Giáo trình Pháp lý đại cương: Phần 2 - Trường Đại học Ngoại thương
lượt xem 9
download
Tiếp nội dung phần 1, Giáo trình Pháp lý đại cương: Phần 2 cung cấp cho người học những kiến thức như: tư pháp quốc tế; thẩm định điều ước quốc tế; ủy quyền đàm phán, kí điều ước quốc tế, ủy nhiệm tham dự hội nghị quốc tế; kí điều ước quốc tế. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Pháp lý đại cương: Phần 2 - Trường Đại học Ngoại thương
- CHƯƠNG IV TƯ PHÁP QUỐC TẾ I. KHÁI NIỆM VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ 1. Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế Trong đời sống quốc tế không chỉ phát sinh các mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau mà còn phát sinh những mối quan hệ giữa công dân và pháp nhân của nước này với công dân và pháp nhân của nước khác. Nhóm quan hệ phát sinh giữa các quốc gia với nhau do công pháp quốc tế điều chỉnh. Nhóm quan hệ phát sinh giữa công dân, pháp nhân của các nước khác nhau với nhau do tư pháp quốc tế điều chỉnh. Như vậy đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là những quan hệ phát sinh trong đời sống giữa công dân và pháp nhân của các nước khác nhau với nhau. Trước hết tư pháp quốc tế điều chỉnh nhưng mối quan hệ liên quan tới địa vị pháp lí của người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài. Đó là năng lực pháp lí và năng lực hành vi của người nước ngoài, của pháp nhân nước ngoài, quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài khi họ sống, làm việc ở nước sở tại, bao gồm cả quyền tác giả của học đối với tác phẩm, phát minh sáng chế được công bố ở nước sở tại. Nhóm quan hệ khác do tư pháp điều chỉnh là những quan hệ phát sinh từ những hợp đồng dân sự hoặc thương mại được kí kết giữa công dân và pháp nhân của các nước khác nhau với nhau như hợp đồng mua bán, hợp đồng đại lí, hợp đồng chuyên chở v.v… Ngoài ra, tư pháp quốc tế cũng điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, quan hệ phát sinh trong lĩnh vực tố tụng dân sự quốc tế v.v… Tóm lại, đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế rất rộng, bao gồm cả những quan hệ phát sinh từ những lĩnh vực khác nhau trong đời sống quốc tế giữa công dân và pháp nhân mang quốc tịch khác nhau với nhau. Đó là những quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự v.v… có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài của quan hệ do tư pháp quốc tế điều chỉnh được thể hiện ở chỗ là một bên tham gia vào các mối quan hệ này là người mang quốc tịch nước ngoài hay có nơi cư trú đóng ở các nước khác nhau hoặc khác thể của quan hệ này là
- vật (tài sản) nằm ở nước ngoài, hoặc những sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi quan hệ xảy ra ở nước ngoài đối với một trong số các bên đương sự. Quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình v.v… có yếu tố nước ngoài phát sinh do tư pháp quốc tế điều chỉnh thì trở thành quan hệ tư pháp quốc tế. Cũng như quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ tư pháp quốc tế gồm ba yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung. Chủ thể của quan hệ tư pháp quốc tế là công dân, pháp nhân thuộc các nước khác nhau, nhà nước là chủ thể đặc biệt. Công dân, pháp nhân của các nước khác nhau là chủ thể chủ yếu của tư pháp quốc tế. Để trở thành chủ thể của tư pháp quốc tế, công dân, pháp nhân phải có năng lực pháp lí và năng lực hành vi. Năng lực pháp lí và năng lực hành vi của công dân và pháp nhân thường được xác định theo Luật Quốc tịch của họ. Khi một người nước ngoài sống ở nước sở tại thì họ có quốc tịch nước ngoài. Theo pháp luật Việt Nam, quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của nước khác không phải là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Điều 2 Khoản 1 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998). Khách thể của quan hệ tư pháp quốc tế có thể là vật trong quan hệ mua bán, quan hệ thừa kế, hành vi trong quan hệ chuyên chở, dịch vụ, quyền tác giả, danh dự, uy tín trng quan hệ nhân thân phi tài sản. Nội dung của quan hệ tư pháp quốc tế là quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể được quy định trong quan hệ đó. Quyền của chủ thể này tương đương với nghĩa vụ của chủ thể kia. 2. Phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế Cũng như các lĩnh vực pháp luật trong nước có liên quan như Dân luật, Luật Thương mại, Luật Hình sự v.v… phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế là biện pháp tác động đến cách cư xử của các chủ thể, nhằm hướng các hành vi, các quan hệ của họ phát triển theo một chiều hướng nhất định. Trước hết, để tác động đến cách cư xử của các chủ thể, tư pháp quốc tế các quy phạm luật điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đương sự. Điều này có ý nghĩa là dùng các quy phạm pháp luật để ấn định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự trong một quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
- Mặt khác, tư pháp quốc tế thông qua các quy phạm pháp luật ấn định các hình thức chế tài để áp dụng đối với những trường hợp vi phạm pháp luật. Khi ấn định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự, cũng như các hình thức chế tài đối với những trường hợp vi phạm tư pháp quốc tế, tư pháp quốc tế thừa nhận sự bình đẳng giữa các bên đương sự trước pháp luật. Các bên đương sự khi tham gia vào các mối quan hệ của tư pháp quốc tế đều bình đẳng với nhau trong quá trình đàm phán, thỏa thuận, kí kết, thực hiện các giao dịch, hợp đồng, cũng như trong việc kiện tụng và theo kiện trước tòa án (ở nước ngoài hoặc ở nước sở tại). Như vậy, dựa trên nguyên tắc bình đẳng giữa các bên đương sự, phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế là việc thông qua các quy phạm pháp luật ấn định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự, cũng như các hình thức chế tài áp dụng trong những trường hợp vi phạm. Qua việc tìm hiểu đối tượng và phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế có thể định nghĩa tư pháp quốc tế là một hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự v.v… giữa công dân và pháp nhân của các nước khác nhau với nhau. 3. Mối quan hệ giữa tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế a. Mối quan hệ giữ những nguyên tắc cơ bản củ tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế Sự phân định giới hạn giữa tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế không mang tính chất tuyệt đối. Tuy công pháp quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau, còn tư pháp quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa công dân và pháp nhận của các nước với nhau, song tất cả các mối quan hệ này đều phát sinh trong đời sống quốc tế: trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa, khoa học, kĩ thuật, buôn bán quốc tế v.v… Mặt khác, mối quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, tố tụng dân sự v.v… giữa công dân và pháp nhân của các nước khác nhau không được thực hiện nghiêm chỉnh thì có ảnh hưởng đến mối quan hệ, sự hợp tác giữa các quốc gia tương ứng. Vì thế, các chủ thể của tư pháp quốc tế còn phải tôn trọng và thực hiện những nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế.
- Nhìn chung, mối quan hệ giữa công dân, pháp nhân của các nước khác nhau chỉ phát sinh, phát triển khi mối quan hệ giữa các quốc gia hữu quan được thiết lập, tồn tại và phát triển. Vì thế, những nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến những nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế. Thông thường, các nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế đều xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế. Chẳng hạn, các nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế như bình đẳng hoàn toàn giữa hai chế độ sỡ hữu, quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của các quốc gia nước ngoài đều xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế là tôn trọng chủ quyền quốc gia, tôn trọng quyền tự quyết dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật giữa người nước ngoài và công dân sở tại của tư pháp quốc tế xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc. b. Mối quan hệ giữa tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế trong lĩnh vực ngoại thương Mối qun hệ giữa tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế được thể hiện cụ thể ở mối quan hệ giữa luật thương mại quốc tế (International Trade Law) với pháp luật kinh doanh quốc tế (International Business Law). Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, giữa công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Trên cơ sở mối quan hệ thương mại giữa các nước với nhau – thuộc sự điều chỉnh của công pháp quốc tế, hình thành mối quan hệ về mua bán, chuyên chở v.v… giữa công dân và pháp nhân của các nước – thuộc sự điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Ngược lại, có thực hiện được các hợp đồng thương mại được kí kết giữa công dân và pháp nhân của các nước khác nhau với nhau thì nghĩa vụ do các nước cam kết với nhau về thương mại mới được thi hành. Một số điều ước quốc tế về thương mại do chính phủ các nước kí kết là nguồn luật của công pháp quốc tế (cũng là nguồn luật của pháp luật thương mại quốc tế) nhưng có tác dụng chỉ đạo đối với sự hình thành và phát triển quan hệ thương mại của công dân và pháp nhân các nước hữu quan. Ví dụ:
- các hiệp định thương mại song phương, khu vực hoặc đa phương đề ra nguyên tắc, chế độ, phạm vi cho môi quan hệ thương mại giữa công dân và pháp nhân của các nước kí kết đó với nhau. Có những điều ước kí kết về thương mại vừa là nguồn của công pháp quốc tế vừa là nguồn của tư pháp quốc tế (cũng là nguồn của pháp luật kinh doanh quốc tế) và điều chỉnh trực tiếp các hợp đồng thương mại được kí kết giữa công dân và pháp nhân của các nước kí kết điều ước. Ví dụ: Công ước Vienna của Liên hợp quốc năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế điều chỉnh trực tiếp quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Mặt khác, khi những quan hệ phát sinh từ các hợp đồng thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế (pháp luật kin doanh quốc tế) được thực hiện tốt sẽ có ảnh hưởng tích cực tới việc mở rộng và phát triển quan hệ thương mại giữa các nước – thuộc phạm vi điều chỉnh của công pháp quốc tế (pháp luật thương mại quốc tế). c. Sự khác nhau giữa tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế Tuy có sự liên quan với nhau song tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế có sự khác nhau rõ ràng vì đó là hai ngành luật độc lập với nhau. Nếu chủ thể của công pháp quốc tế là quốc gia (hoặc các loại chủ thể khác) thì chủ thể của tư pháp quốc tế chủ yếu là công dân và pháp nhận của các nước khác nhau. Đối tượng điều chỉnh của hai lĩnh vực pháp luật này cũng khác nhau. Đối tượng điều chỉnh của công pháp quốc tế là các quan hệ phát sinh giữa các quốc gia trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa v.v… Ngược lại, tư pháp quốc tế điều chỉnh những mối quan hệ và dân sự, thừa kế, kinh doanh, hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự v.v… giữa công dân và pháp nhân của các nước khác nhau với nhau. Giữa công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế còn có sự khác nhau về biện pháp cưỡng chế. Công pháp quốc tế dùng chế tài đạo đức, dư luận tiến bộ, còn đường ngoại giao, sử dụng quyền báo phục, dùng biện pháp trục xuất ra khỏi tổ chức quốc tế v.v… Trong lĩnh vực thương mại ở phạm vi quốc gia,
- cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được đánh giá là cơ chế hiệu quả với sự cưỡng chế đặc thù khi có sự vi phạm các quy định của WTO với ý nghĩa là công pháp quốc tế điều chỉnh lĩnh vực thương mại để cưỡng chế thi hành nghĩa vụ quốc tế. Trong khi đó biện pháp cưỡng chế của tư pháp quốc tế được thực hiện thông qua tòa án hoặc trọng tài với các hình thức như phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại v.v… 4. Nguồn luật của tư pháp quốc tế Nguồn luật của tư pháp quốc tế là những văn bản pháp luật điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Các văn bản đó bao gồm các điều ước quốc tế, các đạo luật quốc gia. Ngoài ra, nguồn của tư pháp quốc tế còn bao gồm cả tập quán quốc tế. a. Điều ước quốc tế Do có sự phát sinh và phát triển mối quan hệ dân sự, tố tụng dân sự v.v… giữa công dân và pháp nhân của các nước khác nhau mà đặt ra yêu cầu phải có quy phạm pháp luật để điều chỉnh. Để có các quy phạm luật đó, hai hay nhiều nước đã kí kết các điều ước quốc tế với nhau. Nhìn từ góc độ tư pháp quốc tế thì điều ước quốc tế là văn kiện do hai hay nhiều nước kí kết, trong đó gồm các quy phạm luật điều chỉnh một hoặc một số lĩnh vực quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Các quy phạm luật của điều ước quốc tế là những quy phạm luật thống nhất. Tính thống nhất này được thể hiện ở chỗ các quy phạm pháp luật ấy do hai hay nhiều nước đàm phán thỏa thuận đặt ra và được áp dụng chung cho mối quan hệ giữa công dân và pháp nhân của các nước kí kết. Hiện nay có nhiều điều ước quốc tế là nguồn luật của tư pháp quốc tế đã được kí kết và có hiệu lực. Công ước Vienna của Liên hợp quốc năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ của bên bán, bên mua trong mua bán quốc tế. Trong lĩnh vực vận tải quốc tế, điển hình là Công ước quốc tế thống nhất một số thể lệ về vận đơn đường biển được kí kết năm 1924 tại Brussels (gọi tắt là “Công ước Brussels 1924”) và Nghị định thư sửa đổi Công ước
