intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Quản trị học (Nghề: Kế toán doanh nghiệp) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình

Chia sẻ: Calliope09 Calliope09 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:73

60
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Quản trị học cung cấp cho người học các kiến thức: Tổng quan về quản trị học; Thông tin và quyết định quản trị; Chức năng hoạch định; Chức năng tổ chức; Chức năng lãnh đạo; Chức năng kiểm tra. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Quản trị học (Nghề: Kế toán doanh nghiệp) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH GIÁO TRÌNH MÔN HỌC: THỐNG KÊ DOANH NGHIỆP NGHỀ: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG Ban hành kèm theo Quyết định số:     /QĐ­TCGNB  ngày…….tháng….năm 20  của Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình 1
  2. Ninh Bình, năm 2018 TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được  phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về  đào tạo và tham  khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử  dụng với mục đích kinh   doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2
  3. LỜI NÓI ĐẦU Quản trị học là môn học cơ sở cho khối ngành kinh tế, trang bị những kiến  thức cơ  bản về  quản trị  học làm cơ  sở  cho việc học tập các học phần chuyên  sâu về quản trị chuyên ngành. Nhằm đáp ứng mục tiêu trang bị cho học viên kiến thức cơ bản về quản trị  học và kỹ năng vận dụng được các quy luật, các nguyên tắc trong công tác quản  trị   ở  các tổ  chức, đồng thời đáp  ứng được nhu cầu học tập của học sinh, sinh   viên, Khoa Kinh tế  trường Cao đẳng Cơ  giới Ninh Bình biên soạn Giáo trình  Quản trị học. Cuốn sách gồm 6 chương: Chương 1: Tổng quan về quản trị học Chương 2: Thông tin và quyết định quản trị Chương 3: Chức năng hoạch định Chương 4: Chức năng tổ chức Chương 5: Chức năng lãnh đạo Chương 6: Chức năng kiểm tra Nội dung biên soạn theo hình thức tích hợp giữa lý thuyết và thực hành.   Trong quá trình biên soạn, nhóm tác giả  đã tham khảo nhiều tài liệu liên quan   của các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp và cập nhật những kiến thức mới   nhất. Mặc  dù   đã  có   nhiều  cố   gắng  nhưng  không  tránh  khỏi  những  thiếu  sót.  Nhóm tác giả rất mong nhận được sự  đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và   các bạn học sinh cùng đông đảo bạn đọc để giáo trình ngày càng hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn! Tập thể tác giả Phạm Thị Hồng Phạm Thị Thu Hiền Đinh Thị Như Quỳnh 3
  4. MỤC LỤC 4
  5. CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Quản trị học Mã số môn học: MH 32 Thời gian thực hiện môn học: 45 giờ; ( Lý thuyết: 25 giờ;  Thực hành, thảo  luận, bài tập: 18 giờ;  Kiểm tra: 2 giờ) I. Vị trí, tính chất môn học:  ­ Vị trí: Môn học được bố trí giảng dạy sau khi học xong các môn học cơ  sở; ­ Tính chất: Là môn chuyên môn nghề. II. Mục tiêu môn học: ­ Về kiến thức: + Trình bày được khái niệm, bản chất, vai trò và chức năng của quản trị; + Trình bày được hệ thống thông tin trong quản trị. ­ Về kỹ năng: + Phân tích các vấn đề kinh tế cơ bản  trong và ngoài  doanh nghiệp; + Lập chiến lược phát triển doanh nghiệp trung và dài hạn; + Lập kế  hoạch tác nghiệp cho từng giai đoạn, từng lĩnh vực, từng công  việc cụ thể của quá trình sản xuất kinh doanh; + Tổ chức cơ cấu  bộ máy doanh nghiệp gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả; + Lãnh đạo cơ  cấu bộ  máy doanh nghiệp hoạt động nhịp nhàng, có hiệu   quả; + Kiểm tra được mọi hoạt động ở các lĩnh vực trong doanh nghiệp. ­ Về  năng lực tự  chủ  và trách nhiệm:  Chủ  động tích cực trong việc học tập,   nghiên cứu môn học, tiếp cận và thảo luận để giải quyết các tình huống quản trị  cụ thể trong lúc thực hành. III. Nội dung môn học 5
  6. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ HỌC Mã chương: QTH01 Giới thiệu: Trang bị cho người học những kiến thức chung về vai trò, chức năng, bản  chất của quản trị  và sự  phát triển của lý thuyết quản trị. Từ  đó giải quyết một  số tình huống quản trị cụ thể. Mục tiêu: ­ Trình bày được các quan niệm về quản trị, bản chất của quản trị;  ­ Trình bày được vai trò và chức năng của quản trị; ­ Trình bày được ảnh hưởng của văn hóa, môi trường tổ chức đến quản trị  tổ chức; ­ Thực hiện các bài tập tình huống trong quản trị; ­ Tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập. Nội dung chính: 1. Khái niệm, bản chất của quản trị, nhà quản trị 1.1. Khái niệm về quản trị Về nội dung, thuật ngữ “quản trị” là một phạm trù khó định nghĩa. Mỗi tác  giả khi đề cập đến quản trị đều có một định nghĩa cho riêng mình. Từ quản trị ­  Management được dịch từ tiếng Anh, do đó có nơi, có lúc có người gọi là quản   lý, có người gọi là quản trị. Mặc dù vậy, thuật ngữ quản lý và quản trị hiện vẫn  được dùng trong những hoàn cảnh khác nhau để  nói lên những nội dung khác   nhau. Nhìn chung, về cơ bản hai từ này đều chỉ một nội dung giống nhau. Quản trị (Management) là từ thường được dùng phổ biến trong nhiều sách  giáo khoa và nhiều tài liệu khác. Nếu xét riêng từng từ một thì ta có thể tạm giải  thích như sau: 6
  7. ­ Quản: là đưa đối tượng vào khuôn mẫu quy định sẵn. Đó là khuôn mẫu  chúng ta phải thực hiện chứ không để  đối tượng tự  do hoạt động một cách tùy  thích. ­ Trị: là dùng quyền lực buộc đối tượng phải làm theo khuôn mẫu đã định.   Nếu đối tượng không thực hiện đóng thì sẽ  áp dụng một hình phạt nào đó đủ  mạnh, đủ sức thuyết phục để buộc đối tượng phải thi hành. Sau đây là những khái niệm về  Quản trị  của một số  tác giả  là Giáo sư,   Tiến sĩ quản trị học trong và ngoài nước. ­ Theo H.Koontz và O’Donenell trong giáo trình Những vấn đề cốt yếu của  quản lý định nghĩa: Có lẽ không có lĩnh vực hoạt động nào của con người quan   trọng hơn là công việc quản lý, bởi vì mọi nhà quản trị   ở  mọi cấp độ  và trong   mọi cơ  sở  đều có một nhiệm vụ  cơ  bản là thiết kế  và duy trì một môi trường   mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các  nhiệm vụ và các mục tiêu đã định. ­ Theo James H.Donnelly, R.James L.Gibson và John M.Ivancevich trong  giáo trình Quản trị học căn bản lại cho rằng, quản trị là một quá trình do một hay   nhiều người thực hiện, nhằm phối hợp các hoạt động của những người khác để  đạt được những kết quả mà một người hành động riêng rẽ không làm được. ­ Stoner và Robbins lại cho rằng: Quản trị là một tiến trình bao gồm việc  hoạch định, tổ  chức, quản trị  con người và kiểm tra các hoạt động trong một  đơn vị, một cách có hệ thống, nhằm hoàn thành mục tiêu của đơn vị đó. ­ Lý thuyết hành vi lại định nghĩa: Quản trị là hoàn thành công việc thông  qua con người. ­ Theo Thầy Nguyễn Tiến Phước: Quản trị là quá trình lập kế  hoạch, tổ  chức, bố  trí nhân sự, lãnh đạo và kiểm soát công việc và những nỗ  lực của con   người, đồng thời vận dụng một cách có hiệu quả mọi tài nguyên, để hoàn thành  các mục tiêu đã định. ­ Theo Giáo sư  Vũ Thế  Phú: Quản trị  là một tiến trình làm việc với con   người và thông qua con người để hoàn thành mục tiêu của tổ chức trong một môi  trường luôn luôn thay đổi. Trọng tâm của tiến trình này là sử dụng có hiệu quả  những nguồn tài nguyên có hạn. 7
  8. Từ  các khái niệm trên, chúng ta có thể khái quát: Quản trị  là quá trình tác   động thường xuyên, liên tục và có tổ  chức của chủ thể quản trị đến đối tượng   quản trị nhằm phối hợp các hoạt động giữa các bộ phận, các cá nhân, các nguồn  lực lại với nhau một cách nhịp nhàng, ăn khớp để đạt đến mục tiêu của tổ chức   với hiệu quả cao nhất. 1.2. Bản chất của quản trị Quản trị  thực chất là một quá trình tác động mà quá trình đó không phải  ngẫu nhiên được tiến hành một cách có tổ chức và có chủ đích của chủ thể quản   trị được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục nhằm làm cho các hoạt động  của tập thể mang lại kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất, thỏa mãn ngày càng   nhiều hơn nhu cầu về vật chất và tinh thần của cả cộng đồng. 1.3. Nhà quản trị Đó là tất cả những cá nhân thực hiện những chức năng nhất định trong bộ  máy quản trị   ở  các cấp; là những người sử  dụng các tài nguyên có tổ  chức để  đạt được mục đích; là những người lãnh đạo đưa ra các quyết định; là những   người làm công tác quản trị của tổ chức. Nhà quản trị  hoặc quản trị  viên làm việc cùng với nhau và thông qua   những người khác. Những người khác không chỉ  là thuộc cấp bên trong của tổ  chức, mà còn bao gồm những nhân sự bên ngoài hệ thống tổ chức của mình như  khách hàng, nhà cung cấp, đại diện các hiệp hội.  Trọng trách của nhà quản trị  là cân bằng các mục tiêu đối kháng và xếp   đặt  ưu tiên giữa các mục tiêu đã định. Nhà quản trị  cần phải tư  duy, phân tích,   để nắm chắc các vấn đề. Cần khái quát để tổng hợp và kết hợp các tương quan  nhiệm vụ khác nhau. 2. Vai trò và chức năng của quản trị 2.1. Vai trò 2.1.1. Vai trò quan hệ với con người Sống và làm việc trong một tổ chức, mọi cá nhân thường có mối quan hệ  chặt chẽ và mật thiết với nhau, nhưng với tư cách là nhà  quản trị họ thường có  những vai trò cơ bản sau: 8
  9. ­ Vai trò đại diện, hay tượng trưng có tính chất nghi lễ trong tổ chức. ­ Vai trò của người lãnh đạo, nó đòi hỏi nhà  quản trị  phải phối hợp và  kiểm tra công việc của nhân viên dưới quyền. ­ Vai trò liên hệ, quan hệ  với người khác,  ở  trong hay ngoài tổ  chức, để  nhằm góp phần hoàn thành công việc được giao cho đơn vị của họ. 2.1.2. Vai trò thông tin Trước hết, nhà quản trị có vai trò thu thập thông tin và tiếp nhận thông tin   liên quan đến tổ chức và hoạt động của đơn vị. Nhà quản trị đảm nhiệm vai trò  thu thập thông tin bằng cách thường xuyên xem xét, phân tích bối cảnh xung   quanh tổ chức để nhận ra những tin tức, những hoạt động và sự kiện có thể đem  lại cơ hội tốt hay sự đe dọa đối với các hoạt động của tổ  chức. Công việc này  được thực hiện qua việc đọc báo chí, văn bản và qua trao đổi, tiếp xúc với mọi   người. Vai trò thông tin thứ hai của nhà quản trị là phổ  biến những thông tin liên  hệ đến người có liên quan, có thể là thuộc cấp, người đồng cấp hay thượng cấp. Vai trò thứ ba mà nhà quản trị phải đảm nhiệm là vai trò thay mặt tổ chức  cung cấp thông tin cho các bộ phận trong cùng một đơn vị, hay cho các cơ  quan  bên ngoài. Mục tiêu của sự  thay mặt phát biểu này có thể  là để  giải thích, bảo   vệ hay tranh thủ thêm sự ủng hộ cho tổ chức. 2.1.3 Vai trò quyết định Vai trò chủ trì xuất hiện khi nhà quản trị tìm cách cải tiến hoạt động của  tổ chức. Mục đích của vai trò này là ra những chuyển biến tốt hơn trong đơn vị.  Việc này có thể  thực hiện bằng cách áp dụng một kỹ  thuật mới vào một tình  huống cụ thể, hoặc nâng cấp điều chỉnh một kỹ thuật đang áp dụng... Các tình huống rủi ro, sự cố, xáo trộn bất ngờ... là những điều không tránh  khỏi. Trong vai trò này, nhà quản trị  là người phải kịp thời đối phó với những   biến cố  bất ngờ  nhằm đưa tổ  chức sớm trở  lại sự   ổn định. So với các vai trò  khác, vai trò này chiếm vị  trí  ưu tiên hơn trong các quyết định mà nhà quản trị  cần phải giải quyết. Vai trò của các nhà quản trị trong các tình huống này là phải  nhanh nhạy, kịp thời  và quyết  đoán   để  đưa tổ  chức trở  lại hoạt  động bình  thường và hạn chế  đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể  có, hoặc là tận   dụng đến mức tối đa những cơ hội mới, những yếu tố mới để phát triển. 9
  10. Khi nhà quản trị   ở  trong tình huống phải quyết định nên phân phối tài   nguyên cho ai và với số lượng như thế nào, thì đó là lúc nhà quản trị đóng vai trò  nhà phân phối tài nguyên. Tài nguyên đó có thể  là tiền, thời gian, quyền hành,  trang bị hay con người. Thông thường, khi tài nguyên dồi dào, mọi nhà quản trị  đều có thể  thực hiện vai trò này một cách dễ  dàng. Nhưng khi tài nguyên khan  hiếm, quyết định của nhà quản trị  trong vấn đề  này sẽ  khó khăn hơn, vì nó có  thể   ảnh hưởng lớn đến kết quả  hoạt động của một đơn vị  hay thậm chí của  toàn tổ chức. Cuối cùng, nhà quản trị còn đóng vai trò của một nhà thương thuyết, đàm   phán thay mặt cho tổ chức trong quá trình hoạt động. Các cuộc thương lượng có   thể là về công việc, về tiền, thời gian hay bất cứ điều gì có ảnh hưởng đến bộ  phận của mình. Mục đích của thương lượng là phải tìm ra giải pháp chấp nhận   được cho tất cả các bên có liên quan và điều hiển nhiên là phải có lợi nhất cho  đơn vị của mình. 2.2. Chức năng quản trị ­ Lập kế  hoạch:  Đây là chức năng đầu tiên trong tiến trình quản trị  bao  gồm: việc xác định mục tiêu hoạt động, xây dựng chiến lược tổng thể  để  đạt   được mục tiêu và thiết lập một hệ  thống các kế  hoạch để  phối hợp các hoạt   động. Lập kế hoạch liên quan đến dự báo và tiên liệu tương lai, những mục tiêu  cần đạt được và những phương thức để  đạt được mục tiêu đó. Nếu không lập  kế hoạch thận trọng và đóng đắn thì dễ dẫn đến thất bại trong quản trị. ­ Tổ chức: Đây là chức năng thiết kế cơ cấu, tổ chức công việc và tổ chức  nhân sự cho một tổ chức. Công việc này bao gồm: xác định những việc phải làm,  người nào phải làm, phối hợp hoạt động ra sao, bộ  phận nào được hình thành,  quan hệ giữa các bộ phận được thiết lập thế nào và hệ thống quyền hành trong  tổ chức đó được thiết lập ra sao. ­ Điều khiển (Có tác giả còn gọi là chức năng lãnh đạo hoặc chỉ huy). Một  tổ chức bao giờ cũngg gồm nhiều người, mỗi một cá nhân có cá tính riêng, hoàn  cảnh riêng và vị  trí khác nhau. Nhiệm vụ  của lãnh đạo là phải biết động cơ  và   hành vi của những người dưới quyền, biết cách động viên, điều khiển, lãnh đạo   những người khác, chọn lọc những phong cách lãnh đạo phù hợp với những đối  tượng và hoàn cảnh cùng sở  trường của người lãnh đạo, nhằm giải quyết các  xung đột giữa các thành phần. 10
  11. ­ Kiểm tra – kiểm soát: Sau khi đã đề  ra những mục tiêu, xác định những   kế  hoạch, vạch rõ việc xếp đặt cơ  cấu, tuyển dụng, huấn luyện và động viên  nhân sự, công việc còn lại vẫn còn có thể thất bại nếu không kiểm tra. Công tác   kiểm tra bao gồm việc xác định thành quả, so sánh thành quả  thực tế với thành   quả đã được xác định và tiến hành các biện pháp sửa chữa nếu có sai lệch, nhằm  đảm bảo cho tổ chức đang trên đường đi đóng hướng để hoàn thành mục tiêu. 3. Sự phát triển của lý thuyết quản trị 3.1. Lý thuyết cổ điển về quản trị Lý thuyết cổ điển về quản trị  là thuật ngữ được dùng để chỉ những quan   điểm về  tổ chức và quản trị  được đưa ra ở  Châu âu và Hoa kỳ  vào những năm  cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong quá trình hình thành các lý thuyết cổ  điển có công đóng góp của nhiều tác giả. Nhìn chung có thể đưa ra hai dòng lý   thuyết quản trị cổ điển chính: Lý thuyết quản trị khoa học Có rất nhiều tác giả về dòng lý thuyết này, có thể kể ra đây một số tác giả  chính: ­ Charles Babbage (1792 ­ 1871):  ông là một nhà toán học Anh tìm cách  tăng năng suất lao động. Cùng với Adam Smith ông chủ trương chuyên môn hoá  lao động, dùng toán học để  tính toán cách sử  dụng nguyên vật liệu tối ưu. Ông   cho rằng, các nhà quản trị phải nghiên cứu thời gian cần thiết để hoàn thành một  công việc, từ  đó  ấn định tiêu chuẩn công việc, đưa ra việc thưởng cho những  công nhân vượt tiêu chuẩn. Ông cũngg là người đầu tiên đề  nghị  phương pháp  chia lợi nhuận để duy trì quan hệ giữa công nhân và người quản lý. ­ Frank & Lilian Gilbreth.   Frank (1886 ­ 1924) và Lilian Gilbreth (1878 –  1972) là những người đầu tiên  trong việc nghiên cứu thời gian ­ động tác và phát  triển lý thuyết quản trị khác hẳn Taylor. Hai ông bà phát triển một hệ thống các   thao tác để  hoàn thành một công tác. Hai ông bà đưa ra một hệ  thống xếp loại   bao trùm các động tác như  cách nắm đồ  vật, cách di chuyển…Hệ  thống các  động tác khoa học nêu lên những tương quan giữa loại động tác và tần số với sự  mệt ngọc trong lao động, xác định những động tác dư  thừa làm phí phạm năng  11
  12. lực, loại bỏ những động tác dư thừa, chú tâm vào những động tác thích hợp làm  giảm mệt mỏi và tăng năng suất lao động. ­ Henry Gantt  (1861 ­ 1919): ông vốn là một   kỹ  sư  chuyên về  hệ  thống  kiểm soát trong các nhà máy. Ông phát triển sơ  đồ  Gantt mô tả  dòng công việc  cần để  hoàn thành một nhiệm vụ, vạch ra những giai đoạn của công việc theo   kế  hoạch, ghi cả  thời gian hoạch định và thời gian thực sự. Ngày nay phương   pháp Gantt là một công cụ quan trọng trong quản trị tác nghiệp. Gantt cũngg đưa  ra một hệ  thống chỉ  tiêu công việc và hệ  thống khen thưởng cho công nhân và  quản trị viên đạt và vượt chỉ tiêu. Tuy nhiên, đại biểu ưu tú nhất của trường phái này là Fededric W. Taylor   (1856 ­ 1915) được gọi là “cha đẻ” của phương pháp quản trị khoa học. Tên gọi   của lý thuyết này xuất phát từ  nhan đề  trong tác phẩm của Taylor: “các nguyên  tắc quản trị  một cách khoa học” (Principles of scientific management) xuất bản  lần đầu ở Mỹ vào năm 1911. Trong thời gian làm nhiệm vụ  của nhà quản trị   ở  các xí nghiệp, nhất là  trong các xí nghiệp luyện kim ông đã tìm ra và chỉ  trích mãnh liệt các nhược   điểm trong cách quản lý cũ, theo ông các nhược điểm chính là: + Thuê mướn công nhân trên cơ sở ai đến trước mướn trước, không lưu ý  đến khả năng và nghề nghiệp của công nhân + Công tác huấn luyện nhân viên hầu như không có hệ thống tổ chức học  việc + Công việc làm theo thói quen, không có tiêu chuẩn và phương pháp.  Công nhân tự mình định đoạt tốc độ làm việc. + Hầu hết các công việc và trách nhiệm đều được giao cho người công  nhân + Nhà quản trị làm việc bên cạnh người thợ, quên mất chức năng chính là   lập kế hoạch và tổ  chức công việc. Tính chuyên nghiệp của nhà quản trị  không  được thừa nhận Sau đó ông nêu ra 4 nguyên tắc quản trị khoa học như sau: + Phương pháp khoa học cho những thành tố  cơ  bản trong công việc của   công nhân thay cho phương pháp cũ dựa vào kinh nghiệm 12
  13. + Xác định chức năng hoạch định của nhà quản trị, thay vì để công nhân tự  ý lựa chọn phương pháp làm việc riêng của họ + Lựa chọn và huấn luyện công nhân, phát triển tinh thần hợp tác đồng  đội, thay vì khích lệ những nỗ lực cá nhân riêng lẻ của họ + Phân chia công việc giữa nhà quản trị và công nhân để  mỗi bên làm tốt  nhất công việc của họ chứ không phải chỉ đổ lên đầu công nhân như trước kia Công tác quản trị tương ứng là: + Nghiên cứu thời gian và các thao tác hợp lý nhất để thực hiện công việc + Dùng cách mô tả  công việc để  chọn lựa công nhân, thiết lập hệ  thống  tiêu chuẩn và hệ thống huấn luyện chính thức + Trả  lương theo nguyên tắc khuyến khích theo sản lượng, bảo đảm an   toàn lao động bằng dụng cụ thích hợp. + Thăng tiến trong công việc, chú trọng lập kế  hoạch và tổ  chức hoạt  động Tóm lại: Trường phái quản tị khoa học có nhiều đóng góp có giá trị cho sự  phát triển của tư tưởng quản trị, họ phát triển kỹ năng quản trị qua phân công và  chuyên môn hoá quá trình lao động, hình thành quy trình sản xuất dây chuyền.   Họ  là những người đầu tiên nêu lên tầm quan trọng của việc tuyển chọn và  huấn luyện nhân viên, đầu tiên dùng đãi ngộ  để  tăng năng suất lao động. Họ  cũngg là những người nhấn mạnh việc giảm giá thành để  tăng hiệu quả, dùng  những phương pháp có hệ  thống và hợp lý để  giải quyết các vấn đề  quản trị,  cuối cùng cũngg chính họ  coi quản trị  như  là một đối tượng nghiên cứu khoa  học. Tuy vậy, trường phái này cũngg có  những giới hạn nhất định. Trước hết  trường phái này chỉ  áp dụng tốt trong trường hợp môi trường  ổn định, khó áp  dụng trong môi trường phức tạp nhiều thay đổi. Thứ  đến, họ  quá đề  cao bản  chất kinh tế và duy lý của con người mà đánh giá thấp nhu cầu xã hội và tự thể  hiện của con người, do vậy vấn  đề  nhân bản ít  được quan tâm. Cuối cùng  trường phái này cố  áp dụng những nguyên tắc quản trị  phổ  quát cho mọi hoàn   cảnh mà không nhận thấy tính đặc thù của môi trường và họ cũngg quá chú tâm  đến vấn đề kỹ thuật Trường phái quản trị hành chính 13
  14. Trong khi trường phái quản trị  khoa học chú trọng đến hợp lý hoá và  những nhiệm vụ  mà các công nhân phải làm thì trường phái quản trị  tổng quát  (hay hành chính) lại phát triển những nguyên tắc quản trị  chung cho cả  một tổ  chức, chính vì thế trường phái này còn được gọi là tư tưởng quản trị tổ chức cổ  điển. Đây là tên gọi để  chỉ  các ý kiến về  cách thức quản trị  doanh nghiệp do   Henry Fayol    ở  Pháp và Max Weber  ở  Đức nêu lên, cũngg cùng với thời kỳ  Taylor ở Mỹ. ­ Max Weber (1864 ­ 1920): Là một nhà xã hội học người Đức, có nhiều  đóng góp vào lý thuyết quản trị thông qua việc phát triển một tổ chức quan liêu  bàn giấy là phương thức hợp lý tổ  chức một công ty phức tạp. Khái niệm quan   liêu bàn giấy được định nghĩa là hệ  thống chức vụ  và nhiệm vụ  được xác định   rõ  ràng, phân công, phân  nhiệm chính xác, các  mục têu phân  biệt, hệ  thống   quyền hành có tôn ty trật tự. Cơ sở tư tưởng của Weber là ý niệm thẩm quyền  hợp pháp và hợp lý. Ngày nay thuật ngữ    “quan liêu” gợi lên hình  ảnh một tổ  chức cứng nhắc, lỗi thời, bị chìm ngập trong thủ  tục hành chính phiền hà và nó  hoàn toàn xa lạ với tư tưởng ban đầu của Weber. Thực chất những đặc tính về  chủ nghĩa quan liêu của Weber là: + Phân công lao động với thẩm quyền và trách nhiệm được quy định rõ và  được hợp pháp hoá như nhiệm vụ chính thức. + Các chức vụ  được thiết lập theo hệ  thống chỉ  huy, mồi chức vụ  nằm   dưới một chức vụ khác cao hơn. + Nhân sự được tuyển dụng và thăng cấp theo khả  năng qua thi cử, huấn  luyện và kinh nghiệm. + Các hành vi hành chính và các quyết định phải thành văn bản. + Quản trị phải tách rời sở hữu Các nhà quản trị phải tuân thủ điều lệ và thủ tục. Luật lệ phải công bằng  và được áp dụng thống nhất cho mọi người. Theo Maz Weber thì  quyền hành căn cứ trên chức vụ. Ngược lại chức vụ  tạo ra quyền hành. Vì vậy, việc xây dựng một hệ thống chức vụ và quyền hành   phải căn cứ vào những nguyên tắc sau: 14
  15. + Mọi hoạt động của tổ chức đều phải chuyển vào văn bản quy định + Chỉ những người có chức vụ mới có quyền quyết định + Chỉ có những người có năng lực mới được giao chức vụ + Mọi quyết định trong tổ chức phải mang tính khách quan ­ Henry Fayol (1841 ­ 1925): Là một nhà quản trị  hành chính người Pháp.  Với   tác   phẩm   “Quản   trị   công   nghiệp   và   quản   trị   tổng   quát   (administration   industrielle et generall) (1916)”. Khác hẳn với Taylor, cho rằng năng suất lao  động kém là do công nhân không biết cách làm việc, và không được kích thích  kinh tế  đầy đủ, Fayol cho rằng năng suất lao động của con người làm việc   chung trong tập thể  tuỳ  thuộc vào sự  sắp xếp, tổ  chức của nhà quản trị. Việc   sắp xếp tổ chức đó được Fayol gọi là việc quản trị tổng quát và việc này cũngg  quan trọng như  5 việc khác trong cơ  sở  sản xuất kinh doanh: (1) sản xuất, (2)   tiếp thị  hay Marketing, (3) tài chính, (4) quản lý tài sản và con người và (5) kế  toán ­ thống kê. Để  có thể  làm tốt việc sắp xếp, tổ  chức xí nghiệp Fayol đã đề  nghị  các  nhà quản trị nên theo 14 nguyên tắc quản trị : + Phải phân công lao động. + Phải xác định rõ mối quan hệ giữa quyền hành và trách nhiệm. + Phải duy trì kỷ luật trong xí nghiệp. + Mỗi công nhân chỉ nhận lệnh từ một cấp chỉ huy  trực tiếp duy nhất. + Các nhà quản trị phải thống nhất ý kiến khi chỉ huy. + Quyền lợi chung phải luôn luôn đặt lên quyền lợi riêng + Quyền lợi kinh tế phải tương xứng với công việc + Quyền quyết định trong doanh nghiệp phải tập trung về một mối. + Doanh nghiệp phải được tổ  chức theo cấp bậc từ giám đốc xuống đến  công nhân. + Sinh hoạt trong xí nghiệp phải có trật tự  + Sự đối xử trong xí nghiệp phải công bằng. + Công việc của mỗi người trong xí nghiệp phải ổn định + Tôn trọng sáng kiến  của mọi người + Doanh nghiệp phải xây dựng cho được tinh thần tập thể. 15
  16. Tóm lại: Trường phái hành chính chủ trương cho rằng, năng suất lao động   sẽ  cao trong một tổ  chức được sắp đặt hợp lý. Nó đóng góp rất nhiều trong lý  luận cũngg như thực hành quản trị, nhiều nguyên tắc quản trị của tư tưởng này   vẫn còn được áp dụng đến ngày nay. Các hình thức tổ  chức, các nguyên tắc tổ  chức, quyền lực và sự uỷ quyền… đang ứng dụng phổ biến hiện nay chính là sự  đóng góp quan trọng của trường phái quản trị hành chính. Hạn chế của trường phái này là các tư tưởng được thiết lập trong một tổ  chức ổn định, ít thay đổi, quan điểm quản trị cứng rắn, ít chú ý đến con người và  xã hội nên dễ dẫn tới việc xa rời thực tế. Vấn đề  quan trọng là phải biết cách  vận dụng các nguyên tắc quản trị  cho phù hợp với các yêu cầu thực tế, chứ  không phải là từ bỏ các nguyên tắc đó. 3.2. Lý thuyết tâm lý xã hội trong quản trị Lý thuyết tâm lý xã hội trong quản trị, còn gọi là lý thuyết hành vi, là   những quan điểm quản trị  nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố  tâm lý, tình cảm,   quan hệ xã hội của con người trong công việc. Lý thuyết này cho rằng hiệu quả  của quản trị do năng suất lao động quyết định, nhưng năng suất lao động không  chỉ do các yếu tố vật chất quyết định mà còn do sự thoả mãn các nhu cầu tâm lý  xã hội của con người. Lý thuyết này bắt đầu xuất hiện ở Mỹ trong thập niên 30, được phát triển  mạnh bởi các nhà tâm lý học trong thập niên 60, và hiện nay vẫn còn được  nghiên cứu tại nhiều nước phát triển nhằm tìm ra những hiểu biết đầy đủ  về  tâm hồn phức tạp của con người, một yếu tố quan trọng để quản trị . Trường phái này có các tác giả sau: ­ Robert owen (1771 ­ 1858): Là kỹ nghệ gia người Anh, là người đầu tiên  nói đến nhân lực trong tổ chức. Ông chỉ trích các nhà công nghiệp bỏ tiền ra phát  triển máy móc nhưng lại không cải tiến số phận của những “máy móc người” ­ Hugo Munsterberg (1863 ­ 1916): Nghiên cứu tâm lý ứng dụng trong môi  trường tổ chức, ông được coi là cha đẻ của ngành tâm lý học công nghiệp. Trong   tác phẩm nhan đề  “Tâm lý học và hiệu quả  trong công nghiệp” xuất bản năm   1913, ông nhấn mạnh là phải nghiên cứu một cách khoa học tác phong của con  người để  tìm ra những mẫu mực chung và giải thích những sự  khác biệt. Ông  16
  17. cho rằng năng suất lao động sẽ  cao hơn nếu công việc giao phó cho họ  được  nghiên cứu phân tích chu đáo, và hợp với những kỹ  năng cũngg như  tâm lý của  họ. ­ Mary Parker Follett  (1863 ­ 1933):  Là nhà nghiên cứu quản trị  ngay từ  những năm 20 của thế  kỷ  XX đã chú ý đến tâm lý trong quản trị, bà có nhiều   đóng góp có giá trị về nhóm lao động và quan hệ xã hội trong quản trị.  ­ Abraham Maslow  (1908 ­ 1970): Là nhà tâm lý học đã xây dựng một lý  thuyết về nhu cầu của con người gồm 5 bậc được xếp từ thấp đến cao theo thứ  tự: (1) nhu cầu vật chất, (2) nhu cầu an toàn, (3) nhu cầu xã hội, (4) nhu cầu   được tôn trọng và (5) nhu cầu tự hoàn thiện. ­ Donghlas Mc Gregor (1906 ­ 1964): Mc Gregor cho rằng các nhà quản trị  trước đây đã tiến hành các cách thức quản trị trên những giả  thuyết sai lầm về  tác phong và hành vi của con người. Những giả  thuyết đó cho rằng phần đông  mọi người đều không thích làm việc, thích được chỉ  huy hơn là tự  chịu trách   nhiệm, và hầu hết mọi người làm việc vì lợi ích vật chất, và như  vậy các nhà   quản trị  đã xây dựng những bộ  máy tổ  chức với quyền hành tập trung đặt ra  nhiều quy tắc thủ tục, đồng thời với một hệ thống kiểm tra giám sát chặt chẽ.   Gregor gọi những giả  thuyết đó là X, và đề  nghị  một loạt giả  thuyết khác mà  ông gọi là Y. Thuyết Y cho rằng con người sẽ  thích thú với công việc nếu có  được những thuận lợi và họ có thể đóng góp nhiều hơn cho tổ chức. Mc Gregor   cho rằng thay vì nhấn mạnh đến cơ  chế  kiểm tra thì nhà quản trị  nên quan tâm  nhiều hơn đến sự phối hợp hoạt động ­ Từ  những kết quả  nghiên cứu tại nhà máy Hawthorne do  Elton Mayo  (1880 ­ 1949) Giáo sư của đại học kinh doanh Havard nổi tiếng  ở Mỹ thực hiện   và trải qua nhiều kết quả nghiên cứu thực nghiệm khác của các nhà tâm lý công   nghiệp, người ta đã cho rằng sự thoả mãn các nhu cầu tâm lý của con người như  muốn được người khác quan tâm, muốn được người khác kính trọng, muốn có  vai trò quan trọng trong sự  nghiệp chung, muốn làm việc trong bầu không khí   thân thiện giữa các đồng sự… có ảnh hưởng lớn đến năng suất và thành quả lao  động của con người 17
  18. ­ Quan điểm cơ bản của lý thuyết này cũngg giống như quan điểm của lý  thuyết quản trị khoa học. Họ cho rằng sự quản trị hữu hiệu tuỳ thuộc vào năng  suất lao động của con người làm việc trong tập thể. Tuy nhiên, khác với ý kiến  của lý thuyết quản trị  khoa học, lý thuyết tâm lý xã hội cho rằng, yếu tố  tinh   thần có ảnh hưởng mạnh đối với năng suất của lao động Từ nhận thức đó, các nhà lý thuyết tâm lý quản trị cho rằng các nhà quản   trị nên thay đổi quan niệm về công nhân. Họ không phải là những con người thụ  động, thích được chỉ  huy, thích được giao việc cụ  thể. Trái lại, họ  sẽ  làm việc   tốt hơn, năng suất cao hơn, phát huy sáng kiến nhiều hơn, nếu được đối xử như  những con người trưởng thành, được tự chủ trong công việc. Ngoài ra, nhà quản  trị phải cải thiện mối quan hệ con người trong tổ chức, từ mối quan hệ giữa thủ  trưởng với nhân viên, đến mối quan hệ  giữa các đồng sự  ngang hàng, vì con  người sẽ làm việc tốt hơn trong một môi trường quan hệ thân thiện Tóm lại: Tư tưởng chính của nhóm tâm lý xã hội là: + Doanh nghiệp là một hệ thống xã hội + Khi động viên không chỉ  bằng yếu tố  vật chất mà còn phải quan tâm  đến những nhu cầu xã hội + Tập thể   ảnh hưởng trên tác phong cá nhân (tinh thần, thái độ, kết quả  lao động…) + Lãnh đạo không chỉ là quyền hành do tổ chức mà còn do các yếu tố tâm  lý xã hội của tổ chức chi phối + Các nhóm và các tổ  chức phi chính thức trong xí nghiệp có tác dụng  nhiều đến tinh thần, thái độ và kết quả lao động + Sự  thoả  mãn về  tinh thần có mối liên quan chặt chẽ  đến năng suất và   kết quả lao động + Công nhân có nhiều nhu cầu về tâm lý xã hội + Tài năng quản trị đòi hỏi nhà quản trị phải có chuyên môn kỹ thuật và cả  các đặc điểm về quan hệ tốt với con người Tuy vậy, lý thuyết này cũngg còn những hạn chế nhất định: + Quá chú ý đến yếu tố xã hội ­ khái niệm “con người xã hội” chỉ  có thể  bổ sung cho khái niệm “con người kinh tế” chứ không thể thay thế 18
  19. + Lý thuyết này coi con người là phần tử  trong hệ  thống khép kín mà  không quan tâm đến yếu tố ngoại lai + Không phải lúc nào những “con người thoả mãn” đều là những lao động  có năng suất cao 3.3. Lý thuyết quản trị hiện đại Đây là sự  kế  thừa các tư  tưởng quản trị  truyền thống nhằm  đáp  ứng  những thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh và mức độ  cạnh tranh  ngày càng gay gắt trên thương trường Nội dung: Các lý thuyết này đề  cao tính linh hoạt của tổ  chức, tận dụng   các thành tựu của công nghệ thông tin, thúc đẩy tính độc lập sáng tạo của nhân  viên, tích cực uỷ  quyền và tăng cường truyền thông trong tổ  chức, giảm đến  mức tối đa sự lệ thuộc vào quy chế, nguyên tắc và chuẩn mực cứng nhắc, giảm   thiểu các cấp quản trị trung gian nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng,  phát triển những quan niệm, ý tưởng về sản phẩm Về  phương pháp cụ  thể, lý thuyết quản trị  hiện  đại bao gồm một số  phương pháp quản trị chủ yếu sau: ­ Phương pháp quản trị  theo quá trình: Dưới sức ép của cạnh tranh, đầu  thập niên 1990 nhiều doanh nghiệp Hoa kỳ  đã tiến hành cải tổ  các hoạt động  kinh doanh dựa trên quan điểm coi sự  thoả  mãn nhu cầu riêng của từng khách  hàng là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp. Do đó, cơ cấu tổ chức, nhân sự  ra   quyết định của doanh nghiệp v.v… được tái cấu trúc cho phù hợp với mục tiêu   thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Toàn bộ các hoạt động này được liên kết và   thống nhất thành một “quá trình”, bao gồm toàn bộ các hoạt động từ hình thành ý  tưởng, tổ  chức thực hiện, lựa chọn nhân sự… và hiệu quả  được đo bằng mức   độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Lý thuyết “quản trị  theo quá trình” là phương thức điều hành các hoạt  động kinh doanh ngược lại so với lý thuyết quản trị theo khoa học của Taylor và   các cộng sự của ông. Thay vì lấy công nghệ làm trọng tâm và tiến hành phân nhỏ  quá trình sản xuất, chế tạo thành những thao tác đơn giản, nhằm cho phép người  công nhân nhanh chóng nắm vững kỹ năng và dễ dàng thực hiện công việc của   họ như các nhà quản trị khoa học đã làm. Các nhà “quản trị theo quá trình” đã lấy   19
  20. khách hàng làm trọng tâm và tiến hành liên kết, thống nhất từng thao tác, từng  hoạt động riêng lẻ thành những hoạt động chung nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu   riêng của từng khách hàng cụ  thể. Bởi vậy, các doanh nghiệp đã được tổ  chức   và đang hoạt động theo cơ  cấu tổ chức cũ cần phải được “tái lập” theo cơ  cấu   mới. Cơ  cấu tổ  chức theo “quá trình” được hình thành dựa trên từng quá trình  cụ  thể  , nhằm đáp  ứng yêu cầu của từng khách hàng. Do đó, hình thành những  đội công tác chức năng chéo, có tính linh hoạt rất cao và sau khi hoàn thành  nhiệm vụ của nó, những đội này sẽ tự điều chỉnh hoặc giải thể. Cơ cấu tổ chức   của doanh nghiệp phát triển theo chiều ngang, các cấp quản trị trung gian được   giảm đến mức tối đa và nhân viên phải được trang bị những kiến thức tổng hợp,  có khả năng đưa ra những quyết định độc lập ­ Phương pháp quản trị theo tình huống: Vào giữa những năm 1960, nhiều  nhà lý thuyết và nhà quản trị  đã không thành công khi cố  gắng áp dụng những   quan điểm quản trị  cổ  điển và hệ  thống. Do đó, một số  người cho rằng trong  mỗi tình huống quản trị  cụ  thể  phải có sự  lựa chọn phương pháp quản trị  phù  hợp. Từ đó xuất hiện lý thuyết quản trị theo tình huống Các nhà quản trị và lý thuyết thuộc trường phái này cho rằng trong những   tình huống khác nhau thì phải áp dụng những phương pháp quản trị khác nhau và  các lý thuyết quản trị được áp dụng riêng rẽ hay kết hợp với nhau tuỳ theo từng   vấn đề  cần giải quyết. Do đó, các nhà quản trị  phải dự  kiến và hiểu rõ thực   trạng của vấn đề cần giải quyết trước khi ra quyết định. Cơ sở lý luận của phương pháp này dựa trên quan niệm cho rằng tính hiệu  quả  của từng phong cách, kỹ  năng hay nguyên tắc quản trị sẽ thay đổi tuỳ  theo  từng trường hợp. Các nhà quản trị  theo quan điểm này căn cứ  vào từng tình   huống cụ  thể  để  lựa chọn và sử  dụng những nguyên tắc quản trị  thuộc các   trường phái cổ điển, trường phái hành vi hay quản trị hệ thống mà họ cho là hữu   hiệu nhất với tình huống cần giải quyết. Việc lựa chọn cách quản trị  nào tuỳ  thuộc vào những yếu tố cơ bản sau: + Công nghệ: Đây là phương pháp dùng để  biến các yếu tố  đầu vào của  tổ  chức thành các yếu tố đầu ra. Công nghệ bao gồm tri thức, thiết bị, kỹ thuật   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0