc sống của những người đàn ông và phụ nữ 7
  9. không có giá trị trong xã hội. Những người Điều dưỡng như là những nô lệ, họ thực hiện những nhiệm vụ của những người đầy tớ dựa trên những mệnh lệnh của những thầy thuốc linh mục. Trái lại, suốt thời kỳ này, người Hebrews cổ đại đã đưa ra những luật lệ về những mối quan hệ đạo đức của con người, về sức khỏe tâm trí và về sự điều khiển bệnh tật thông qua 10 điều răn của Đức Chúa Trời. Người Điều dưỡng chăm sóc ốm đau tại nhà và tại cộng đồng và cũng thực hiện như vai trò của nữ hộ sinh (Dolan, 1978). Trong thời kỳ cổ đại, con người có rất ít kiến thức để chăm sóc trong lúc ốm đau. Suốt thời gian này họ tin tưởng nhiều vào Chúa, Thần linh. Khi xã hội ngày càng phát triển hơn, nhiều phương pháp điều trị bệnh ra đời và người ta đã biết rằng, việc chăm sóc lúc ốm đau là cần thiết. Đặc biệt trong giai đoạn này vai trò của người hộ sinh là quan trọng. Họ chăm sóc cả mẹ và con suốt quá trình thai nghén và sinh nở. Họ hướng dẫn cho sản phụ cách chăm sóc con, cho con bú và cách tự chăm sóc cho chính bản thân. Ở nền văn hoá cổ đại tại Châu Phi, chức năng của người Điều dưỡng là bao gồm cả vai trò người hộ sinh, chăm sóc trẻ em và người già. Ở Ấn Độ, có nhiều bệnh viện với đội ngũ Điều dưỡng nam, người Điều dưỡng nam này phải hội đủ 4 điều kiện: - Có kiến thức cơ bản về thuốc. - Thông minh. - Hết lòng vì người bệnh - Có sức khỏe tốt. 3.2. Lịch sử phát triển ngành Điều dưỡng thế giới Vào thế kỷ thứ III ở Rome, phụ nữ không đảm nhiệm vai trò này mà là những người đàn ông, gọi là Parabolani Brotherhood. Nhóm những người đàn ông này chăm sóc những ai đau ốm. Ở thời Crusades, đã có nhiều bệnh viện từ thiện được xây dựng. Những bệnh viện này dùng để chăm sóc những trẻ mồ côi, goá phụ, người nghèo và những người đau ốm. Năm 60, bà Phoebe (Hylạp) đã đến từng gia đình có người ốm đau để chăm sóc. Bà được ngưỡng mộ và suy tôn là người nữ Điều dưỡng tại gia đầu tiên của thế giới. Thế kỷ thứ IV, bà Fabiola (Lamã) đã tự nguyện biến căn nhà sang trọng của mình thành bệnh viện, đón những người nghèo khổ đau ốm về để tự bà chăm sóc nuôi dưỡng. Suốt từ năm 500 - 1500 sau Công nguyên, nhiều tổ chức quân đội gồm cả nam và nữ được thành lập để chăm sóc những người đau ốm. Ở thế kỷ thứ XVI, Camillus De Lellis đã thành lập những nhóm người để chăm sóc người nghèo, người đau ốm và những người tù. Năm 1633, Sisters Chariting đã 8
  10. thành lập Saint Vincent De Paul tại Pháp. Đó là tổ chức đầu tiên dưới thời Giáo Hoàng dùng để chăm sóc người đau ốm. Tổ chức đã gửi những người Điều dưỡng này đi khắp nơi trên thế giới, họ đã thành lập thêm nhiều bệnh viện ở Canada, Mỹ và Úc. Thời kỳ viễn chinh ở Châu Âu, bệnh viện được xây dựng để chăm sóc số lượng lớn những người hành hương bị đau ốm. Cả nam và nữ đều thực hiện việc chăm sóc sức khỏe cho tất cả mọi người. Nghề Điều dưỡng trở thành nghề được coi trọng. Vào thời điểm bắt đầu có đạo Cơ đốc, người Điều dưỡng có vai trò quan trọng và rõ ràng hơn. Dẫn đầu bởi niềm tin về tình yêu và sự chăm sóc những cá nhân khác là quan trọng, tổ chức đầu tiên về chăm sóc những người đau ốm được thực hiện bởi những người phụ nữ, gọi là "những người trợ tế". Trong suốt cuộc viễn chinh ở Châu Âu, những bệnh viện đã được xây dựng để chăm sóc một số lượng những người hành hương cần chăm sóc sức khỏe và người Điều dưỡng được kính trọng hơn. Đến cuối thế kỷ thứ XVI, chế độ nhà tù ở Anh và Châu Âu bị bãi bỏ. Các tổ chức tôn giáo bị giải tán, dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng người chăm sóc người bệnh. Những người phụ nữ phạm tội, bị giam giữ được tuyển chọn làm Điều dưỡng, thay vì thực hiện án tù; còn những người phụ nữ khác chỉ chăm sóc gia đình mình thôi. Bối cảnh này tạo ra những quan niệm và thái độ xấu của xã hội đối với Điều dưỡng. Giữa thế kỷ XVIII đầu thế kỷ thứ XIX, việc cải cách xã hội đã thay đổi về vai trò người Điều dưỡng. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội nói chung cũng được cải thiện. Trong thời kỳ này, một phụ nữ người Anh đã được thế giới tôn kính và suy tôn là người sáng lập ra ngành Điều dưỡng. Đó là Florence Nightingale (1820 - 1910). Bà sinh ra trong một gia đình giàu có ở Anh nên được giáo dục chu đáo. Bà biết nhiều ngoại ngữ, đọc nhiều sách triết học, tôn giáo, chính trị. Ngay từ nhỏ, bà đã thể hiện thiên tính và hoài bão được giúp đỡ người nghèo khổ. Bà đã vượt qua sự phản kháng của gia đình để vào học và làm việc tại bệnh viện Kaiserwerth (Đức) năm 1847. Sau đó bà học thêm ở Paris (Pháp) vào năm 1853. Những năm 1854 - 1855, chiến tranh Crimea nổ ra, bà cùng 38 phụ nữ Anh khác được phái sang Thổ Nhĩ Kỳ để phục vụ các thương binh của quân đội hoàng gia Anh. Tại đây bà đã đưa ra lý thuyết về khoa học vệ sinh trong các cơ sở y tế và sau 2 năm bà đã làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng từ 42% xuống còn 2%. Đêm đêm, Florence cầm ngọn đèn dầu đi thăm bệnh, chăm sóc thương binh, đã để lại hình tượng người phụ nữ với cây đèn trong trí nhớ những người thương binh hồi đó. Chiến tranh chưa kết thúc, Florence phải trở lại nước Anh. Cơn "sốt Crimea" và sự căng thẳng của những ngày ở mặt trận đã làm cho bà mất khả năng làm việc. Bà được dân chúng và những người lính Anh tặng món quà 50.000 bảng Anh để chăm sóc sức khỏe. Vì sức khỏe không cho phép tiếp tục làm việc ở bệnh viện, Florence đã lập ra hội đồng quản lý ngân sách 50.000 bảng Anh để thành lập trường đào tạo Điều dưỡng đầu tiên trên thế giới ở nước Anh vào 1860. Trường Điều dưỡng Nightingale cùng với chương 9
  11. trình đào tạo một năm đã đặt nền tảng cho hệ thống đào tạo Điều dưỡng không chỉ ở nước Anh mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Để tưởng nhớ công lao của bà và khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp mà Florence đã dày công xây dựng. Hội đồng Điều dưỡng thế giới đã quyết định lấy ngày 12/5 hằng năm, ngày sinh của Florence Nightingale, làm ngày Điều dưỡng quốc tế. Bà đã trở thành người mẹ tinh thần của ngành Điều dưỡng thế giới. Hiện nay ngành Điều dưỡng của thế giới đã được xếp là một ngành nghề riêng biệt, ngang hàng với các ngành, nghề khác. Có nhiều trình độ Điều dưỡng khác nhau: đại học, trên đại học. Nhiều cán bộ Điều dưỡng đã có bằng thạc sĩ, tiến sĩ, và các học hàm phó giáo sư, giáo sư... 3.3. Lịch sử phát triển ngành Điều dưỡng Việt Nam * Trước thời Pháp thuộc - Vai trò của người mẹ: Cũng như thế giới, từ xa xưa các bà mẹ Việt Nam đã chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và gia đình mình. Bên cạnh những kinh nghiệm chăm sóc của gia đình, các bà đã được truyền lại các kinh nghiệm dân gian của các lương y trong việc chăm sóc người bệnh, biết dùng các cây thuốc nam để chữa bệnh,... - Người đặt nền móng cho y học cổ truyền Việt Nam Hai danh y nổi tiếng thời xưa của dân tộc ta là Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV) và Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (thế kỷ XVIII) đã sử dụng phép dưỡng sinh để trị bệnh, đã phát hiện ra hàng trăm vị thuốc để điều trị bệnh có hiệu quả. Hai danh y này đã để lại cho nền y học nước ta một gia sản có giá trị lớn về y đức, y thuật Việt Nam. - Vai trò của các tôn giáo trong công tác Điều dưỡng Cuối thế kỷ XV, nhiều đoàn giáo sĩ phương Tây đã đến Việt Nam vừa truyền đạo, vừa chữa bệnh cho các tín đồ. Một số giáo sĩ được mời vào cung vua để chữa bệnh cho các vua quan trong triều đình. Cuối thế kỷ XVII, linh mục Vachet người Pháp và linh mục Coffler người Bồ Đào Nha là hai giáo sĩ đầu tiên đặt nền móng y học và Điều dưỡng phương Tây ở nước ta. Sau đó, các tu viện được thành lập, các trại chăm sóc cho người nghèo, trẻ mồ côi do các nữ tu đảm nhiệm. Việc chăm sóc mang tính nhân đạo, tự nguyện và không đòi hỏi thù lao. * Dưới thời Pháp thuộc Thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã xây dựng nhiều bệnh viện. Trước năm 1900, họ đã ban hành chế độ học việc cho những người muốn làm việc tại bệnh viện. Việc đào tạo không chính quy mà chỉ là cầm tay chỉ việc. Họ là những người giúp việc thạo kỹ thuật, vững tay nghề và chỉ phụ việc bác sĩ mà thôi. Năm 1901, mở lớp nam y tá đầu tiên tại bệnh viện Chợ Quán, nơi điều trị bệnh tâm thần và bệnh phong. Ngày 20-12-1906, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định thành lập 10
  12. ngạch nhân viên Điều dưỡng bản xứ. Năm 1910, lớp học chuyển về bệnh viện Chợ Rẫy để đào tạo y tá đa khoa. Ngày 1-12-1912, Công sứ Nam Kỳ ra nghị định mở lớp nhưng mãi đến năm 1923 mới mở Trường Y tá và ban hành ngạch bậc y tá bản xứ. Do chính sách của thực dân Pháp không tôn trọng người bản xứ và coi y tá chỉ là người giúp việc nên về lương bổng chỉ được xếp ở ngạch hạ đẳng. Năm 1924, Hội Y tá ái hữu và Nữ hộ sinh Đông Dương thành lập, người sáng lập là cụ Lâm Quang Thiêm, nguyên Giám đốc bệnh viện Chợ Quán. Chánh hội trưởng là ông Nguyễn Văn Mân. Hội đã đấu tranh với chính quyền thực dân Pháp yêu cầu đối xử công bằng với y tá bản xứ, chấp nhận cho y tá được thi chuyển ngạch trung đẳng, nhưng không được tăng lương mà chỉ được phụ cấp đắt đỏ. Năm 1937, Hội Chữ thập đỏ Pháp tuyển sinh lớp nữ y tá đầu tiên ở Việt Nam. Lớp học tại 38 Tú Xương (hiện là Trung tâm điều trị trẻ suy dinh dưỡng). * Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vừa mới thành lập đã phải bước ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngành Y tế non trẻ mới ra đời, với vài chục bác sĩ và vài trăm y tá được đào tạo thời Pháp thuộc. Lớp y tá đầu tiên được đào tạo 6 tháng do giáo sư Đỗ Xuân Hợp làm hiệu trưởng được tổ chức tại quân khu X (Việt Bắc). Những y tá vào học lớp này được tuyển chọn tương đối kỹ lưỡng. Sau đó liên khu III cũng mở lớp đào tạo y tá. Năm 1950, ta mở nhiều chiến dịch. Vì vậy nhu cầu chăm sóc thương bệnh binh tăng mạnh. Việc đào tạo y tá cấp tốc (3 tháng là phổ biến) đã cung cấp nhiều y tá cho kháng chiến. Để đáp ứng công tác quản lý, chăm sóc và phục vụ người bệnh trong những năm 1950. Cục Quản lý cũng đã mở một số lớp đào tạo y tá trưởng, nhưng chương trình chưa được hoàn thiện. Mặt khác, kháng chiến rất gian khổ, cơ sở vật chất nghèo nàn, thuốc men cũng rất hạn chế, nên việc điều trị cho người bệnh chủ yếu dựa vào chăm sóc và chính nhờ Điều dưỡng mà nhiều thương, bệnh binh bị chấn thương, cắt cụt, vết thương chiến tranh, sốt rét ác tính,... đã qua khỏi. * Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) Năm 1954, kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đất nước ta bị chia làm 2 miền. Miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục chịu sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Tuy vậy, mỗi miền có những bước phát triển riêng về công tác Điều dưỡng. - Ở miền Nam Năm 1956 có trường Điều dưỡng đào tạo Điều dưỡng 3 năm. Cô Lâm Thị Hạ, là nữ giám học đầu tiên. Năm 1968, do thiếu Điều dưỡng trầm trọng nên đã mở thêm ngạch Điều dưỡng sơ học 12 tháng chính quy tại các trường Điều dưỡng. Từ những năm 1960 đã có Sở Điều dưỡng tại Bộ Y tế. 11
  13. Năm 1970, Hội Điều dưỡng Việt Nam được thành lập, cô Lâm Thị Hai là chánh sự vụ Sở Điều dưỡng đầu tiên kiêm Chủ tịch hội. Năm 1973, mở lớp Điều dưỡng y tế công cộng 3 năm tại Viện Quốc gia Y tế công cộng. - Ở miền Bắc Năm 1954, Bộ Y tế đã xây dựng chương trình đào tạo y tá sơ cấp hoàn chỉnh để bổ túc cho lớp y tá học cấp tốc trong chiến tranh. Năm 1968, Bộ Y tế xây dựng tiếp chương trình đào tạo y tá trung cấp, lấy học sinh tốt nghiệp lớp bảy phổ thông đào tạo y tá 2 năm 6 tháng. Khoá đầu tiên mở lớp y tá cạnh bệnh viện Bạch Mai, sau đó đưa vào các trường trung học trực thuộc Bộ. Đồng thời Bộ gửi giảng viên của hệ này đi tập huấn ở Liên Xô, Ba Lan, Cộng hoà Dân chủ Đức,... Việc đào tạo Điều dưỡng trưởng cũng đã được quan tâm. Ngay từ năm 1960, một số bệnh viện và Trường Trung học Y tế trung ương đã mở lớp đào tạo y tá trưởng như lớp trung học y tế bệnh viện Bạch Mai. Tuy nhiên chương trình và tài liệu giảng dạy chưa được hoàn thiện. Ngày 21 tháng 11 năm 1963, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định về chức vụ y tá trưởng ở các cơ sở điều trị bệnh viện, viện Điều dưỡng, trại phong, bệnh xá từ 30 giường bệnh trở lên. * Công tác Điều dưỡng từ năm 1975 đến nay Năm 1975, kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước được thống nhất, Bộ Y tế đã thống nhất chỉ đạo công tác chăm sóc và điều trị người bệnh ở cả 2 miền. Từ đó, nghề Điều dưỡng bắt đầu có tiếng nói chung giữa 2 miền Nam - Bắc. Từ năm 1975, tiêu chuẩn tuyển chọn vào y tá trung học cần trình độ văn hoá cao hơn, học sinh được tuyển chọn bắt buộc phải tốt nghiệp trung học phổ thông hay bổ túc văn hoá và chương trình đào tạo cũng hoàn thiện hơn. Ngày 27 tháng 11 năm 1979, Bộ Y tế ra công văn số 4839 về chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với y tá trưởng khoa và bệnh viện. Năm 1982, Bộ Y tế ban hành chức danh y tá trưởng bệnh viện và y tá trưởng khoa. Năm 1985, một số bệnh viện đã xây dựng phòng Điều dưỡng, phòng này tách ra khỏi phòng y vụ. Ngày 14 tháng 7 năm 1990, Bộ Y tế ban hành quyết định số 570/BYT-QĐ thành lập phòng Điều dưỡng trong các bệnh viện có trên 150 giường bệnh. Khởi đầu, ông Phạm Đức Mục, trưởng phòng Điều dưỡng Viện Nhi Thụy Điển làm việc 100%; bà Lê Thị Sửu, giáo viên trường Trung học Y tế Hà Nội và bà Lê Thị Bình, giáo viên Trung học Y tế Bạch Mai làm 50% tại phòng Điều dưỡng Bộ Y tế được đặt trong Vụ Quản lý sức khỏe, nay là Vụ Điều trị Bộ Y tế để phát triển công tác Điều dưỡng trong cả nước thời đó. 12
  14. Ngày 14 tháng 3 năm 1992, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định thành lập Phòng Y tá của Bộ đặt trong Vụ Quản lý sức khỏe. Ngày 10 tháng 6 năm 1993, Bộ Y tế ra quyết định số 526 kèm theo quy định về chế độ trách nhiệm của y tá trong việc chăm sóc người bệnh tại bệnh viện. Cùng ngày đó, vụ Quản lý sức khỏe (nay là Vụ Điều trị) ra công văn số 3722 về việc triển khai thực hiện quy định trên. Về đào tạo, năm 1985, Bộ Y tế được Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cho phép tổ chức khoá đào tạo đại học Điều dưỡng đầu tiên tại Trường Đại học Y Hà Nội, năm 1986 mở tại Trường Đại học Y - Dược thành phố Hồ Chí Minh. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong lĩnh vực đào tạo Đại học Điều dưỡng của nước ta. Tổ chức Y tế thế giới rất hoan nghênh chủ trương này, vì từ đây Bộ Y tế đã xác định được hướng đi của ngành Điều dưỡng, coi đây là một ngành nghề riêng biệt, chứ không suy nghĩ như trước đây cho y tá giỏi học chuyên tu thành bác sĩ. Năm 1994, Bộ Giáo dục Đào tạo và Bộ Y tế lại tiếp tục cho phép đào tạo cử nhân cao đẳng, nữ hộ sinh, kỹ thuật viên y học khoá III tại Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Cao đẳng Y tế Nam Định. Năm 1998, Trường Đại học Y khoa Huế mở lớp Điều dưỡng cao đẳng đầu tiên tại khu vực miền Trung. Vào những năm 60 của thế kỷ XX đã đào tạo Điều dưỡng trưởng tại Bệnh viện Bạch Mai để cung cấp Điều dưỡng trưởng cho các Bệnh viện Trung ương nhưng chưa được bài bản. Năm 1990, lớp đầu tiên đào tạo Điều dưỡng trưởng được Bộ Y tế cho phép là Trường Trung học Kỹ thuật Y tế trung ương I