intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Lý thuyết kiểm toán: Phần 1 - Trường ĐH Kinh tế Nghệ An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

11
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình "Lý thuyết kiểm toán" Phần 1 cung cấp cho người học những kiến thức như lý thuyết chung về kiểm toán; các khái niệm cơ bản sử dụng trong kiểm toán; phương pháp kiểm toán; trình tự các bước kiểm toán. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Lý thuyết kiểm toán: Phần 1 - Trường ĐH Kinh tế Nghệ An

  1. LỜI MỞ ĐẦU Lý thuyết kiểm toán là học phần cơ bản thuộc khối kiến thức ngành kế toán. Học phần này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về kiểm toán với các nội dung: bản chất, chức năng của các loại kiểm toán, các khái niệm sử dụng trong kiểm toán, quy trình thực hiện cuộc kiểm toán, các phương pháp kỹ thuật được sử dụng trong quá trình kiểm toán, báo cáo kiểm toán. Đây là những kiến thức cơ bản mà bất kỳ một sinh viên ngành kinh tế nào cũng phải được trang bị để thực hiện nghề nghiệp trước sự phát triển của ngành kế toán và kiểm toán như hiện nay. Trước sự phát triển của kiểm toán nói chung và kiểm toán báo cáo tài chính nói riêng, cùng với sự hoàn thiện của Luật kiểm toán, chuẩn mực kiểm toán cho phù hợp với kiểm toán quốc tế, cũng như nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo trong Nhà trường. Với nhận thức đó, "Giáo trình Lý thuyết kiểm toán" được biên soạn nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu về tài liệu giảng dạy và học tập của sinh viên hệ Đại học, Cao đẳng khối kinh tế của Trường Đại học Kinh tế Nghệ An. Tổ bộ môn Nguyên lý kế toán và kiểm toán sẽ lựa chọn nội dung giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng sinh viên. Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn tập thể tác giả đã không ngừng cập nhật sự thay đổi mới nhất về quy định pháp lý kế toán, kiểm toán và chọn lọc những nội dung khoa học phù hợp nhất để hoàn thành giáo trình. Tuy nhiên, "Giáo trình Lý thuyết kiểm toán" được biên soạn trong điều kiện hành lang pháp lý kế toán và kiểm toán đang trong quá trình hoàn thiện. Vì vậy, nội dung và hình thức của giáo trình khó tránh khỏi những hạn chế. Tập thể tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của đồng nghiệp và bạn đọc để giáo trình được hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau. Nghệ An, tháng 5 năm 2018 TÁC GIẢ 1
  2. CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT CHUNG VỀ KIỂM TOÁN 1.1. BẢN CHẤT CỦA KIỂM TOÁN Kiểm toán có từ gốc Latinh là “Audit”, gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra về tài sản, phần lớn được thể hiện bằng cách người ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập “nghe” rồi chấp nhận thông qua việc chứng thực. Từ Audting có nghĩa là “nghe”. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế, bản chất của kiểm toán cũng có sự thay đổi, kiểm toán được hiểu là sự kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến của các chuyên gia, những người có chuyên môn về các hoạt động kinh tế, kế toán. Hiện nay trên thế giới vẫn còn tồn tại nhiều khái niệm về kiểm toán. Vương quốc Anh đưa ra khái niệm “ Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất kỳ nghĩa vụ pháp định có liên quan”. Khái niệm kiểm toán tại Hoa Kỳ được phát biểu rằng “ Kiểm toán là một quá trình mà qua đó một người độc lập, có giao dịch tập hợp và đánh giá rõ ràng về thông tin có thể lượng hóa có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hóa với những tiêu chuẩn đã được thiết lập”… Khái niệm kiểm toán chung nhất ở Việt Nam được phát biểu như sau: “ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền, có kỹ năng giao dịch, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được xây dựng”. Các thuật ngữ trong khái niệm trên được hiểu như sau: - Các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền: Các chuyên gia ở đây chỉ các kiểm toán viên, là chủ thể của quá trình kiểm toán đạt các tiêu chuẩn quy định. Kiểm toán viên độc lập về quan hệ kinh tế và quan hệ tình cảm với lãnh đạo của đơn vị được kiểm toán. Tính độc lập giúp cho kiểm toán viên trong quá trình thực hiện công việc không bị chi phối bởi yếu tố nào làm sai lệch đến kết quả cuộc kiểm toán. Độc lập là điều kiện cần thì thẩm quyền, kỹ năng giao dịch là điều kiện đủ của một kiểm toán viên. Bản thân kiểm toán viên có kiến thức và kỹ năng tương xứng với nghề nghiệp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. - Thu thập và đánh giá các bằng chứng: Bằng chứng kiểm toán là các thông tin, các tài liệu được kiểm toán viên thu thập, đánh giá, xử lý và sử dụng cho việc kiểm toán. 2
  3. Những bằng chứng này có liên quan đến đối tượng cần kiểm toán, phù hợp với nhu cầu thông tin của kiểm toán viên. Các bằng chứng kiểm toán viên thu thập sẽ được phân tích bởi các phương pháp kiểm toán để từ đó kiểm toán viên có thể hình thành và đưa ra ý kiến nhận xét của mình. - Các thông tin có thể định lượng được: Các thông tin có thể định lượng được là thông tin có thể xác định được quy mô cụ thể. Đó là những thông tin đã được lượng hóa hoặc những thông tin có thể so sánh, đối chiếu hay kiểm tra lại được. Những thông tin này có thể là những thông tin tài chính như báo cáo tài chính, số liệu kế toán… hoặc các thông tin phi tài chính như các bản dự toán, mô hình tổ chức bộ máy, tổ chức nhân sự… - Các chuẩn mực đã được xây dựng: Là căn cứ để đánh giá các thông tin kiểm toán. Các chuẩn mực rất đa dạng và phong phú được sử dụng tùy thuộc vào mục đích của từng cuộc kiểm toán. Các chuẩn mực này phải được quy định bằng văn bản, có tính pháp quy về từng lĩnh vực cụ thể. - Đơn vị: Là nơi diễn ra cuộc kiểm toán. Có thể là một tổ chức pháp nhân: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân…; hoặc không có tư cách pháp nhân: một phân xưởng, cửa hàng, tổ đội sản xuất, một cá nhân… - Xác nhận và báo cáo: Là bản xác nhận cuối cùng của kiểm toán viên về cuộc kiểm toán. Thể hiện ý kiến nhận xét, kết luận của kiểm toán viên và cung cấp thông tin cho những đối tượng quan tâm về mức độ phù hợp giữa các thông tin đã kiểm toán của đơn vị với các chuẩn mực đã được xây dựng. Báo cáo kiểm toán phần lớn được thể hiện dưới dạng văn bản; tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt có thể báo cáo bằng lời nói. 1.2. ĐỐI TƯỢNG KIỂM TOÁN Với sự phát triển của nền kinh tế xã hội như ngày nay, kiểm toán không chỉ kiểm tra, đánh giá về tính trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính mà kiểm toán ngày càng quan tâm một cách đầy đủ, toàn diện mọi khía cạnh hoạt động của đơn vị. Kiểm toán không chỉ quan tâm đến lĩnh vực tài chính, kiểm toán còn quan tâm đến các lĩnh vực phi tài chính và hiệu quả hoạt động của đơn vị. Hơn nữa, khách thể của kiểm toán ngày nay không chỉ là các công ty có báo cáo tài chính, mà có thể chỉ là một xí nghiệp, một bộ phận sản xuất kinh doanh, cũng có thể là một cá nhân. Khách thể của kiểm toán Nhà nước là các đơn vị, cá nhân có sử dụng ngân sách Nhà nước; khách thể của kiểm toán độc lập là các công ty, xí nghiệp tư nhân, cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; khách thể của kiểm toán nội bộ là là các bộ phận cấu thành trong đơn vị, từng khâu hoạt động hoặc từng cá nhân trong đơn vị… 3
  4. Từ những sự phát triển và mở rộng đó, đối tượng của kiểm toán ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Đối tượng kiểm toán được chia thành đối tượng kiểm toán chung và đối tượng kiểm toán cụ thể. 1.2.1. Đối tượng kiểm toán chung Mối quan hệ kinh tế của đơn vị càng nhiều, càng phức tạp thì khả năng chứa đựng những sai sót và rủi ro càng lớn, do đó khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên sẽ kiểm tra, đánh giá những hoạt động tài chính của khách thể có được thực hiện dựa trên những nguyên tắc cơ bản hay không. Những nguyên tắc cơ bản cần quan tâm gồm: - Hoạt động tài chính phải có kế hoạch: Đơn vị phải lập kế hoạch tài chính cho từng bộ phận, từng giai đoạn cụ thể dựa trên những thông tin đã có và các dự báo tương lai, cũng như theo quy mô, đặc điểm hoạt động kinh doanh của đơn vị. Kế hoạch được lựa chọn từ quyết định được coi là tối ưu nhất của nhà quản trị. - Hoạt động tài chính phải đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả: Các hoạt động tài chính trong quá trình triển khai ngoài việc phải dựa trên kế hoạch được lập, đơn vị còn phải cố gắng tiết kiệm chi phí, đem lại hiệu quả kinh tế và đảm bảo thực hiện mục tiêu đã đề ra. - Hoạt động tài chính phải tuân thủ pháp luật, chính sách chế độ của Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền, quy chế nội bộ của đơn vị. Thực hiện nguyên tắc này các hoạt động tài chính sẽ đảm bảo tính hợp lý và hợp pháp. Trong quá trình xem xét kiểm tra, đánh giá kiểm toán hiện đại quan tâm nhiều hơn đến độ tin cậy của tài liệu kế toán. Tức là ngoài sự hợp lý, hợp pháp thì các giao dịch kinh tế có thực sự phát sinh không, các chứng từ kế toán có thực tế được lập để chứng minh các giao dịch kinh tế đó không. Xét cho cùng thì mục đích cuối cùng của các Doanh nghiệp là lợi nhuận vì vậy để trợ giúp nhau trong quá trình hoạt động các nhà quản lý đơn vị có thể thông đồng với nhau tạo nên các giao dịch khống. Và mục tiêu cuối cùng của kiểm toán là xem xét tài sản, nguồn hình thành tài sản có thực sự thuộc quyền sở hữu của đơn vị không; các giao dịch kinh tế phát sinh có thực xẩy ra không? Vì vậy, đối tượng kiểm toán chung của kiểm toán là thực trạng hoạt động tài chính của đơn vị. 1.2.2. Đối tượng kiểm toán cụ thể Tài sản của đơn vị vận động không ngừng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các giao dịch kinh tế. Đơn vị muốn ổn định và phát triển thì giao dịch kinh tế phải thực sự có hiệu quả, đồng nghĩa với việc phương án sản xuất kinh doanh của nhà quản lý phải đạt được tính kinh tế và tính hiệu quả. Với vai trò và chức năng phát hiện gian lận, sai sót trọng yếu và tư vấn cho nhà quản trị trong việc tìm kiếm phương án 4
  5. sản xuất kinh doanh, đối tượng cụ thể của kiểm toán gồm: thực trạng về tài sản, giao dịch kinh tế và chứng từ kế toán; tính kinh tế, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2.2.1. Thực trạng về tài sản, giao dịch kinh tế và chứng từ kế toán Quy trình thực hiện công việc của kế toán trong đơn vị bắt đầu từ khâu thu thập, lập chứng từ để chứng minh giao dịch kinh tế phát sinh và thực sự hoàn thành. Tiếp đó, kế toán sử dụng các phương pháp kế toán để trình bày và tổng hợp thông tin lên báo cáo tài chính. Trước đây, nền kinh tế chưa phát triển, các giao dịch kinh tế còn đơn giản nên thực trạng về tài sản được phản ánh chính xác và hợp lý. Tuy nhiên, với sự phát triển của kinh tế, sự đa dạng về hình thức sở hữu, sự phong phú trong các mối quan hệ làm cho các thông tin tài chính càng chứa đựng nhiều rủi ro vì vậy cần phải xác nhận thông tin đã được trình bày để bảo vệ lợi ích cho những người cung cấp và sử dụng thông tin. Kiểm toán với mục đích xác nhận và báo cáo mức độ phù hợp của các thông tin tài chính với các chuẩn mực được ban hành, do đó muốn đưa ra kết luận tính hợp lý, đúng đắn của tài sản thì phải kiểm tra được các giao dịch kinh tế chắc chắn đã xẩy ra. Các thông tin kiểm toán thu thập, đánh giá là các thông tin định lượng được. Các thông tin này được thể hiện trên các chứng từ kế toán và từ đó kế toán phân tích, tổng hợp số liệu trình bày trên báo cáo tài chính. Do đó, chứng từ kế toán cũng là đối tượng của kiểm toán. Một chứng từ kế toán phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu: - Thể hiện các thông tin lượng hóa được, nội dung trên chứng từ phù hợp với đặc điểm và quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh; - Thực hiện trên biểu mẫu đã được hướng dẫn, thể hiện đầy đủ các thông tin, đúng trình tự lập và luân chuyển chứng từ; - Tính hợp lý của các đối tượng kế toán phù hợp với nội dung giao dịch kinh tế phát sinh; - Chữ ký, con dấu và các yếu tố khác đúng yêu cầu tính hợp pháp; - Chứng từ phải được lập đúng hướng dẫn của chuẩn mực, chế độ hiện hành. Các giao dịch kinh tế phát sinh trước đây chủ yếu chỉ được kiểm tra trên các chứng từ do kế toán đơn vị cung cấp hoặc các chứng từ mà kiểm toán viên thu thập được. Ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ đã giúp nhiều hơn cho kiểm toán trong việc xác định các giao dịch kinh tế. Hơn nữa hình thức kiểm tra cũng phong phú hơn, ngoài việc kiểm tra trên chứng từ, kiểm toán viên còn có thể tìm kiếm thông tin từ đối tượng thứ ba, từ việc phỏng kvấn các nhân viên thực hiện, dùng các phương pháp kiểm toán hiện đại để tính toán, đối chiếu với số liệu do đơn vị cung cấp… 5
  6. Và cho dù kiểm toán có phát triển với nhiều chức năng hơn nữa thì thực trạng về tài sản, giao dịch kinh tế và chứng từ kế toán vẫn là đối tượng của kiểm toán, chúng gắn liền với sự hình thành và phát triển của kiểm toán. 1.2.2.2. Tính kinh tế, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh Trong nền kinh tế hiện đại muốn tồn tại và phát triển, tìm kiếm được chỗ đứng trên thị trường nhà quản trị phải đảm bảo các quyết định kinh doanh đưa ra là tối ưu hóa. Nguồn lực ngày càng bị giới hạn thì những hoạt động của đơn vị phải thực hiện ngày càng tiết kiệm, tránh sự lãng phí, bên cạnh đó cạnh tranh gay gắt lại đòi hỏi các hoạt động của đơn vị phải đem lại hiệu quả. Đứng trước những vấn đề đó, người lãnh đạo không thể một mình xác định được hết các phương án kinh doanh cũng như các rủi ro có thể bị mắc phải, họ cần thêm thông tin và những sự hiểu biết khác để lựa chọn một phương án tốt nhất. Để giúp nhà quản lý đơn vị trong việc tìm kiếm phương án hoạt động, kiểm toán hiện đại không còn bó buộc trong vai trò truyền thống của nó mà đã phát triển để đáp ứng nhu cầu trong điều kiện mới. Và đối tượng mới của kiểm toán hiện đại đó là tính kinh tế, hiệu quả của hoạt động. Với xu thế phát triển của thế giới hiện đại và nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa thì tính kinh tế và hiệu quả là đối tượng chủ yếu của kiểm toán. Tuy nhiên, đối tượng trực tiếp của kiểm toán phụ thuộc vào từng loại kiểm toán, từng cuộc kiểm, nên trong giới hạn của môn Lý thuyết kiểm toán chỉ đề cập đến đối tượng kiểm toán mang tính khái quát nhất. 1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI KIỂM TOÁN Từ khi kế toán ra đời, con người đã biết sử dụng kế toán là một công cụ trong quản lý kinh tế. Xã hội càng phát triển thì thông tin kế toán ngày càng phong phú, đa dạng; đối tượng tiếp nhận nhu cầu thông tin kế toán được mở rộng, nó không chỉ bó hẹp ở phạm vi nhà quản lý doanh nghiệp, Nhà nước mà còn là các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng, khách hàng, nhà cung cấp… Tuy nhiên, kinh tế phát triển thì sự rủi ro và sai lệch thông tin kinh tế do kế toán cung cấp càng tăng. Các nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch này có thể do: - Số lượng thông tin quá nhiều dẫn đến việc xử lý chúng không triệt để, làm cho đối tượng tiếp nhận thông tin hiểu sai lệch về bản chất của giao dịch kinh tế; - Kinh tế phát triển thì các giao dịch kinh tế phát sinh càng phức tạp, nguy cơ chứa đựng những thông tin sai lệch là khó tránh khỏi; - Kinh tế xã hội phát triển còn kéo theo các hiện tượng tiêu cực được che dấu càng tinh vi và có lợi cho người cung cấp thông tin. 6
  7. Chính vì vậy, những người sử dụng thông tin cảm thấy không tin tưởng vào những thông tin do đơn vị cung cấp, họ cần phải được đảm bảo rằng những thông tin đó là có thể tin cậy được. Và để kiểm tra chất lượng thông tin, người sử dụng thông tin có ba cách để kiểm chứng: - Cách thứ nhất: Người sử dụng thông tin trực tiếp kiểm tra lại các thông tin để đảm bảo độ tin cậy của các thông tin được sử dụng. - Cách thứ hai: Người sử dụng thông tin chia sẻ trách nhiệm với người cung cấp thông tin bằng các điều khoản của pháp luật. - Cách thứ ba: Sử dụng các thông tin đã được kiểm toán xác nhận một cách độc lập. Với cách thứ nhất, người sử dụng thông tin phải tự bỏ ra chi phí để tiến hành kiểm chứng các thông tin cần thiết. Tuy nhiên việc người sử dụng thông tin tiếp cận được với quy trình thực hiện kế toán của đơn vị là không hề dễ dàng và trên thực tế là không thể xẩy ra. Người sử dụng thông tin chỉ có thể xác minh thông tin qua báo cáo tài chính của đơn vị mà không thể xác định được tài sản thực sự của đơn vị tại thời điểm kiểm kê và người sử dụng thông tin cũng không thể chứng minh được giao dịch kinh tế có thật sự xẩy ra không khi toàn bộ chứng từ đã được hợp lý hóa. Người sử dụng thông tin không thể có đủ thời gian, năng lực và thẩm quyền để kiểm tra được các thông tin kế toán của đơn vị. Vì vậy, sử dụng cách này không tiết kiệm, không kinh tế và đi ngược lại với sự phát triển chuyên môn hóa. Nếu sử dụng cách thứ hai, người sử dụng thông tin khó đảm bảo bù đắp các thiệt hại xẩy ra khi gặp phải rủi ro trong thông tin. Vì sự ràng buộc dựa trên các điều khoản của pháp luật sẽ là vô nghĩa khi bên cung cấp thông tin bị giải thể, phá sản; hoặc nếu có sự đảm bảo thì rủi ro cũng đã xẩy ra, người sử dụng thông tin cũng đã bị thiệt hại. Sử dụng các thông tin đã được kiểm toán xác nhận theo cách thứ ba không chỉ đỡ tốn kém chi phí cho người sử dụng thông tin mà còn tiết kiệm chi phí xã hội, vì chỉ cần một kiểm toán viên kiểm tra, xác nhận thông tin cho nhiều người sử dụng. Với vai trò thông tin kiểm toán tạo niềm tin cho người quan tâm đến đợn vị thì việc sử dụng thông tin do kiểm toán cung cấp là hoàn toàn hợp lý với sự phát triển hiện nay. Thông tin đã được kiểm chứng bởi kiểm toán viên cung cấp là thông tin đáng tin cậy. Vì bản thân người kiểm tra thông tin là kiểm toán viên, là người có năng lực nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn, có sự hiểu biết cao, có đạo đức nghề nghiệp và đã được cơ quan có thẩm quyền công nhận, kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm pháp lý và vật chất những thông tin mà họ đã đưa ra. Mặt khác, kiểm toán viên kiểm chứng thông tin trên cơ sở các chuẩn mực đã được thiết lập, cùng với kỹ năng nghề nghiệp để đưa ra nhận xét về mức độ phù hợp của các thông tin tài chính, kế toán của đơn vị. Kiểm toán viên góp phần 7
  8. hướng dẫn giao dịch cho kế toán và giúp kế toán sửa chữa các lỗi xẩy ra. Chính sự trợ giúp này của kiểm toán làm cho bộ máy kế toán của đơn vị vận hành ổn định, nâng cao hiệu quả hoạt động và giảm thiểu được chi phí cho đơn vị. Về phía doanh nghiệp kiểm toán, kiểm toán còn góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý. Ngoài chức năng chính là xác nhận thông tin tài chính kinh tế, kiểm toán viên còn có thể tư vấn hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp, các nhà quản lý dựa vào đó để đưa ra các chính sách hợp lý và tìm kiếm được nhiều cơ hội thành công hơn. Với những lý do trên, kiểm toán có vị trí ngày càng quan trọng và là nhu cầu không thể thiếu với xã hội nói chung và các đơn vị nói riêng. 1.4. CHỨC NĂNG CỦA KIỂM TOÁN Với sự cần thiết hiện nay, kiểm toán có hai chức năng chính đó là: chức năng xác minh và chức năng bày tỏ ý kiến. - Chức năng xác minh: Còn có thể gọi là chức năng kiểm tra và xác nhận. Chức năng này gắn liền với sự ra đời và phát triển của kiểm toán. Khi kết thúc cuộc kiểm toán, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến về mức độ phù hợp về thông tin kế toán tài chính của đơn vị với chuẩn mực đã được xây dựng. Hay chính là việc kiểm toán viên phải xác định được tính trung thực, hợp lý hợp pháp của chứng từ, sổ sách, báo cáo kế toán của đơn vị. Dựa vào kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp kiểm toán viên phải chứng minh được các giao dịch kinh tế phát sinh được kế toán đơn vị phân tích, tổng hợp trên báo cáo là có thật. Ngay từ khi mới hình thành, chức năng xác minh được thể hiện dưới dạng chứng thực bản kê khai tài chính, ngày nay, khi kiểm toán phát triển chức năng này được trình bày dưới dạng báo cáo kiểm toán. - Chức năng bày tỏ ý kiến: hay còn được gọi là chức năng tư vấn. Khi kiểm toán phát triển, chỉ có chức năng xác minh không thể đáp ứng được hết yêu cầu của nhà quản trị đơn vị. Với sự phức tạp trong kinh doanh, nhà quản trị mong muốn có được sự tư vấn của những người có hiểu biết để đưa ra quyết định phù hợp nhất. Chính từ nhu cầu đó đã xuất hiện chức năng thứ hai của kiểm toán. Và theo xu hướng phát triển hiện nay, kiểm toán không chỉ là sự xác minh, chứng thực thông tin quá khứ của đơn vị mà một phần không thể thiếu đó là sự bày tỏ ý kiến về thông tin tương lai cho đơn vị. Do đó, kiểm toán viên ngày nay cần phải có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực vì các nhà quản trị đơn vị không chỉ yêu cầu tư vấn thông tin tài chính thông thường mà họ cần những thông tin chuyên sâu để có thể đưa ra quyết định tối ưu nhất. Hơn nữa, với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc ứng dụng phần mềm trong công tác kế toán cũng góp phần làm hạn chế sai sót thông tin kế toán, nên kiểm toán 8
  9. với chức năng tư vấn ngày càng phát triển. Các nhà quản trị đơn vị ngày nay cũng đã thay đổi cách nhìn nhận về việc chi tiêu chi phí. Họ sẵn sàng bỏ ra một khoản chi phí để có được những thông tin đảm bảo cho các quyết định kinh doanh trong tương lai sẽ đạt hiệu quả như mong muốn. Để đáp ứng nhu cầu thông tin tương lai đó, không chỉ các đơn vị kiểm toán mới có chức năng tư vấn mà có nhiều tổ chức khác nhau cũng thực hiện chức năng này như: các tổ chức tư vấn thuế, tư vấn pháp luật kinh doanh, tư vấn về ngành nghề kinh doanh… Chính sự phát triển của chức năng tư vấn đã đem lại lợi ích cho nhiều bên: cho bên tư vấn, bên nhận tư vấn và cho cả Nhà nước. Vì vậy, ngày càng có nhiều mô hình tổ chức để kiểm toán phát huy chức năng này. 1.5. PHÂN LOẠI KIỂM TOÁN 1.5.1. Phân loại kiểm toán theo chức năng Kiểm toán được phân loại theo chức năng gồm 3 loại: Kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính. 1.5.1.1. Kiểm toán hoạt động Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực, tính hiệu quả của các hoạt động, các giải pháp kỹ thuật, các phương án sản xuất, các quy chế quản lý đã và đang được áp dụng tại đơn vị. - Tính kinh tế: Sử dụng nguồn lực tiết kiệm được giao để đạt mục tiêu đề ra. Đây được coi là nguyên tắc tối thiểu nhất trong các hoạt động. - Tính hiệu lực: Khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã xác định. - Tính hiệu quả: Với nguồn lực bị giới hạn kết quả đạt được là cao nhất. Thể hiện khả năng lựa chọn và thực hiện phương án hoạt động của đơn vị. Đây được coi là nguyên tắc tối đa. Kiểm toán hoạt động có thể được thực hiện để đánh giá, xem xét toàn bộ hoạt động của đơn vị, cũng có thể chỉ để xem xét, đánh giá một hoạt động cụ thể nào đó. Kiểm toán hoạt động có thể thực hiện trong lĩnh vực kế toán tài chính, cũng có thể trên các lĩnh vực khác ngoài phạm vi kế toán tài chính, như: một phương án kinh doanh, một thiết bị mới đưa vào sử dụng, hay tìm kiếm một nguồn lực mới… Vì vậy kiểm toán viên phải có kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: tài chính, kế toán, khoa học, công nghệ…, phải không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết và trong nhiều trường hợp phải sử dụng ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực cụ thể. Hơn nữa, không có một tiêu chuẩn cụ thể nào để đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả, mà sự đánh giá này chủ yếu 9
  10. mang tính chất chủ quan và phụ thuộc vào từng bối cảnh kinh tế, từng đơn vị. Vì vậy việc đánh giá kết quả kiểm toán hoạt động cũng mang nhiều tính chất chủ quan. Kết quả của kiểm toán hoạt động là một báo cáo đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả của hoạt động đã được kiểm toán. Cũng từ đó, kiểm toán hoạt động sẽ đưa ra những đề xuất, những ý kiến đóng góp để nhà quản trị có thể điều chỉnh, cải tiến để các hoạt động mới để đem lại hiệu quả cao nhất với việc sử dụng nguồn lực tiết kiệm nhất. 1.5.1.2. Kiểm toán tuân thủ Kiểm toán tuân thủ là kiểm toán nhằm xem xét mức độ tuân thủ các thủ tục, nguyên tắc, quy chế do cơ quan chức năng của Nhà nước, hoặc cơ quan có thẩm quyền cấp trên, hoặc cơ quan chuyên môn đề ra. Vì vậy, kiểm toán tuân thủ còn được gọi là kiểm toán tính quy tắc. Đối tượng của kiểm toán tuân thủ có thể là các chuẩn mực, quết định do cơ quan Nhà nước đề ra như việc thực hiện chế độ kế toán, quy định về tính thuế, quy định các thủ tục hành chính… Hoặc những quy định do cơ quan chuyên môn đề ra như tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, quy trình thực hiện sản xuất… Hoặc những quy định do chính đơn vị đề ra như quy định về quá trình bán hàng, quá trình thu – chi tiền… Do đối tượng của kiểm toán tuân thủ là các chuẩn mực, chế độ vì vậy việc xác định tiêu chuẩn để đánh giá kiểm toán tuân thủ cũng dễ dàng và chính xác hơn kiểm toán hoạt động. Đối tượng tiếp nhận kết quả kiểm toán tuân thủ thường là người lãnh đạo đơn vị, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc cơ quan quản lý cấp trên. 1.5.1.3. Kiểm toán báo cáo tài chính Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra, xác nhận tính trung thực, tính hợp lý, tính hợp pháp trên các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính đơn vị được kiểm toán theo quy định của chuẩn mực kiểm toán. Đối tượng của kiểm toán báo cáo tài chính trực tiếp và thường xuyên là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính và một số mẫu biểu khác trong bộ báo cáo tài chính. Tuy nhiên, báo cáo tài chính không phải là đối tượng duy nhất của kiểm toán báo cáo tài chính, để xác minh và bày tỏ ý kiến về báo cáo tài chính của đơn vị kiểm toán viên còn có thể phải thu thập bằng chứng qua nhiều cách khác nhau khi cần thiết phải kiểm tra cụ thể về chứng từ, sổ sách kế toán của các giao dịch kinh tế phát sinh. Báo cáo tài chính thể hiện tình hình tài sản, nguồn vốn và kết quả hoạt động của đơn vị, do đó, đối tượng sử dụng thông tin từ báo cáo tài chính là phổ biến. Tùy thuộc vào 10
  11. đối tượng sử dụng mà yêu cầu mức độ thông tin là khác nhau, dẫn đến chủ thể kiểm toán cũng khác nhau. Chủ thể thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính có thể là kiểm toán Nhà nước, kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, công việc kiểm toán đều phải quán triệt yêu cầu tiết kiệm chi phí và có lợi, yêu cầu này được thực hiện tốt nhất nếu chỉ có một chủ thể kiểm toán duy nhất rút ra những kết luận về báo cáo tài chính của đơn vị làm chỗ dựa cho tất cả các đối tượng sử dụng. Do vậy, kiểm toán báo cáo tài chính thường do các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp thực hiện. Và để đảm bảo tính thống nhất và tính pháp lý của kết luận báo cáo kiểm toán thì tiêu chuẩn, chuẩn mực cho việc đánh giá thông tin của kiểm toán báo cáo tài chính thường là các chuẩn mực kế toán, luật kế toán, chế độ kế toán và những thông tư, quy định của cơ quan quản lý Nhà nước. Ngoài ra, kiểm toán viên còn dựa trên các chuẩn mực và luật kiểm toán để thực hiện công việc của mình. Trong nền kinh tế phát triển hiện nay kiểm toán báo cáo tài chính vẫn là loại kiểm toán phổ biến và thông tin do kiểm toán báo cáo tài chính cung cấp được sử dụng nhiều nhất. Chủ thể thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính chủ yếu là các kiểm toán viên thuộc các công ty kiểm toán độc lập, do đó khi đề cập đến kiểm toán báo cáo tài chính người ta thường nghĩ tới kiểm toán độc lập. 1.5.2. Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiểm toán Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiểm toán, kiểm toán được chia thành 3 loại: Kiểm toán nội bộ, kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập. 1.5.2.1. Kiểm toán nội bộ Kiểm toán nội bộ do kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành, thực hiện chức năng kiểm toán trong đơn vị, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý của đơn vị. Mục tiêu chủ yếu của kiểm toán nội bộ là tư vấn, cùng với nhà quản lý hạn chế rủi ro và tìm kiếm những phương pháp cải tiến trực tiếp trong điều kiện cụ thể của đơn vị. Vì vậy, kiểm toán nội bộ phát triển vào các khía cạnh quản lý trong đơn vị, đặc biệt là hiệu quả kinh doanh và hiệu năng quản lý. Kiểm toán nội bộ có thể tiến hành kiểm toán toàn bộ hoặc từng mặt hoạt động cụ thể của đơn vị, như: kiểm toán hệ thống kế toán, việc thực hiện các quy chế nội bộ hay một giao dịch kinh tế, một hoạt động kinh doanh… Với phạm vi kiểm toán rộng thì kiểm toán viên nội bộ phải có một lượng kiến thức lớn không chỉ trong lĩnh vực tài chính - kế toán mà còn cả trong công tác quản lý và các hiểu biết chung khác. Do đó, để trở thành một kiểm toán viên nội bộ đòi hỏi phải có sự nỗ lực trong học tập, nghiên cứu và trải qua những cuộc khảo sát gắt gao. 11
  12. Về mặt tổ chức, kiểm toán viên nội bộ trực thuộc cấp cao nhất trong đơn vị, không bị ràng buộc bởi các bộ phận, phòng, ban khác. Tuy nhiên, kiểm toán viên nội bộ cũng là một thành viên của đơn vị, do đơn vị trả lương nên tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ chỉ là tương đối và báo cáo kiểm toán nội bộ chủ yếu phục vụ cho nhà quản lý đơn vị nên tính pháp lý không cao. 1.5.2.2. Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước là hoạt động kiểm toán do cơ quan kiểm toán Nhà nước thực hiện. Kiểm toán Nhà nước thường tiến hành kiểm toán tuân thủ kết hợp với kiểm toán báo cáo tài chính. Theo điều 4 - Luật kiểm toán Nhà nước Việt Nam thông qua ngày 24/6/2015 thì: Đối tượng của kiểm toán Nhà nước là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động liên quan đến việc quản lý , sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán. Trong đó, đơn vị được kiểm toán là cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Thực hiện công việc kiểm toán là các kiểm toán viên Nhà nước – là công chức Nhà nước được Tổng Kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm vào các ngạch kiểm toán viên Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Kiểm toán Nhà nước mang tính chất bắt buộc. Hoạt động này nhằm đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, tính trung thực của các thông tin tài chính công, tài sản công hoặc báo cáo tài chính liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; việc chấp hành pháp luật và hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Hoạt động kiểm toán Nhà nước dựa trên nguyên tắc độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan và công khai, minh bạch. Để nhằm mục đích trên kiểm toán Nhà nước Việt Nam được chính thức thành lập ngày 11 tháng 7 năm 1994 theo Nghị định 70/CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trực thuộc Chính phủ. Sau khi luật kiểm toán Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, cơ quan kiểm toán Nhà nước chuyển sang trực thuộc Quốc hội. Kiểm toán viên Nhà nước căn cứ vào quy định của pháp luật; các chuẩn mực kế toán, kiểm toán Nhà nước; các Nghị định, thông tư… để hình thành báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán Nhà nước là căn cứ để Quốc hội xem xét, quyết định và giám sát việc thực hiện: mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội, dự án quan trọng quốc gia; chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ, thuế; phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương… Là căn cứ để Chính phủ, cơ quan quản lý Nhà nước và tổ chức, cơ quan khác của Nhà nước sử dụng trong công tác quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Là căn cứ để 12
  13. hội đồng nhân dân sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê duyệt ngân sách địa phương và giám sát việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công… Báo cáo kiểm toán Nhà nước còn là căn cứ để các đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại. 1.5.2.3. Kiểm toán độc lập Kiểm toán độc lập là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài chính và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán. Người thực hiện công việc kiểm toán thường là các kiểm toán viên thuộc các công ty kiểm toán độc lập. Kiểm toán viên là người được cấp chứng chỉ kiểm toán viên theo quy định của pháp luật hoặc người có chứng chỉ của nước ngoài được Bộ tài chính công nhận và đạt kỳ thi sát hạch về pháp luật Việt Nam. Công ty kiểm toán độc lập theo quy định có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; hoặc công ty hợp danh; hoặc doanh nghiệp tư nhân… Hoạt động kiểm toán độc lập nhằm góp phần công khai, minh bạch thông tin kinh tế, tài chính của đơn vị được kiểm toán; làm lành mạnh môi trường đầu tư, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng; phát hiện và ngăn chặn vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành kinh tế, tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Kiểm toán độc lập được tiến hành tự nguyện trên cơ sở thư mời và hợp đồng kiểm toán giữa công ty kiểm toán với đơn vị mời kiểm toán. Thực hiện quá trình kiểm toán, bên mời kiểm toán phải trả một khoản phí cho công ty kiểm toán, khoản phí này được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời gian và phạm vi thông tin do kiểm toán cung cấp. Kiểm toán độc lập hoạt động dựa trên các nguyên tắc: - Tuân thủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và báo cáo kiểm toán; - Tuân thủ chuẩn mực kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp; - Độc lập, trung thực, khách quan; - Bảo mật thông tin Với nguyên tắc trên, cùng với sự độc lập trong hoạt động và tiêu chuẩn trong đạo đức nghề nghiệp, chuẩn mực về chuyên môn, trình độ hiểu biết rộng, nên kết quả kiểm toán độc lập tạo được sự tin cậy đối với những người sử dụng thông tin, đặc biệt là bên thứ ba. Đó là nguyên nhân khiến cho nhiều doanh nghiệp ngày nay không ngần ngại khi bỏ ra một khoản phí để có được thông tin tin cậy cung cấp cho các đối tác của mình. 13
  14. Những nhà quản lý ngày càng hiểu rằng sự minh bạch trong thông tin, sự rõ ràng trong quan hệ kinh tế sẽ mở ra nhiều cơ hội hơn cho doanh nghiệp. Và nắm bắt được nhu cầu đó của doanh nghiệp, kiểm toán độc lập không chỉ thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính mà lĩnh vực hoạt động đã đa dạng hơn rất nhiều. Theo điều 40 - Luật kiểm toán độc lập ban hành năm 2011 (Luật số: 67/2011/QH12): 1. Doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam được thực hiện các dịch vụ sau đây: a) Các dịch vụ kiểm toán, gồm kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành, kiểm toán báo cáo tài chính vì mục đích thuế và công việc kiểm toán khác; b) Dịch vụ soát xét báo cáo tài chính, thông tin tài chính và dịch vụ bảo đảm khác. 2. Ngoài các dịch vụ quy định tại khoản 1 Điều này, doanh nghiệp kiểm toán được đăng ký thực hiện các dịch vụ sau đây: a) Tư vấn kinh tế, tài chính, thuế; b) Tư vấn quản lý, chuyển đổi và tái cơ cấu doanh nghiệp; c) Tư vấn ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị của doanh nghiệp, tổ chức; d) Dịch vụ kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán; đ) Thẩm định giá tài sản và đánh giá rủi ro kinh doanh; e) Dịch vụ bồi dưỡng kiến thức tài chính, kế toán, kiểm toán; g) Dịch vụ liên quan khác về tài chính, kế toán, thuế theo quy định của pháp luật. Sự đa dạng trong lĩnh vực kinh doanh là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển nhanh của kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Hoạt động kiểm toán độc lập đã tồn tại ở nước ta từ trước ngày giải phóng Miền Nam, ở dưới dạng các văn phòng hoạt động độc lập với các kế toán viên công chứng hoặc các giám định viên kế toán. Tuy nhiên, khi đất nước thống nhất, với cơ chế kế hoạch hóa tập trung nên kiểm toán độc lập không còn tồn tại, mà chỉ sau khi đổi mới cơ chế kinh tế, hoạt động kiểm toán độc lập mới trở lại. Doanh nghiệp kiểm toán độc lập đầu tiên tại Việt Nam được thành lập ngày 13/5/1991 là Công ty kiểm toán Việt Nam (VACO): VACO là công ty kiểm toán đầu tiên và lớn nhất ở Việt Nam cung cấp dịch vụ chuyên ngành cho nhiều khách hàng lớn thuộc mọi thành phần kinh tế như: Doanh nghiệp Liên doanh, Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước và các dự án quốc tế; và Công ty dịch vụ kế toán Việt Nam (ASC – ngày 14/9/1993 đổi tên thành Công ty dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán, tên giao dịch là AASC). Và tính đến ngày 24/3/2014, nước ta có gần 150 14
  15. doanh nghiệp kiểm toán đủ điều kiện kinh doanh hành nghề kiểm toán. Ngoài những doanh nghiệp kiểm toán trong nước, còn có chi nhánh công ty kiểm toán nước ngoài cũng đang hoạt động dịch vụ kiểm toán tại Việt Nam. Điển hình nhất là Ernst & Young Việt Nam, là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được cấp giấy phép thành lập tại Việt Nam năm 1992. Việt Nam là nước đang phát triển vì vậy nhu cầu về dịch vụ kiểm toán, tư vấn tài chính lớn, do đó có nhiều chi nhánh công ty kiểm toán nước ngoài có mặt tại Việt Nam như: Công ty KPMG (Klynvel Peat Marwick Geordeler), Công ty TNHH Deloitte Việt Nam (Tiền thân là VACO), PwC Việt Nam (PricewaterhouseCoopers Việt Nam)… 1.5.3. Một số cách phân loại khác Ngoài hai cách phân loại trên, tùy thuộc vào thực trạng của cuộc kiểm toán, kiểm toán còn có thể được phân loại theo các cách dưới đây: - Phân loại kiểm toán theo mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán: Kiểm toán được chia thành kiểm toán bên trong (nội kiểm) và kiểm toán bên ngoài (ngoại kiểm). - Phân loại kiểm toán theo quan hệ pháp lý đối với khách thể kiểm toán: Kiểm toán gồm: kiểm toán bắt buộc và kiểm toán tự nguyện. - Phân loại kiểm toán theo tính chu kỳ của kiểm toán: kiểm toán được chia thành: kiểm toán thường kỳ, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường. - Phân loại kiểm toán theo phương pháp áp dụng trong kiểm toán, kiểm toán gồm: kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ. - Phân loại theo phạm vi tiến hành kiểm toán, có thể chia kiểm toán thành: kiểm toán toàn diện và kiểm toán chọn điểm. 15
  16. CHƯƠNG 2 CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN SỬ DỤNG TRONG KIỂM TOÁN 2.1. CƠ SỞ DẪN LIỆU VÀ MỤC TIÊU KIỂM TOÁN 2.1.1. Cơ sở dẫn liệu 2.1.1.1. Khái niệm Theo đoạn 4a - Chuẩn mực kiểm toán số 315: Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường của đơn vị (Ban hành kèm theo Thông tư số 214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính): Cơ sở dẫn liệu: Là các khẳng định của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán một cách trực tiếp hoặc dưới hình thức khác về các khoản mục và thông tin trình bày trong báo cáo tài chính và được kiểm toán viên sử dụng để xem xét các loại sai sót có thể xảy ra. Số liệu được trình bày trên báo cáo tài chính của đơn vị thể hiện về tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí và toàn bộ các giao dịch kinh tế - tài chính của đơn vị trong một năm tài chính. Để có được số liệu này, kế toán đơn vị phải dựa vào luật, chuẩn mực, chế độ và các phương pháp kế toán: phương pháp chứng từ, phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính giá và phương pháp tổng hợp cân đối để phân tích, tổng hợp từ các sổ tổng hợp và sổ chi tiết. Lựa chọn thực hiện các phương pháp kế toán và tài khoản kế toán sử dụng đã được sự phê duyệt của những người có thẩm quyền trong đơn vị. Căn cứ vào các chứng từ kế toán đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý kế toán đơn vị tiến hành vào các sổ kế toán tương ứng. Tất cả các chứng từ kế toán đều được kiểm tra thông tin và xác nhận của lãnh đạo đơn vị. Hay nói cách khác, khi quyết định thực hiện một hoạt động kinh doanh nhà quản trị đơn vị ngầm đảm bảo rằng các giao dịch kinh tế phát sinh được tổng hợp và trình bày trong báo cáo tài chính là hoàn toàn hợp lý và thực sự có thật. Trong tất cả các khâu, từ khi hình thành giao dịch cho đến khi lập chứng từ, lên sổ sách kế toán và báo cáo tài chính các sự kiện này đều đã được xử lý và ký duyệt. Vì vậy, nhà quản lý đơn vị, các bộ phận có thể giải trình bất cứ chỉ tiêu nào trên báo cáo tài chính. Và tất cả các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính của đơn vị đều là một cơ sở dẫn liệu. 2.1.1.2. Các khía cạnh của cơ sở dẫn liệu Mỗi chỉ tiêu trên báo cáo tài chính là một cơ sở dẫn liệu phải đảm bảo được trình bày trên các khía cạnh sau: a. Sự hiện hữu: Một tài sản hay một khoản nợ phản ánh trên báo cáo tài chính thực tế phải tồn tại (có thực) vào thời điểm lập báo cáo. Đơn vị phải có đầy đủ chứng từ để chứng minh sự tồn tại của các loại tài sản thuộc quyền sở hữu của đơn vị, những tài 16
  17. sản đơn vị cầm, giữ hộ cũng phải có các bằng chứng để chứng minh và có cách lưu giữ, bảo quản để xác định đúng giá trị tài sản của đơn vị khi kiểm kê. Đối với tài sản là hàng tồn kho như: nguyên liệu vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hóa, thành phẩm thì ngoài việc đảm bảo về mặt số lượng, còn phải đảm bảo về mặt chất lượng, hay những hàng tồn kho này đang còn sử dụng được. b. Quyền và nghĩa vụ: Một tài sản hay một khoản nợ phản ánh trên báo cáo tài chính đơn vị phải có quyền sở hữu hoặc có trách nhiệm hoàn trả tại thời điểm lập báo cáo. Đơn vị có quyền sử dụng và quyết định: bán, cho thuê… một tài sản hay một khoản nợ phải thu đã được trình bày trên báo cáo tài chính. Tuy nhiên, đơn vị phải có trách nhiệm theo dõi, quản lý tài sản và có nghĩa vụ phải hoàn trả các khoản nợ phải trả như đã ghi nhận. Theo quy định, đơn vị phải thực hiện tổng kiểm kê ít nhất một năm một lần vào cuối năm tài chính để phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính. Kiểm toán có thể chứng kiến quá trình kiểm kê của đơn vị vào thời điểm này để đánh giá về thủ tục, quy trình và kết quả kiểm kê. Nếu kiểm toán viên có sự nghi ngờ về quá trình thực hiện kiểm kê tại đơn vị thì kiểm toán viên có thể thực hiện kiểm kê xác suất một số mặt hàng thuộc quyền sở hữu của đơn vị. Tuy nhiên trên thực tế cuộc kiểm toán thường diễn ra sau khi đơn vị đã lập báo cáo tài chính, lúc đó cuộc kiểm kê của đơn vị đã kết thúc vì vậy phần lớn kiểm toán viên không thể tham gia vào công tác kiểm kê của đơn vị. Trong trường hợp này, nếu thấy cần thiết thì kiểm toán viên cần phải tổ chức kiểm kê lại để đánh giá quyền và nghĩa vụ của đơn vị đối với giá trị hàng tồn kho trên báo cáo tài chính. Kiểm toán viên cần phải xác định số lượng tồn kho tại thời điểm thực tế và kiểm tra tính chính xác của các giao dịch xuất, nhập kho trong thời gian kể từ ngày đơn vị chốt số liệu đến thời điểm kiểm toán viên thực hiện kiểm kê có thực sự phát sinh không. Từ đó kiểm toán viên xác định ngược lại số liệu đã được đơn vị trình bày và công bố. Để chứng minh được quyền sở hữu của đơn vị về hàng gửi bán, hàng đang đi đường, kiểm toán viên có thể xác nhận thông tin từ bên thứ 3 trong trường hợp nghi ngờ về sự gian lận, sai sót trong việc xác định giá trị hàng tồn kho. c. Phát sinh: Một giao dịch hay một sự kiện đã ghi chép và được phản ánh trên báo cáo tài chính thì phải đã xẩy ra và có liên quan đến đơn vị trong thời kỳ xem xét. Kế toán chỉ được phép ghi nhận những giao dịch kinh tế phát sinh và thực sự hoàn thành vào sổ sách kế toán khi đã có đầy đủ chứng từ chứng minh cho giao dịch đó. d. Đầy đủ: Toàn bộ tài sản, các khoản nợ, giao dịch hay giao dịch đã xẩy ra có liên quan đến kỳ báo cáo phải được ghi chép hết các sự kiện liên quan trong hệ thống sổ sách của đơn vị và được trình bày trên báo cáo tài chính của kỳ đó. 17
  18. e. Đánh giá: Một tài sản hay một khoản nợ được ghi chép theo giá trị thích hợp trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được thừa nhận). Tài sản phải được ghi nhận theo đúng phương pháp kế toán đăng ký như: phương pháp hạch toán hàng tồn kho, phương pháp tính giá hàng tồn kho, phương pháp tính khấu hao… Các khoản nợ phải thu, phải trả được ghi nhận sau khi đã bù trừ giữa các khoản thu (trả) trước nếu có và các khoản phát sinh trong kỳ. f. Chính xác: Một giao dịch hay một sự kiện được ghi chép theo đúng giá trị của nó, doanh thu hay chi phí được ghi nhận đúng kỳ, đúng khoản mục và đúng về toán học. g. Trình bày và công bố: Các khoản mục được phân loại, diễn đạt và công bố phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận). Quá trình kiểm toán gồm 3 giai đoạn: lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán, cơ sở dẫn liệu có tác dụng quan trọng đối với cả 3 giai đoạn này. - Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: Với việc hiểu biết rõ về cơ sở dẫn liệu sẽ giúp kiểm toán viên đánh giá được khả năng rủi ro và các sai phạm có thể xẩy ra trong báo cáo tài chính của đơn vị. Cơ sở dẫn liệu còn là căn cứ giúp kiểm toán viên xác định các thủ tục kiểm soát cơ bản đã được đơn vị xây dựng. Từ đó, kiểm toán viên có thể lựa chọn phương pháp kiểm toán và soạn thảo trình tự kiểm toán phù hợp để thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán cần thiết để giảm thiểu tối đa rủi ro trong quá trình hình thành và đưa ra ý kiến về kết quả kiểm toán tại đơn vị. Các cơ sở dẫn liệu được kiểm toán viên sử dụng để xem xét các loại rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra được chia thành ba loại:  Các cơ sở dẫn liệu đối với các nhóm giao dịch và sự kiện trong kỳ được kiểm toán  Các cơ sở dẫn liệu đối với số dư tài khoản vào cuối kỳ  Các cơ sở dẫn liệu đối với các trình bày và thuyết minh Tùy thuộc vào mỗi loại cơ sở dữ liệu, kiểm toán viên sẽ đánh giá trên những khía cạnh khác nhau:  Các cơ sở dẫn liệu đối với các nhóm giao dịch và sự kiện trong kỳ được kiểm toán: (i) Tính hiện hữu: các giao dịch và các sự kiện được ghi nhận đã xảy ra và liên quan đến đơn vị; (ii) Tính đầy đủ: tất cả các giao dịch và sự kiện cần ghi nhận đã được ghi nhận; (iii) Tính chính xác: số liệu và dữ liệu liên quan đến các giao dịch và sự kiện đã ghi nhận được phản ánh một cách phù hợp; 18
  19. (iv) Đúng kỳ: các giao dịch và sự kiện được ghi nhận đúng kỳ kế toán; (v) Phân loại: các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào đúng tài khoản.  Các cơ sở dẫn liệu đối với số dư tài khoản vào cuối kỳ: (i) Tính hiện hữu: tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu thực sự tồn tại; (ii) Quyền và nghĩa vụ: đơn vị nắm giữ các quyền liên quan đến tài sản thuộc sở hữu của đơn vị và đơn vị có nghĩa vụ với các khoản nợ phải trả; (iii) Tính đầy đủ: tất cả các tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu cần ghi nhận đã được ghi nhận đầy đủ; (iv) Đánh giá và phân bổ: tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu được thể hiện trên báo cáo tài chính theo giá trị phù hợp và những điều chỉnh liên quan đến đánh giá hoặc phân bổ đã được ghi nhận phù hợp.  Các cơ sở dẫn liệu đối với các trình bày và thuyết minh: (i) Tính hiện hữu, quyền và nghĩa vụ: các sự kiện, giao dịch và các vấn đề khác được thuyết minh thực sự đã xảy ra và có liên quan đến đơn vị; (ii) Tính đầy đủ: tất cả các thuyết minh cần trình bày trên báo cáo tài chính đã được trình bày; (iii) Phân loại và tính dễ hiểu: các thông tin tài chính được trình bày, diễn giải và thuyết minh hợp lý, rõ ràng, dễ hiểu; (iv) Tính chính xác và đánh giá: thông tin tài chính và thông tin khác được trình bày hợp lý và theo giá trị phù hợp. - Giai đoạn thực hiện kiểm toán: để có thể đưa ra các quyết định tốt nhất cho cuộc kiểm toán dựa trên kế hoạch đã lập, cơ sở dẫn liệu sẽ giúp cho kiểm toán viên luôn xác định được mục tiêu các thử nghiệm mình đang thực hiện dựa trên các phương pháp kiểm toán được lựa chọn. - Giai đoạn kết thúc kiểm toán: Đây là giai đoạn kiểm toán viên trình bày ý kiến của mình về kết quả cuộc kiểm toán. Cơ sở dẫn liệu là căn cứ để kiểm toán viên xác định và đánh giá tính đầy đủ, thích hợp của các bằng chứng thu thập được đối với quá trình kiểm toán. Vậy, để cuộc kiểm toán đạt kết quả tốt nhất thì việc kiểm toán viên hiểu rõ về cơ sở dẫn liệu là rất cần thiết và quan trọng trong quá trình kiểm toán. Ví dụ về cơ sở dẫn liệu Chỉ tiêu hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán của Công ty thương mại và dịch vụ X năm N số cuối năm là 250.000.000 đồng, hãy chứng minh đó là một cơ sở dẫn liệu? Khi trình bày khoản mục hàng tồn kho trên báo cáo tài chính, Ban lãnh đạo Công 19
  20. ty X đã khẳng định rằng: - Tại thời điểm lập báo cáo tài chính (ngày 31/12/N) thì giá trị hàng tồn kho được ghi nhận trên báo cáo tài chính là toàn bộ nguyên liệu vật liệu, hàng hóa, công cụ dụng cụ, thành phẩm đang tồn tại ở các kho, ở các cửa hàng, hàng gửi bán hoặc đang đi trên đường. (Hiện hữu) - Số hàng tồn kho này thuộc quyền sở hữu của Công ty và Công ty có toàn quyền quyết định về số hàng đó. Đồng thời, Công ty phải có trách nhiệm bảo quản, lưu trữ, chịu trách nhiệm về hàng tồn kho theo đúng quy định. (Quyền và nghĩa vụ) - Kế toán Công ty đã tập hợp tất cả các chứng từ nhập, xuất kho chứng minh các giao dịch phát sinh trong kỳ, đối chiếu số liệu giữa các bộ phận để xác định tổng số hàng tồn kho tăng, giảm và từ đó xác định số dư cuối kỳ. Tất cả các chứng từ nhập, xuất kho đã được ghi chép vào hệ thống sổ sách chi tiết và tổng hợp có liên quan. (Phát sinh và đầy đủ) - Số liệu ghi vào chỉ tiêu hàng tồn kho trên báo cáo tài chính vào ngày 31/12/N đã được tính toán dựa trên phương pháp tính giá hàng tồn kho Công ty đã đăng ký với cơ quan thuế. Số phát sinh tăng, giảm hàng tồn kho được ghi nhận là phát sinh trong năm N. Số dư cuối kỳ được tính toán theo đúng chế độ quy định. Số lượng hàng tồn kho trên sổ sách kế toán đã được đối chiếu với báo cáo kiểm kê trước thời điểm lập báo cáo tài chính. (Đánh giá và chính xác) - Sau khi đã xác định được số liệu hàng tồn kho cuối kỳ, kế toán trình bày trên bảng báo cáo tài chính, phù hợp với các chuẩn mực đã được ban hành và đảm bảo đúng thời gian quy định. Báo cáo này được nhà lãnh đạo Công ty ký duyệt và gửi tới các cơ quan có thẩm quyền, cũng như những đối tượng có nhu cầu cần thông tin tài chính của đơn vị. (Trình bày và công bố) Như vậy, mỗi chỉ tiêu trên bảng báo cáo tài chính đều đủ tiêu chuẩn là một cơ sở dẫn liệu. Đó là sự khẳng định rõ ràng hoặc ngầm định của nhà quản lý đơn vị về các chỉ tiêu được trình bày trên báo cáo tài chính được công bố là đúng quy định, chuẩn mực và phản ánh đúng với các hoạt động của đơn vị diễn ra trong kỳ. 2.1.2. Mục tiêu kiểm toán Mỗi cuộc kiểm toán có mục tiêu riêng, kiểm toán viên dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của từng đơn vị được kiểm toán để xác định thủ tục, phương pháp kiểm toán phù hợp. Mục tiêu của kiểm toán tuân thủ là việc xem xét, đánh giá đơn vị kiểm toán có tuân thủ các quy định, luật lệ mà đơn vị cần phải chấp hành hay không xét trên cả các 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2