intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Trợ giúp xã hội (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình

Chia sẻ: Calliope09 Calliope09 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:90

46
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Trợ giúp xã hội cung cấp cho người học các kiến thức: Những vấn đề cơ bản về trợ giúp xã hội; Các đối tượng và chính sách trợ giúp xã hội; Vai trò tổ chức và quản lý hoạt động trợ giúp xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Trợ giúp xã hội (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH GIÁO TRÌNH MÔN HỌC: TRỢ GIÚP XàHỘI NGHỀ: CÔNG TÁC XàHỘI TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG/TRUNG CẤP Ban hành kèm theo Quyết định số:    /QĐ­TCĐCGNB ngày…….tháng….năm   2018 của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình
  2. Ninh Bình, năm 2018 TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể  được pháp dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và  tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử  dụng với mục đích  kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
  3. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Chương 1: Những vấn đề cơ bản về trợ giúp xã hội 1. Tính tất yếu khách quan của trợ giúp xã hội 2. Lịch sử hình thành và phát triển của trợ giúp xã hội ở Việt Nam 3. Khái niệm trợ giúp xã hội và các khái niệm có liên quan 4. Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ  và phương pháp luận của môn  học trợ giúp xã hội 5. Cách tiếp cận nghiên cứu hệ thống chính sách trợ giúp xã hội Chương 2: Các đối tượng và chính sách trợ giúp xã hội 1. Các đối tượng trợ giúp thường xuyên 2. Các đối tượng trợ giúp xã hội đột xuất 3. Chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng của tệ nạn xã hội Chương 3: Vai trò tổ chức và quản lý hoạt động trợ giúp xã hội 1. Vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động trợ giúp xã hội  2. Vai trò của cộng đồng, các tổ chức xã hội và cá nhân trong hoạt động trợ  giúp xã hội 3. Hệ thống chỉ tiêu giám sát và đánh giá hoạt động trợ giúp xã hội 4. Nguồn lực trợ giúp xã hội  TÀI LIỆU THAM KHẢO
  4. LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay  ở  nước ta, hệ  thống chính sách, pháp luật liên quan đến trợ  giúp xã hội cũng như  bộ  máy tổ  chức nhà nước, tổ  chức kinh tế  mọi thành  phần, hệ thống dịch vụ xã hội về trợ giúp xã hội khá phát triển.  Trợ giúp xã hội là môn học chuyên ngành quan trọng của chương trình   đào tạo nghề  Công tác xã hội có liên quan đến hoạt động trợ  giúp bảo vệ  quyền con người và cung cấp dịch vụ xã hội cho đối tượng hưởng các chính  sách về trợ giúp xã hội. Để góp phần đào tạo được một đội ngũ những người  có lý luận và có kỹ  năng làm việc trên các lĩnh vực của trợ  giúp xã hội,  Trường Cao đẳng Cơ  giới Ninh Bình tổ  chức biên soạn giáo trình này. Giáo  trình được bố cục theo 3 chương:  Chương I: Những vấn đề cơ bản về trợ giúp xã hội  Chương II: Các đối tượng và chính sách trợ giúp xã hội Chương III: Vai trò tổ chức và quản lý hoạt động trợ giúp xã hội Do biên soạn lần đầu, giáo trình này không thể  tránh khỏi những hạn  chế    về  nội dung cũng như  hình thức thể  hiện, tác giả  mong muốn nhận   được sự  đóng góp của đông đảo người đọc để  tài liệu được hoàn chỉnh hơn  trong những lần xuất bản khác. Nhóm biên soạn:
  5. GIÁO TRÌNH MÔN HỌC  Tên môn học: Trợ giúp xã hội Mã số môn học: MH 16 Vị trí, tính chất của môn học ­  Vị   trí:   Trợ   giúp xã  hội là  môn học chuyên  ngành  quan  trọng của   chương trình đào tạo nghề  Công tác xã hội có liên quan đến hoạt động trợ  giúp bảo vệ  quyền con người và cung cấp dịch vụ  xã hội cho đối tượng  hưởng các chính sách về trợ giúp xã hội. ­ Tính chất: Là môn học chuyên môn nghề bắt buộc.  Mục tiêu của môn học ­ Về kiến thức:  + Trình bàyđược các vấn đề cơ bản về trợ giúp xã hội. + Phân tích được đối tượng và chính sách trợ giúp các đối tượng; + Phân tích được các nguồn lực trợ giúp xã hội; vai trò của các tổ chức cá   nhân đối với hoạt động trợ giúp. ­ Về kỹ năng: + Xác định được các đối tượng trợ giúp cụ thể; + Lựa chọn được các chính sách trợ  giúp đối tượng, huy động được  nhân lực và nguồn lực trợ giúp phù hợp với từng đối tượng. ­ Năng lực tự chủ và trách nhiệm:  + Tích cực rèn luyện đức tính tốt trong học tập như sự chăm chỉ, sáng   tạo, nâng cao năng lực tự học bồi dưỡng kiến thức; + Nhìn nhận đúng đắn hơn về  các trường hợp được hưởng trợ  giúp xã   hội; + Tích cực tuyên truyền, vận động, phối hợp với gia đình và xã hội  trong can thiệp và giúp đỡ các đối tượng liên quan. Nội dung môn học: CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRỢ GIÚP XàHỘI  Mục tiêu: ­ Kiến thức: + Phân tích được tính tất yếu khách quan của trợ giúp xã hội;
  6. + Nêu được đối tượng, chức năng và phương pháp nghiên cứu của môn   học; + Trình bày được một số khái niệm liên quan đến môn học; + Nêu được lịch sử hình thành và phát triển của trợ giúp xã hội ở Việt  Nam. ­ Kỹ  năng: Xác định được vị  trí của môn học trong chương trình đào  tạo nghề công tác xã hội. Từ  đó, áp dụng có hiệu quả  kiến thức trợ  giúp xã   hội trong nghề nghiệp. ­ Năng lực tự  chủ  và trách nhiệm: Tích cực rèn luyện phẩm chất nghề  nghiệp, chấp hành tốt các quy định trong quá trình học tập. Nội dung chương: I. Tính tất yêu khách quan của trợ giúp xã hội 1. Tác động của điều kiện tự nhiên Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở… Để  thoả mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản   phẩm cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng  cao, nghĩa là việc thoả  mãn nhu cầu phụ  thuộc vào khả  năng lao động của  con người. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời, không phải khi nào con người  cũng có thể  lao động tạo ra được thu nhập. Trái lại, có rất nhiều trường  hợp khó khăn, bất hạnh, rủi ro xảy ra làm cho con người bị  giảm, mất thu   nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác, chẳng hạn, bị bất ngờ  ốm đau, tai  nạn, mất người nuôi dưỡng, tuổi già, tử  vong… Hơn nữa, cuộc sống của   con người trên trái đất phụ  thuộc rất nhiều vào điều kiện tự  nhiên và môi  trường sống. Những điều kiện thiên nhiên và xã hội không thuận lợi đã làm  cho một bộ  phận dân cư  cần phải có sự  giúp đỡ  nhất định để  bảo đảm   cuộc sống bình thường. Do đó, để  tồn tại và phát triển, con người đã có   nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục khó khăn. Từ  xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người   đã tự  khắc phục, như  câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y phòng  hàn”; đồng thời, còn được sự  san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng.   Sự  tương trợ  dần dần được mở  rộng và phát triển dưới nhiều hình thức  khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến  ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế  độ  xã hội khác   nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ  sau cuộc cách mạng   công nghiệp, hệ  thống ASXH  đã  có những cơ  sở   để  hình thành và phát 
  7. triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương  tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm  thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai  nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối   với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào  khác ngoài tiền lương. Sự  bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết   yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục   bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ  tương tế, các hội  đoàn…); Đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm  cuộc sống cho họ. Bởi vì  không phải lúc   nào con người cũng gặp những  thuận lợi, may mắn mà ngược lại luôn bị đe dọa trước những biến cố, rủi ro,  bất hạnh,... vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Khi rơi vào những tình huống   như  vậy, nhu cầu khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, vươn lên hòa   nhập cộng đồng trở  thành một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt, đối  với  những  thuộc nhóm yếu thế, khi rơi vào những hoàn cảnh như vậy, họ lại càng dễ bị  đe dọa và tổn thương nặng nề, không đủ khả năng tự lo liệu được cho cuộc   sống tối thiểu của bản thân và  gia đình. Do đó, TGXH đối với nhóm người  này là một biện pháp tương trợ  cộng đồng mà con người tìm đến để  giúp  nhau vượt qua  những tình huống khó khăn. Đây là hình thức tương trợ  cộng  đồng đơn giản, phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã  hội mỗi quốc gia. 2. Tác động của điều kiện kinh tế Trên bình diện kinh tế, trợ giúp xã hội là một công cụ phân phối lại thu   nhập giữa các thành viên trong cộng đồng, được thực hiện theo hai chiều ngang   và dọc. Sự  phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự  phân phối lại giữa   những người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và người  đã nghỉ  việc, giữa người chưa có con và những người có gánh nặng gia đình.  Một bên là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ TGXH hoặc đóng   thế, còn bên kia là những người được hưởng trong các trường hợp với các điều   kiện xác định. Thông thường, sự phân phối lại theo chiều ngang chỉ xảy ra trong  nội bộ  những nhóm người được quyền hưởng trợ  cấp (một “tập hợp đóng”  tương đối). Sự phân phối lại thu nhập theo chiều d ọc là sự chuyển giao tài sản và  sức mua của những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập  
  8. quá thấp, cho những nhóm người “yếu thế”. Phân phối lại theo chiều dọc  được thực hiện bằng nhiều kỹ  thuật khác nhau: trực tiếp (thuế  trực thu,   kiểm soát giá cả, thu nhập và lợi nhuận…) hoặc gián tiếp (trợ  cấp thực   phẩm, cung cấp hiện vật hoặc các dịch vụ  công cộng như  giáo dục, y tế,  nhà ở, giúp đỡ và bảo vệ trẻ em…). Việc phân phối lại theo chiều dọc có ý   nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện cho một “t ập h ợp mở” tương đối). Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện phân phối lại theo chiều dọc   còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện tài chính và tổ chức. Song cũng có thể  có một số  biện pháp để  thực hiện một số  chế  độ  cho những người có thu   nhập thấp thông qua hệ thống đóng góp và hệ  thống trợ  cấp. Những người  có thu nhập thấp thường  được miễn giảm chế  độ  đóng góp, hoặc được   người chủ  sử  dụng lao  động (kể  cả  Nhà nước) đóng cho hoàn toàn. Hệ  thống trợ  cấp cũng lưu ý tới những người có thu nhập thấp (tỷ  lệ  trợ  cấp   cao hơn so với những người có thu nhập cao). Sự  phân phối theo chiều   ngang và theo chiều dọc đã tạo ra một lưới TGXH. 3. Tác động của điều kiện chính trị ­ xã hội Thực hiện các chính sách an sinh xã hội là nhằm bảo đảm phân phối  những thành quả tăng trưởng kinh tế theo hướng bảo đảm công bằng xã hội  và hài hòa lợi ích giữa các chủ  thể, nhóm xã hội và tạo sự  đồng thuận xã  hội, Hiện nay, cả  nước đang trợ  giúp bằng tiền mặt hằng tháng và cấp thẻ  bảo hiểm y tế cho 2,73 triệu đối tượng, chiếm gần 3% dân số, trong đó có  hơn 1,6 triệu người cao tuổi; trên 900 nghìn người khuyết tật; 216 nghìn trẻ  em. Mức chuẩn trợ  cấp được điều chỉnh tăng tương  ứng với sự  phát triển   kinh   tế   ­   xã   hội   của   đất   nước   và   nguồn   lực   thực   hiện   của   các   địa  phương.Các cơ sở trợ giúp xã hội công lập và ngoài công lập đã có bước phát  triển nhất định. Cả  nước hiện có 418 cơ  sở  trợ  giúp xã hội gồm 195 cơ  sở  công lập và 223 cơ  sở  ngoài công lập nuôi dưỡng, chăm sóc hơn 41.450 đối  tượng. Nhiều mô hình trung tâm công tác xã hội đã vận hành hiệu quả tại các  tỉnh và thành phố, như Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bến Tre, Long An, Thanh Hóa,  Thành phố Hồ Chí Minh. Trợ giúp xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện   đường lối chủ  trương của Đảng và Nhà nước ta hướng vào mục tiêu phát  triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc  sống của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế  – xã hội của đất nước. 
  9. Để  chính sách này đảm bảo tốt hơn đời sống cho người dân, góp phần tích  cực vào việc ổn định, an toàn xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế  của đất nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Pháp luật về trợ giúp xã hội ở  Việt Nam là hết sức cần thiết. Pháp luật trợ giúp xã hội phải trên cơ  sở  kế  thừa và phát huy những thành tựu lập pháp đã đạt được cũng như điều chỉnh   các quan hệ mới theo điều kiện thực tế để Việt Nam có được một hệ thống  trợ giúp xã hội phát triển, đủ sức chống đỡ với các rủi ro xã hội. 4. Tác động của quy luật phát triển không đều của con người Mỗi sự vật, hiện tượng trên đều tồn tại theo hai quy luật nhất định đó  là quy luật mối liên hệ  phổ  biến và quy luật phát triển. Quy luật phát triển   cho ta biết mọi sự  vật hiện tượng đều vận động theo một xu hướng đi lên,   từ  thấp đến cao, từ  đơn giản đến phức tạp, từ  kém hoàn thiện đến hoàn  thiện hơn. Quy luật đó là quy luật phát triển. Bảo đảm an sinh xã hội trở  thành vấn đề  trung tâm trong chiến lược  phát triển bền vững của đất nước. Việt Nam đang tích cực đẩy mạnh xây  dựng một hệ thống an sinh xã hội với các chức năng phòng ngừa, giảm thiểu  và khắc phục được các rủi ro, đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho mọi người   trong mọi hoàn cảnh. Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2011­ 2020 nhằm đảm bảo mọi người dân có mức sống trung bình, không rơi vào  tình trạng bần cùng hóa khi phải đối mặt với các rủi ro, bất trắc. Với mục   tiêu đến năm 2020, hệ thống an sinh xã hội sẽ che phủ khắp toàn dân, hướng  vào mục tiêu quyền con người, đặc biệt là quyền bình đẳng, không bị  phân  biệt đối xử, và bảo vệ các nhóm yếu thế trong xã hội (Vũ Văn Phúc, 2012).   Trong điều kiện đó, bảo trợ xã hội ở Việt Nam đứng trước một đòi hỏi cấp  bách là phải nhanh chóng hoàn thiện các chế  độ  (số  lượng, nội dung đảm  bảo, nguồn huy động,…) nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân trong  điều kiện phát triển mới (kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân, hội nhập quốc  tế). Thực tiễn phát triển kinh tế­xã hội ở Việt Nam trong những năm gần đây  cho thấy, tăng trưởng bền vững không phải là mục tiêu dễ  dàng thực hiện.  Nguy cơ  kinh tế  giảm phát, lạm phát và bất  ổn kinh tế  vĩ mô thường xuyên   xảy ra rất khó đoán định dẫn đến tình trạng mất việc làm và thu nhập bất ổn  định. Giá cả  và lạm phát tăng cao đồng nghĩa với việc người dân mất đi thu   nhập thực tế (theo tỷ lệ lạm phát). Biến đổi khí hậu bất thường theo hướng   cực đoan, thiên tai, bệnh dịch luôn rình rập làm cho sản xuất và đời sống dân  
  10. cư   càng   gặp   nhiều   khó   khăn.   Mất   sinh   kế,   thu   nhập   giảm   sút,   thiên   tai   thường xuyên đe dọa làm tăng tính dễ bị tổn thương đối với nhiều gia đình và  cá   nhân.  Việc  thương  mại  hóa  các   dịch  vụ   xã  hội  càng   làm  tăng  sự  tổn  thương của các nhóm dân cư  đang cần được bảo trợ. Bất bình đẳng xã hội  luôn là yếu tố  thách thức mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo an sinh xã  hội ở nước ta. Thách thức là ở chỗ còn có nhiều đối tượng yếu thế khác cần  được trợ giúp như người nhiễm HIV/AIDS, lao động di cư, phụ nữ trẻ em bị  bạo lực, nạn nhân của bom mìn sau chiến tranh, của tệ  nạn mua bán người, … Ngay cả với các hộ dù đã thoát nghèo nhưng số  nằm sát chuẩn nghèo rất   lớn (70­80% số  hộ), đồng thời tỷ  lệ  tái nghèo cao (ở  mức 7­10%) và có thể  tăng lên bất cứ lúc nào nếu thiên tai xảy ra. Mặc dù tình trạng “nghèo”, “thu   nhập thấp”, “bị gạt ra ngoài lề xã hội” hoặc bị “bỏ quên” không phải lúc nào  cũng tập trung rơi vào một nhóm đối tượng giống nhau, song tất cả đều tăng  tính dễ bị tổn thương, đặc biệt khi bất bình đẳng xã hội có xu hướng gia tăng  như hiện nay. Sự phân hóa nhanh về mức sống trong nền kinh tế thị trường,   đã làm cho các nhóm xã hội yếu thế ngày càng trở nên yếu thế hơn và dễ  bị  tổn thương hơn trước những cú sốc. Các nguy cơ, rủi ro kinh tế  và xã hội   ngày càng có xu hướng tăng như  khủng hoảng kinh tế  ­ tài chính toàn cầu,  thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu,… Bên cạnh đó, xu hướng già hóa dân  số là hiện hữu ở Việt Nam tiếp tục đặt ra nhiều khó khăn thách thức, tạo áp  lực lớn lên hệ thống y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí, và các dịch vụ  chăm sóc xã hội cho người cao tuổi. Điều này đòi hỏi phải có một hệ thống   bảo trợ  hiệu quả  hơn, phù hợp hơn với nhu cầu và đặc điểm của xã hội.   TGXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người. Trong  bất kỳ  xã hội nào,  ở  bất cứ  giai đoạn phát triển nào cũng đều có những  nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể tự lo liệu được  cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở  thành những người “yếu   thế” trong xã hội. Nếu trong xã hội có những nhóm người “yếu thế”, những  người  gặp rủi  ro, bất   hạnh  thì  cũng  chính trong xã  hội  đó   lại  nẩy sinh   những cơ  chế  hoặc tự  phát, hoặc tự  giác, thích  ứng để  giúp đỡ  họ. Đây là  cơ  sở  để  hệ  thống TGXH được hình thành và phát triển. Tất nhiên, TGXH   là một quá trình phát triển toàn diện, từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng  phong phú, đa dạng. 5. Tác động bất lợi của xu thế toàn cầu hóa
  11. ­ Tăng trưởng kinh tế không bền vững do phụ thuộc vào xuất khẩu Nền kinh tế các nước đang phát triển đang cơ cấu lại theo chiến lược   kinh tế  thị  trường mở, hội nhập quốc tế. Nhưng trong quá trình đó, tốc độ  tăng trưởng kinh tế của nhiều nước đang phát triển phụ thuộc phần lớn vào  xuất khẩu. Mà xuất khẩu lại phụ  thuộc vào sự   ổn định của thị  trường thế  giới, vào giá cả quốc tế, vào lợi ích của các nước nhập khẩu, vào độ mở cửa   thị trường của các nước phát triển... do vậy, mà chứa đựng nhiều yếu tố bất  ổn, khó lường trước. ­ Lợi thế của các nước đang phát triển đang bị yếu dần Nền kinh tế  thế  giới đang chuyển mạnh từ  nền kinh tế  công nghiệp  sang nền kinh tế tri thức. Do vậy mà những yếu tố  được coi là lợi thế  của  các nước đang phát triển T như  tài nguyên, lực lượng lao động dồi dào, chi  phí lao động thấp... sẽ yếu dần đi, còn  ưu thế  về kỹ  thuật ­ công nghệ  cao,  về  sản phẩm sở  hữu trí tuệ, về  vốn lớn... lại đang là  ưu thế  mạnh của các  nước phát triển.  Và các nước càng kém phát triển thì càng phải chịu nhiều  thua thiệt và rủi ro do sự suy giảm về lợi thế so sánh gây ra. Đó là thách thức   cho các nước đi sau   ­ Nợ nần của các nước đang phát triển tăng lên Sau một thời gian tham gia TCH, KVH nợ  nần của nhiều nước đang  phát triển ngày càng thêm chồng chất. Khoản nợ quá lớn (trên 2200 tỷ USD)   là gánh nặng đè lên nền kinh tế của các nước đang phát triển, nó là lực cản  kéo lùi tốc độ  tăng trưởng kinh tế  của các nước này. Điều đó càng làm cho  nền kinh tế một số nước đang phát triển lâm vào bế tắc, không có đường ra,  dẫn đến vỡ  nợ, phá sản. TCH như  cỗ  xe khổng lồ  nghiền nát nền kinh tế  một số nước bị vỡ nợ. ­ Sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém TCH, KVH đã làm cho vấn đề  cạnh tranh toàn cầu trở  nên ngày càng  quyết liệt. Xuất phát điểm và sức mạnh của mỗi quốc gia khác nhau, nên cơ  hội và rủi ro của các nước là không ngang nhau. Nền kinh tế  của các nước  đang phát triển dễ bị thua thiệt nhiều hơn trong cuộc cạnh tranh không ngang   sức này. Càng phải phá bỏ  hàng rào bảo hộ  thì thách thức đối với các nước  đang phát triển càng lớn. Chính sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ, vốn, kỹ  năng tổ chức nền kinh tế của các nước đang phát triển sẽ làm cho chênh lệch   về trình độ  phát triển giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển 
  12. sẽ  ngày càng cách xa hơn. Từ  đó cho thấy rằng: Việc áp dụng nguyên tắc   cạnh tranh bình đẳng cho các nước có trình độ kinh tế khác xa nhau thực chất   là một sự  bất bình đẳng. Trên một sân chơi ngang bằng, cạnh tranh ‘’bình  đẳng’’ những nền kinh tế  lớn mạnh, những công ty có sức mạnh nhất định   sẽ chiến thắng những nền kinh tế còn kém phát triển, những công ty còn nhỏ  yếu. Tính chất bất bình đẳng trong cạnh tranh quốc tế hiện nay đang đem lại  những thua thiệt cho các nước đang phát triển. ­ Phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát   triển tăng lên Quá trình TCH, KVH là quá trình làm tăng thêm sự phân hoá giàu nghèo  giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển. Hiện nay các nước phát  triển đang nắm giữ 3/4 sức sản xuất của toàn thế  giới, 3/4 phân ngạch mậu  dịch quốc tế, là nơi đầu tư và thu hút chủ yếu các luồng vốn FDI (năm 1999  trong 827 tỷ USD tổng vốn FDI của thế giới, các nước phát triển chiếm 609  tỷ USD, riêng EU gần 300 tỷ USD, Mỹ gần 200 tỷ USD). Các Công ty xuyên  quốc gia lớn nhất thế  giới cũng chủ  yếu nằm  ở  các nước phát triển. Các   nước này cũng nắm giữ hầu hết các công nghệ hiện đại nhất, các phát minh,  sáng chế, bí quyết và các sản phẩm chất xám khác. Đây cũng là nơi liên tục  thu hút được "chất xám" của toàn thế giới. Ngoài ra các thiết chế kinh tế, tài  chính, tiền tệ, thương mại quốc tế như WTO. IMF, WB... đều nằm dưới sự  chi phối của các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ. Với những sức mạnh kinh   tế  to lớn như  vậy, các nước phát triển đang chi phối nền kinh tế  toàn cầu.   Còn các nước đang phát triển thì nền kinh tế chưa đủ sức để chống đỡ được   vòng xoáy của cạnh tranh trong nền kinh tế  thế giới. Do vậy mà các nước  đang phát triển ngày càng bị nghèo đi so với tốc độ giàu nhanh của các nước  phát triển. Năm 1998, 24 quốc gia phát triển chiếm khoảng 17% dân số  thế  giới thì chiếm tới 79% giá trị tổng sản lượng kinh tế quốc dân toàn thế giới;  còn các nước đang phát triển chiếm 83% dân số  thế  giới thì chỉ  chiếm 21%  giá trị  tổng sản lượng kinh tế  quốc dân toàn thế  giới; 20% số  dân thế  giới   sống  ở  những nước thu nhập cao tiêu dùng 86% số  hàng hoá của toàn thế  giới. 20% số dân nghèo nhất thế giới năm 1998 chỉ chiếm 1,1% thu nhập toàn   thế giới, tỷ lệ đó năm 1991 là 1,4%, năm 1996 là 2,3%. Hiện nay, tài sản của  10 tỷ phú hàng đầu thế giới đã đạt 133 tỷ USD tương đương với 1,5 lần thu  nhập quốc dân của tất cả các nước đang phát triển.
  13. ­ Môi trường sinh thái ngày càng xấu đi Việc chuyển dịch những ngành đòi hỏi nhiều hàm lượng lao động, tài  nguyên... nhiều những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường sang các  nước đang phát triển; việc các nhà tư  bản nước ngoài đầu tư  vào các nước   đang phát triển ngày càng trở  nên xấu đi nhanh chóng. Hơn nữa, trong quá  trình TCH sự phát triển của các nước phát triển không chỉ dựa vào tài nguyên  giá rẻ, sức lao động rẻ, thị trường giá rẻ, hàng hoá và dịch vụ rẻ; mà còn dựa  vào đầu độc môi trường sinh thái  ở  các nước đang phát triển. 2/3 rừng của   thế  giới đang bị  phá huỷ  và đang mất đi với tốc độ  mỗi năm 16 triệu ha.  Lượng gỗ  dùng cho sản xuất giấy (gần như  toàn bộ  lấy từ  các nước đang  phát triển) thập kỷ 90 gấp đôi thập kỷ 50, mà tiêu dùng chế  phẩm giấy của   Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu chiếm 2/3 thế  giới. Toàn thế  giới mỗi năm có 2,7   triệu người chết vì không khí bị ô nhiễm, thì 90% số người đó là ở các nước  đang phát triển. Ngoài ra, mỗi năm còn có khoảng 25 triệu người bị trúng độc   vì thuốc trừ sâu, 5 triệu người bị chết vì nhiễm bệnh do nước bị nhiễm bẩn... ­ Đại dịch HIV/AIDS:   HIV : H (Human) ­ Người I (Immunodeficiency) ­ Suy giảm miễn dịch V (Virus) ­ Virút HIV là vi rút gây suy giảm miễn dịch  ở người. HIV gây ra một bệnh không có khả năng điều trị được gọi là  AIDS AISD : A (Acquired) ­ Mắc phải I (Immune) ­ Miễn dịch D (Deficiency) ­ Suy giảm S (Syndrome) ­ Hội chứng AIDS là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (là giai đoạn cuối  của người nhiễm HIV). Người bị  hội chứng AIDS thường tử  vong do các  bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng, nấm hoặc các bệnh ác tính. Theo   báo   cáo   của   Hội   nghị   về   phòng   chống   AIDS   vừa   họp   tại   Bangkok, Thái lan tháng 7/ 2004 trên thế giới có trên 58 triệu người bị nhiễm   HIV, trong đó hơn 20 triệu người đã bị AIDS và tử vong . Đại dịch AIDS lan  tràn nhiều nhất là châu Phi và châu á (Đông Nam Á). Mỗi ngày có khoảng   5.000 người bị lây nhiễm HIV.
  14. Phụ  nữ, trẻ  em là những đối tượng yếu thế  đồng thời cũng là người  chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch này  Thế  giới nói chung và Việt nam nói riêng đã và đang có nhiều biện  pháp, chương trình phòng ,chống ...Đồng thời hỗ  trợ  các dịch vụ  chăm sóc  với những đối tượng đã mắc phải (Không phân biệt đối xử, không ruồng bỏ,   hỗ  trợ  thích hợp, chăm sóc điều trị...) Giúp họ  được sống bình đẳng, hoà   nhập với cộng đồng. ­ Chiến tranh, xung đột khu vực và khủng bố: Đại chiến thế giới lần thứ 2 Đến nay vẫn chưa chấm dứt những cuộc chiến vì màu da sắc tộc, vì  đất đai, khoáng sản...(Giữa Palestin với Israen kéo dài từ  những năm 70 đến   nay vẫn chưa kết thúc). Vấn đề khủng bố, chống khủng bố: Mỹ đã lập ra cái  gọi là liên minh chống chủ nghĩa khủng bố toàn cầu. Sau 15 tháng chiến tranh   chống Irắc, dư luận thế giới đến nay đều cho rằng Mỹ  đã thất bại. Chỉ  sau   15   tháng   đơn   phương   tiến   hành   cuộc   chiến   tranh   xâm   lược   I­rắc   (từ  19/3/2003 đến 16/6/2004) đã có 836 lính Mỹ, 116 lính liên quân bị  giết; hơn  5000 lính Mỹ  bị  thương; 36 nhà thầu, nhân viên dân sự  Mỹ  bị  chết; 30 nhà  báo, phóng viên.  Nguyên nhân sâu xa của "Khủng bố  toàn cầu" và mọi cuộc xung đột  đều nảy sinh từ  sự  khác nhau về  sắc tộc, sự  phủ  nhận các quyền chính trị,   nghèo khổ và việc tranh giành các nguồn lực.  Hiện nay, thực chất, cuộc chiến tranh "chống chủ nghĩa khủng bố toàn   cầu" chỉ  là một cái cớ  để  biện hộ  cho một cuộc chiến tranh  vì dầu lửa và  khoáng sản, vì lợi thế địa lý ­ chính trị, vì yêu cầu bành trướng quân sự  để phục vụ cho các công ty xuyên quốc gia.   Bên cạnh cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa khủng bố  toàn câu, nước  Mỹ luôn đem con bài "vi phạm nhân quyền" như một quân bài để kích động  lật đổ, chống phá các quốc gia đối lập; Trong khi đó họ  là kẻ  bảo trợ  chính   cho những thể chế độc tài và hiếu chiến nhiều khu vực trên thế giới.  Trong khi cần có nhiều nguồn lực để  xoá đói, giảm nghèo, phát triển,  xây dựng một thế  giới an sinh, ngăn ngừa mầm mống của xung đột, chiến   tranh thì ngày nay, nguồn lực lại đang phải tập trung giải quyết xung đột,  khủng hoảng trong tương lai.
  15. Riêng nước Mỹ, trong cuộc chiến tranh chống Irắc, đến nay (6/2004)  đã phải chi tới 152,1 tỷ đô la Mỹ Bên cạnh những tổn thất của nước Mỹ, cuộc chiến tranh này còn để lại  hậu quả nặng nề cho đất nước I­rắc và thế giới. Việc phớt lờ luật pháp quốc  tế để phát động chiến tranh, việc tra tấn dã man tù binh sẽ tạo ra tiền lệ xấu  cuộc chiến tranh I rắc không những không giảm được tình hình khủng bố mà   càng kích động thêm các tổ chức khủng bố, đặt nước Mỹ và nhiều nước khác   trước nguy cơ bị khủng bố.  Để giải quyết nguyên nhân sâu xa của các cuộc xung đột là giải quyết   các vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Sẽ không có một nền an ninh thực sự  trong một thế giới nghèo khổ, không thể có an sinh cho một số người, một số  quốc gia nếu như  đại bộ  phận người khác, quốc gia khác sống trong nghèo  đói, bất bình đẳng, không có an sinh.  ­ Vấn đề bất bình đẳng trong xã hội và thay đổi cơ cấu dân số:  Phụ  nữ  chiếm trên một nửa dân số  thế  giới. Phụ  nữ  thường bị  phân  biệt đối xử, 2/3 người mù chữ là phụ nữ, kìm hãm sự phát triển của phụ nữ. Cùng với phụ nữ , trẻ em chịu nhiều thiệt thũi nhất. Theo số  liệu của   LHQ, trên thế giới hiện cứ 250 triệu trẻ em dưới 15 tuổi phải làm việc kiếm   sống; Trên 130 triệu trẻ  em lứa tuổi tiểu học, trong đó trên 60% là các em   không có trình độ  tiểu học; Hàng năm cứ  trên 5 triệu trẻ  em bị  chết vì suy   dinh dưỡng nặng...  ­ Vấn đề người tàn tật cũng là mối quan tâm chung Phải xây dựng một xã hội thích nghi với người tàn tật, người tàn tật có   mọi quyền như người không tàn tật khác về  tất cả các lĩnh vực, giáo dục, y  tế, việc làm, thu nhập, tiếp cận với đời sống văn hóa, xã hội Trên thế giới có hơn 500 triệu người tàn tật  Người tàn tật bị từ chối việc làm, hoặc chỉ được giao cho những công  việc lao động chân tay, hoặc lao động thu nhập thấp. Ở nông thôn, người tàn  tật được giao làm những việc gia đình (hoặc việc nhà nông ).  Ở  thành thị  hoặc khi nông nghiệp được cơ giới hoá và thương mại hoá, người tàn tật trở  nên khó tìm việc hơn. Trong điều kiện cạnh tranh lao động như  hiện nay,  nhiều người phải sống phụ thuộc vào gia đình, xã hội, thậm chí nhiều người   phải đi ăn xin.
  16. ­ Bùng nổ dân số  (ở các nước đang phát triển) và dân số  già đi (ở các  nước phát triển) …cũng là những yếu tố tiêu cực, tác động tới An sinh xã hội   trên phạm vi toàn thế giới. Những đòi hỏi được đặt ra trước các quốc gia là: 1) tăng cường khả  năng tự  độc lập và nâng cao chất lượng sống của người cao tuổi; 2) Phát  triển hệ  thống chăm sóc sức khoẻ, các chương trình an sinh kinh tế, an sinh   xã hội cho người cao tuổi; thừa nhận nhu cầu đặc biệt của phụ nữ cao tuổi;   3) Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội chính thức và phi chính thức nhằm tăng  cường khả  năng của gia đình để  chăm sóc người cao tuổi tại gia đình;  ảnh  hưởng của bất bình đẳng xã hội đối với phụ  nữ, người tàn tật...đến ASXH.  Lãng phí  nguồn nhân lực  là Phụ  nữ, người cao  tuổi, người tàn  tật. Nếu   những đối tượng trên không được nâng cao năng lực, tạo quyền cho họ, xã  hội sẽ  phải mất thời gian,công sức và tiền bạc để  đảm bảo an sinh cho đối   tượng này.  Khi phải đối diện với những tác động bất lợi như  vậy đòi hỏi  phải có một hệ thống bảo trợ hiệu quả hơn, phù hợp hơn với nhu cầu và đặc  điểm của xã hội.  II. Lịch sử  hình thành và phát triển của trợ  giúp xã hội  ở  Việt   Nam  ­ Xuất phát từ những ước muốn của con người ­ Do qui luật tự nhiên xã hội ...con người gặp phải  Để tự cứu mình, cứu gia đình và cộng đồng thóat khỏi những khó khăn,  rủi ro, hoạn nạn thì con người phải tự mình tìm cách đối phó, phòng ngừa. Sau đến gia đình cộng đồng xã hội dần có sự tham gia Vậy từ lâu đã hình thành các hình thức hỗ trợ, giúp đỡ ... Mỗi chế độ  xã hội có những đặc trưng khác nhau: Phương Đông : Cơ  chế  gia đình, cộng đồng ...Các triều đại phong kiến: đề  ra những chính sách  giúp người yếu thế, có nhiều khó khăn như  cô nhi, quả  phị, người già….  Thời kỳ phong kiến ở Phương Tây: Ban phát của nhà thờ; Sự bố thí của lãnh   chúa mỗi khi mùa màng thất bát; Hoạt động từ thiện.  Năm   1601,  ở   nước   Anh  đã   ban   hành  đạo   luật   Elizabeth   cho   người  nghèo, đây có thể coi là bộ luật an sinh đầu tiên (xem xét ở nghĩa hẹp!). Khi   xã hội loài người chuyển sang giai đoạn phát triển tư  bản chủ  nghĩa xã hội  phát triển, công nghiệp phát triển (Máy móc thay thế lao động thô sơ) nhiều  người mất việc làm, vấn đề đô thị hoá ...Đã xuất hiện hình thức bắt buộc trợ 
  17. giúp xã hội. Năm 1835 ở Mỹ Đạo luật về trợ giỳp xó hội  (theo nghĩa rộng )  đầu tiên trên thế giới  (Thực hiện : người già, tử tuất, tàn tật, thất nghiệp ...) Thuật ngữ "an sinh xã hội" chính thức được sử dụng. Năm 1941, trong   Hiến chương Đại Tây dương và sau đó Tổ  chức Lao động quốc tế  (ILO)  chính thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc tế. An sinh xã hội đã  được tất cả các nước thừa nhận là quyền con người.  Đến nay, an sinh xã hội đã phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới,  víi c¸c m« h×nh kh¸c nhau. 1. Hoạt động trợ giúp xã hội là truyền thống nhân đạo của dân tộc   Việt Nam Mỗi người trong xã hội từ  những địa vị  xã hội, chủng tộc, tôn giáo  khác nhau… là những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị  xã hội.   Nhưng vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân, họ  phải được bảo  đảm mọi mặt để  phát huy đầy đủ  những khả  năng của mình, không phân  biệt địa vị  xã hội, chủng tộc, tôn giáo… Trợ  giúp xã hội tạo cho những   người bất hạnh, những người kém may mắn hơn những người bình thường   khác   có   thêm   những   điều   kiện,   những   lực   đẩy   cần   thiết   để   khắc   phục  những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”, có cơ  hội để  phát triển, hoà nhập  vào cộng đồng. Trợ giúp xã hội kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con   người, kể  cả  những người giàu và người nghèo; người may mắn và người  kém may mắn, giúp họ  hướng tới những chuẩn mực của Chân – Thiện –  Mỹ. Nhờ  đó, một mặt có thể chống thói ỷ  lại vào xã hội; mặt khác, có thể  chống lại được tư  tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà  ấy rạng”… Trợ  giúp xã hội là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người không phân biệt chính  kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng  tới một xã hội nhân ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình  yên. Sự  đoàn kết, giúp đỡ  lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những  nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ  những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị  nhân bản của con   người, bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh. Sự đoàn kết, giúp đỡ  lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân tố  để   ổn định và phát   triển xã hội và là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thể hiện tính   nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Sự  san sẻ  trong cộng  đồng, giúp đỡ  những  người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị  nhân bản của con người,  
  18. bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh. Ở Việt Nam, an sinh xã hội  được chú trọng như một sự  ưu việt của chế độ  xã hội chủ  nghĩa, như  được  thể  hiện ngay trong Hiến pháp đầu tiên 1946 của nước ta. Hiến pháp đã ghi  nhận các quyền được hưởng bảo hiểm xã hội của công nhân viên chức nhà  nước, việc chăm sóc những người có công, người già, tàn tật, trẻ em mồ côi.   Truyền thống nhân ái, sẵn sàng chia sẻ, “lá lành đùm lá rách” được nhấn  mạnh trong các hoạt động cộng đồng. Việc đảm bảo an sinh xã hội được   quan tâm ngay từ trong giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trợ giúp xã  hội trở  thành một trong những trụ  cột cơ  bản trong hệ  thống chính sách xã  hội được Đảng và Nhà nước ta quan tâm xây dựng. Để  hiện thực hóa định  hướng xã hội chủ  nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế  thị  trường  ở  Việt Nam, cần chú trọng tăng thu nhập dân cư  và nguồn thu của ngân sách  nhà nước để  có điều kiện thực hiện mục tiêu an sinh xã hội, đảm bảo thực  hiện tốt chính sách trợ giúp xã hội. 2. Sự hình thành và phát triển của trợ giúp xã hội trong lịch sử Việt   Nam 2.1. Sự hình thành của trợ giúp xã hội Đảng ta luôn khẳng định: Tăng trưởng kinh tế  phải tiến hành song  song với tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển, đáp ứng nhu  cầu sống của con người và vì mục tiêu phát triển con người. Mục đích cuối   cùng của tăng trưởng kinh tế  là cải thiện điều kiện và nâng cao chất lượng  cuộc sống của nhân dân. Thực hiện các chính sách an sinh xã hội, do vậy, là   nhằm bảo đảm phân phối những thành quả  tăng trưởng kinh tế  theo hướng  bảo đảm công bằng xã hội và hài hòa lợi ích giữa các chủ  thể, nhóm xã hội   và tạo sự đồng thuận xã hội. 2.2. Quá trình phát triển của trợ giúp xã hội Ngay từ khi Cách mạng tháng 8 thành công, Đảng và Nhà nước đã coi  nhiệm vụ diệt giặc đói, giặc dốt như diệt giặc ngoại xâm. Trong đó, đối phó  với giặc đói được đặt lên hàng đầu. Lúc sinh thời, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh  cũng chỉ mong muốn là: “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta   được hoàn toàn tự  do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được   học hành”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa  xã hội (năm 1991) khẳng định: “Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng  nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về  ăn, ở, đi lại, 
  19. học tập, nghỉ  ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể  chất...Có chính sách bảo trợ  và điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ  phận dân cư, các ngành và các  vùng”. Đặc biệt lần đầu tiên, Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước  trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội (được bổ  sung, phát triển năm   2011) đã tuyên bố cầ n phải: “Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội”. Cụm từ  “an sinh xã hội” được chí nh thứ  c sử  dụ  ng trong văn kiện Đại hội IX của   Đảng (4/2001): “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh   xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp”. Đại   hội X đã đưa ra tư  tưởng chỉ  đạo có tính chất định hướng chiến lược là:  “Thực hiện tốt chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi  với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát  triển kinh tế – xã hội”. Đến năm 2020 nước ta cơ  bản trở  thành nước công  nghiệp theo hướng hiện đại,... gắ n tăng trưở ng kinh tế với thự c hiệ n cá c  chính sá ch xã hộ i trên nguyên tắ c tiế n bộ và công bằ ng xã hộ i ngay trong  từng bước và từng chính sách phát triển,... giải quyết tốt các vấn đề  xã hội  có ý nghĩa chiến lược, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế  thị trường, nhất là vấn đề việc làm, giảm thất nghiệp, ưu đãi người có công,   xoá đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội... Nghị quyết   Đại hội X của Đảng chủ  trương: “Xây dựng hệ  thống an sinh xã hội đa   dạng, phát triển mạnh hệ  thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới  bảo hiểm y tế  toàn dân…; đa dạng hoá các loại hình cứu trợ  xã hội”. Nghị  quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (Khóa X) một lần  nữa nhấn mạnh: “Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để  đáp  ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong  xã hội, nhất là của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”. Đến Đại   hội XI, nhận thức về hệ thống chính sách an sinh xã hội tiếp tục được hoàn  thiện và nâng lên tầm chiến lược về phát triển hệ thống chính sách an sinh xã  hội trong giai đoạn mới, phát triển kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế  thế  giới. Nghị quyết Đại hội XI  của Đảng chỉ rõ : “Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằ ng xã   hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm  sóc sức khỏe nhân dân”. Đại hội XI tiếp tục làm rõ những quan điểm, định   hướng, nội dung cụ  thể  cho từng chính sách an sinh xã hội: “Tiếp tục sửa   đổi, hoàn thiện hệ  thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất 
  20. nghiệp, trợ  giúp và cứu trợ  xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả  năng bảo vệ,  giúp đỡ  mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ  bị  tổn  thương, vượt qua khó khăn hoặc PHÁT TRIỂN HỆ  THỐNG AN SINH XÃ   HỘI  Ở  VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 các rủi ro trong đời sống. Tăng tỷ  lệ  người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội hóa dịch   vụ  bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ  giúp, cứu trợ  sang cung cấp  dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các đối tượng bảo  trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội   tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu. Thanh tra, kiểm tra, xử lý   nghiêm các vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo đảm thực hiện đúng,  đầy đủ chế độ quy định đối với mọi đối tượng”. Chiến lược phát triển kinh  tế­xã hội 2011­2020 nhấn mạnh: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng,  ngày càng mở  rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ  thống bảo hiểm như  bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh   nghề  nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để  người lao động  tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực hiện tốt các chính sách ưu   đãi và không ngừng nâng cao mức sống đối với người có công. Mở rộng các   hình thức cứu trợ  xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn”. Nghị  Quyết số 15­NQ/TW của Ban chấp hành TW Đảng ngày 1/6/2012 đặt ra yêu  cầu “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế  và  thực hiện đồng bộ  với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ  phát triển và   khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ ..”, đồng thời thực hiện có trọng tâm,  trọng điểm, bảo đảm mức sống tối thiểu và hỗ  trợ  kịp thời người có hoàn  cảnh khó khăn. III. Khái niệm trợ giúp xã hội và các khái niệm có liên quan  1. Khái niệm trợ giúp xã hội 1.1. Trợ giúp xã hội là một bộ phận của an sinh xã hội Về  mặt cấu trúc, trên giác độ  khái quát nhất, ASXH gồm những bộ  phận cơ bản là: ­ Bảo hiểm xã hội. ­ Trợ giúp xã hội. ­ Trợ cấp gia đình. ­ Các quỹ tiết kiệm xã hội. ­ Các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng…
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2