phối hợp với chuyên gia Thụy Điển mở 3 lớp "Điều dưỡng trưởng Bệnh viện": lớp thứ nhất tại Bệnh viện Uông Bí - Thụy Điển. Sau đó lớp thứ hai mở tại Trường Cao đẳng Y tế Nam Định, lớp thứ 3 tại Trường Đại học Y- Dược Hồ Chí Minh. Đến nay khoảng 50% Điều dưỡng trưởng khoa, Điều dưỡng trưởng Bệnh viện đã được đào tạo qua các lớp quản lý Điều dưỡng trưởng. Năm 1986, Hội Điều dưỡng khu vực thành phố Hồ Chí Minh mở đại hội. Năm 1989, Hội Điều dưỡng thủ đô Hà Nội và Hội Điều dưỡng tỉnh Quảng Ninh ra đời. Sau đó lần lượt một số tỉnh thành khác cũng thành lập Hội Điều dưỡng, thôi thúc sự ra đời của Hội Điều dưỡng cả nước. Ngày 26 tháng 10 năm 1990, Hội Y tá Điều dưỡng Việt Nam mở đại hội lần thứ nhất tại hội trường Ba Đình lịch sử. Nhiệm kỳ thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương (BCHTW) Hội là 3 năm (1990 - 1993). BCH có 31 ủy viên ở cả 2 miền. Bà Vi Thị Nguyệt Hồ là Chủ tịch, 3 phó Chủ tịch là: Cô Trịnh Thị Loan, Cô Nguyễn Thị Niên, ông Nguyễn Hoa. Tổng Thư ký là ông Phạm Đức Mục. Ngày 26 tháng 3 năm 1993, đại hội đại biểu y tá - Điều dưỡng toàn quốc lần thứ 2 (nhiệm kỳ 1993 - 1997) được tổ chức tại Bộ Y tế và BCH mới gồm 45 ủy viên, Chủ tịch là Bà Vi Thị Nguyệt Hồ, 3 phó Chủ tịch là: Ông Nguyễn Hoa, Cô Trịnh Thị Loan, Ông Phạm Đức Mục (kiêm tổng thư ký). 13
  15. Ngày 13 tháng 8 năm 1997, sau nhiều cố gắng của Hội Y tá - Điều dưỡng Việt Nam, Nhà nước đã chấp thuận đổi tên Hội Y tá - Điều dưỡng thành Hội Điều dưỡng. Từ khi thành lập đến nay Hội đã có 19 tỉnh hội và trên 160 chi hội. Sự hoạt động của Hội đã góp phần động viên đội ngũ Điều dưỡng thêm yêu nghề nghiệp và thúc đẩy công tác chăm sóc tại các cơ sở khám bệnh, làm chuyển đổi bộ mặt chăm sóc Điều dưỡng. Trong quá trình phát triển của ngành Điều dưỡng Việt Nam từ khi đất nước được thống nhất đến nay, chúng ta đã được nhiều tổ chức Điều dưỡng quốc tế giúp đỡ cả về tinh thần, vật chất và kiến thức. Trong các tổ chức đó phải kể đến đội ngũ Điều dưỡng của Thụy Điển đã liên tục đầu tư cho việc đào tạo hệ thống Điều dưỡng. Nhiều chuyên gia Điều dưỡng Thụy Điển đã để lại những kỷ niệm tốt đẹp cho anh chị em Điều dưỡng Việt Nam như Eva Johansson, Lola Carison, Ann Mari Nilsson, Marian Advison, Emma Sunberg,... Tổ chức Y tế thế giới cũng đã cử những chuyên gia Điều dưỡng giúp chúng ta như Chieko Sakamoto, Margret Truax, Miller Therese,... cùng nhiều chuyên gia Điều dưỡng khác của tổ chức Care International, tổ chức khoa học Mỹ - Việt,... Các bạn đã giúp chúng ta cả về kinh phí, kiến thức và tài liệu. Chúng ta không thể quên được sự giúp đỡ quý báu của các bạn Điều dưỡng quốc tế. Chính các bạn đã giúp đỡ chúng ta hiểu rõ nghề nghiệp của mình và phấn đấu cho sự nghiệp Điều dưỡng Việt Nam phát triển. Kết luận Trên đây là vài nét sơ lược về ngành Điều dưỡng trên Thế giới và Việt Nam. Qua đây chúng ta cũng thấy lịch sử ngành Điều dưỡng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tuy ngành Điều dưỡng Việt Nam chưa được coi là một ngành riêng biệt, nhưng đã được quan tâm và có cống hiến to lớn. Chúng ta có quyền tự hào về ngành Điều dưỡng của chúng ta. thành tựu của ngành Điều dưỡng Việt Nam hiện nay chính là sự kết tinh truyền thống và kinh nghiệm của những người đi trước truyền lại cho những thế hệ Điều dưỡng hôm nay và mai sau. Đó cũng là sự giúp đỡ tận tình của các chuyên gia Điều dưỡng quốc tế. Thế hệ Điều dưỡng chúng ta quyết phát huy truyền thống của dân tộc, của ngành Điều dưỡng Việt Nam không ngừng học tập, rèn luyện để tiến bộ, góp phần xây dựng và phát triển ngành ngày càng mạnh mẽ. 14
  16. BÀI 2 VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI ĐIỀU DƯỠNG MỤC TIÊU Sau khi học xong sinh viên có khả năng: 1. Trình bày được vai trò của người Điều dưỡng. 2. Trình bày được các chức năng của người Điều dưỡng. 3. Trình bày được các nhiệm vụ của người Điều dưỡng. 4. Mô tả được quy định 12 điều y đức. 5. Mô tả được các yêu cầu về phẩm chất cá nhân của người Điều dưỡng. NỘI DUNG 1. Vai trò của người Điều dưỡng Việt Nam: Người Điều dưỡng Việt Nam có ba vai trò chính. 1.1. Vai trò thực hành. Do các Điều dưỡng viên sơ học, trung học trực tiếp chăm sóc người bệnh trong các bệnh viện và là thành viên của nhóm trong mạng lưới chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Vai trò thực hành được thể hiện qua các việc làm sau: - Hỗ trợ: Người Điều dưỡng thường có mặt để hỗ trợ khi cần thiết. - Giáo dục: Hướng dẫn, tư vấn cho cộng đồng những vấn đề về sức khoẻ mà gia đình và cộng đồng có thể thực hiện được. - Làm mẫu: Người Điều dưỡng có những hành vi mẫu mực và phương pháp bảo vệ sức khoẻ. - Biện hộ: Thay mặt cho cộng đồng để trao đổi với các nhóm y tế, các tổ chức khác trong cộng đồng. - Duy trì, hỗ trợ: Đảm bảo được chăm sóc sức khoẻ liên tục. - Chuyển người bệnh: Người Điều dưỡng là cầu nối giữa cộng đồng và y tế tuyến cơ sở hoặc Phòng khám đa khoa khu vực. 1.2. Vai trò giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Người Điều dưỡng viên có thể làm công tác giảng dạy, tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học. 1.3. Vai trò lãnh đạo và quản lý: Cho các Điều dưỡng trưởng đã được học qua các lớp học quản lý. 2. Chức năng của người Điều dưỡng: Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo người Điều dưỡng có hai chức năng như sau: 15
  17. 2.1. Chức năng chủ động: Bao gồm những nhiệm vụ chăm sóc cơ bản thuộc phạm vi kiến thức người Điều dưỡng đã được đào tạo và có khả năng thực hiện chủ động. Chức năng chủ động đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người bệnh đã được mô tả như sau: - Hô hấp - Ngủ và nghỉ - Ăn uống - An toàn - Bài tiết - Giao tiếp - Vận động - Tín ngưỡng - Duy trì thân nhiệt - Lao động - Vệ sinh cá nhân - Học tập - Thay quần áo - Hỗ trợ tinh thần 2.2. Chức năng phối hợp: Chức năng này liên quan đến việc thực hiện y lệnh của thầy thuốc. Người Điều dưỡng là người cộng tác với Bác sĩ và phải phối hợp với các Điều dưỡng viên khác, các kỹ thuật viên, với người bệnh, người nhà người bệnh, với các đoàn thể để hoàn thành nhiệm vụ. 3. Khái niệm về y đức Theo tiếng Hy Lạp Y đức học là một học thuyết về trách nhiệm. Theo cách giải thích hiện đại của y học Liên xô cũ thì y đức học là học thuyết về các nguyên tắc ứng xử của nhân viên y tế nhằm đạt được lợi ích tối đa cho người bệnh. Chức năng của đạo đức là để chỉ đạo hành vi, thái độ của con người. Nó đưa ra các yêu cầu về thái độ của con người và nó đánh giá hành động của con người theo quan điểm lợi ích xã hội mà họ phải đảm nhiệm. Nguyên lý chính yếu của y đức học là chủ nghĩa nhân đạo, mà biểu hiện của nó trong thực tế hằng ngày là nhân phẩm của người cán bộ y tế và sự thực hiện nghĩa vụ của họ đối với con người, là điều kiện thiết yếu để điều trị thành công cho người bệnh. 3.1 Định nghĩa Y đức là đạo đức của người cán bộ y tế. Đạo đức là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội người thầy thuốc. Đạo đức bắt nguồn từ những yêu cầu của sự tồn tại và phát triển xã hội, từ một tất yếu khách quan của đời sống xã hội, là điều chỉnh hành vi của con người trong mối quan hệ xã hội để kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể. 3.2. Quy định 12 điều y đức Y đức là phẩm chất tốt đẹp của người làm công tác y tế, được biểu hiện ở tinh thần trách nhiệm, tận tụy phục vụ, hết lòng thương yêu chăm sóc người bệnh, coi họ 16
  18. đau đớn như mình đau đớn, như lời Bác Hồ đã dạy "Lương y như từ mẫu" 1. Phải có lương tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề, luôn rèn luyện nâng cao phẩm chất của người thầy thuốc, không ngừng học tập và tiếp tục nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. 2. Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn. Không được sử dụng người bệnh làm thực nghiệm cho những phương pháp chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của bộ y tế và sự chấp nhận của người bệnh. 3. Tôn trọng quyền được khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân, tôn trọng những bí mật riêng tư của người bệnh, khi thăm khám, chăm sóc cần bảo đảm kín đáo, lịch sự. Quan tâm đến người bệnh trong viện chính sách ưu đãi xã hội, không được phân biệt đối xử với người bệnh, không có thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây phiền hà cho người bệnh. Phải trung thực khi thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa bệnh. 4. Khi tiếp xúc với bệnh nhân và gia đình họ, luôn có thái độ niềm nở, tận tình, trang phục phải chỉnh tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho người bệnh, phải giải thích tình hình bệnh tật cho người bệnh và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác điều trị, phổ biến cho họ về chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của người bệnh, động viên, an ủi, khuyến khích người bệnh điều trị, tập luyện để chóng hồi phục, trong trường hợp bệnh nặng hoặc tiên lượng xấu cũng phải hết lòng cứu chữa và chăm sóc tới cùng, đồng thời báo cho gia đình người bệnh biết. 5. Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử trí kịp thời không được đùn đẩy người bệnh. 6. Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán và đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, không vì lợi ích cá nhân mà giao cho người bệnh thuốc kém chất lượng, thuốc không đúng với yêu cầu và mức độ bệnh. 7. Không được rời bỏ vị trí khi làm nhiệm vụ, theo dõi, xử trí kịp thời các diễn biến của người bệnh. 8. Khi người bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ phải tiếp tục điều trị, tự chăm sóc và giữ gìn sức khỏe. 9. Khi người bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc chia buồn và hướng dẫn, giúp đỡ gia đình họ làm các thủ tục cần thiết. 10. Thật thà đoàn kết, tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. 11. Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác nhận trách nhiệm về mình, không đổ lỗi cho đồng nghiệp và tuyến trước. 17
  19. 12. Hăng hái tham gia công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng chống dịch bệnh, cứu chữa người bị tai nạn, đau ốm tại cộng đồng, gương mẫu thực hiện nếp sống vệ sinh, giữ gìn môi trường trong sạch. Để thực hiện 12 điều y đức này, các cơ sở y tế phải nghiêm túc tổ chức cho toàn thể các CBVC học tập và thực hiện, nhằm mang lại sự hài lòng cho người bệnh. Do tính đặc thù của nghề nghiệp, người Điều dưỡng cần có thêm những phẩm chất, đạo đức của người trực tiếp làm công tác chăm sóc y tế. 4. Phẩm chất cá nhân của người Điều dưỡng: Phẩm chất cá nhân cao là điều kiện cần thiết để người Điều dưỡng thực hiện nghĩa vụ nghề nghiệp của mình. 4.1. Phẩm chất về đạo đức - Ý thức trách nhiệm cao: Đối tượng phục vụ của Điều dưỡng là con người. Công việc của người Điều dưỡng liên quan chặt chẽ tới cuộc sống, tính mạng và hạnh phúc của người bệnh. Mọi sự cẩu thả, sơ xuất đều có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Người Điều dưỡng phải thấu hiểu sâu sắc và phải rèn luyện thường xuyên để nâng cao ý thức trách nhiệm của mình. - Đức tính trung thực: Trung thực tuyệt đối là một trong những nét cơ bản trong tính cách của người Điều dưỡng. Thực hiện các chức năng Điều dưỡng: chủ động và phối hợp. Người Điều dưỡng có mối quan hệ chặt chẽ với người bệnh, với đồng nghiệp dựa trên cơ sở lòng tin. - Sự ân cần và cảm thông sâu sắc: Người Điều dưỡng phải thấu hiểu, cảm thụ được nỗi đau đớn của người bệnh như nỗi đau của chính mình. Trong công việc phải tận tụy, ân cần chăm sóc người bệnh. Tuy nhiên không được để tình cảm gây trở ngại đến công việc. - Tính mềm mỏng và nguyên tắc: Điều dưỡng phải biết xem xét, đánh giá đặc điểm, tính cách cá nhân của từng người bệnh trong mọi giai đoạn của bệnh. Phải là nhà tâm lý học, có tính dễ gần, chan hoà, đồng thời phải biết đòi hỏi yêu cầu cao, có nguyên tắc. Tính tình cau có, khô khan, thiếu cởi mở hoặc đùa cợt không đúng chỗ, xuồng xã sẽ làm cho người Điều dưỡng mất uy tín trước người bệnh, đồng nghiệp. - Tác phong khẩn trương và tự tin: Tính khẩn trương là một yêu cầu và phẩm chất của cán bộ y tế. Nhiệm vụ của cán bộ y tế là đấu tranh cho sự sống của con người. Chậm trễ, thiếu tự tin sẽ làm mất cơ hội cứu sống người bệnh. Vì vậy, người Điều dưỡng phải khẩn trương, bình tĩnh, tự tin trong công việc. Không được vội vàng, hấp tấp dễ gây hậu quả xấu cho người bệnh. - Lòng yêu nghề: Người Điều dưỡng say mê nghề nghiệp sẽ không ngừng học tập nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức hiện đại, khắc phục được khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. 18
  20. 4.2. Phẩm chất về mỹ học Phẩm chất về mỹ học của người Điều dưỡng bao gồm: Sự tươm tất, tính đúng mực, vẻ bên ngoài chỉnh tề, không có tật xấu. Tác phong nghiêm chỉnh, đúng mực, đầu tóc gọn gàng dưới chiếc mũ đẹp, cùng với bộ quần áo choàng trắng sẽ gây được lòng tin cho người bệnh, gây được không khí nghiêm túc trong cơ quan. Quần áo nhàu nát, tóc rối bù hoặc trang điểm sặc sỡ, móng tay bôi sơn và để dài sẽ gây tổn hại đến uy tín của cán bộ y tế, đặc biệt đối với người đang chịu đau đớn, người nghèo khổ sẽ là cảm giác mâu thuẫn, căng thẳng, sự thiệt thòi trong cuộc sống. Môi trường bệnh viện, nhân viên bệnh viện không được gây cho người bệnh cảm giác buồn chán. Người Điều dưỡng không được phép để các mùi khó chịu như mồ hôi, nước hoa, mùi rượu… gây phản ứng khó chịu cho người bệnh. 4.3. Phẩm chất về trí tuệ. Phẩm chất về trí tuệ bao gồm: Khả năng nhận định và đánh giá tình trạng người bệnh, kỹ năng thành thạo, khả năng nghiên cứu và cải tiến, khôn khéo trong công tác. Ngành Điều dưỡng đã phát triển, trở thành một ngành riêng. Người làm công tác Điều dưỡng được đào tạo có hệ thống, trình độ đào tạo đã được nâng cao. Những kiến thức về nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh và các phương pháp điều trị, dự phòng bệnh cho phép người Điều dưỡng thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, điều trị người bệnh, theo dõi người bệnh có ý thức, có cơ sở khoa học, giảm bớt được những sai sót trong khám chữa bệnh. Điều dưỡng là khoa học chăm sóc người bệnh. Những đề tài nghiên cứu khoa học, những sáng kiến cải tiến Điều dưỡng sẽ giúp cho khoa học Điều dưỡng, thực hành Điều dưỡng phát triển lên trình độ cao hơn. Người dân, người bệnh được hưởng chăm sóc y tế tốt hơn. Người Điều dưỡng phải thực hiện thành thạo các kỹ năng tiếp xúc, giao tiếp với người bệnh. Thực hiện thành thạo các kỹ thuật chăm sóc, khôn khéo trong công việc, trong quan hệ với đồng nghiệp, với môi trường xung quanh, như người nghệ sĩ trong nghệ thuật chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. 5. Nghĩa vụ nghề nghiệp của người Điều dưỡng: 5.1. Với người bệnh Nghĩa vụ nghề nghiệp của người Điều dưỡng với người bệnh dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau: 5.1.1. Không được từ chối giúp đỡ người bệnh Người Điều dưỡng phải sẵn sàng quên mình để giúp đỡ người bệnh trong bất cứ hoàn cảnh, thời gian nào, luôn nhớ rằng người bệnh là người đang gặp tai họa, đe doạ đến tính mạng, đang cần sự quan tâm giúp đỡ đặc biệt của người cán bộ y tế. Từ chối 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
31=>1