- Brussels 1924 được kí kết năm 1968 (thường được gọi là “Nghị định thư 1968”). Về lĩnh vực thanh toán quốc tế nổi bật là Công ước Geneva năm 1930 – 1931 về thương phiều và séc. Trong lĩnh vực công nghệ giữa các nước đã kí kết Công ước Paris năm 1983 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Công ước này cho đến nay đã qua nhiều lần bổ sung và sửa đổi. Về vấn đề tố tụng dân sự giữa các nước thành viên Công ước Lahay năm 1954 về tố tụng dân sự điều chỉnh một loạt các vấn đề về dân sự như: trao tài liệu tư pháp, ủy nhiệm tư pháp, đơn giản các yêu cầu về nộp phí tư pháp của người nước ngoài khi phát đơn kiện v.v… Công ước New York năm 1958 về việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài là điều ước quốc tế nhiều bên đầu tiên về trọng tài thương mại. Việt Nam đã gia nhập Công ước này năm 1995. Ngoài ra trong phạm vi châu Âu còn có Công ước của châu Âu năm 1961 về thừa nhận và thi hành phán quyết của trọng tài thương mại. Đa số các nước ở châu Âu đã tham gia công ước này. Vấn đề hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh một phần trong điều ước quốc tế hau bên về tương trợ tư pháp trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình và hình sự. Bộ luật Bustamante là một văn kiện luật thuộc nguồn của tư pháp quốc tế. Bộ luật do Bustamante soạn thảo và được thông qua năm 1928, sau đó các nước châu Mỹ Latinh gia nhập và phê chuẩn. Vì vậy Bộ luật Bustamante thực chất là một điều ước quốc tế. Bộ luật gồm phần mở đầu, quyển 1 điều chỉnh các vấn đề tư pháp quốc tế liên quan đến công dân, tài sản, bao gồm cả vấn đề hôn nhân gia đình, vấn đề thừa kế; quyển 2 điều chỉnh các vấn đề xung đôt về luật thương mại; quyển 3 về luật hình sự; quyển 4 về tố tụng quốc tế. Ngoài ra, còn những điều ước quốc tế nhiều bên và hai bên điều chỉnh từng nhóm quan hệ cụ thể thuộc phạm vi tư pháp quốc tế đã được các nước kí kết và đã có hiệu lực.
- b. Luật quốc gia Tuy điều ước quốc tế được kí kết rất nhiều, song không thể điều chỉnh hết được các quan hệ thuộc phạm vi tư pháp quốc tế. Do đó, luật pháp của các nước cho phép chọn luật quốc gia để áp dụng cho những quan hệ chưa được điều ước quốc tế điều chỉnh hoặc điều chỉnh không đầy đủ. Khi các bên đương sự chọn luật của một nước nào đó thì luật quốc gia đó trở thành nguồn luật của tư pháp quốc tế. Mặt khác, trong luật quốc gia của các nước đều có những quy phạm điều chỉnh các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự v.v… có yếu tố nước ngoài. Ví dụ: các quy phạm điều chỉnh địa vị pháp lí của người nước ngoài, vấn đề thừa kế của người nước ngoài v.v… Khi nói luật quốc gia là nguồn cũa tư pháp quốc tế không có nghĩa là toàn bộ hệ thống luật quốc gia đều được áp dụng, mà chỉ áp dụng những ngành luật nào có liên quan, tức là những ngành luật điều chỉnh mối quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự… cụ thể: Dân luật, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Tố tụng dân sự… là các ngành luật quốc gia, đồng thời cũng là nguồn luật của tư pháp quốc tế. Ví dụ: khi các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa, quốc tế chọn luật nước người bán để áp dụng cho hợp đồng thì phải áp dụng ngành luật nào của nước nước người bán có liên quan đến hợp đồng mua bán, tức là phải áp dụng Luật Thương mại (nếu có) hoặc Dân luật của nước người bán đó. Mặt khác, khi áp dụng luật quốc gia để điều chỉnh các quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế thì phải áp dụng cả văn kiện luật của quốc gia đó (bao gồm các điều khoản có liên quan của hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Hiện nay, theo quan điểm chung thì luật quốc gia là nguồn quan trọng nhất của tư pháp quốc tế, vì điều ước quốc tế được kí kết nhiều những không phải tất cả các nước đều kí hoặc gia nhập và các điều ước này không điều chỉnh hết các mối quan hệ phát sinh giữa công dân và pháp nhân của các nước với nhau. Mặt khác, trong thực tế, luật quốc gia vẫn được áp dụng một
- cách phổ biến để điều chỉnh các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình v.v… có yếu tố nước ngoài. Khi điều ước quốc tế và luật quốc gia của nước kí kết có các quy định khác nhau về cùng một mối quan hệ pháp luật cụ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế thì sẽ áp dụng nguồn luật nào. Nhìn chung theo luật pháp của các nước thì trong trường hợp này sẽ áp dụng quy phạm của điều ước quốc tế. Luật quốc gia của các nước – nguồn của tư pháp quốc tế được ban hành bằng những văn kiện luật khác nhau. Nhiều nước có Bộ luật Tư pháp quốc tế riêng. Ví dụ: Ba Lan có Bộ luật Tư pháp quốc tế năm 1965 điều chỉnh các quan hệ dân sự, lao động, hôn nhân gia đình. Các quan hệ về tố tụng dân sự quốc tế thì được điều chỉnh trong Bộ luật Tố tụng Ba Lan năm 1964. Ở đa số các nước chưa có đạo luật riêng về tư pháp quốc tế thì có các bộ luật liên quan. Ví dụ: ở Nhật Bản có Bộ luật Dân sự năm 1898 sửa đổi năm 2000, Bộ luật Thương mại năm 1899; ở Pháp có Bộ luật Dân sự năm 1804 (gọi là Bộ luật Napoléon) đến nay vẫn còn hiệu lực. Đây là Bộ luật Dân sự hoàn chỉnh đầu tiên ở các nước tư bản chủ nghĩa. Bộ luật Napoléon được nước Bỉ áp dụng giống như Bộ luật Dân sự của nước mình. Ngoài ra, Bộ luật Napoléon còn là kiểu mẫu cho nhiều Bộ luật Dân sự của các nước khác như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Argentina v.v… Ở Việt Nam, các văn bản luật sau đây là nguồn của tư pháp quốc tế. Luật Quốc tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1998, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Đầu tư năm 2005, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 v.v… c. Tập quán quốc tế Tập quán quốc tế là một trong những nguồn luật của tư pháp quốc tế, vì khi điều ước quốc tế cũng như trong luật quốc gia không có quy định việc giải quyết một mối quan hệ cụ thể thuộc phạm vi tư pháp quốc tế thì tập quán quốc tế sẽ áp dụng để giải quyết mối quan hệ đó.
- Tập quán là một thói quen được lặp đi, lặp lại nhiều lần, được đa số các nước công nhận và áp dụng một cách liên tục, rộng rãi đến mức trở thành một quy tắc pháp lí mà mỗi người phải tuân theo nếu như không có quy định gì khác. Trong đời sống quốc tế có rất nhiều thói quen nhưng không phải thói quen nào cũng được coi là tập quán quốc tế. Muốn được công nhận là tập quán quốc tế, thói quen phải thỏa mãn các điều kiện sau đây: Một là, thói quen phổ biến được lặp đi, lặp lại nhiều lần, được nhiều nước áp dụng và áp dụng liên tục. Hai là, đó là thói quen duy nhất tức là về một lĩnh vực cụ thể chỉ có một thói quen được áp dụng rộng rãi, liên tục mà thôi. Ba là, thói quen phải có nội dung rõ ràng, nghĩa là khi áp dụng người ta có thể dựa vào đó để điều chỉnh mối quan hệ, hoặc giải quyết được tranh chấp. Các loại tập quán quốc tế Thông thường tập quán quốc tế được chia thành tập quán quốc tế có tính chất nguyên tắc và tập quán quốc tế cụ thể. Tập quán quốc tế có tính chất nguyên tắc là những tập quán cơ bản, bao trùm, được hình thành trên cơ sở nguyên tắc chủ quyền quốc gia và bình đẳng giữa các dân tộc. Ví dụ: tòa án nước nào thì dùng luật tố tụng của nước đó để điều chỉnh các vấn đề của một vụ kiện hoặc là tập quán theo “Luật quốc tịch”- công dân hay pháp nhân mang quốc tịch nước nào thì địa vị pháp lí được xác nhận theo luật nước đó v.v… Tập quán quốc tế cụ thể là những tập quán quốc tế về từng lĩnh vực riêng biệt mà thông dụng nhất là tập quán thương mại quốc tế, ví dụ: các điều kiện cơ sở giao hàng do Phòng Thương mại quốc tế ban hành – Incoterms 1953/1980/1990/2000, những quy tắc Yook – Antwers năm 1974 về tổn thất chung v.v… Ngoài tập quán quốc tế còn có tập quán địa phương. Tập quán địa phương là tập quán được áp dụng ở một khu vực, một nước hay một cảng nhất định. Ví dụ: ở Thụy Sĩ có tập quán FOB cảng đến (FOB Shipment to
- Destination). Theo tập quán này, ngoài các nghĩa vụ như quy định theo FOB Incoterms 1990, người bán còn có nghĩa vụ thuê tàu cho người mua, cước phí do người mua chịu. Giá trị pháp lí của tập quán quốc tế. Hiện tại có các quan điểm khác nhau về giá trị pháp lí của tập quán quốc tế. Các nước tư bản chủ nghĩa coi tập quán quốc tế là nguồn luật đương nhiên của tư pháp quốc tế, tức có giá trị pháp lí như những quy phạm của các văn kiện luật. Khi một tập quán quốc tế được hình thành thì tòa án tư sản có thể áp dụng nó để giải quyết tranh chấp, không cần phải có sự công nhận của nhà nước tư sản. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tập quán quốc tế chỉ có thể được coi là nguồn của tư pháp quốc tế khi mà nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhân tập quán đó. Nhà nước công nhân tập quán bằng các hình thức khác nhau, hoặc là ghi nhận trực tiếp tập quán trong các văn kiện luật quốc gia hay trong các văn kiện luật quốc tế, hoặc là áp dụng tập quán trong thực tế. Tuy có các quan điểm khác nhau, song nhìn chung tập quán quốc tế chỉ có giá trị pháp lí giống như những quy phạm pháp luật tùy ý. Tập quán sẽ được áp dụng khi điều ước quốc tế, luật quốc gia không có các quy phạm điều chỉnh mối quan hệ cụ thể thuộc phạm vi tư pháp quốc tế. Cách áp dụng tập quán. Tập quán quốc tế và tập quán địa phương sẽ được áp dụng trong các trường hợp; khi được quy định trong các điều ước quốc tế, khi được quy định trong hợp đồng; khi trong hợp đồng, trong điều ước quốc tế, trong luật quốc gia được đem áp dụng cho các hợp đồng không có quy định về nguồn luật nào được sử dụng để điều chỉnh. Khi trong hợp đồng quy định áp dụng tập quán mà không ghi cụ thể là tập quán quốc tế hay tập quán địa phương thì sẽ áp dụng tập quán quốc tế. Ví dụ: trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định điều kiện FOB (Free on board – giao lên tàu) thì phải áp dụng FOB Incoterms 1990. Nếu có tập quán chung cho một số mặt hàng và tập quán riêng cho một mặt hàng cụ thể thì sẽ áp dụng tập quán riêng.
- Khi áp dụng tập quán thì cần phải chứng minh nội dung của tập quán đó. Trước hết nghĩa vụ chứng minh nội dung tập quán thuộc về các bên đương sự. Nội dung của tập quán có thể lấy trong các văn bản của phòng thương mại, trong sách báo, trong các bản án v.v… tòa án hay trọng tài có quyền quyết định sử dụng bằng chứng về nội dung của tập quán do các bên đưa ra hay không. Ngoài ba nguồn luật, các nước tư bản chủ nghĩa coi thực tiễn cũng như pháp thuyết (học thuyết pháp luật) là nguồn của pháp luật nói chung cũng như của tư pháp quốc tế nói riêng. Theo khoa học pháp lí xã hội chủ nghĩa, thực tiễn tư pháp, pháp thuyết không thể là nguồn của tư pháp quốc tế, tức không có giá trị pháp lí giống như các quy phạm pháp luật vì tòa án chỉ là cơ quan giải thích và áp dụng luật, chứ không phải cơ quan ban hành luật. II. CHỦ THỂ CỦA TƯ PHÁP QUỐC TẾ Chủ thể chủ yếu của tư pháp quốc tế là công dân, pháp nhân các nước, còn nhà nước là chủ thể đặc biệt. 1. Công dân – chủ thể chủ yếu của tư pháp quốc tế a. Địa vị pháp lí của công dân Công dân của bất kì nước nào, kể cả công dân sống ở trong nước cũng như công dân sống ở nước ngoài, đều có thể trở thành chủ thể của tư pháp quốc tế. Song, chủ thể trực tiếp của tư pháp quốc tế là những công dân trực tiếp tham gia vào quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, tố tụng dân sự v.v… có yếu tố nước ngoài, Ví dụ: một công dân tham gia vào quan hệ thừa kế tài sản nằm ở Pháp, một thương nhân Nhật Bản kí hợp đồng mau bán hàng hóa với một thương nhân Philippines. Tư pháp quốc tế chưa có một văn kiện luật thống nhất nào quy định địa vị pháp lí của công dân tất cả các nước. Vấn đề này được điều chỉnh theo luật quốc gia của từng nước. Nhìn chung theo luật của từng nước, địa vị pháp lí của công dân do luật quốc tịch quy định – công dân mang quốc tịch nước nào thì địa vị pháp lí được quy định theo luật của nhà nước đó. Song, năng lực pháp lí và năng lực hành vi của các nước khác nhau được quy định khác
- nhau. Ví dụ: ở Nhật Bản, công dân từ đủ 20 tuổi mới có năng lực hành vi hoàn toàn, trong khi đó, ở Việt Nam, Trung Quốc, Nga quy định từ 18 tuổi, hay là côn dân ở các nước tư bản chủ nghĩa có thể là ông chủ của một đài truyền hình, ở các nước xã hội chủ nghĩa cá nhân, công dân không có quyền đó. Tuy địa vị pháp lí của công dân do luật quốc tịch quy định nhưng một khi công dân ra nước ngoài sinh sống thì phải tuân thủ luật nước ngoài đó, tức là luật nước sở tại. b. Địa vị pháp lí của người nước ngoài Người nước ngoài theo nghĩa hẹp được hiểu là công dân nước ngoài. Công dân nước ngoài là những người cư trú tại một nước nhưng không mang quốc tịch của nước đó mà mang quốc tịch của một nước khác. Người nước ngoài ở một nước sở tại bao gồm công dân mang quốc tịch nước ngoài đến cư trú, sinh sống: học sinh nước ngoài, nhà báo nước ngoài, nhà ngoại giao, nhà buôn nước ngoài, người du lịch nước ngoài v.v… Về nguyên tắc, khi sống ở nước sở tại, người nước ngoài phải tuân thủ hai hệ thống pháp luật: Pháp luật của nước mà người mang quốc tịch và pháp luật của nước sở tại. Theo nguyên tắc chung, năng lực hành vi của người nước ngoài do luật quốc tịch quy định. Một người nước ngoài có năng lực hành vi theo luật quốc tịch thì năng lực hành vi đó được công nhận tại nước sở tại. Song, điều cơ bản mà người nước ngoài thường quan tâm không phải là năng lực hành vi mà là năng lực pháp lí của họ - tức là những quyền lợi, nghĩa vụ mà người nước ngoài được hưởng và phải gánh vác. Do đó, theo nghĩa hẹp khi nói đến địa vị pháp lí của người nước ngoài tức là nói đến năng lực pháp lí của họ ở nước sở tại. Những quyền lợi và nghĩa vụ của người nước ngoài ở nước sở tại thường được quy định theo các chế độ: chế độ đãi ngộ quốc dân, chế độ tối huệ quốc, chế ngộ đãi ngộ đặc biệt (nội dung của mỗi chế độ đã được đề cập ở chương công pháp quốc tế). Trên thực tế, các chế độ này thường được áp dụng với nguyên tắc có đi, có lại, nghĩa là một nước chỉ dành cho công dân
- của nước kia cư trú trên lãnh thổ của nước mình những quyền lợi nào mà trên lãnh thổ nước kia kiều dân của nước mình được hưởng. Nếu một nước vi phạm nguyên tắc có đi, có lại thì nước kia có quyền áp dụng biện pháp báo phục quốc. Nhìn chung, người nước ngoài ở các nước tư bản chủ nghĩa được hưởng chế độ đãi ngộ quốc dân cùng với nguyên tắc có đi, có lại trừ những ngoại lệ do luật của từng nước quy định. Trong lĩnh vực thương mại hàng hải, người ngoại quốc được hưởng chế độ tối huệ quốc. Ví dụ: địa vị pháp lí của người nước ngoài ở Pháp được quy định như sau: người nước ngoài được công nhận có năng lực pháp lí dân sự giống như công dân Pháp trên cơ sở có đi, có lại – tức được hưởng chế độ đãi ngộ quốc dân trên nguyên tắc có đi, có lại. Tuy nhiên, người nước ngoài ở Pháp không được hưởng tất cả các quyền lợi mà luật Pháp quy định cho công dân Pháp được hưởng. Người nước ngoài không thể trở thàn bác sĩ, luật sư bào chữa, người bán thuốc, công chứng viên, kế toán thường xuyên, giảng viên các trường đại học quốc gia, người đứng đầu các trường học tư, nhà xuất bản, nhà hát, xưởng phim. Người nước ngoài cũng không được làm các nghề khai thác mỏ, nghề cá, nghề hàng hải và hàng không v.v… Ngoài ra, người nước ngoài ở Pháp được chia thành ba loại:loại cư trú tạm thời (du lịch, sinh viên) loại có thời hạn cư trú đến ba năm, loại được phép cư trú dài hạn. Quyền lợi của những người nước ngoài này cũng khác nhau. Ở Việt Nam, địa vị pháp lí của người nước ngoài được quy định trong Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 (phần thứ 7, từ Điều 758 đến Điều 777) và Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (xem Phụ lục số 1). Theo Bộ luật này, người nước ngoài ở Việt Nam có nghĩa vụ tuân thủ theo pháp luật Việt Nam, tôn trọng phong tục, tập quán của nhân dân Việt Nam, không được làm phương hại đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam. Về quyền lợi, người nước ngoài được nhà nước Việt Nam bảo hộ
- tính mạng, tài sản và quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. Người nước ngoài được hưởng các quyền dân sự như tự do lựa chọn nghề nghiệp, được sở hữu về những thu nhập hợp pháp, về tư liệu sinh hoạt và tư liệu sản xuất theo pháp luật Việt Nam, hưởng quyền thừa kế tài sản, hưởng phúc lợi xã hội v.v… Tuy nhiên, cũng có những hạn chế nhất định đối với người nước ngoài. Những hạn chế này do các văn bản luật quy định. Trong lĩnh vực thương mại, hàng hải, người nước ngoài thường được hưởng chế độ tối huệ quốc. Chế độ tối huệ quốc được quy định trong các điều ước quốc tế do các nước kí kết. Cần lưu ý rằng trong điều ước quốc tế hai bên hay nhiều bên có những quy định khác về quyền lợi của người nước ngoài so với quy định của luật quốc gia thì trong thực tế sẽ áp dụng các quy định của điều ước quốc tế (Điều 6 Khoản 1 Luật Kí kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005, xem Phụ lục số 2). 2. Pháp nhân – chủ thể chủ yếu của tư pháp quốc tế a. Địa vị pháp lí của pháp nhân Nói pháp nhân là chủ thể của tư pháp quốc tế nghĩa là bất kì pháp nhân của nước nào cũng có thể tham gia vào quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Song, thực tế trong một nước không phải bất kì pháp nhân nào cũng là chủ thể thực sự của tư pháp quốc tế. Chỉ những pháp nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tham gia vào quan hệ với pháp nhân hoặc công dân nước ngoài mới là chủ thể thực sự của tư pháp quốc tế. Điều kiện để công nhận pháp nhân do luật của từng nước quy định. Do đó, một tổ chức, xí nghiệp, công ty khi thành lập, muốn được công nhận là pháp nhân phải đáp ứng các điều kiện đã được quy định trong luật của nước mà trong đó tổ chức, xí nghiệp hay công ty ấy được thành lập và xin đăng kí hay phê duyệt. Địa vị pháp lí của pháp nhân – chủ thể của tư pháp quốc tế theo quy tắc chung, do luật quốc tịch quy định. Pháp nhân mang quốc tịch nước nào thì năng lực pháp lí và năng lực hành vi do luật nước đó điều chỉnh. Do luật của các nước không giống nhau nên địa vi pháp lí của các pháp nhân mang
- quốc tịch khác nhau là khác nhau. Nhưng, khi tham gia vào quan hệ dân sự trong nước hay quan hệ dân sự quốc tế, pháp nhân dù mang quốc tịch nước nào cũng hoạt động với tư cách của chính mình và chịu trách nhiệm độc lập về mặt tài sản đối với các nghĩa vụ mà pháp nhân đó đã cam kết. Tuy năng lực pháp lí và năng lực hành vu của pháp nhân do luật quốc tịch quy định nhưng khi ra nước ngoài hoạt dộng, pháp nhân còn phải tuân thủ luật của nước sở tại. Một vấn đề phức tạp trong tư pháp quốc tế là việc xác định của pháp nhân, điều đó được thể hiện ở chỗ là do hiện nay có nhiều hình thức đầu tư của nước ngoài và hợp tác kinh tế mà hình thành các công ty, xí nghiệp có các yếu tố nước ngoài khác nhau. Một công ty có trụ sở chính ở một nước, điều lệ lại đăng kí ở nước khác, hoạt động kinh doanh được tiến hành ở nước thứ ba, các cổ đông lại là những người có quốc tịch khác nhau, hoặc cư trú ở những nước khác nhau. Do tư pháp quốc tế chưa có một văn bản luật thống nhất xác định quốc tịch của pháp nhân nên vấn đề được giải quyết theo luật của các nước. Theo luật của Anh – Mỹ, quốc tịch của pháp nhân được xác định theo luật của nước nơi thành lập pháp nhân (đăng kí điều lệ), theo luật của Pháp, Tây Đức – luật nơi đóng trụ sở chính, theo luật của các nước đang phát triển – luật nơi hoạt động kinh doanh. Theo Luật Đầu tư Việt Nam năm 2005 thì các doanh nghiệp liên doanh được thành lập ở Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh là pháp nhân Việt Nam. Do vậy, năng lực pháp lí và năng lực hành vi của các xí nghiệp liên doanh ở Việt Nam do luật Việt Nam quy định. b. Địa vị pháp lí của pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại Nói đến địa vị pháp lí của pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại tức là đề cập đến phạm vi năng lực pháp lí và năng lực hành vi của pháp nhân ấy ở nước sở tại được thể hiện như thế nào, do luật nào điều chỉnh. Cụ thể hơn khi đề cập đến địa vị pháp lí của pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại là muốn tìm hiểu xem pháp nhân nước ngoài được hưởng và phải gánh vác những quyền và nghĩa vụ gì ở nước sở tại.
- Theo luật của các nước và thực tiễn tư pháp quốc tế thì năng lực hành vi của pháp nhân nước ngoài do luật quốc tịch của pháp nhân quy định. Vì thế, khi pháp nhân nước ngoài hoạt động ở nước sở tại không xem xét lại năng ực hành vi của pháp nhân đó trện cơ sở các quy định của pháp luật nước mình. Ngược lại, năng lực pháp lí của pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại do luật nước sở tại và điều ước quốc tế quy định. Do đó, muốn biết một pháp nhân nước ngoài có những quyến hạn gì và phải gánh vác những nghĩa vụ gì thì phải căn cứ vào luật của nước sở tại và điều ước quốc tế được kí kết giữa nước sở tại và nước mà pháp nhân đó mang quốc tịch. Trước hết địa vị pháp lí của pháp nhân nước ngoài được quy định trọng điều ước quốc tế. Theo các điều ước quốc tế được kí kết giữa các nước với nhau, pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại thường được hưởng chế độ tối huệ quốc, hoặc là chế độ đãi ngộ đặc biệt trên cơ sở có đi, có lại, ví dụ: Cộng hòa XHCN Việt Nam và Singapores đã kí kết hiệp định hàng hải trong đó cho nhau hưởng chế độ tối huệ quốc. Ngoài ra, địa vị pháp lí của pháp nhân nước ngoài còn được quy định trong luật của nước sở tại. Ở các nước có những quy định khác nhau về địa vị pháp lí của pháp nhân nước ngoài. Nguyên nhân của sự quy định khác nhau đó là do điều kiện kinh tế, chính trị, mức độ độc lập về kinh tế, vai trò của tư bản nước ngoài v.v… ở nước sở tại quyết định. Có những nước cho phép pháp nhân nước ngoài đến đóng trụ sở và tiến hành hoạt động thường xuyên. Những nước khác chỉ cho pháp nhân nước ngoài đến nước mình hoạt động với thời gian ngắn. Theo luật của các nước tư bản chủ nghĩa cũng như các nước xã hội chủ nghĩa, pháp nhân nước ngoài muốn vào hoạt động ở một nước thì phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước đó. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại căn cứ vào điều ước quốc tế có liên quan, luật của nước mình để cấp giấy phép cho pháp nhân nước ngoài vào hoạt động. Mọi quyền hạn của pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại được quy định một cách cụ thể trong giấy phép đó. Như vậy, xét đến cùng địa vị pháp lí của pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại được quy định trong giấy phép
- do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại cấp cho pháp nhân nước ngoài. Ngoài năng lực pháp lí dân sự, pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại còn được hưởng năng lực tố tụng dân sự. Pháp nhân nước ngoài được phép nộp đơn kiện tới tòa án hay trọng tài của nước sở tại để thông qua tòa án, trọng tài bảo vệ quyền lợi của mình. Năng lực tố tụng dân sự của pháp nhân nước ngoài được quy định trong điều ước quốc tế, trong luật của nước sở tại. Địa vị pháp lí của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam được quy định trong các điều ước quốc tế do Việt Nam kí kết và trong luật của Việt Nam. Trên cơ sở những điều ước quốc tế đó và những quy định của pháp luật Việt Nam, Bộ Thương mại ( nay là Bộ Công thương) cấp giấy phép cho pháp nhân nước ngoài vào Việt Nam để đàm phán kí kết hợp đồng hoặc tiến hành những hoạt động cần thiết. Những quyền hạn, phạm vi, thời gian hoạt động v.v… của pháp nhân nước ngoài được quy định trong giấy phép mà pháp nhân đó được cấp. Ngoài ra, pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam cũng được hưởng năng lực tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam. 3. Nhà nước – chủ thể đặc biệt của tư pháp quốc tế Nhà nước là chủ thể của tư pháp quốc tế vì nhà nước có quyền tham gia vào quan hệ dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Nhà nước là chủ thể đặc biệt vì nhà nước chỉ tham gia vào một ít quan hệ dân sự hoặc tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài. Cụ thể, nhà nước có thể tham gia vào quan hệ thừa kế tài sản nằm ở nước ngoài, hưởng quyền sở hữu đối với tài sản của mình nằm ở nước ngoài hoặc kí hợp đồng mua bán, trao đổi hàng hóa với pháp nhân hoặc công dân nước ngoài. Việc kí kết hợp đồng có thể được thực hiện thông quan cơ quan đại diện thương mại hoặc bất kì một cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào khác. Khác với công dân và pháp nhân, khi tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, nhà nước vẫn hưởng quyền đặc miễn tư pháp. Những tranh chấp phát sinh từ mối quan hệ do nhà nước tham gia không thuộc quyền tài phán của bất kì tòa án nước nào. Cũng như tòa án trong nước, tòa án nước ngoài không có quyền thụ lí đơn kiện mà nhà nước là bị cáo, mặc dù đơn kiện đó do công
- dân hay pháp nhân nào đưa ra và cũng không có quyền xét xử nhà nước. Quyền đặc miễn tư pháp của nhà nước trong tư pháp quốc tế còn thể hiện ở chỗ là tài sản của nhà nước được hưởng quyền bất khả xâm phạm. Tài sản của nhà nước không phải là đối tượng của các tranh chấp, các đơn kiện, các chủ nợ không có quyền đòi bồi thường, đòi trang trải nợ từ tài sản của nhà nước. Tóm lại, khi tham gia vào quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế, nhà nước hưởng quyền đặc miễn tư pháp một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, trong thực tiễn tư pháp quốc tế có những trường hợp để đạt được mục đích nhất định nào đó quốc gia nước ngoài có thể từ bỏ quyền đặc miễn tư pháp đối với tài sản này hay tài sản khác của nhà nước. Việc từ bỏ này hoàn toàn xuất phát từ lợi ích chung của nhà nước và là tự nguyện. Việc từ bỏ đặc miễn tư pháp đối với tài sản nào đó phải được thể hiện cụ thể trong văn kiện quốc tế hoặc trong văn kiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với những tài sản mà nhà nước đã tự nguyện từ bỏ đặc miễn tư pháp thì công dân hoặc pháp nhân nước ngoài có quyền kiện đòi thỏa mãn yêu cầu và tòa án nước ngoài có quyền xét xử vụ kiện có liên quan tới tài sản đó. III. XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ 1. Khái niệm và nguyên nhân của xung đột pháp luật Như phần trên đã nêu, đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là những quan hệ dân sự, kinh doanh, hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự v.v… có yếu tố nước ngoài. Quan hệ có yếu tố nước ngoài là quan hệ liên quan tới hai nước trở lên. Nếu quan hệ có yếu tố nước ngoài không được các quy phạm của điều ước quốc tế (tức là những quy phạm thống nhất do các nước cùng đề ra) điều chỉnh thì phát sinh vấn đề là căn cứ vào hệ thống luật của nước hữu quan nào để xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quan hệ ấy. Ví dụ: một công ty xuất nhập khẩu Việt Nam kí hợp đồng mua xe máy của một công ty Nhật Bản. Do giữa Việt Nam và Nhật Bản chưa kí kết điều ước quốc tế để điều chỉnh quan hệ mua bán này nên cả luật Việt Nam và luật của Nhật đều có thể đem áp dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh từ hợp đồng đó. Hoặc là một nam thanh niện Thụy Điển kết hôn với một thiếu nữ Nga mà Nga và Thụy Điển chưa kí kết điều ước quốc tế điều chỉnh vấn đề hôn nhân và gia đình trong
- quan hệ giữa hai nước thì cả luật Nga và luật Thụy Điển đều có thể áp dụng để điều chỉnh vấn đề hôn nhân này. Khi nội dung của luật Việt Nam và luật của Nhật bản về quan hệ mua bán, nội dung của luật Nga và luật Thụy Điển về hôn nhân là giống nhau và cách giải thích, áp dụng các quy phạm luật ở các nước này là hoàn toàn giống nhau thì vấn đề chọn luật để áp dụng không phải đặt ra, vì áp dụng luật của nước nào cũng mang lại kết quả như nhau. Song, trên thực tế nội dung luật của các nước không hề giống nhau, kể cả các nước có cùng một chế độ chính trị, kinh tế, xã hội. Ví dụ: theo luật của các nước xã hội chủ nghĩa, còn đẻ cũng như con nuôi, nam nữ đều có quyền bình đẳng với nhau trong quan hệ thừa kế. Ngược lại, ở các nước tư bản chủ nghĩa luật quy định con đẻ được hưởng quyền ưu đãi hơn con nuôi, nữ không được hưởng quyền thừa kế bình đẳng với nam giới. Điều kiện tuổi tác để kết hôn của các nước cũng quy định khác nhau. Theo Điều 114 Bộ luật Dân sự Pháp tuổi kết hôn của nam là 18, nữ là 15; theo luật của Anh tuổi kết hôn của cả nam và nữ là 16. Kể cả khi hai nước sử dụng cùng một bộ luật, ví dụ: Bỉ áp dụng nguyên Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 không hề có sửa đổi, nhưng do cách giải thích và áp dụng các quy phạm của bộ luật này ở Pháp và Bỉ không giống nhau nên kết quả mang lại hoàn toàn khác nhau. Có sự khác nhau về nội dung pháp luật cũng như cách giải thích và áp dụng luật ở các nước là vì những lí do sau đây: Một là, do trên thế giới tồn tại những chế độ chính trị, xã hội khác nhau dẫn đến sự hình thành các hệ thống luật khác nhau. Trong xã hội tư bản, giai cấp thống trị là giai cấp tư sản, còn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp thống trị là giai cấp công nhân đại diện cho quyền lợi của nhân dân lao động. Lợi ích, ý chí của các giai cấp này đối lập nhau, mâu thuẫn nhau. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành luật nên từ đó hình thành hai hệ thống pháp luật khác nhau. Hai là, do sự phát triển không đồng đều về chính trị, kinh tế, xã hội ở các nước. Pháp luật phản ánh tình hình chính trị, kinh tế, xã hội v.v…, do điều kiện kinh tế quyết định mà điều kiện kinh tế, chính trị ở các nước khác nhau dẫn đến việc ban hành các quy phạm luật ở các nước không giống nhau.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Câu hỏi tham khảo môn Pháp Luật Đại Cương
21 p | 5237 | 1988
-
Giáo trình Pháp luật đại cương - TS. Nguyễn Hợp Toàn
328 p | 5482 | 1375
-
Tài liệu hướng dẫn học tập Pháp luật đại cương - LS.ThS. Bùi Ngọc Tuyền
158 p | 1542 | 781
-
đề thi mẫu môn thi pháp luật đại cưong
3 p | 1762 | 412
-
Giáo trình Pháp luật đại cương - Phạm Thị Thu Thanh
82 p | 917 | 207
-
Giáo trình môn Pháp luật đại cương
147 p | 510 | 99
-
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản lần thứ ba có bổ sung, chỉnh lý): Phần 1 - TS. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên) (ĐH Kinh tế Quốc dân)
192 p | 263 | 80
-
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản năm 2021): Phần 1 - TS. Trần Thành Thọ
116 p | 577 | 54
-
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản lần thứ ba có bổ sung, chỉnh lý): Phần 2 - TS. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên) (ĐH Kinh tế Quốc dân)
199 p | 182 | 32
-
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản năm 2021): Phần 2 - TS. Trần Thành Thọ
120 p | 74 | 28
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 2 - TS. Bùi Ngọc Tuyền
102 p | 233 | 24
-
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản lần thứ 5) : Phần 1 - Nguyễn Hợp Toàn
194 p | 36 | 19
-
Giáo trình Pháp lý đại cương: Phần 1 - Trường Đại học Ngoại thương
127 p | 81 | 18
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 1 - ThS. Bùi Thị Thanh Tuyết (Chủ biên)
123 p | 58 | 9
-
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản năm 2019): Phần 1 - TS. Trần Thành Thọ
116 p | 49 | 7
-
Giáo trình Pháp Luật đại cương: Phần 1 - PGS. TS. Lê Thị Thanh
144 p | 13 | 7
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 1 - TS. Nguyễn Hợp Toàn
299 p | 230 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn