intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Tâm lý học người trưởng thành

Chia sẻ: Loi K | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:99

1.528
lượt xem
78
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình cung cấp những hiểu biết cơ bản về điều kiện phát triển tâm lý và những đặc điểm tâm lý đặc trưng của người trưởng thành để có cách nhìn đúng về các thuận lợi và khó khăn của người trưởng thành, và có cách ứng xử phù hợp với họ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Tâm lý học người trưởng thành

  1. GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC NGƯỜI  TRƯỞNG THÀNH TS. TRẦN THỊ THU MAI Chỉ   đạo   tổ   chức   biên   soạn   giáo   trình:   TS.   Nguyễn   Kim   Hồng,   Hiệu   trưởng   Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định giáo trình: Số 1267/QĐ­ĐHSPdo Hiệu   Trưởng PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng kí ngày 27 tháng 5 năm 2013 Quyết định phê duyệt sử  dụng giáo trình: số  1333/QĐ­ĐHSP do Hiệu Trưởng   PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng kí ngày 06 tháng 6 năm 2013 Mã số sách chuẩn quốc tế ­ ISBN: 978­604­918­049­1  MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Tâm lí học người trưởng thành là một môn học cung cấp một số  hiểu biết cơ  bản về   điều kiện phát triển tâm lí và những  đặc điểm tâm lí đặc trưng của người  trưởng thành. Từ đó, có cách nhìn đúng về các thuận lợi và khó khăn của người trưởng   thành, và có cách  ứng xử  phù hợp với họ. Qua môn học này người học được hình   thành những kiến thức: hiểu được các điều kiện phát triển tâm lí của người trưởng   thành, nhận diện và giải thích được sự  phát triển nhận thức, tình cảm, nhân cách…  của người trưởng thành; những kĩ năng: vận dụng những nét tâm lí đặc trưng của  người trưởng thành để giải thích các vấn đề ở lứa tuổi trưởng thành trẻ tuổi, trung niên  và người cao tuổi, tìm được các giải pháp thích hợp giải quyết các hiện tượng đặc   trưng của từng lứa tuối, sử dụng một số trắc nghiệm trong nghiên cứu về người trưởng  
  2. thành; và đồng thời hình thành thái độ yêu thích tìm hiểu tâm lí người trưởng thành, có  sự  quan tâm và thái độ  tích cực như là một nhà Tâm lí học khi nghiên cứu, giao tiếp,  ứng xử với người trưởng thành. Quyển giáo trình Tâm lí học người trưởng thành này là sản phẩm kế thừa các tư  liệu của những nhà khoa học nghiên cứu về  Tâm lí học người trưởng thành và nhiều   năm nghiên cứu và giảng dạy, nhằm đáp  ứng yêu cầu giảng dạy, học tập và nghiên  cứu cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh các trường Đại học đối với môn  Tâm lí học người trưởng thành.  Cấu trúc của giáo trình bao gồm 4 chương: Chương 1: Lí luận chung về Tâm lí học người trưởng thành Chương 2: Tâm lí học người trưởng thành trẻ tuổi Chương 3: Tâm lí học người trung niên Chương 4: Tâm lí học người cao tuổi ­ Lần đầu tiên, giáo trình Tâm lí học người trưởng thành được biên soạn theo  chương trình và phương pháp đào tạo theo hệ  thống tín chỉ, chắc chắn không tránh  khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và chia  sẻ  của các nhà khoa học, quý đồng nghiệp và bạn đọc để  giáo trình tiếp tục được  hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn. Tác giả  CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH 1.1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của Tâm lí học người trưởng thành Từ khi Tâm lí học lứa tuổi trở thành một ngành khoa học độc lập vào cuối thế kỉ  thứ XIX, đầu thế kỉ XX đã xuất hiện những quan điểm nghiên cứu về thanh niên: quan  
  3. điếm phát sinh sinh học về sự  phát triển chú ý chủ  yếu đến những yếu tố  quyết định  sinh học của sự phát triển, mà từ đó các thuộc tính tâm lí ­ xã hội xuất phát hoặc tương   hợp (S. Holl, A. Gezell), quan điểm phát sinh xã hội hướng sự  chú ý chủ  yếu vào các   quá trình xã hội hóa và vào những nhiệm vụ  mà xã hội đặt ra trong một giai đoạn   đường đời phù hợp (K. Levin), quan điểm phát sinh tâm lí lấy sự phát triển của các quá   trình và chức năng tâm lí riêng của học thuyết động thái ­ tâm lí của Erik Erikson. [2,   26­43] Các nhà Tâm lí học nghiên cứu người trưởng thành có xu hướng làm sáng tỏ  những đặc điểm tâm lí lứa tuổi trưởng thành và tiến trình phát triển nhân cách cá nhân  qua các giai đoạn của người trưởng thành. 1.1.1. Đối tượng của Tâm lí học người trưởng thành Đối tượng nghiên cứu của Tâm học người trưởng thành là các hiện tượng tâm lý   (quá trình tâm trạng thái tâm lí, thuộc tính tâm lí – phẩm chất tâm trong từng giai đoạn   lứa tuổi người trưởng thành. Cụ thể, Tâm lí học người trưởng thành nghiên cứu: ­ Động lực của sự  phát triển tâm lí người trưởng thành, làm rõ nguyên nhân,  điều kiện, các nhân tố gây ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến sự  hình thành và phát  triển tâm lí con người trong mỗi giai đoạn của lứa tuổi trưởng thành, chỉ ra nhân tố nào  đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển tâm lí. Cụ thể, đó chính là những điều kiện về  thể chất, điều kiện sống và các dạng hoạt động, những mâu thuẫn nảy sinh trong quá  trình sống và hoạt động của cá nhân trong từng giai đoạn của lứa tuổi trưởng thành. ­ Những đặc điểm của các quá trình tâm lí và phẩm chất tâm lí của cá nhân  ở  các giai đoạn khác nhau của người trưởng thành. Đây là cơ sở quan trọng để từ đó, có  cách nhìn đúng về các thuận lợi và khó khăn của người trưởng thành, và có cách ứng   xử phù họp với họ. ­ Những quy luật hình thành và phát triển của các quá trình tâm lí và nhân cách  người trưởng thành, xem xét sự  phát triển tâm lí của người trưởng thành được phát   triển ra sao. Việc tìm ra các quy luật phát triển tâm lí sẽ giúp chúng ta thấy rõ được quá  
  4. trình nảy sinh, hình thành và phát trien của các hiện tượng tâm lí người trưởng thành,   từ đó dự đoán trước được sự phát triển hoặc lí giải được nhiều hiện tượng tâm lí khác   nhau trong từng giai đoạn của lứa tuổi trưởng thành. 1.1.2. Nhiệm vụ của Tâm lí học người trưởng thành Nhiệm vụ  của Tâm lí học người trưởng thành là nghiên cứu những đối tượng  trên, từ   đó rút ra những quy luật chung của sự  phát triển nhân cách người trưởng  thành, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách người trưởng thành; những biến   đổi tâm lí của người trưởng thành dưới ảnh hưởng của hoạt động học tập, lao động và  cuộc sống của chính họ… Từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu về mặt lí luận và  ứng dụng cần thiết, để  có sự  quan tâm thích đáng và thái độ  phù hợp, tích cực khi   nghiên cứu, giao tiếp, ứng xử với người trưởng thành. 1.1.3. Ý nghĩa của Tâm lí học người trưởng thành Việc nghiên cứu của Tâm lí học người trưởng thành có ý nghĩa hết sức quan   trọng trong thực tiễn cuộc sống. Việc hiểu biết những  đặc điểm tâm lí con người  ở  từng giai đoạn khác nhau của lứa tuổi trưởng thành giúp chúng ta biết cách cư  xử, có  thái độ thích hợp khi giao tiếp với họ. Nắm bắt được những quy luật phát triển tâm lí sẽ  giúp chúng ta theo dõi được sự  phát triển, dự  tính trước sự  phát triển, đồng thời phát   hiện   kịp   thời   những   dấu   hiệu   bất   bình   thường   ở   người   trưởng   thành,   lí   giải   được   nguyên nhân, từ đó có sự hỗ trợ cần thiết để giúp đỡ họ. Những kiến thức về  Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học Sư  phạm cũng sẽ  giúp  chúng ta lí giải được những nguyên nhân thành công hay thất bại trong giao tiếp,  ứng   xử  với người trưởng thành, đặc biệt trong các quá trình dạy học và giáo dục thanh   niên, từ  đó đề  ra các biện pháp khắc phục kịp thời, giúp chúng ta xây dựng được  những phương pháp giáo dục hiệu quả, thích ứng với thanh niên. Trở thành người lớn (người trưởng thành) là một trong những chuyển tiếp quan  trọng nhất trong các giai đoạn lứa tuổi của đời người, nhưng thật khó  ấn định chính   xác sự  chuyển tiếp này diễn ra khi nào. Các nghiên cứu về  tuổi trưởng thành sẽ  định   nghĩa về tuổi trưởng thành và các dấu hiệu của tuổi trưởng thành.
  5. 1.2. Lí luận về tuổi trưởng thành 1.2.1. Khái niệm về tuổi trưởng thành Khi nào thì một người đạt đến trưởng thành? Tính theo năm tuổi không giúp ích  gì trong trường hợp này, bởi vì một người có thể  được xem là trưởng thành  ở  tuổi 20   nhưng người khác mãi đến tuổi 40 vẫn không có hi vọng gì về  việc trưởng thành.   Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả  trên bình diện Sinh   học, Tâm lí học, Xã hội học. Các nhà nghiên cứu dựa trên khả năng tính dục cho rằng, “nhận” và “trao” tình  yêu một cách đích thực và sâu sắc hoặc biết biểu lộ hành vi âu yếm hay nhu cầu bản   năng tính dục là biểu hiện của sự  trưởng thành. Họ  cho rằng những cá nhân trưởng  thành phải có ý thức về  mục đích cuộc sống của mình và khả  năng duy trì nòi giống.   Các nghiên cứu nhấn mạnh yếu tố  xã hội lại cho rằng, kết bạn, bị  thu hút bởi người   khác hay chăm sóc bản thân trong mối quan hệ  tâm lí là biểu hiện của sự  trưởng   thành. Một cách xem xét sự trưởng thành nữa là sự vận dụng khả năng để đương đầu  tốt với những biến cố  hay những quyết định mà hầu hết ai cũng phải đối mặt cụ  thế  vài lần trong đời. Trong những giai đoạn của thuyết Erikson, sự trưởng thành ở  tuổi vị  thành niên phải bao gồm việc hoàn thành khi giải quyết các khủng hoảng tăng trưởng  ở  tuổi  ấu thơ  và thiếu niên, khả  năng tiến tới kết thân với người khác (khả  năng tính   dục), một vài người thì lo lắng về  vấn đề  hướng dẫn con cái hay vấn đề  truyền sinh  (Whitboume và Waterman, 1979). [32] L. Hoffman & Manis (1979) xem xét sự  trưởng thành là sự  tự  nhận thức. Cái gì   khiến con người ta cảm thấy mình trưởng thành? L. Hoffman và Manis đã khảo sát với   hơn 2.000 nam nữ có gia đình về đề  tài: Đâu là sự  kiện quan trọng nhất trong đời mà  làm họ cảm thấy họ thật sự trưởng thành. Trở  thành cha mẹ và việc nâng đỡ  ai đó là  dấu hiệu được họ  thừa nhận nhiều nhất cho sự  trưởng thành (L. Hoffman và Manis,  1979). [32]
  6. Thật khó khi định nghĩa về tuổi trưởng thành vì nó luôn biến đổi và phức tạp. Sự  trưởng thành cần đến một tiến trình điều chỉnh liên tục những thay đổi không ngừng   nơi ước muốn và tính trách nhiệm. Một người có thể trưởng thành cho dù họ không lập  gia đình, không con cái hoặc không công việc nghề nghiệp. Người trưởng thành biết họ  là ai, họ muốn đi đâu, họ hướng đến mục đích gì. Theo nghiên cứu của nhiều nhà Tâm lí học, Xã hội học, khái niệm tuổi trưởng   thành được xác định dựa theo một tổ  họp các tiêu chí sau đây (Theo Vũ Thị  Nho,   2000): ­ Sự  chín muồi, về  mặt sinh lí, thể  chất nghĩa là sự  hội tụ  đầy đủ  những điều  kiện sinh học để  làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ, cũng như  làm một người lao   động thực sự trong gia đình và xã hội. ­ Có đầy đủ những quyền hạn và nghĩa vụ của một người công dân như đi bầu  cử, ứng cử, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi, hoạt động của mình. ­ Đã kết thúc việc học tập ở những mức độ khác nhau. ­ Có nghề nghiệp ổn định. ­ Có lao động để nuôi sống bản thân và gia đình. ­ Đã xây dựng gia đình riêng (lấy vợ, lấy chồng). ­ Có cuộc sống kinh tế độc lập không phụ thuộc vào cha mẹ hoặc người đỡ đầu  [12]. Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả  trên bình diện  Sinh học, Tâm lí học, Xã hội học. Những công trình nghiên cứu cho thấy sự chín muồi   sinh học thường đi trước, sớm hơn tuổi chín muồi về  tâm lí và xã hội khá nhiều. Bởi   vậy, dưới góc độ Tâm lí học mà xét, tuổi trưởng thành toàn diện của con người thường   đến chậm hơn 2, 3 năm. Không những thế, khái niệm tuổi trưởng thành cũng còn tùy   thuộc vào thời gian đào tạo và trình độ học vấn. Đó cũng chính là lí do giai đoạn “người  
  7. trưởng thành trẻ tuổi” thường được lấy mốc từ 20 tuổi trở lên, chậm hơn chút ít so với   tuổi công dân (18 tuổi). Dựa vào những tiêu chuẩn trên, những người không học lên Cao đẳng, Đại học  thì độ  tuổi trưởng thành của họ  thường từ  20 tuổi. Giai đoạn người trưởng thành trẻ  tuổi từ 18­20 đến 40 tuổi. Tóm lại, người trưởng thành là những người có độ  tuổi từ 20  trở lên và hiểu về chính mình một cách tương đối cũng như xác lập mục tiêu cuộc đời   trong một cái nhìn tổng thể. 1.2.2. Một số thuyết về tuổi trưởng thành 1.2.2.1. Thuyết động thái tâm lí của Erik Erikson Theo Erik Erikson (1982) người trưởng thành trẻ tuổi là quãng đời tương ứng với   giai đoạn thứ  6 trong 8 giai đoạn phát triển của đời người: Giai đoạn được đặc trưng   bằng sự xuất hiện nhu cầu và năng lực gần gũi thân thiết về mặt tâm lí với người khác,  bao gồm cả  sự  gần gũi tình dục. Đối lập với nó là tình cảm  ẩn dật và thích cô độc   (xem bảng 1). Khi người thanh niên thắng được những đối chọi, thì họ  có thể  tự  mình  tiến tới đòi hỏi bản thân sự hi sinh và chấp nhận. Họ có thể  yêu người khác một cách  không vị  kỉ  nhiều hoặc ít hơn. Nấu mà sự  "cô lập" thống trị  trong sự  tương quan với   thân mật thì mối quan hệ tình cảm sẽ  trở  nên lãnh đạm và gượng ép, và cũng chẳng  có sự giao lưu tình cảm thực sự nào. Con người ta có thể quan hệ tình dục không phải   với mục đích phát triển sự thân mật, đặc biệt khi anh ta hay cô ta sợ rằng sợi dây tình   cảm sẽ dẫn đến một quan hệ cam kết gò bó. Khi hình thái quan hệ tình dục buông thả  này định hình nên cuộc sống của một người nào đó thì có lẽ  vì họ  cảm thấy tự  do   (Erikson & Hall, 1987). Erikson cho rằng những khác biệt văn hóa ảnh hưởng đến tiến trình tăng trưởng   trong từng giai đoạn gặp phải. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu đã tiến hành cuộc  điều tra theo cơ cấu chiều dọc về tiến trình trưởng thành tin rằng kết quả  nghiên cứu  của Erikson chỉ   ảnh hưởng trên những nền văn hóa nơi mà chủ  nghĩa cá nhân được  đề cao nhưng trách nhiệm công dân thì không được xã hội lưu tâm một cách chặt chẽ  (Vaillant & Milofsky, 1980). 
  8. Bảng 1. Các giai đoạn khủng hoảng của Erỉk Erikson [Theo Nguyễn Văn Đồng ­ 4, 172­173] Khủng hoảng Kết quả mong đợi Kết quả không mong đợi Năm   thứ   nhất  Hi vọng. Tin vào môi trường và  Sợ tương lai. Nghi ngờ. Tin­ không tin tương lai. Năm thứ hai Mong   muốn.  Khả   năng  thực   thi Cảm giác mất tự  chủ  hoặc bị  Tự  trị  ­ xấu hỗ,   sự lựa chọn như sự tự kiềm chế,   người   ngoài   kiểm   soát,   kết  nghi ngờ cảm   giác   tự   kiểm   soát   và   tự  quả   là   xấu   hổ   và   nghi   ngờ  trọng dẫn đến mong muốn tốt và  việc  liệu cá  nhân  có thể  làm  tự hào. cái mình muốn hoặc muốn cái  mình đã làm. Năm   thứ   ba  Nguyên   nhân.   Khả   năng   chủ  Sợ   trừng   phạt.   Tự   hạn   chế  đến   năm   thứ  động hành động, chỉ  ra phương  hoặc   phô   trương   sự   bù   trừ  năm hướng và thưởng thức sự   đồng  vượt mức. Chủ   động   ­   hành được dẫn dắt Năm   thứ   sáu  Năng lực. Khả  năng liên hệ  với  Cảm   giác   không   tương   xứng  đến   tuổi   dậy  thế  giới kĩ năng và kĩ xảo, thực  và thấp kém thì thi sự  khéo léo và trí tuệ  nhằm  Cần   cù   ­   kém   làm được việc và làm tốt cỏi. Thanh niên Sự   chuẩn   xác.   Khả   năng   nhìn  Lúng túng về việc mình là ai. Nhận dạng ­  nhận bản thân như  một cá nhân  lúng túng vai  duy nhất và tích hợp để  duy trì  trò xã hội của  tính kiên định. cá nhân Người   trưởng  Tình   yêu.   Khả   năng   đem   bản  Lẩn tránh tình yêu và lẩn tránh  thành   trẻ   tuổi  thân   và   nhận   dạng   bản   thân  cống   hiến   cho   tình   yêu.   Xa  Gần   gũi   ­   cô   cống hiến cho người khác. lánh người khác. đơn Người   trung  Chăm sóc. Mở rộng khái niệm về  Sống   buông   thả,   buồn   tẻ   và  niên những gì do tình yêu, nhu cầu và  kiệt   quệ   trong   quan   hệ   liên  Sinh lực ­  tai nạn tạo ra. Vì con cái, công  nhân cách. ngưng trệ việc hoặc lí tưởng. Người cao tuổi Sự   thông   thái.   Phân   tích   được  Ghê   tởm   cuộc   sống,   tuyệt  Sự  sung  mãn ­   nội   dung   của   bản   thân   cuộc  vọng vì phải chết. nỗi tuyệt vọng sống, hiểu được ý nghĩa và chân  giá trị của cuộc sổng, chấp nhận 
  9. thực tế là ai cũng phải chết. 1.2.2.2. Thuyết về những “mùa vụ” của Levinson Một thuyết khác về  các giai đoạn phát triển trưởng thành đã được lập ra bởi  Daniel Levinson (Levinson & cộng sự, 1978). Ông nói rằng thuyết này miêu tả một cách  sống động những “mùa của cuộc sống con người”. Ông nhấn mạnh thuyết của mình   được xây dựng trên thuyết tâm lí của Erikson. Thuyết Levinson miêu tả sự tăng trưởng   của người nam từ khoảng giữa tuổi 17, chú ý tới chuỗi trật tự luân phiên giữa giai đoạn   định vị và giai đoạn biến đổi. Trong những giai đoạn định vị, người nam ít nhiều có thể  đạt những đích điểm (của từng giai đoạn) một cách thanh thản bởi vì quá trình phát   triển thích hợp đã được giải quyết. Giai đoạn biến đổi có thể  dẫn đến những thay đổi  chính yếu trong cấu trúc đời sống của họ. Vào những thời điểm này, người nam đang   có những khát vọng đến khuôn mẫu lí tưởng của đời sổng họ, cũng như  khám phá ra  những khả  năng mới nơi họ. Levinson đặt thuyết của ông trên nền một chuỗi nghiên   cứu sâu kín nơi 40 người nam (người Mĩ da trắng cũng như người da đen, tầng lớp lao   động cũng như tầng lóp trung lưu). Levinson thấy rằng lứa tuổi từ 17 đến 22 là giai đoạn của những thay đổi hướng  đến sự  trưởng thành ban đầu. Trong tiến trình tăng trưởng, cũng tựa như  sự  trưởng   thành tính cách của Erikson, người nam không ngừng tiến tới trong việc phát triển tâm   lí độc lập với cha mẹ…Vào tuổi 22, họ độc lập hoàn toàn và chuyển vào giai đoạn định  vị khi họ ra sức đặt mình vào thế giới tuổi trưởng thành. Cùng lúc này họ quan tâm đến   việc thiết lập mối quan hệ với người khác phái và dần kiến thiết một mái ấm; một gia   đình ­ giai đoạn phát triển tương giao thân mật, theo như  các giai đoạn của Erikson.   Trong vòng 6 năm sau, lúc họ khoảng 28 tuổi, họ tiến vào một giai đoạn biến đổi khác.  Đây là thời khắc họ  thấy được những lỗ  hổng trong khung hình mẫu của đời sống họ  và họ tiến hành những chọn lựa mới. Rồi vào khoảng tuổi 33, họ sẵn sàng yên vị. Có  nghề nghiệp vững chắc là mục đích chính của họ và người đàn ông tập trung vào phát   triển những kĩ năng cũng như đào sâu vốn kinh nghiệm. Đồng thời, họ cũng hoạt động 
  10. để  đạt đến những  ước vọng lớn lao mà họ  đã từng đặt ra cho mình hoặc nồ  lực đạt  đến một tổ chức liên doanh hay làm chủ một công ti nào đó… Những cố gắng trong việc áp dụng thuyết của Levinson cho người nữ cũng thu   được những kết quả tương tự. Một vài thực nghiệm chỉ ra rằng người phụ nữ cũng trải   qua những giai đoạn như  người nam  ở  tuổi thiếu niên, và cũng vào cùng những thời   điểm nhưng có một vài khác biệt. Sự thay đổi của phụ nữ ở tuổi 30 thể hiện hình thức   một khẳng định mới, khi họ có khuynh hướng chuyển sang chú tâm đến việc chăm sóc  gia đình (hoặc ngược lại). Thay vì yên vị, ở tuổi 30 người phụ nữ nỗ lực hòa hợp những  quyết định mới vào guồng máy cuộc sống của họ. 1.2.2.3. Thuyết về “những biến động” của Gould Roger L. Gould (1975, 1978) với thuyết phát triển  ở  tuổi trưởng thành dành cho   cả  hai giới dựa trên số  liệu nghiên cứu từ  524 người đàn ông và phụ  nữ  được thực  nghiệm thuộc tầng lớp trung lưu, da trắng  ở  Mĩ. Từ  những câu trả  lời của họ  trong  bảng câu hỏi ở mọi khía cạnh, Gould kết luận rằng tiến trình tăng trưởng ở tuổi trưởng   thành phải trải  qua  một chuỗi  những  biến  động.  Ở  mỗi  giai  đoạn, con người phải   khẳng định ý niệm phản thân, đối mặt với khủng hoảng  ấu thơ  và giải quyết những   xung đột. Trong thuyết của Gould, người thành niên trải qua bốn giai đoạn.  Ở  giai đoạn  thứ nhất, bắt đầu trong khoảng từ lứa tuổi thiếu niên cho đến tuổi 22, con người đang   dần hình thành tính cách và dần rời xa vòng tay của bố  mẹ. Với ý chí tự  khẳng định,  con người bước vào giai đoạn thứ hai, trong suốt giai đoạn này thường chịu ảnh hưởng  để  đạt đến những mục đích của mình. Giữa khoảng tuổi 28 ­ 34, con người phải trải   qua giai đoạn chuyển mình, trong giai đoạn này chúng gợi lại những mục đích khi xưa  và thực hiện việc lập gia đình. Vào tuổi 35, họ có những mâu thuẫn sâu sắc cùng với   nhận thức ra ngưỡng cửa của tuổi trung niên đang tiến gần họ một cách dữ dội. Cuộc  sống dường như đầy khó khăn, đau khổ và phiêu lưu. Trong suốt giai đoạn bấp bênh ­  có khi kéo dài cho đến sau tuổi 40, dường như, có cái gì đó đã “xé toang” một phần đời  
  11. sống của họ  và buộc họ  phải đặt nó vào một lộ  trình mới. Người độc thân có thể  lấy  vợ, người có gia đình lại muốn li hôn, người mẹ muốn đến trường hoặc trở lại làm việc,  những cặp đôi luống tuổi quyết định thành thân. Thuyết của Gould tương đương với   thuyết “mùa vụ cuộc đời” của Levinson mà đặc biệt giống nhau khi áp dụng cho người   phụ  nữ. Cả  hai  thuyết  đều  được triển khai  cùng một thời   điểm ­ thập  niên  1970 ­  Levinson nghiên cứu về người đàn ông ở vùng Tây Bắc Hoa Kì còn Gould thì lại nghiên  cứu nam nữ ở California [35]. 1.2.2.4. Thuyết “nhu cầu làm cha mẹ” của Gutmann Trong những năm gần đây, một vài nhà nghiên cứu về  sự  phát triển đã đưa ra  một số thuyết về sự tăng trưởng ở thanh niên đặt nền trên mối liên hệ giữa thuyết tiến   hóa sinh học và hình thái âu yếm và nuôi nấng con cái. Phần đông việc làm này tập   trung vào ý kiến cho rằng sự sống sót của loài phụ thuộc vào sự bảo tồn và nuôi nấng   thế  hệ  sau cho tới khi chúng vào tuổi sinh sản, sự  tăng trưởng của con người có lẽ  cũng ảnh hưởng theo qui luật này. Theo thuyết tăng trưởng của David Gutmann (1987),   sự  tăng trưởng xét cho cùng cũng xoay quanh nhu cầu làm cha mẹ  của con người.   Ông ta cho ràng mọi thế  hệ  đã tiến hóa sinh ra những trẻ  nam nữ  với tính cách đảm  bảo được độ  hoàn thiện về  thể  chất và tình cảm nơi con cháu. Trong xã hội sơ  khai,  người cha với uy lực, độc đoán, giáo dục con cái mình theo một cách áp đặt. Với sự  chăm sóc, đồng cảm, dịu hiền và thông hiểu khiến cho người mẹ  dễ  gần con cái và  luôn đạt được độ tin cậy thân tình. Theo Gutmann, sự tiến triển chỉ thể hiện tiềm năng trong những vai trò của từng   giới. Qua những năm tháng sống trong cộng đồng, người nam hay người nữ sẽ trở nên  tự  nhiên với đặc điểm bề  ngoài và cảm thấy thú vị  về  chính họ. Khi họ  trở  thành cha  mẹ thì những ông bố sẽ có nét gia trưởng hơn, quan tâm của họ là sự  yên ổn cho gia  đình (thể chất và kinh tế). Vì một ông bố  ỷ lại, thụ động, nhu nhược sẽ gây khó khăn   trong khả  năng mang lại cho gia đình những nhu cầu cần thiết hoặc trong việc nuôi  dưỡng con cái, người đàn ông phải loại trừ  mọi nguy cơ dẫn đến sự  lệ  thuộc và nhu  nhược. Những bà mẹ  mới cũng trở  nên hiền mẫu đích thực, mối bận tâm của họ  là  
  12. chăm sóc và nuôi nấng đàn con. Vì một người mẹ  dữ  dằn, thiếu lòng yêu thương sẽ  gây tổn thương cho con cái hoặc trấn áp chồng mình. Người mẹ  phải ra sức loại bỏ  những nguy cơ trở thành một bà mẹ quyết đoán, khắt khe và nóng nảy cho đến khi con   cái họ trở thành thanh niên rời bỏ gia đình để  khẳng định vai trò của mình mà bấy lâu  nay vốn bị chôn vùi trong những quan tâm của cha mẹ. Mặc dù thuyết của Gutmann có ý dùng cho mọi chế  độ  xã hội trong mọi giai   đoạn lịch sử, nhưng quả thực nó giới hạn trong xã hội hiện đại nơi mà vai trò cha mẹ  không còn quan trọng nữa. Khi những ông bố  bà mẹ  chia sẻ  cùng con cái trong việc   cung cấp những nâng đỡ vật chất, sự chăm sóc cũng như sự an toàn tâm lí, tình cảm;   tuổi làm cha mẹ có lẽ yêu cầu những thay đổi lớn trong trách nhiệm và cá nhân ít hơn   như theo đề nghị của thuyết Gutmann. Các quan điểm của các lí thuyết được nêu  ở  trên nói lên sự  bắt đầu của tuổi   trưởng thành tùy thuộc nhiều vào yếu tố  văn hóa và tâm, sinh lí, trong đó việc tự  xác   định mình như người lớn dựa vào nhận thức của cá nhân, liệu cá nhân có đáp ứng các  tiêu chuẩn quan trọng liên quan hay không trở thành một tiêu chí cực kì quan trọng. 1.3. Sự phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành  1.3.1. Các tiêu chí phân chia lứa tuổi người trưởng thành Các nhà Xã hội học thường phân chia giai đoạn lứa tuổi chủ  yếu dựa trên sự  thay đổi vị  trí xã hội và hoạt động xã hội của cá nhân, đồng thời chú ý nhiều vào  những thuộc tính (phẩm chất) của từng giai đoạn của lứa tuổi người trưởng thành với   tư  cách là một nhóm dân cư  ­ xã hội. Các giai đoạn lứa tuổi của con người còn chửa   đựng sự  kế  thừa tâm lí xã hội. Sự  kế  thừa tâm lí là sự  tiếp nhận các kinh nghiệm xã   hội, các đặc điểm tâm lí của thể  hệ  hiện tại đối với các thế  hệ  trước đó. Sự  kế  thừa   tâm lí giúp cho cá nhân thích nghi với các nhóm xã hội tốt hơn và nó cũng chính là biểu   hiện của sự điều chỉnh xã hội. Các giai đoạn lứa tuổi không những chỉ ra lứa tuổi tính theo thời gian và mức độ  phát triển nhất định của cá thể về mặt sinh lí và tâm lí mà còn chỉ ra vị thế xã hội nhất   định, địa vị và hoạt động xã hội, đặc trưng cho một lóp lứa tuổi nào đó. Ở đây ta thấy 
  13. có mối liên hệ  ngược. Một mặt, con người  ở lứa tuổi khác nhau (đằng sau đó là trình  độ phát triển tương ứng) sẽ khác nhau về năng lực thực hiện các chức năng xã hội (vai   trò). Ví dụ, thời hạn trưởng thành về mặt sinh học và về mặt xã hội quyết định lứa tuổi   kết hôn theo luật pháp, quyết định tuổi trưởng thành của người công dân… Mặt khác,  các quyền lợi và nghĩa vụ, tính chất của những hoạt động gắn liền với một giai đoạn  lứa tuổi nào đó sẽ  quyết định vị  trí xã hội thực tế  của những người đang ở  giai đoạn  lứa tuổi đó, sự tự ý thức của họ và mức độ của những khát vọng. Việc phân chia cuộc   đời người ra từng giai đoạn bao giờ cũng bao gồm yếu tố định mức ­ giá trị, việc chỉ ra   những nhiệm vụ nào mà cá thể đã đạt tới một lứa tuổi nào đó phải giải quyết nhàm di   chuyển một cách kịp thời và có kết quả sang một giai đoạn sống tiếp theo và một giai   đoạn lứa tuổi tiếp sau. [2, 9] Như   vậy,   dựa   vào   khái   niệm   tuổi   trưởng   thành   và   các  thuyêt   tâm   lí   về   tuổi  trưởng thành chúng ta có thể  dựa vào các tiêu chí về  sự  trưởng thành về  mặt sinh lí,  tâm lí và xã hội của cá nhân để  phân chia lứa tuổi người trưởng thành theo các giai   đoạn lứa tuổi khác nhau. 1.3.2. Các giai đoạn lứa tuồi người trưởng thành Nghiên cứu lứa tuổi người trưởng thành chúng ta phải xem xét sự phát triển các   hiện tượng tâm lí của người trưởng thành trong mối liên hệ  với quá trình thực tế  của   đời sống và hoạt động của cá nhân trong những điều kiện xã hội ­ lịch sử  và những   điều kiện khác của sự phát triển cá thể Dựa vào các tiêu chí trưởng thành về  mặt sinh lí, tâm lí và xã hội có thể  phân  chia tuổi người trưởng thành theo các giai đoạn sau:  ­ Người trưởng thành trẻ tuổi ­ early adulthood (20 ­ 40 tuổi), ­ Người trung niên ­ middle age (40 ­ 60 tuổi), ­ Người lớn tuổi ­ later maturiti (60 tuổi + ).
  14. PHẦN TÓM TẮT Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả  trên bình diện  sinh học, Tâm lí học, Xã hội học. Các quan điểm của các lí thuyết về  tuổi trưởng thành nói lên sự  bắt đầu của  tuổi trưởng thành tùy thuộc nhiều vào yếu tố  văn hóa và tâm, sinh lí. Trong đó việc tự  xác định mình như người lớn, dựa vào nhận thức của cá nhân, liệu cá nhân có đáp ứng   các tiêu chuẩn quan trọng liên quan hay không. Dựa vào các tiêu chí trưởng thành về  mặt sinh lí, tâm lí và xã hội có thể  phân  chia tuổi trưởng thành theo các giai đoạn sau: 1. Người trưởng thành trẻ tuổi ­ early adulthood (20 ­ 40 tuổi) 2. Người trung niên ­ middle age (40 ­ 60 tuổi) 3. Người cao tuổi ­ later maturiti (60 tuổi +). Câu hỏi thảo luận 1. Tại sao nói đối tượng nghiên cứu của Tâm lí học người trưởng thành là các   hiện tượng tâm lí (quá trình tâm lí, trạng thái tâm lí, thuộc tính tâm lí ­ phẩm chất tâm lí)  trong từng giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành? 2. Phân tích nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lí học người trướng thành 3. Nêu điểm khác nhau cơ bản của các thuyết tâm lí của tuổi trưởng thành. 4. Dựa vào đâu để phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành. Bài tập thực hành Tìm hiểu những quan niệm của sinh viên về tuổi trưởng thành, các tiêu chí phân   chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành. Khách thể: Chọn sinh viên trong những lớp mà anh chị  đang giảng dạy, hoặc   sinh viên trong các cơ sở Giáo dục Đại học (trên 30 sinh viên).
  15. Yêu cầu: Nêu được những quan niệm của sinh viên lựa chọn về  tuổi trưởng   thành, các tiêu chí phân chia giai đoạn lứa tuổi người trưởng thành Cách thực hiện: ­ Xây dựng phiếu câu hỏi lấy ý kiến sinh viên. Có thể sử dụng thêm các phương   pháp điều tra khác như phương pháp quan sát, đàm thoại, sưu tầm tài liệu…. ­ Thu thập và xử lí số liệu để viết báo cáo. ­ Rút ra các kiến nghị và đề xuất có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Câu hỏi ôn tập 1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của tâm lí học người trưởng thành là gì? 2. Trình bày tóm tắt các lí thuyết về  tuổi trưởng thành và chỉ  ra những mặt  ưu   điểm và hạn chế của các lí thuyết đó. 3. Trình bày quan niệm về tuổi trưởng thành và sự phân chia giai đoạn lứa tuổi   người trưởng thành  CHƯƠNG 2: TÂM LÍ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRẺ TUỔI Bắt đầu tuổi trưởng thành là một thời điểm trong đời khi chúng ta giã từ thời thơ  ấu và khát khao được trở thành người lớn. Đầu tuổi trưởng thành là đỉnh điểm của quá  trình phát triển cơ thể và sức khỏe. Đây cũng là thời gian đánh dấu đỉnh điểm của một  số  khả  năng nhận thức, và sự  tiếp tục phát triển của những khả  năng khác. Người  trưởng thành trẻ tuổi bao gồm 2 thời kì: ­ Thời kì đầu người trưởng thành trẻ tuổi (18 đến 25 tuổi), thời kì này thanh niên   bước vào học nghề ở các trường dạy nghề, cao đẳng, đại học nên còn được gọi tên là  thời kì thanh niên sinh viên. Đây là thời điểm chúng ta hoạch định, mơ ước về tương lai   và suy nghĩ cuộc sống trong tư cách người lớn phải là cuộc sống như thế nào.
  16. ­ Thời kì thứ  hai của người trưởng thành trẻ  tuổi còn được gọi là thời kì thành  niên (sau 25 tuổi đến 40 tuổi) là thời kì lập thân và lập nghiệp cho cuộc đời của mỗi  người. 2.1. Một số điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của người trưởng thành  trẻ tuổi 2.1.1. Đặc điểm sự phát triển thể chất Vào thời gian đầu của tuổi trưởng thành, hầu hết mọi người đều đạt đến đỉnh  điểm của sức khỏe, tốc độ và linh hoạt của thể chất. Đàn ông có khuynh hướng tự hào   về thân hình của họ, còn phụ nữ thì không. Khi 300 thanh niên nam nữ tuổi trung học   được thăm dò lấy tỉ  lệ  về  thể  trạng. Nữ  sinh (không quá gầy) thấy họ  lớn hơn chuẩn   của bạn trai và càng to hơn so với thân hình lí tưởng của chính phái đẹp (Fallon and  Rozin, 1985). Nam sinh (những bạn to lớn) th ấy họ theo sau c ả các bạn nữ  lẫn hình  thể chuẩn của phái mạnh. Và cũng như thế đối với vấn đề thu hút giới tính, trong quan   niệm về tiêu chuẩn của giới này đối với giới kia, người nữ lí tưởng của đàn ông thì béo   hơn người nừ bên ngoài và người đàn ông lí tưởng trong mắt người nữ thì lại gầy hơn   người nam bên ngoài. Lúc người thanh niên đã đạt đến điểm hoàn thiện thể chất  ở tuổi trưởng thành,   cũng là lúc nhiều dấu hiệu của lão hóa bắt đầu xuất hiện. Trong khoảng tuổi 20, người   ta đã có ít nhiều những thay đổi  ảnh hưởng đến sự  phát triển của cơ  thể  con người   (A.Spence, 1989). Đặc điểm của cơ  bắp và sức khỏe đạt đến điểm hoàn thiện  ở  độ  tuổi 20­30, rồi sau đó giảm xuống dần. Độ tinh nhạy của tai và mắt cũng bẳt đầu giảm   xuống ở độ tuổi 20. Nếp nhăn đầu tiên xuất hiện ở đuôi mắt và da bị lão hóa, đặc biệt   đổi với những người có nhiều tàn nhang. Tia cực tím tiêu diệt DNA và các tố chất bảo  vệ da, và vì thế chúng làm chậm lại tiến trình phục hồi của da, dẫn tới da bị mỏng và   nhăn nheo (Perlmutter& Hall, 1992). Những thay đổi cũng xảy ra bên trong cơ thể. Mặc dầu trọng lượng không thay   đổi, nhưng qua cuộc điều tra về tuổi thanh niên cho thấy lượng tế bào trong cơ bắp bắt  đâu giảm. Ngoài ra lượng khí vận chuyển vào phổi trong mỗi lần hít thở  cũng có dấu   hiệu giảm sút ở tuổi hai mươi và giảm trung bình 1% mỗi năm; cũng như thế đổi với tỉ 
  17. lệ lọc máu của thận (Vestal & Dawson, 1985). Những dây động mạch cũng bắt đầu già  với sự xuất hiện của các màng mỡ thô, vàng nơi thành động mạch nơi những người có   hội chứng xơ  vữa cứng động mạch. Việc kiêng khem ngặt nghèo hoặc thiếu tập thể  dục sẽ thúc đẩy sự phát triển những căn bệnh kinh niên sẽ xuất hiện ở tuổi trung niên  và tuổi già. Một vài người trẻ lo lắng về những thay đổi này, khi mà có nhiều người ở tuổi 30   thấy xuất hiện vài sợi tóc bạc. Có lẽ  do thiếu quan tâm mà một phần là vì kém hiểu   biết về sự phát triển thể chất của con người đã đạt đến mức hoàn thiện ở tuổi 25 ­ 26  (nữ sớm hơn nam khoảng 2 năm) như: Trọng lượng não đạt mức tối đa, số  lượng nơ­ ron thần kinh lên tới mức cao nhất (14 ­ 16 tỉ), với chất lượng hoàn hảo nhờ  quá trình  myelin hóa cao độ, số lượng xi­nap của các tế bào thần kinh đảm bảo cho một sự liên   lạc rộng khắp, chi tiết, tinh tế và linh hoạt giữa vô số kênh làm cho hoạt động của não  bộ trở nên nhanh, nhạy và chính xác đặc biệt so với các lứa tuổi khác. Những biểu hiện về  giai đoạn phát triển  ổn định, đồng đều về  hệ  xương, cơ  bắp, tạo ra nét đẹp hoàn mĩ  ở  người thanh niên; Các tổ  chất về  thể  lực: sức nhanh,   sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh và nhìn chung thường kéo dài đến  độ  tuổi 26. Vì vậy thanh niên thường nổi trội trong những môn thể  thao đòi hỏi phản   ứng nhanh, tốc độ và khỏe mạnh, chẳng hạn như trong môn chơi bóng rổ, đấu võ đài,  tennis, trượt tuyết, bóng chày (Schulz & Cumow, 1988). Sau tuổi 25 ­ 26, mọi sự phát  triển về thể chất đều dừng lại và khoảng 30 tuổi thì bắt đầu có sự đi xuống, đó là lí do   mà hầu hết các vận động viên chuyên nghiệp bắt đầu cảm thấy có tuổi khi họ  bước   vào tuổi 30. 2.1.2. Điều kiện sống, hoạt động và vai trò xã hội của người trưởng thành trẻ  tuổi Xét về  các điều kiện sống và hoạt động của người trưởng thành trẻ  tuổi cho  thấy họ đang đứng trước những ngã rẽ  của cuộc đời, người thì tiếp tục đi học, người   thì bắt đầu lao động kiếm sống… Đa số  họ  đều thiết lập dần dần cuộc sống độc lập.  Trong gia đình, họ được xem như là một thành viên chính thức, được đối xử một cách 
  18. công bằng như những người lớn thực thụ. Ngoài xã hội, họ trở thành những thành viên   chính thức của xã hội với đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ công dân trước pháp luật. Hoạt động chủ  yếu  ở  giai đoạn lứa tuổi này là hoạt động nghề  nghiệp. Nếu   chưa phải lao động kiếm sống thì sau khi tốt nghiệp phổ  thông (trung học cơ  sở  hay  trung học phổ thông) họ thường tiếp tục theo học tại các cơ sở đào tạo hệ Trung cấp,   Cao đẳng, hoặc Đại học. Đa số những thanh niên này chưa thể tự lập hoàn toàn. Đây   cũng là một hạn chế nhất định ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của họ. Hoạt động chủ yếu của thanh niên sinh viên là hoạt động học tập chuẩn bị cho   nghề  nghiệp tương lai. Thanh niên sinh viên là những người trưởng thành còn đang  theo học  ở  các trường Đại học và Cao đẳng…, do vậy điều kiện sống và các dạng   hoạt động cơ bản của họ có những đặc trưng rất riêng. Trong các trường Đại học và Cao đẳng, họ là đại biêu của một nhóm xã hội đặc   biệt gồm những người đang trong quá trình chuẩn bị tri thức đế trở thành chuyên gia ở  một lĩnh vực nhất định của xã hội; là những người trẻ  tích cực, năng động, nhạy cảm   với những thay đối của xã hội và dễ  thích nghi với sự  thay đổi đó. Khoảng thời gian   sinh viên lĩnh hội nền tri thức xã hội trong môi trường Đại học ­ Cao đẳng… là thời   điểm diễn ra quá trình xã hội hóa rất nhanh, mạnh và đa dạng. Đây là thời điểm và là   cơ  hội để  họ  định hình, phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Cần xenm xét   những điều kiện phát triển tâm lý của sinh viên thông qua những hoạt động mà họ  tham gia.  ­ Hoạt động học tập: + Nội dung học tập Sinh viên phải tải trọng một nội dung học tập rất  đáng kể, phong phú. Khối   lượng kiến thức chuyên ngành đa dạng, phức tạp (lĩnh hội hệ thống tri thức kĩ năng, kĩ   xảo chuyên ngành và phát triển những phẩm chất và năng lực của người làm việc   chuyên nghiệp ở tương lai).
  19. Sự  đòi hỏi của thực tiễn cho thấy song song với việc chu ẩn b ị nh ững tri th ức lí  thuyết thì việc chuẩn bị những kinh nghiệm thực tiễn và thao tác làm việc là yêu cầu tối  quan trọng. Hơn thế  nữa, việc tiếp cận những kiến th ức chuyên ngành vẫn chưa đủ  nên việc học hỏi những kiến thức liên ngành và xuyên ngành để  chuẩn bị  làm việc   thực tế là một cơ hội đáng quí cho độ tuổi. + Phương pháp học tập Những yêu cầu về học tập ở độ tuổi này đòi hỏi người sinh viên phải độc lập, tự  chủ, có ý thức đầy đủ và sáng tạo. Ngoài ra, sự  học của sinh viên là loại hoạt động trí tuệ  đích thực, căng thẳng,   cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt. ­ Hoạt động chính trị xã hội: Các hoạt động chính trị xã hội ở tuổi này là một điều kiện đặc biệt cho sự phát   triển tâm lí. Việc tham gia vào tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội  Sinh viên Việt Nam đem lại những kinh nghiệm thực sự quí báu để  nâng cao tri thức   tầm hiểu biết, tích lũy những kinh nghiệm sống và hoàn thiện dần những kĩ năng cũng   như xây dựng lí tưởng nghề nghiệp ­ lí tưởng cuộc sống. Ngoài ra, việc tham gia các tổ  chức khác, các câu lạc bộ  đội nhóm xã hội ­ kĩ  năng cũng là một điều kiện thú vị giúp thanh niên sinh viên thể hiện mình và phát triển   có định hướng hoặc phát triển toàn diện. ­ Hoạt động nghiên cứu khoa học: Hoạt động nghiên cứu khoa học chiếm một vị  trí quan trọng trong hoạt động   học tập của sinh viên. Hoạt động này nhằm phát huy những tố chất của một người trí   thức lao động chuyên nghiệp với hệ  thống quan điểm, phương pháp luận và những  phẩm chất ­ năng lực của một con người làm việc có phương pháp và đam mê sáng  tạo.
  20. Đối với sinh viên, việc tham gia nghiên cứu khoa học  ở  nhiều hình thức khác   nhau đem đến những cơ hội mới để  nhìn thấy mình và phát triển mình ở  đỉnh cao về  nhân cách ­ nghề nghiệp. ­ Hoạt động văn ­ thể ­ mĩ: Việc tham gia các câu lạc bộ văn thơ, hội họa, âm nhạc, khiêu vũ, thể hình, các   cuộc thi… sẽ  trở  thành một điều kiện để  sinh viên tự  thể  hiện và điều chỉnh chính   mình. Không ít sinh viên đã thực sự  phát triển một cách nhanh chóng bằng những  bước tiến dài khi có những thành công ban đầu trong hoạt động này. ­ Hoạt động giao tiếp: Hoạt động giao tiếp của thanh niên sinh viên đa dạng với nhiều mối quan hệ  đan xen. Trong những mối quan hệ khác nhau, họ trở thành thành viên của các nhóm  xã hội khác nhau. Đây cũng là một môi trường giúp sinh viên phát triển các phẩm chất,   hình thành những kĩ năng sống, kĩ năng mềm hỗ trợ cho nghề nghiệp và cuộc sống. Xét về  vai trò xã hội của người trưởng thành trẻ  tuổi có rất nhiều quan niệm   khác nhau. Có thể đề cập đến một số quan niệm sau đây: * Robert Havighurst (Mĩ) xác định vai trò xã hội của người trưởng thành dựa trên  các nhiệm vụ trọng tâm mà họ sẽ phải thực hiện. Và như vậy theo ông, người trưởng   thành trẻ tuổi có các vai trò xã hội sau [31]: ­ Lựa chọn người bạn đời. ­ Học cách sống với người bạn đời. ­ Bắt đầu cuộc sống gia đình. ­ Nuôi dạy con cái. ­ Tổ chức gia đình. ­ Bắt đầu một nghề nghiệp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2