Giáo trình Chính sách xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) - Trường Trung cấp Tháp Mười (năm 2019)
lượt xem 6
download
Giáo trình Chính sách xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) được biên soạn với mục tiêu nhằm giúp sinh viên trình bày được những lý luận chung về chính sách xã hội; Mô tả được các chính sách và dịch vụ đối với một số lĩnh vực.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Chính sách xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) - Trường Trung cấp Tháp Mười (năm 2019)
- SỞ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI ĐỒNG THÁP TRƯỜNG TCN – GDTX THÁP MƯỜI GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN: CHÍNH SÁCH XÃ HỘI NGÀNH/NGHỀ: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ-TCNGDTX ngày tháng năm 2019 của Hiệu trưởng Trường Trung cấp nghề - Giáo dục thường xuyên Tháp Mười.
- Tháp Mười, năm 2019
- TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
- LỜI GIỚI THIỆU Giáo trình Chính sách xã hội được biên soạn theo kế hoạch chung của Sở Lao động – Thương binh và xã hội Đồng Tháp thực hiện lựa chọn, chỉnh sửa giáo trình đào tạo nhầm cung cấp giáo trình đào tạo cho nghề công tác xã hội trên địa bàn tỉnh như là một phần của đóng góp thực hiện của “Đề án phát triển Nghề Công tác xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2010-2020” trong Quyết định 32/2010 – QĐ/TTg được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 3 năm 2010. Trong quá trình biên soạn, nhóm tác giả cảm ơn sự phối hợp và những ý kiến góp ý có giá trị từ các giảng viên Trường Đại học Đồng Tháp, Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long và các đơn vị giáo dục nghề nghiệp bạn. Nhóm tác giả hy vọng rằng tài liệu này sẽ cung cấp những kiến thức, kỹ năng và những công cụ hữu ích cho việc giảng dạy, học tập trong quá trình đào tạo nghề công tác xã hội. Nhóm tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp hữu ích để có thể điều chỉnh tốt hơn trong tương lai và phù hợp hơn với nhu cầu học tập của mọi người./. Đồng Tháp, ngày 15 tháng 10 năm 2019 Tham gia thực hiện 1. Kiều Văn Tu 2. Võ Trí Trọng 3. Nguyễn Hòa Thuận 4. Nguyễn Văn Cường
- CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Chính sách xã hội Mã số môn học: MH13 I. Vị trí, tính chất của môn học: - Vị trí: Chính sách xã hội là môn học cơ sở kỹ thuật nghề quan trọng trong chương trình đào tạo trung cấp nghề công tác xã hội liên quan tới cung cấp dịch vụ cho đối tượng. - Tính chất: Là môn lý thuyết cơ sở kỹ thuật nghề bắt buộc. II. Mục tiêu của môn học: - Kiến thức: + Trình bày được những lý luận chung về chính sách xã hội. + Mô tả được các chính sách và dịch vụ đối với một số lĩnh vực. - Kỹ năng: Vận dụng lý luận giải thích các tình huống thực tế. - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Công tâm, tôn trọng đối tượng.
- CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Mục tiêu: - Nắm vững khái niệm, đặc trưng và vai trò của chính sách xã hội. - Học sinh nắm được các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách xã hội. - Phân tích được khái niệm, đặc trưng và vai trò của chính sách xã hội. - Áp dụng đặc trưng của chính sách xã hội để xây dựng các chính sách và dịch vụ trợ giúp đối tượng. 1. Khái niệm chính sách xã hội 1.1 Khái niệm chính sách xã hội trên thế giới - Theo V.Z Ro-go-vin cho rằng: “Chính sách xã hội là lĩnh vực tri thức xã hội học, nghiên cứu hệ thông về các quá trình xã hội, quyết định hoạt động sống của con người trong xã hội, xét theo khả năng tác động, quản lý đến các quá trình đó. Có đầy đủ cơ sở để xem xét chính sách xã hội như là sự hoà quyện của khoa học thực tiễn, như là sự phân tích phức hợp, dự báo về các quan hệ, các quá trình xã hội và sự vận động thực tiễn những tri thức thu nhận được nhằm mục đích quản lý các quá trình và quan hệ ấy. - Còn theo Giáo sư G.Winkler, nguyên viện trưởng Viện xã hội học và chính sách xã hội (thuộc Cộng hoà dân chủ Đức cũ) cho rằng: “Chính sách xã hội là tổng hoà các biện pháp và phương pháp của Đảng, của giai cấp công nhân, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của các liên hợp công đoàn, của các đảng phải và các tổ chức chính trị khác, nhằm tiếp tục xây dựng quan hệ xã hội… phục vụ cho những yêu cầu và lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tri thức và những người lao động khác”. + Theo quan điểm của G.Winler thì chính sách xã hội đề cập đến sự phát triển các quan hệ xã hội với tư cách là quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội trong quá trình xích lại gần nhau. Chính sách xã hội, chính sách kinh tế, chính sách văn hoá, chính sách dân tộc không tách rời nhau. - Theo quan điểm của giáo sư Anthoay Giddens nhà xã hội học Mỹ thì chính sách xã hội là “sự nghiên cứu có hiệu quả về xã hội học, khoa học chính trị và khoa học kinh tế, được chờ đợi nhằm biến đổi hoạch định chính sách trong chính phủ và do đó dẫn đến tiến bộ xã hội và thịnh vượng kinh tế. Mối quan hệ giữa nghiên cứu và chính sách được xem như một công cụ, một phương tiện nhằm mục đích thực tế kiểm soát tổ chức xã hội và biến đổi xã hội một cách có hiệu quả”. 1.2 Khái niệm chính sách xã hội trong nước
- Để giải quyết những vấn đề xã hội, trước hết cần có chính sách xã hội. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã xác định “chính sách xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống của con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc. Coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Chính sách xã hội lần đầu tiên được đặt đúng vị trí và tầm quan trọng của nó trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Để hiểu rõ chính sách xã hội là gì, đối tượng và phạm vi của nó như thế nào, trước hết, chúng ta cần phải làm rõ hơn khái niệm chính sách xã hội. Hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm chính sách xã hội, tùy theo cách tiếp cận của từng nhà nghiên cứu thuộc các môn khoa học xã hội khác nhau. Từ góc độ quản lý, chính sách xã hội là sự cụ thể hóa và thể chế hóa của Nhà nước các đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng về việc giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan đến con người, nhóm người, hoặc toàn thể cộng đồng dân cư, nhằm trực tiếp tác động vào quan hệ con người, thành viên xã hội, để điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa họ, bảo đảm phát triển con người, thiết lập sự công bằng xã hội, trật tự an toàn xã hội, phát triển và tiến bộ xã hội. Chính sách xã hội là chính sách của Nhà nước đề cập và giải quyết các vấn đề xã hội tức là giải quyết các vấn đề phát sinh từ các quan hệ xã hội, liên quan đến lợi ích và sự phát triển con người, cộng đồng dân cư, đó là những vấn đề có ý nghĩa chính trị cốt lõi của mỗi quốc gia. Do đó, chính sách xã hội phải dựa trên các quan điểm, chủ trương của Đảng, đồng thời các quan điểm, chủ trương đó được thể chế hoá để tác động vào các quan hệ xã hội nhằm giải quyết những vấn đề xã hội, góp phần thực hiện công bằng xã hội, tiến bộ và phát triển con người. Chính sách xã hội là tổng hợp các phương thức, các biện pháp của nhà nước, nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các quan hệ xã hội và các vấn đề xã hội rất rộng lớn, liên quan đến mọi mặt của cuộc sống con người và các cộng đồng dân cư. Thuật ngữ chính sách xã hội chỉ là thuật ngữ chung, bao trùm cho tất cả các chính sách xã hội cụ thể. Vì vậy, khi đề cập đến chính sách xã hội là đề cập đến một chính sách xã hội cụ thể như chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách việc làm, chính sách bảo hiểm xã hội. Mặt khác, trong một chính sách xã hội lại bao gồm các chính sách xã hội nhằm giải quyết các khía cạnh của các vấn đề lớn. Ví dụ, trong chính sách việc làm bao gồm các chính sách cho vay vốn tạo việc làm, chính sách thị trường lao động, chính sách đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Mỗi chính sách xã hội cụ thể có mục tiêu riêng. Tuy nhiên, mục tiêu bao trùm của chính sách xã hội là thiết lập sự công bằng, trật tự an toàn xã hội, ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. Về thực chất, hệ thống chính sách xã hội hướng vào nâng cao
- dân trí, dân sinh, dân chủ, đảm bảo cho mọi người sống ấm no, hạnh phúc, nhân ái, bình đẳng và công bằng. Có thể nói, chính sách xã hội là chính sách con người, phát triển con người và vì con người. Chính sách xã hội vĩ mô là chính sách xã hội của nhà nước để giải quyết các vấn đề xã hội ở tầm vĩ mô, như giải quyết các vấn đề xã hội có tính chiến lược trên qui mô quốc gia và trên cơ sở chính sách vĩ mô mà định ra các chính sách cụ thể để giải quyết các khía cạnh mà chính sách vĩ mô đề cập. Chẳng hạn, chính sách phổ cập giáo dục là chính sách vĩ mô, từ đây cần phải có các chính sách cụ thể cho từng vùng, từng đối tượng làm thế nào để có thể thực hiện được chương trình phổ cập. Chính sách xã hội vĩ mô phát huy tác dụng trong thời gian dài và là những chỉ báo cơ bản định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ngoài những chính sách xã hội cơ bản (vĩ mô), bao giờ nhà nước cũng phải có những chính sách xã hội cấp bách giải quyết những vấn đề xã hội gay cấn thường xảy ra trong những thời điểm nhất định. 2. Quan điểm của Đảng về chính sách xã hội 2.1. Sự phát triển nhận thức của Đảng về chính sách xã hội Đại hội đại biểu lần thứ VI thể hiện bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng về chính sách xã hội, đã đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của chính sách xã hội trong phát triển đất nước. Chính sách xã hội được coi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, là động lực to lớn, phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội khẳng định: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. Từ nhận thức: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”, Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh: “Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Đó là một bước tiến mới trong nhận thức về chính sách xã hội của Đảng”. Từ chính sách xã hội chung đó, Đại hội đề cập tới chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp dân cư trong cộng đồng xã hội, đã nhấn mạnh: “ quan điểm đúng đắn và thống nhất, kèm theo những chính sách, biện pháp hiệu quả xây dựng toàn diện giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, làm cho nền tảng chính trị - xã hội của xã hội mới ngày càng vững chắc, ưu thế của lực lượng xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Tiến hành điều tra cơ bản, nắm chắc cơ cấu giai cấp và xã hội của cả nước và từng địa phương sau hơn mười năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát hiện những vấn đề cần được giải quyết về mặt chính sách giai cấp”.
- Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của chính sách xã hội, trong đó nổi bật quan điểm về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội – tất cả vì con người. Nghị quyết Đại hội cũng nêu ra những phương hướng, nhiệm vụ cụ thể của chính sách xã hội: Đó là vấn đề do lịch sử và do hậu quả chiến tranh để lại; đó là loại vấn đề nảy sinh từ nền kinh tế - xã hội lạc hậu, kém phát triển; đó là vấn đề mới phát sinh về xã hội liên quan đến việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần… Đại hội nhấn mạnh: “ Huy động mọi khả năng của Nhà nước và của nhân dân, trung ương và địa phương để cùng nhau giải quyết các vấn đề của chính sách xã hội. Xây dựng các quỹ bảo hiểm xã hội của nhân dân trong tất cả các thành phần kinh tế…” và “cải cách chế độ tiền lương cho đủ tái sản xuất sức lao động, tiền tệ hóa lương,.. gắn cải cách tiền lương với chỉnh đốn bộ máy tổ chức và giảm biên chế. Chăm sóc những người có công với nước,…đặc biệt chú trọng vùng núi biên giới và đồng bào các dân tộc thiểu số”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” và “Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Sự phát triển nhận thức thể hiện ở các nhiệm vụ trước mắt về chính sách xã hội, đó là: Tập trung sức tạo việc làm; thực hiện xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện; chăm sóc bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân; đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; đẩy lùi tệ nạn xã hội… Xuyên suốt các kỳ Đại hội IX, X, XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ, mục tiêu của chính sách xã hội, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề công bằng trong các chính sách xã hội. Văn kiện Đại hội IX nêu rõ: “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ trong phát triển sản xuất, tăng năng xuất lao động, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản”. Tiếp tục phát triển nhận thức mới về chính sách xã hội, Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ” kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển…Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”. Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần”.
- Để thực hiện tốt mục tiêu công bằng trong các chính sách xã hội, Đảng ta nhấn mạnh chính sách xã hội phải phù hợp với từng đối tượng, từng giai cấp, tầng lớp trong xã hội: “Tạo môi trường và điều kiện để mọi lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu – nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước.”. Đến Đại hội XII, quan điểm về chính sách xã hội phù hợp với các giai cấp, tầng lớp và cộng đồng dân cư được nhấn mạnh và nhận thức sâu sắc hơn: “Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội… quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu – nghèo, bảo đảm sự phát triển xã hội ổn định và bền vững... Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội..”. Ngoài các chủ trương chung về chính sách xã hội đối với cộng đồng dân cư, Đảng ta có những nghị quyết riêng để phát huy vai trò tích cực của mỗi giai cấp, tầng lớp. Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương (khoá X), Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/1/2008 về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đến Hội nghị Trung ương 7 (khoá X), có Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Cũng trong Hội nghị này, xác định rõ vai trò to lớn của tầng lớp trí thức, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đến Đại hội khoá XI, lần đầu tiên, Đảng ban hành nghị quyết riêng để phát triển tầng lớp doanh nhân. Ngày 9/12/2011, Bộ Chính trị khoá XI, ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Xây dựng và phát huy đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nghị quyết 15, khóa XI, ngày 1/6/2012 một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020; Những chủ trương, chính sách phát huy đội ngũ doanh nhân Việt Nam tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị Trung ương 5, khoá XII với sự ra đời của Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3/6/2017 về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bên cạnh đó, có các Nghị quyết 27, khóa XII, về cải cách chính sách tiền lương; Nghị quyết 28, khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội tiếp tục hoàn thiện chính sách xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Chính sách xã hội và một số kết quả đạt được thời gian qua 2.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật về các chính sách xã hội ngày càng hoàn thiện, đầy đủ
- Nhà nước ta đã xây dựng hành lang pháp lý, các cơ chế, pháp luật về chính sách xã hội ngày càng được đầy đủ, hoàn thiện, từ Hiến pháp đến các luật, văn bản luật… tạo điều kiện để thực thi ngày càng hiệu quả vai trò, chức năng của các chính sách xã hội. Hiến pháp năm 1992 có nhiều quy định về chính sách xã hội. Điều 56 của Hiến pháp quy định: “Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ, tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động”. Điều 39 nêu những quy định về thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe… Các chính sách xã hội được thể hiện rõ trong các luật, bộ luật như: Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002 và 2006, 2012) có các chương quy định về bảo hiểm xã hội đối với người lao động; Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015… Quốc hội xây dựng Luật Quan hệ lao động và nhiều văn bản pháp luật khác về các vấn đề xã hội. Bên cạnh đó, các văn bản dưới luật như pháp lệnh, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng được ban hành làm cho chính sách xã hội càng hoàn thiện và đạt nhiều kết quả như: Pháp lệnh về danh hiệu vinh dự Nhà nước (Bà mẹ Việt Nam anh hùng), Pháp lệnh ưu đãi người có công… Trong giai đoạn 1997 – 2013, Nhà nước đã ban hành 146 văn bản chính sách xã hội. Trong đó, có 02 văn bản chính sách về an sinh xã hội chung là Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 1-6-2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 và Nghị quyết 70/NQ-CP của Chính phủ ngày 1-11-2012 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15/NQ/TW. Còn lại 144 văn bản chính sách hiện hành về an sinh xã hội, được chia thành bốn nhóm chính sách an sinh xã hội, cụ thể: Chính sách tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động với 33 văn bản hiện hành (2001-2013); Chính sách hỗ trợ giảm nghèo với 14 văn bản hiện hành (2005- 2013); Chính sách BHXH với 5 văn bản hiện hành (2006-2012); Chính sách hỗ trợ các đối tượng khó khăn với 18 văn bản hiện hành, gồm 16 văn bản chính sách trợ giúp xã hội hiện hành (2000-2013) và 2 văn bản chính sách hỗ trợ rủi ro đột xuất do thiên tai và rủi ro thị trường hiện hành (2010-2011); Chính sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu với 74 văn bản hiện hành (1997-2013)[11]. Tiếp đó, giai đoạn 2014- 2018 cũng đã có hàng loạt các văn bản về vấn đề này được ban hành QĐ- 1490/QĐ-TTg về bổ sung dự toán kinh phí chương trình mục tiêu phát triển hệ thống trợ giúp xã hội năm 2017; Quyết định 1865- QĐ năm 2017 về giao kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020. Các luật và các văn bản luật nêu trên, đã làm cho chính sách xã hội trở thành một hệ thống chính sách chặt chẽ, đầy đủ, được bảo đảm bằng tính pháp lý, được thực hiện thống nhất trong cả nước, góp phần tích cực trong quản lý và hiện thực hóa mục tiêu của chính sách xã hội.
- 2.2.2. Chính sách xã hội, chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp dân cư ngày càng được mở rộng, phù hợp hơn với từng nhóm đối tượng. Đối với từng giai cấp, tầng lớp và các đối tượng khác nhau trong cộng đồng dân cư, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành các chính sách riêng phù hợp với từng đối tượng. Diện bao phủ ngày càng được mở rộng, phát huy tích cực nguồn nhân lực quốc gia. - Đối với giai cấp công nhân Sau 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Theo số liệu thống kê, đến cuối năm 2013, công nhân lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11.565.900 người (chiếm 12,8% dân số, 21,7% lực lượng lao động xã hội). Trong đó, 70,2% có trình độ trung học phổ thông, 26,8% có trình độ trung học cơ sở và 3,1% có trình độ tiểu học. Công nhân có trình độ trung cấp chiếm 17,9%, cao đẳng 6,6%, đại học chiếm 17,4%, được đào tạo tại doanh nghiệp chiếm 48%. Đến năm 2015, lên tới 12.856,9 nghìn người, chiếm 14,01% dân số và 23,81% lực lượng lao động xã hội. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập. “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp...; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống”. Mục tiêu về chính sách xã hội cho giai cấp công nhân được nêu rõ trong Nghị quyết 20-NQ/TW: “Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, tạo được chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân (về nhà ở tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hoá, cơ sở nuôi dạy trẻ...) tương xứng với những thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân. Xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh nghiệp. Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nước, nhất là những ngành công nghiệp mới. Tăng nhanh tỉ lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ nông dân và nữ công nhân”. Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã ban hành và triển khai nhiều chính sách, giải pháp thiết thực. Trong Luật Nhà ở năm 2014, các cơ chế, chính sách phát triển nhà ở nói chung và chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội nói riêng đã được Luật hóa, đã đưa ra các giải pháp
- toàn diện, đồng bộ, lâu dài để giải quyết một cách căn bản nhu cầu nhà ở cho 8 nhóm đối tượng có khó khăn về nhà ở, trong đó có công nhân tại các KCN tập trung, bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng. Triển khai Luật Nhà ở năm 2014, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 về phát triển và quản lý nhà ở xã hội. Luật Nhà ở năm 2014 và Nghị định 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ đã có các quy định tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước, nước ngoài và các hộ gia đình, cá nhân tham gia đầu tư phát triển các loại nhà ở xã hội, trong đó có các quy định rất ưu đãi để phát triển nhà ở xã hội nói chung và nhà ở xã hội cho công nhân KCN nói riêng. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong công nhân lao động tại các doanh nghiệp đến năm 2020”. Theo đó, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan đã chuẩn bị kinh phí, các điều kiện cần thiết để triển khai Đề án. Mục tiêu là đến năm 2020, vận động, tạo điều kiện để 80% CN lao động tại các DN nói chung, 90% CN lao động tại các DN trong các KCX-KCN, khu kinh tế được đào tạo nghề (đào tạo qua trường, lớp hoặc DN tự đào tạo); 50% CN lao động được đào tạo lại, 40% CN lao động có tay nghề cao. Vận động, tạo điều kiện để 50% CN lao động tại các DN nói chung, 60% CN lao động tại các DN trong các KCX-KCN, khu kinh tế được học tập, bồi dưỡng về ngoại ngữ, tin học... Chính sách bảo hiểm xã hội thường xuyên được sửa đổi đã tạo điều kiện bảo đảm hơn về an sinh xã hội cho công nhân. Luật BHXH năm 2014 đã quy định mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, theo đó, từ ngày 1/1/2018, người lao động trong đó có công nhân, có hợp đồng lao động từ 1 đến dưới 3 tháng được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Chính phủ, khắc phục tình trạng trốn đóng bảo hiểm của các doanh nghiệp và bảo đảm cho công nhân có được nguồn quỹ an sinh. Ngoài ra, việc ký thoả ước lao động tập thể, các chính sách về y tế, giáo dục, thể thao, điểm sinh hoạt văn hoá ở các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng đã góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, tái sản xuất sức lao động, nâng cao trình độ, nhận thức chính trị cho giai cấp công nhân - giai cấp tiên phong trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước hiện nay. 3. Vai trò của chính sách xã hội Chính sách xã hội bao trùm các mặt của đời sống con người, các nhóm người và toàn bộ cộng đồng dân cư, vì vậy luôn luôn có vị trí hàng đầu và vai trò quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Điều đó đã được khẳng định trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương bàn về việc giải quyết các vấn đề xã hội. - Chính sách xã hội là một nhân tố ảnh hưởng thúc đẩy sự phát triển của xã hội, thông qua việc tạo điều kiện phát triển và khai thác triệt để tiềm lực con người. Điều đó xuất phát trước hết từ vai trò của con người, của nguồn lực con người với sức sáng tạo vô tận đối với sự phát triển xã hội. Chính sách xã hội giải quyết
- những vấn đề xã hội, do đó tạo điều kiện phát triển và khai thác triệt để tiềm lực con người cho sự phát triển. Vai trò này ngày càng to lớn khi đất nước ta đang chuyển sang thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhân loại đang bước sang thiên niên kỷ của trí tuệ, thời kỳ đòi hỏi hơn bao giờ hết phải phát triển mạnh mẽ trí tuệ và khai thác tối đa trí tuệ con người cho sự phát triển. - Chính sách xã hội là công cụ góp phần điều chỉnh sự khác biệt về cơ cấu xã hội để hướng tới sự công bằng, bình đẳng về vị thế, vai trò và lợi ích kinh tế - chính trị - xã hội. Hiện nay bất kỳ một quốc gia nào cũng có cơ cấu xã hội phức tạp với nhiều nhóm xã hội mà vị thế, vai trò, lợi ích giữa các nhóm xã hội đôi khi mâu thuẫn nhau. Sự tác động nhiều mặt của kinh tế cũng làm nảy sinh các vấn đề xã hội, cơ cấu xã hội không còn phù hợp và đặt ra nhiều vấn đề mà đòi hỏi mọi người phải quan tâm giải quyết. Để đảm bảo xã hội phát triển trong sự ổn định nhất thiết phải có chính sách xã hội hợp lý và giải quyết thỏa đáng các mối quan hệ xã hội trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau như: quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, quan hệ giữa các dân tộc trong cơ cấu xã hội – dân tộc đến hiện tượng diễn tiến xã hội: sự xuất hiện, phát triển hay sự suy thoái của mỗi nhóm, tầng lớp người trong xã hội, sự mất cân đối về phân bổ dân cư, sự biến chuyển về vai trò, vị trí của con người, nhóm cũng như các quan hệ giữa các giai tầng, sự vận động và biến đổi của các loại hình nghề nghiệp, với vấn đề lao động và việc làm của nguồn lao động. Chính vì vậy, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp như một công cụ để khắc phục những phân hóa, mâu thuẫn và khác biệt xã hội, để điều tiết các quan hệ xã hội nhằm phát huy khả năng của toàn xã hội vào những mục tiêu chung. - Chính sách xã hội là công cụ góp phần điều chỉnh sự khác biệt trong sản xuất và tái sản xuất xã hội. Một chính sách xã hội hợp lý có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển xã hội phải luôn luôn phù hợp với điều kiện kinh tế của quốc gia vào thời điểm đó, đảm bảo sự thống nhất giữa các cơ sở xã hội với chính sách kinh tế tạo điều kiện để thực hiện tốt việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. - Chính sách xã hội là công cụ góp phần điều chỉnh phân phối và phân phối lại thu nhập xã hội. Phân phối và phân phối lại thu nhập là quá trình liên quan đến sản xuất và trao đổi, tiêu dùng, nó chi phối mạnh mẽ quan hệ lợi ích giữa người với người, giữa các nhóm và cộng đồng với nhau. - Chính sách xã hội là cầu nối giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế là một cơ sở để tạo ra sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, sự tăng trưởng, phát triển kinh tế không tự động trực tiếp dẫn đến sự tiến bộ xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế phải qua các chính sách xã hội mới tạo ra sự tiến bộ xã hội. Việc công bố chỉ số phát triển con người, biểu hiện của sự tiến bộ xã hội của các nước thông qua tổ chức phát triển Liên hợp quốc đã chứng minh điều đó. Nhờ có các chính sách xã
- hội tốt nên các chỉ số phát triển con người về y tế chăm sóc sức khoẻ và chỉ số về trình độ giáo dục quốc dân của nước ta đạt cao, khiến chỉ số HDI của nước ta đạt vị trí trung bình trên thế giới. - Chính sách xã hội còn là công cụ hữu hiệu để Đảng và Nhà nước ta thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển đất nước. Nếu xét trên phương diện kinh tế, từ khi nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có điều tiết thì các phương pháp và hình thức tổ chức kinh tế của nước ta có nhiều nét tương đồng như ở các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới. Tuy nhiên sự khác nhau cơ bản ở đây là tính chất xã hội, đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa của sự phát triển nước ta mà mục tiêu là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Chính sách xã hội của nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện ngày một tốt hơn sự công bằng xã hội và tiến bộ xã hội. Vai trò này được thể hiện trên các mặt: - Khắc phục và hạn chế các khuyết tật của kinh tế thị trường về phân tầng xã hội và phân hoá giàu nghèo, tạo điều kiện cho những người thiệt thòi có điều kiện vươn lên hoà nhập với cộng đồng; - Thực hiện sự công bằng trong phân phối và thu nhập theo nguyên tắc phân phối theo lao động; - Tạo ra những cơ hội như nhau cho tất cả các tầng lớp dân cư và cá nhân phát huy tài năng, tham gia lao động, tham gia vào các sự nghiệp giáo dục đào tạo, văn hoá, y tế, thể dục thể thao và các hoạt động chính trị xã hội khác; - Tạo lập nếp sống lành mạnh, văn minh, duy trì và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. 4. Chức năng và nhiệm vụ của chính sách xã hội 4.1. Chức năng của chính sách xã hội Thể chế hoá và cụ thể hoá bằng pháp luật những đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chính sách xã hội được tổ chức và hoạt động thông qua hệ thống các biện pháp, phương pháp và nguyên tắc chung của chủ nghĩa xã hội đồng thời cũng tính đến sự khác biệt xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân: Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, giữa đời
- sống vật chất và đời sống tinh thần; đáp ứng nhu cầu trước mắt và chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân, tập thể và cộng đồng. Điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là chức năng quan trọng nhất của chính sách xã hội. Sự phát triển của các quan hệ xã hội với tư cách là quan hệ của các giai cấp, các tầng lớp, nhóm xã hội góp phần làm cho cơ cấu xã hội ngày càng ổn định và phát triển bền vững. Chính sách xã hội khi tác động vào cơ cấu xã hội nó sẽ điều chỉnh quan hệ xã hội. Chính sách xã hội tác động vào sự duy trì các giá trị truyền thống, thực hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng, bác ái và tự do của con người. Chính sách xã hội cũng đảm bảo sự thống nhất hài hoà giữa cá nhân và xã hội về các giá trị công bằng, bình đẳng, quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Trên cơ sở chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc, giữa khu vực miền núi, trung du, đồng bằng, tạo điều kiện để các dân tộc, vùng miền phát triển cùng với sự phát triển chung của đất nước 4.2. Nhiệm vụ của chính sách xã hội Để đạt tới sự công bằng, an toàn, tạo điều kiện phát triển con người một cách toàn diện, chính sách xã hội thực hiện 5 nhiệm vụ cơ bản như sau: Một là, tái tạo tiềm năng nhân lực của đất nước thông qua các chính sách về dân số, gia đình, bảo vệ sức khoẻ, bảo hộ lao động, tổ chức nghỉ ngơi giải trí, khắc phục các tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội. Hai là, góp phần vào việc xây dựng nền tảng vững chắc xã hội với các chính sách về nhà ở, bảo vệ môi trường sinh thái, sự phát triển văn hóa, giáo dục khoa học, nghệ thuật, bảo đảm phát triển bền vững của xã hội. Ba là, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo thêm nhiều việc làm cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, đào tạo lại và đào tạo mới người lao động để tiếp thu kỹ thuật, công nghệ hiện đại và không ngừng nâng cao năng suất lao động. Bốn là, tạo điều kiện cho xã hội ngày càng có nhiều khả năng và biết tiêu thụ những sản phẩm vật chất, tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm, phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất của đất nước và những chuẩn mực đạo đức pháp lý của chế độ xã hội mới. Năm là, tạo lập, hình thành mô hình lối sống mới theo hướng phát triển toàn diện của cá nhân kết hợp hài hoà với sự phát triển của công đồng trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống đẹp của dân tộc, đồng thời xây dựng những giá trị mới phù hợp với bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại. 5. Quan hệ giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế 5.1. Mối quan hệ giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế
- Về bản chất và trong tổng thể chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải là một thể thống nhất, và phụ thuộc lẫn nhau. Sự thống nhất, và phụ thuộc lẫn nhau trong mối quan hệ hữu cơ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội biểu hiện: - Chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tuy có mục tiêu riêng, mục tiêu tự thân của nó, song lại có mục tiêu chung là nhằm phát triển xã hội. Vì vậy, mọi chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều hướng vào mục tiêu trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người, đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Công bằng xã hội là định hướng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, còn tăng trưởng kinh tế trong cơ chế thị trường là phương tiện để thực hiện nhanh chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thúc đẩy phát triển xã hội và tiến bộ xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã ghi “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. - Chính sách xã hội là yếu tố của sự phát triển và nằm trong yếu tố phát triển, vì vậy, đầu tư cho chính sách xã hội chính là đầu tư cho phát triển. Nếu có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn sẽ tạo ra điều kiện, tiền đề vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội, ngược lại giải quyết tốt các vấn đề xã hội bằng những chính sách phù hợp sẽ tạo ra cái nền ổn định xã hội để phát triển kinh tế. Rõ ràng bao giờ cũng phải xác lập quan hệ hợp lý giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, để không chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu không sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, hạn chế, thậm chí thủ tiêu tăng trưởng kinh tế, hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội. Chính sách xã hội còn tạo ra động lực của sự phát triển, bởi vì giải quyết tốt các vấn đề xã hội chính là thực hiện giải phóng sức sản xuất, tiềm năng lao động, hướng tới xây dựng con người làm chủ xã hội. Vì vậy, không thể coi chính sách xã hội là “cái đuôi” và đi sau chính sách kinh tế. - Chính sách kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, trên cơ sở tạo việc làm cho người dân, giảm bớt các khâu lao động thủ công, cải thiện điều kiện lao động, tăng năng suất, tăng hiệu quả kinh tế, tăng số lượng và chất lượng hàng hóa làm ra. Từ đó nguồn thu nhập của người dân lao động và nguồn phúc lợi vật chất xã hội được gia tăng, tạo nên sự phồn vinh của cả cộng đồng. Nhưng hiệu quả của sự tăng trưởng kinh tế rõ ràng phụ thuộc vào trình độ văn minh, trình độ tổ chức của xã hội họ đang sống, vào trình độ văn hóa, hiểu biết của người lao động – tức là chất lượng, kỹ năng lao động, tay nghề của họ. Đồng thời, năng suất, hiệu quả lao động còn chịu ảnh hưởng của điều kiện sinh sống hàng ngày, sự hưởng thụ các phúc lợi y tế, văn hóa, giáo dục. Những yếu tố này giúp người lao động nâng cao kiến thức và sức khỏe. Được nghỉ ngơi giải trí, có khả năng nhanh chóng hồi phục sức lao động đã bị hao phí. Những chính sách xã hội nhằm thúc đẩy những tiến bộ về các mặt văn hóa, chính trị, xã hội, thỏa mãn những nhu cầu trí tuệ, tinh thần, tình cảm, thẩm mỹ của con người, kể cả những nhu cầu giao tiếp xã hội, thông tin rộng rãi giữa cá nhân
- và cộng đồng, thông qua việc mở rộng sinh hoạt dân chủ, tự do, tăng cường các phúc lợi công cộng y tế, văn hóa, giáo dục, giao thông, bưu điện. Những nhu cầu trên đây của con người được thỏa mãn ngày càng cao thì càng tạo cho con người năng lực và nhiệt tình lao động để phát triển kinh tế, tạo nên những của cải vật chất ngày càng dồi dào. Đồng thời, sự tăng trưởng kinh tế rõ ràng tạo cơ sở vật chất và điều kiện thuận lợi cho việc thỏa mãn những nhu cầu văn hóa, chính trị, tinh thần. - Tăng trưởng kinh tế không tự nó giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội, mặc dù các chương trình phát triển kinh tế sẽ được lồng ghép, kết hợp để giải quyết những vấn đề xã hội rất cơ bản, như vấn đề việc làm, chống đói nghèo, tệ nạn xã hội. Vì vậy, đòi hỏi phải có các chính sách, chương trình xã hội riêng biệt để giải quyết các đối tượng, các địa bàn và các loại vấn đề xã hội cụ thể nổi lên gay gắt trong từng thời điểm nhất định do hậu quả hoặc do khiếm khuyết của cơ chế thị trường gây ra. Các chính sách xã hội và chương trình xã hội phải được thực hiện đồng thời với các chính sách kinh tế để tạo ra sức mạnh tổng hợp của sự phát triển. - Tăng trưởng kinh tế cũng không tự nó dẫn tới tiến bộ xã hội, mặc dù tăng trưởng kinh tế có thể thúc đẩy phát triển xã hội. Điều này thấy rất rõ trong các nước tư bản, khi lấy kinh tế thị trường tự do làm mục tiêu và mô hình phát triển. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội có những đặc trưng cơ bản rất khác nhau về mục tiêu, đối tượng, phạm vi tác động, nhu cầu vốn và đầu tư, cơ chế vận hành và hệ thống tổ chức thực hiện. - Về mục tiêu, các chính sách kinh tế phải lấy tăng trưởng làm chính, tất nhiên là có tính đến những hậu quả về mặt xã hội. Song mục tiêu chính sách xã hội thường tổng hợp hơn, phải kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội, thông qua các biện pháp kinh tế. - Đối tượng tác động chủ yếu của chính sách kinh tế là phải hướng vào các chủ thể kinh tế. Đó là các đơn vị, cá nhân làm kinh tế. Chính sách đó chủ yếu là tạo ra môi trường, hành lang để các chủ thể đó hoạt động một cách tự chủ, Nhà nước cũng có chính sách khuyến khích hoặc trợ giúp khi cần thiết. Còn đối tượng tác động của các chính sách xã hội là cộng đồng, là các tầng lớp dân cư trên quy mô cả nước hoặc trong từng khu vực, lĩnh vực hoạt động cụ thể, đặc biệt là các đối tượng thiếu những điều kiện thuận lợi để hòa nhập vào cộng đồng cùng phát triển. - Chính sách kinh tế thường phân ra chính sách chung cho mọi đối tượng, chính sách ngành và lĩnh vực, chính sách vùng và khu vực. Còn chính sách xã hội thường lại phân theo từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng cần phải giải quyết. - Nhu cầu về vốn và phương thức huy động vốn để thực hiện chính sách kinh tế chủ yếu là vốn tự có sản xuất kinh doanh của người kinh doanh, ngoài ra có thể huy động bằng vay ngân hàng, vốn liên doanh, liên kết hoặc vốn cổ phần. Ngược lại, nhu cầu về tài chính của chính sách xã hội thường lấy từ ngân sách, một phần từ trợ giúp nhân đạo quốc tế và đóng góp của cộng đồng. Thông thường nhu cầu này được huy động để hình thành các quỹ.
- - Phương thức đầu tư trong chính sách kinh tế là đầu tư theo chiều sâu và đồng bộ hóa, đối với kỹ thuật và công nghệ để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ chất lượng cao, có sức cạnh tranh lớn, nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Còn phương thức đầu tư của chính sách xã hội có thể không hoàn lại hoặc trợ giúp để các nhóm đối tượng có điều kiện hòa nhập vào cộng đồng, cũng có thể thông qua hình thức tín dụng với lãi suất nâng đỡ để giải quyết một vấn đề xã hội. - Về cơ chế vận hành một chính sách kinh tế chủ yếu là theo cơ chế vận hành trong phạm vi chính sách quy định để đến mục tiêu đã định. Song để vận hành chính sách xã hội bao giờ cũng phải có một cơ quan chủ trì chỉ đạo thực hiện. Xu hướng chung là chính sách giải quyết các vấn đề xã hội được thực hiện thông qua hàng loạt các chương trình, dự án cụ thể. - Trong quá trình thực hiện các chính sách kinh tế trong cơ chế thị trường sẽ dẫn đến hình thành các tổ chức của giới người kinh doanh và giới thợ, các hội và hiệp hội nghề nghiệp. Trong quá trình thực hiện một chính sách xã hội để phát huy vai trò của cộng đồng tất yếu sẽ hình thành các hội có tính chất phi chính phủ với hai hình thức cơ bản là hội của bản thân đối tượng và hội trợ giúp đối tượng. - Hiệu quả của một chính sách kinh tế đúng sẽ được đánh giá chủ yếu thông qua chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Song hiệu quả của một chính sách xã hội chủ yếu được thể hiện ở ổn định xã hội, giảm thất nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống. Bảng: Phân biệt sự khác nhau giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế Chính sách xã hội Tiêu thức phân Chính sách kinh tế Chính sách xã hội Chính sách giải biệt nói chung quyết việc làm 1 2 3 4 Mục tiêu -Tăng trưởng kinh Hiệu quả xã hội Hiệu quả xã hội tế (ổn định xã hội (ổn định xã hội -Tăng năng suất tăng trưởng là tăng trưởng là lao động phương tiện) phương tiện) -Tăng GNP Đối tượng tác Người kinh doanh Các tầng lớp dân -Người chưa có động (cá nhân hoặc tổ cư (đặc biệt là việc làm chức) nhóm có điều kiện -Người thất nghiệp ít thuận lợi) -Người thiếu việc làm
- Phân loại chính -Chính sách chung Theo các nhóm đối Theo các nhóm đối sách cho mọi cấp tượng và vấn đề tượng cần giải -Chính sách ngành cần giải quyết quyết (thanh niên và lĩnh vực mới lớn, lao động dôi ra, bộ đội xuất -Chính sách vùng ngũ) và khu vực Nhu cầu vốn và -Vốn đầu tư xây - Ngân sách Quỹ quốc gia về phương thức huy dựng cơ bản (từ -Trợ giúp quốc tế giải quyết việc làm động vốn ngân sách) (viện trợ nhân đạo) (từ nhiều nguồn -Vốn tự có trong đó có trích từ -Đóng góp của Ngân sách) -Vốn vay cộng đồng -Liên doanh, liên -Hình thành các kết quỹ -Cổ phần Phương thức đầu Theo chiều sâu và -Không hoàn lại -Đầu tư hạ tầng cơ tư đồng bộ hóa, đổi -Trợ giúp thông sở để tạo mở việc mới kỹ thuật và qua cho vay vốn làm công nghệ với lãi suất nâng -Cho vay với lãi đỡ suất nâng đỡ theo hệ thống kho bạc Nhà nước Cơ chế vận hành Tự vận hành theo Có chỉ đạo thống Ban tư vấn liên Bộ quy định Chính nhất từ trung ương điều hành quỹ sách hoặc pháp đến địa phương quốc gia giải quyết luật (quản lý gián (ban chỉ đạo Ủy việc làm tiếp) ban quốc gia, hệ -Dự án nhỏ thống sự nghiệp chuyên) -Trung tâm quốc gia xúc tiến việc -Theo chương trình làm dự án cụ thể (có chủ nhiệm chương trình) Hình thành tổ -Tổ chức của Hình thành các tổ Nâng cao vai trò chức người kinh doanh chức phi chính phủ của các NGO (phụ - Hội, hiệp hội - Hội của bản thân nữ, thanh niên, nghề nghiệp nông dân, Công
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Công tác xã hội với người cao tuổi: Phần 1
34 p | 741 | 77
-
Giáo trình Trợ giúp xã hội (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
90 p | 45 | 9
-
Giáo trình Điều tra xã hội học (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
89 p | 22 | 7
-
Giáo trình Công tác xã hội với người nghèo (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Cao đẳng): Phần 1 - CĐ GTVT Trung ương I
47 p | 63 | 7
-
Giáo trình Công tác xã hội với người khuyết tật (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
137 p | 15 | 7
-
Giáo trình Chính sách xã hội (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Trung cấp): Phần 1 - CĐ GTVT Trung ương I
86 p | 43 | 6
-
Giáo trình Chính sách xã hội (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
107 p | 15 | 6
-
Giáo trình Chính sách xã hội (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Cao đẳng): Phần 1 - CĐ GTVT Trung ương I
84 p | 31 | 5
-
Giáo trình Chính sách xã hội (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Trung cấp): Phần 2 - CĐ GTVT Trung ương I
56 p | 26 | 5
-
Giáo trình Công tác xã hội với đối tượng nghiện ma túy, mại dâm (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
81 p | 10 | 5
-
Giáo trình Công tác xã hội với người cao tuổi (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
117 p | 17 | 5
-
Giáo trình Công tác xã hội với bạo lực gia đình (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) - Trường Trung cấp Tháp Mười
64 p | 18 | 4
-
Làm rõ nội hàm “Chính sách xã hội hóa xuất bản sách giáo khoa” tại Việt Nam trong bối cảnh thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018
6 p | 11 | 4
-
Giáo trình Công tác xã hội với người khuyết tật (Nghề: Công tác xã hội - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)
44 p | 12 | 3
-
Giáo trình Chính sách xã hội (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Cao đẳng): Phần 2 - CĐ GTVT Trung ương Ia
56 p | 27 | 3
-
Giáo trình Chính sách xã hội (Nghề: Công tác xã hội - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)
143 p | 17 | 3
-
Giáo trình Trợ giúp xã hội (Nghề: Công tác xã hội - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)
83 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn