ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------- HOÀNG MINH NGUYỆT HÁT IẾU Ở BẮC QUANG HÀ GIANG - NHỮNG ĐẶC

ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2009

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------- HOÀNG MINH NGUYỆT HÁT IẾU CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG HÀ GIANG - NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số : 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn:

TS. NGUYỄN HẰNG PHƢƠNG

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2009

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn

Hằng Phƣơng là ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo, dìu dắt và giúp đỡ tôi

trong suốt thời gian tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo giảng dạy

lớp cao học văn K15 và khoa Sau đại học, trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái

Nguyên đã hƣớng dẫn, truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập

và nghiên cứu.

Tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc tới ông Hoàng Văn Chữ, ngƣời đã

giúp tôi trong quá trình sƣu tầm tƣ liệu để hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng vô cùng cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của những ngƣời thân

trong gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn dành cho tôi, động viên và tạo

mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu.

Thái Nguyên, ngày 25 tháng 09 năm 2009

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hoàng Minh Nguuyệt

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3

2. Lịch sử vấn đề. ............................................................................................... 4

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 8

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 8

5. Đối tƣợng nghiên cứu .................................................................................... 8

6. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8

7. Phƣơng pháp nghiên cứu. ............................................................................... 9

NỘI DUNG ..................................................................................................... 11

Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tế - Cơ sở tìm hiểu hát Iếu ở

Bắc Quang - Hà Giang. .................................................................................. 11

1.1 Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. .............................. 11

1.1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Hà Giang. ........................................ 11

1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hoá của

ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. ................................................................ 12

1.2 Khái quát về Lƣợn .................................................................................... 20

1.2.1 Khái niệm “Lƣợn”: ................................................................................. 20

1.2.2. Khái niệm Hát Iếu .................................................................................. 22

1.2.3. Nguồn gốc của Hát Iếu ........................................................................... 23

1.3. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. ............................................................. 27

1.3.1. Hát Iếu trong đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. ..... 27

1.3.2. Khảo sát, phân loại ................................................................................. 28

1.3.3. Hình thức diễn xƣớng trong Hát Iếu. ...................................................... 33

Tiểu kết. .......................................................................................................... 46

Chương 2. Nội dung cơ bản của hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang .............. 47

2.1. Hát Iếu là những lời bày tỏ tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ. ...................... 47

1

2.1.1. Hát Iếu là những lời tỏ tình thiết tha, chân thành, nồng thắm. ................ 47

2.1.2. Hát Iếu là những lời giao ƣớc, kết duyên tình cảm sâu nặng. .................. 53

2.1.3. Hát Iếu là những lời chia tay xót xa, day dứt giữa những ngƣời yêu nhau. . 58

2.2. Hát Iếu là những lời bày tỏ cách ứng xử trong tình yêu, ca ngợi cuộc sống. .... 62

2.2.1. Hát Iếu là những lời trách móc bạn tình nhẹ nhàng, thâm thuý. .............. 62

2.2.2. Hát Iếu là những lời đối đáp nhanh trí, thông minh và dí dỏm. ............... 65

2.2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống, thiên nhiên gần gũi giàu đẹp......... 70

2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi Đảng, Bác và cuộc sống mới. ....................... 74

2.3.1. Hát Iếu là những lời ca ngợi, bày tỏ niềm vui từ khi có Đảng và Bác Hồ.... 75

2.3.2. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống hòa bình, xây dựng chủ nghĩa

xã hội. .............................................................................................................. 80

Tiểu kết ........................................................................................................... 84

Chương 3. Những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của hát Iếu ở Bắc Quang

- Hà Giang ...................................................................................................... 86

3.1. Thể thơ trong Hát Iếu. ............................................................................... 86

3.1.1. Thể thơ tự do .......................................................................................... 86

3.1.2. Thể thơ thất ngôn. .................................................................................. 90

3.2. Các biện pháp tu từ sử dụng trong Hát Iếu. ............................................... 93

3.2.1. Biện pháp tu từ so sánh .......................................................................... 93

3.2.2. Biện pháp điệp ngữ tu từ (công thức trùng điệp) .................................. 101

3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong Hát Iếu. .................................. 106

3.3.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................ 106

3.3.2. Không gian nghệ thuật ......................................................................... 113

Tiểu kết:........................................................................................................ 123

KẾT LUẬN .................................................................................................. 125

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 128

PHỤ LỤC .....................................................................................................

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1 Về phương diện khoa học

Trong di sản văn hoá của các dân tộc Việt Nam, kho tàng văn hoá của

các dận tộc thiểu số rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những nét

văn hoá, phong tục, tập quán riêng tạo nên sự khác biệt, đặc trƣng của mỗi

vùng, miền. Riêng vùng Việt Bắc từ xƣa tới nay, có rất nhiều di sản văn hoá

khác nhau, trong đó phải kể đến những làn điệu trữ tình mƣợt mà làm đắm say

không biết bao nhiêu tâm hồn chàng trai cô gái nhƣ Hát Then, Sli, Lƣợn cọi,

Khắp Cọi, Hát Iếu… của dân tộc Tày ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên

Quang, Hà Giang, Yên Bái... Hát Iếu là hình thức sinh hoạt văn hoá đặc trƣng

vốn có của ngƣời Tày ở huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Hát Iếu còn ít ngƣời

biết tới. Do vậy, việc Sƣu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, kế thừa và phát huy những

giá trị của Hát Iếu là sự trăn trở của nhiều ngƣời có tâm huyết với việc giữ gìn

bản sắc văn hoá dân tộc.

Thực tế từ trƣớc tới nay, Hát Iếu của ngƣời Tày Bắc Quang đã đƣợc một

số ngƣời sƣu tầm và dịch với số lƣợng còn rất hạn chế, chƣa có sự quan tâm,

nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa học về mặt giá trị nội dung và nghệ thuật.

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành điền dã và sƣu tầm

những bài Hát Iếu lƣu truyền trong dân gian với số lƣợng đáng kể.

1.2. Về phương diện thực tiễn

Hát Iếu là một loại hình dân ca độc đáo của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà

Giang trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ quần chúng, gắn bó sâu sắc với đời

sống của làng quê nơi đây từ xƣa tới nay. Nghiên cứu những nét cơ bản về giá

trị nội dung và nghệ thuật của Hát Iếu trong đời sống văn hoá dân gian của

ngƣời Tày ở địa phƣơng Bắc Quang - Hà Giang sẽ góp phần khẳng định, gìn

giữ, bảo lƣu và phát huy nét đẹp truyền thống vốn có của dân tộc Tày ở Bắc

3

Quang - Hà Giang nói riêng, các dân tộc thiểu số của Việt Nam nói chung trên

con đƣờng tìm về với bản sắc cội nguồn dân tộc.

Xuất phát từ phƣơng diện khoa học, thực tiễn nêu trên chúng tôi tiến

hành tìm hiểu “Hát Iếu của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang - Những đặc

điểm nội dung và nghệ thuật” trong đề tài luận văn nghiên cứu của mình.

Hoàn thành công trình này còn là nguyện vọng của chúng tôi, ngƣời con của

tộc ngƣời Tày mong muốn đƣợc khám phá, tôn vinh những giá trị văn hoá có

sức sống bền bỉ của dân tộc mình.

2. Lịch sử vấn đề.

2.1. Những công trình sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu về dân ca Tày Nùng.

Nhắc đến những giá trị văn hoá - nghệ thuật của các dân tộc trên đất

nƣớc ta, trƣớc hết phải nói đến những giá trị to lớn của vốn văn học dân gian cổ

truyền của mỗi dân tộc. Trong đó dân tộc Tày đã có những đóng góp cho nền

văn hoá nghệ thuật thêm phong phú, đa dạng, đặc sắc qua các thể loại khác

nhau. Chúng ta có thể kể đến thể loại dân ca nhƣ Hát then, Hát Quan làng,

Lƣợn Cọi, Lƣợn Slƣơng, Lƣợn Nàng ới, Hát Iếu… Qua quá trình lao động sản

xuất, chiến đấu, ngƣời Tày đã sáng tạo nên một kho tàng vô cùng giàu có về hát

Lƣợn. Tuy vậy, trƣớc Cách mạng tháng Tám, cũng nhƣ nhiều dân tộc khác,

ngƣời Tày không có kho lƣu trữ, thƣ viện, nhà xuất bản. Văn học chủ yếu đƣợc

lƣu chuyển thông qua hình thức truyền miệng. Cũng do ƣu thế của thể loại mà

những bài hát Iếu đƣợc truyền cho các thế hệ nối tiếp nhau trong những dịp lễ

hội, trong sinh hoạt cộng đồng,…trong tâm hồn, trí tuệ và tình cảm của những

ngƣời yêu mến thơ ca dân gian của dân tộc.

Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, nhờ chính sách bảo tồn văn

hoá các dân tộc của Đảng, nhà nƣớc thì việc sƣu tầm, nghiên cứu và phát huy

những giá trị truyền thống nhƣ hát lƣợn nói chung đƣợc quan tâm, chú ý. Song

do nhiều lý do khác nhau nhƣ: trình độ ngƣời nghiên cứu, hoàn cảnh đất nƣớc

có chiến tranh, do nhận thức, quan niệm…mà công việc lƣu giữ và bảo tồn

4

những giá trị văn hoá bị mai một, chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao. Trƣớc những

năm 1960, những công trình nghiên cứu, sƣu tầm về Lƣợn của ngƣời Tày nói

chung hầu nhƣ không có, hoặc đƣợc giới thiệu rất sơ lƣợc, khái quát. Tuy nhiên

qua một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, dân ca dân gian nói

chung của dân tộc Tày còn đƣợc phát hiện ở những khía cạnh sâu sắc hơn nhƣ

nhận định của nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Vũ Ngọc Phan: “Folkclore

hình thành không phải với tính cách là sự phản ánh trực tiếp đời sống. Nhiều

tầng văn hoá đã lắng đọng trong Floklore, và sau một quá trình nhào nặn, biến

đổi lâu dài, đã tạo nên một truyền thống nhất định có nội dung tƣ tƣởng sâu

sắc bền vững qua thời gian và không gian” [43. Tr. 59].

Chính vì vậy, những giá trị nằm trong tầng sâu của nền văn hoá dân ca

dân gian Tày trở thành vấn đề thu hút, sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lâu

nay. Theo trình tự thời gian và từng mảng nghiên cứu, một số công trình sƣu

tầm, khảo cứu có liên quan đến đề tài xuất hiện nhƣ:

- Năm 1974 Sở văn hoá thông tin Việt Bắc xuất bản cuốn: Bƣớc đầu tìm

hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu,

trong đó có một số bài viết về đời sống văn hoá, tinh thần, nội dung, hình thức

những giá trị trong bƣớc đầu khảo cứu vốn thơ ca dân gian dân tộc Tày, Nùng.

Đáng chú ý có đoạn viết của Vi Quốc Bảo khẳng định: “Thật khó có thể thống

kê đƣợc hết các thể loại dân ca miền núi vô cùng phong phú và đa dạng. Mỗi

loại dân ca có cái hay, cái đẹp riêng. Hay về làn điệu, đẹp về lời thơ. Song có

một cái chung nhất cho tất cả mọi thể loại dân ca miền núi là tính chất trữ tình

rất đằm thắm, rất độc đáo mà ta có thể dễ dàng tìm thấy trong bất kỳ thể loại

nào”. [57] Ngoài ra trong cuốn sách này còn một số bài viết của tác giả Vi

Hồng nêu lên: “Vài ý nghĩ nhỏ bƣớc đầu về thơ ca dân tộc Tày - Nùng” và “

Thử tìm hiểu về nội dung của Lƣợn”[57. Tr.109, 176].

- Tạp chí dân tộc học số 1- 1976 có bài viết: “Vài suy nghĩ về hát Quan

lang, phong Slƣ, Lƣợn” của nhà văn Vi Hồng. Trong bài viết của mình tác giả

5

có giới thiệu những nội dung tổ chức, hình thức lề lối cơ bản, khái quát về loại

hình dân ca phổ biến của dân tộc Tày, Nùng. [18]. Tuy nhiên, tác giả mới giới

thiệu khái quát về các loại dân ca Tày, Nùng.

- Cuốn Sli Lƣợn dân ca trữ tình Tày - Nùng cũng của tác giả Vi Hồng in

năm 1979 có giới thiệu về đời sống văn hóa, tinh thần của hai dân tộc Tày,

Nùng qua làn điệu dân ca Sli, Lƣợn cùng với đề tài, nội dung tƣ tƣởng, ý nghĩa

thẩm mỹ cũng nhƣ cung cách xây dựng hình tƣợng của Sli, Lƣợn. Tác giả nhấn

mạnh:“Các lớp đề tài của sli, lƣợn và mỗi một hình tƣợng của mỗi lớp đề tài

đều bắt nguồn từ những quan niệm xa xƣa của dân tộc Tày Nùng, đồng thời nó

phát triển một cách gắn bó với dân tộc, với xã hội với từng con ngƣời Tày,

Nùng. Vì thế các lớp đề tài , mỗi hình tƣợng, hình ảnh của sli, lƣợn đều rất gần

gũi gắn bó với đời sống tình cảm, với tâm hồn ngƣời Tày ngƣời

Nùng”.[19.Tr.59]. Cuốn sách đã có những gợi ý cho tác giả đề tài tìm hiểu về

Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang.

- Năm 1983, trong giáo trình “Văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời ở

Việt Nam”, tác giả Võ Quang Nhơn đã khái quát những đặc điểm xã hội - văn

hoá, quá trình lịch sử của ngành nghiên cứu văn hoá dân gian các dân tộc ít

ngƣời và tổng quát về các thể loại văn học dân gian của các dân tộc nhƣ: Thần

thoại, Truyện cổ tích, Thơ ca dân gian, Sử thi anh hùng…Trong thể loại thơ ca

dân gian, nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn có sự tổng hợp, so sánh nghiên cứu

về thơ ca dân gian các dân tộc, trong đó có loại hình dân ca Lƣợn của dân tộc

Tày. Có đoạn tác giả viết: “Thơ ca dân gian các dân tộc, với những nét đặc sắc

trong kết cấu ngôn ngữ, trong cách sử dụng hình tƣợng, trong nhạc điệu (và có

khi cả điệu hát múa nữa) đi kèm theo lời ca, lại thiên về thể hiện tính độc đáo

dân tộc; chính nhờ những yếu tố đó mà thơ ca dân gian mang đậm dấu ấn của

phong cách, màu sắc đa dạng của văn hoá dân tộc”. Tác giả mƣợn hai câu thơ

của nhà thơ Hoàng Văn Thụ để nói lên tính độc đáo của thơ ca các dân tộc Tày,

Nùng:

6

Từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau

"Si” ca nhiều tiếng áo nhiều màu. [41.Tr,198].

Cuốn “Tổng tập văn học các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam” do Đặng

Nghiêm Vạn chủ biên xuất bản gồm nhiều tập, [66]. Đây là cuốn tổng hợp về

công tác sƣu tầm văn học các dân tộc thiểu số, trong đó có giới thiệu một số bài

Lƣợn của dân tộc Tày.

Từ những góc nhìn khác nhau, các tác giả đã đề cập đến Lƣợn nói chung

của dân tộc Tày - Nùng . Trong đó các nhà nghiên cứu giới thiệu về cách thức,

tổ chức, hệ thống của lƣợn, cũng nhƣ giá trị của thể loại dân ca trữ tình này

trong đời sống văn hoá của dân tộc Tày.

Ngoài ra còn có một số công trình sƣu tầm, giới thiệu và dịch của một số

tác giả cũng đề cập tới dân ca của dân tộc Tày – Nùng nhƣ: [32], [43], [50]…

Nhƣ vậy, công tác sƣu tầm, nghiên cứu về Lƣợn còn rất khiêm tốn so với

bề dày nền văn hoá Sli Lƣợn của dân tộc Tày - Nùng. Trong các công trình

khoa học của những nhà nghiên cứu tuy chƣa khám phá hết những giá trị của

loại hình dân ca Lƣợn; Nhƣng các công trình trên là những gợi mở, là tiền đề

khoa học có giá trị to lớn cho việc nghiên cứu đề tài trên.

2.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu Hát Iếu ở huyện Bắc Quang tỉnh

Hà Giang.

Đối với dân tộc Tày ở Bắc Quang Hát Iếu là một loại hình sinh hoạt văn

hoá tập thể, ngƣời Tày vốn có truyền thống văn hoá tốt đẹp đƣợc kết tinh trong

đời sống lao động, sản xuất, trong giao tiếp và ứng xử. Vì vậy mà Hát Iếu đƣợc

lƣu truyền ở nhiều bản làng của ngƣời Tày, trở thành nét sinh hoạt độc đáo

riêng của ngƣời Tày nơi đây. Dù đã đƣợc biết đến, nhƣng Hát Iếu của dân tộc

Tày ở Bắc Quang vẫn còn là mảnh đất nguyên sơ chƣa đƣợc nhiều ngƣời quan

tâm nghiên cứu.

Hiện nay, tƣ liệu Hát Iếu chủ yếu là bản sƣu tầm và dịch của ông Hoàng

Văn Chữ, một ngƣời Tày ở Bắc Quang chƣa đƣợc in thành sách. Và hai tập thơ

7

Tày “Chồm bióoc Mạ” và “ Ra mắt bố mẹ” của Hoàng Thị Cấp sƣu tầm và

dịch.[4,5]. Do vậy, việc tìm hiểu về Hát Iếu ở địa phƣơng Bắc Quang nói riêng,

dân ca của các dân tộc nói chung là việc làm thiết thực trong đời sống hiện nay,

góp phần bảo tồn gìn giữ và phát huy nền văn học văn nghệ vô cùng quý giá

của cả dân tộc.

3. Mục đích nghiên cứu

- Nghiên Cứu “Hát Iếu của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang - những

đặc điểm nội dung và nghệ thuật”, Qua đó nhận diện, phân tích, so sánh để thấy

đƣợc nét độc đáo, giàu bản sắc văn hoá Tày ở một địa phƣơng cụ thể.

- Bƣớc đầu cố gắng lí giải cội nguồn của nét văn hoá dân ca Iếu trên cơ

sở tổng quan văn hoá của dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.

- Đề xuất những giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp

vốn có của Hát Iếu.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Khảo sát, thống kê, phân tích, lý giải lời Hát Iếu và một số vấn đề có

liên quan đến giá trị nội dung, nghệ thuật của Hát Iếu.

- Sƣu tầm, tìm hiểu thêm lời Hát Iếu với một số loại hình văn hoá nghệ

thuật, tín ngƣỡng có liên quan thiết thực đến đề tài từ các góc độ nhìn nhận.

- Bƣớc đầu nêu một số suy nghĩ về bảo tồn, phát huy những giá trị văn

hóa của Hát Iếu trong đời sống đƣơng đại.

5. Đối tƣợng nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những lời Hát Iếu đã

đƣợc sƣu tầm và xuất bản thành sách.

- Những tƣ liệu sƣu tầm chƣa xuất bản của một số nghệ nhân và tác giả

đề tài.

6. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu:

+ Hoàng Thị Cấp,(2005), Chồm bióoc Mạ, Nxb văn hoá dân tộc

Hà Nội.

8

+ Hoàng Thị Cấp (2007), Ra mắt bố mẹ, Hội văn học nghệ thuật

tỉnh Hà Giang.

+ Những tƣ liệu chƣa xuất bản:

. Iếu dân ca dân tộc Tày do Hoàng văn Chữ sƣu tầm và dịch.

. Iếu hát thơ then dân ca dân tộc Tày của tác giả Hoàng

Văn Chữ.

. Văn bản của chính tác giả sƣu tầm qua các nghệ nhân.

. Mạng Intrenet.

- Phạm vi vấn đề nghiên cứu:

Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số đặc điểm

nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu.

- Trên bình diện phƣơng pháp luận là tiếp cận chủ yếu theo quan điểm ngữ

văn học, tức là dựa vào thành tố ngôn từ, cụ thể ở đây là lời Hát Iếu để phân tích.

Tuy nhiên Hát Iếu là một loại hình dân ca vì thế nó không thể tách rời đời sống

văn hoá của dân tộc Tày. Do đó tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo quan điểm văn

hoá học là cần thiết, song cần phải nghiên cứu theo quan điểm tiếp cận liên ngành,

xem xét đối tƣợng từ nhiều góc độ, ngành khoa học khác nhau.

- Trên bình diện phƣơng pháp cụ thể, chúng tôi sử dụng :

+ Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống.

+ Phƣơng pháp khảo sát thống kê.

+ Phƣơng pháp điền dã văn học.

+ Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.

+ Phƣơng pháp đối chiếu so sánh.

8. Những đóng góp của luận văn

Nghiên cứu Hát Iếu trong đời sống văn hoá dân gian của ngƣời Tày ở

Bắc Quang - Hà Giang, nhằm giới thiệu một nét văn hoá đặc trƣng vốn có trong

dân gian nhƣng chƣa có nhiều công trình nghiên cứu về nó. Luận văn là công

9

trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về Hát Iếu của ngƣời Tày ở Bắc

Quang - Hà Giang.

Trong quá trình nghiên cứu, qua khảo sát điền dã, tác giả đề tài đã thu

thập đƣợc một số lƣợng đáng kể những bài Hát Iếu còn đang lƣu truyền trong

đời sống dân gian ở Bắc Quang - Hà Giang.

Kết quả khảo sát thực tế trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bƣớc

đầu đề xuất hƣớng bảo tồn và phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc

Tày nói chung, trong đó có dân tộc Tày Bắc Quang.

9. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần nội dung chính, phần kết luận, tài liệu tham

khảo, phụ lục, luận văn đƣợc trình bày trong ba chƣơng:

Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận và thực tế- cơ sở tìm hiểu Hát Iếu ở Bắc

Quang - Hà Giang.

Chƣơng 2. Nội dung của Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang.

Chƣơng 3. Những đặc điểm nghệ thuật trong Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà

Giang.

10

NỘI DUNG

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ - CƠ SỞ TÌM HIỂU HÁT IẾU Ở BẮC QUANG HÀ GIANG.

1.1 Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.

1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang.

Hà Giang là miền đất của địa đầu Tổ Quốc Việt Nam, nổi tiếng với cột

cờ trên đỉnh Lũng Cú - Đồng Văn, nằm bên dải phía Tây Côn Lĩnh, là nơi sinh

sống của 22 dân tộc anh em nhƣ: Tày, Nùng, Dao, Mông, Pà Thẻn, La Chí, Pu

Péo, Lô Lô…Trong đó dân tộc Tày có khoảng 175.757 ngƣời, chiếm 25% dân

số trong tỉnh, đứng sau dân tộc Mông 30,75% ( năm 2001). Dân tộc Tày là cƣ

dân bản địa sống lâu đời trên đất nƣớc Việt Nam. Họ cùng với các cƣ dân Tày-

Thái khác là một trong những chủ nhân đầu tiên lập lên nhà nƣớc Văn Lang của

các Vua Hùng, nhà nƣớc Âu Lạc của Thục Phán An Dƣơng Vƣơng trên cơ sở

hợp nhất hai bộ lạc chủ yếu của thời bấy giờ là Âu Lạc và Lạc Việt.

Ở Hà Giang theo các tài liệu lịch sử, khảo cổ học từ trƣớc năm 1945 đến

nay đã phát hiện những hiện vật từ thời đồ đá cũ cho tới thời đại đồ đồng, đồ

sắt, báo hiệu quá khứ xa xƣa của con ngƣời đã cƣ trú trên đất Hà Giang. Điều

đó chứng tỏ phần nào Hà Giang là vùng đất cổ có các cƣ dân sinh sống, trong

đó có dân tộc Tày. Theo các nhà nghiên cứu và các cụ già ngƣời Tày ở Vị

Xuyên, Bắc Quang kể lại thì ở Hà Giang tồn tại những cƣ dân Tày cổ ở vùng

ba phƣơng: Phƣơng Tiến, Phƣơng Thiện, Phƣơng Độ thuộc huyện Vị Xuyên

ngày nay. Ngoài ra họ còn cƣ trú ở vùng Bằng Hành, Vô Điếm, Đồng Yên,

Xuân Giang…của huyện Bắc Quang. Các cụ già ở xã Phƣơng thiện nói: Họ

biết họ Nguyễn của dân tộc Tày đã sống ở đây cách đây 700 đến 800 năm.

Trong lịch sử nƣớc ta thời Lý -Trần là thời kỳ thịnh hành của phật giáo

cả nƣớc, chùa chiền đƣợc tạo dựng khắp nơi, nhất là sau ba lần đại thắng quân

Nguyên Mông của triều Trần, hào khí Đông A vang vọng từ Thăng Long đến

11

các miền biên viễn xa xôi. Ở Hà Giang còn di tích 2 ngôi chùa cổ đó là chùa

Sùng Khánh ở bản Bang xã Đạo Đức huyện Vị Xuyên, chùa Bình Lâm ở xã

Phú Linh, thị xã Hà Giang cũng đƣợc xây dựng vào thời kỳ đó. Đặc biệt trên

tấm bia ở chùa Sùng Khánh dựng năm 1367 có ghi công lao của quan Phủ đạo

ngƣời Tày họ Nguyễn là Nguyễn Thiếp có công lao bảo vệ biên giới phía Bắc,

xây dựng làng xã ổn định phát triển, là nơi tin cậy của triều đình ở vùng biên

viễn xa xôi. [11, Tr.120].

1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hoá

của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang.

- Điều kiện tự nhiên:

Bắc Quang là huyện miền núi thấp , nằm ở cửa ngõ phía Đông Nam của

tỉnh Hà Giang trong toạ độ địa lý từ 22 độ 10’ đến 22 độ 36’ vĩ độ Bắc và 104

độ 43’ đến 105 độ 07’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp với huyện Vị Xuyên, Phía

Đông, Đông Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía

Tây, Tây Bắc giáp huyện Hoàng Su Phì. Trung tâm huyện là thị trấnViệt

Quang, cách thị xã Hà Giang khoảng 60km.

Năm 2005, huyện Bắc Quang đƣợc chia tách thành hai huyện Bắc Quang

và Quang Bình, huyện Bắc Quang cũ gồm có 33 xã. Do việc phân chia lại địa

ranh, địa giới hiện nay Bắc Quang còn 21 đơn vị hành chính cấp xã: Tân Lập,

Tân Thành, Tân Quang, Việt Vinh, Đồng Yên, Vĩnh Phúc,Vĩnh Hảo, Hùng An,

Tiên Kiều, Việt Hồng, Quang Minh, Kim Ngọc, Vô Điếm, Bằng Hành, Hữu

Sản, Liên Hiệp, Đức Xuân, Thƣợng Bình, Đông Tâm, Đồng Tiến, Đông Thành

và hai thị trấn Việt Quang, Vĩnh Tuy. Năm 2005 dân số trung bình của huyện

Bắc Quang có 105.828 ngƣời, chiếm khoảng 16% dân số toàn tỉnh. Cƣ dân Tày

ở đây sống hiền hoà, đoàn kết với các dân tộc khác nhƣ Kinh, Dao, Mông,

Nùng…Thiên nhiên tƣơng đối ƣu ái tạo cho vùng đất này những bãi bồi phù sa

màu mỡ dọc theo hệ thống sông Lô, sông sảo, sông Bạc…thuận lợi cho việc

phát triển nền nông nghiệp lúa nƣớc. Tuy nhiên do địa hình tƣơng đối phức tạp

12

nhƣ đồi núi cao, thung lũng sâu, mƣa nhiều (Bắc Quang đƣợc coi là “rốn mƣa”

của cả nƣớc), sƣơng muối… đều gây ảnh hƣởng xấu đến sản xuất và đời sống

con ngƣời, khó khăn trong việc giao thông đi lại, xói mòn, lũ quét, ngập úng…;

Nhất là ở thời kỳ lịch sử xa xƣa khi cuộc sống của cƣ dân Tày còn thiếu thốn,

lạc hậu, đói nghèo.

- Đặc điểm kinh tế xã hội:

Địa vực cƣ trú của ngƣời Tày ở Bắc Quang rất thuận lợi cho việc phát

triển kinh tế nông, lâm nghiệp toàn diện. Trải qua hàng ngàn năm gắn bó với

mảnh đất này, đồng bào Tày đã khai khẩn các thung lũng ven sông Lô, sông

Bạc, Ngòi Sảo, ven các suối lớn tạo thành những cánh đồng, ruộng bậc thang

trồng trọt phì nhiêu màu mỡ. Họ tạo ra hệ thống “dẫn nhập thuỷ điền” với

Mƣơng, Máng, Phai, Cọn…khá hoàn thiện phục vụ cho việc sinh hoạt, tƣới

tiêu. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm đa dạng, phong phú; các ngành nghề thủ

công nhƣ đan lát, dệt, rèn, đúc, kéo đƣờng mật cũng phát triển. Kỹ thuật sản

xuất của ngƣời Tày đã đạt tới trình độ khá cao, có kinh nghiệm về chăm sóc,

thâm canh thời vụ khá chặt chẽ theo vụ theo năm. Từ xƣa tới nay đồng bào Tày

ở vùng Bắc Quang về kinh tế hàng hoá cũng đã phát triển qua những phiên chợ

nông thôn họp theo quy định, việc trao đổi hàng hoá bằng hiện vật hay hình

thức trao đổi trực tiếp đến nay vẫn còn tồn tại. Từ những điều kiện thuận lợi,

khó khăn trên phải chăng những hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ trong đó

có hát Lƣợn ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu giải toả những khát vọng tinh thần của

họ.

- Đời sống văn hoá:

Cƣ dân ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang cũng nhƣ nhiều ngƣời Tày

khác sinh sống trong cả nƣớc đều có một nền văn hoá đa dạng và phong phú.

Mặc dù ngƣời Tày giao tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ hệ Tày - Thái, nhóm ngôn

ngữ rất gần với Tiếng Việt về hệ thống ngữ pháp và âm thanh. Song chỉ những

từ ngữ về thiên nhiên, về sự vật hiện tƣợng trong sinh hoạt giao tiếp mới là của

13

ngƣời Tày, còn đa số là vay mƣợn của Tiếng Việt, tiếng Hán hoặc từ Hán Việt.

Về chữ viết của ngƣời Tày trong thời kỳ cổ đại không có nên lịch sử thành văn

của dân tộc rất ít ỏi và gần nhƣ không có, Bƣớc sang giai đoạn trung đại mới

xuất hiện chữ Nôm Tày, chữ Nôm Tày là thứ chữ phỏng theo chữ Hán của

ngƣời Trung Quốc mà đặt ra. Theo nhiều nhà nghiên cứu, nhìn từ góc độ văn

tự, thứ chữ này cũng có một vài nét khác với chữ Nôm Việt. Học giả Nguyễn

Văn Huyên là ngƣời đầu tiên có công nghiên cứu về kiểu chữ Nôm Tày và sau

này đƣợc học giả Đào Duy Anh tiếp tục nghiên cứu và khẳng định ý kiến của

Nguyễn Văn Huyên: “Chữ Nôm Tày do ảnh hƣởng chữ Nôm Việt mà ra và có

cấu tạo nhƣ chữ Nôm Việt” [49: 210-220]

Chữ Nôm Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIII đến XV sang đến cuối

thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII khi Mạc Kính Cung chuyển vƣơng triều lên Cao

Bằng đã để lại dấu tích về chữ Nôm Tày. Do đó có thể khẳng định chữ Nôm

của ngƣời Tày ra đời không muộn hơn so với chữ Nôm Việt thế kỷ XVI.

Bƣớc sang giai đoạn hiện đại, việc sử dụng chữ Nôm gặp nhiều khó khăn

do vốn từ tiếng Tày còn nghèo nàn trong các ngành hoạt động hành chính cũng

nhƣ khoa học. Năm 1954, một lớp trí thức Tày đã tự sáng tạo ra chữ La tinh

Tày nhƣng cũng không đƣợc phổ biến nhiều. Đến năm 1960, Đảng và Nhà

nƣớc ta mới có chủ chƣơng quan tâm xây dựng hệ thống chữ viết cho dân tộc

Tày theo lối chữ Quốc Ngữ bằng chữ cái Latinh. Trong cuốn Một vƣờn hoa

nhiều hƣơng sắc, nhà thơ Tày Nông Quốc Chấn đã nhận định: “Chữ Tày có vai

trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng phát triển nền văn hoá nghệ

thuật xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta…”

Trong những vùng sinh sống tập trung, dân cƣ Tày sử dụng song ngữ và

chữ viết Tày - Việt đã trở thành nét đặc thù phổ biến trong đời sống ngôn ngữ.

Do đó cần có kế hoạch sƣu tầm các văn bản văn học dân gian đƣợc ghi bằng chữ

Nôm Tày, chữ Tày hiện đại cũng cần đƣợc chỉnh lý, sửa chữa, đóng góp cho sự

nghiệp phát triển văn hoá Tày nói riêng và văn hoá trong cộng đồng 54 dân tộc

14

Việt nói chung. Có thể nói chữ viết ra đời là một trong những thành tựu to lớn, là

điều kiện vô cùng quan trọng trong việc lƣu giữ và phát triển nền văn hóa văn

học đa dạng của các dân tộc nói chung, cƣ dân Tày Bắc Quang nói riêng.

Ngƣời Tày ở Bắc Quang có nền văn hoá đa dạng, phong phú. Cả văn hoá

vật chất lẫn tinh thần đều có những nét độc đáo.

+ Về văn hoá vật chất:

Bản là đơn vị cƣ trú của ngƣời Tày, thƣờng ở chân núi, cạnh cánh đồng

hay ven sông, suối lớn. Tên bản thƣờng đạt theo tên đồng ruộng, khúc sông. đồi

núi nhƣ: Nà Ngần, Nà Đon, Nà Tông, Nà Cải… Mỗi bản trung bình có từ 25

đến 30 nhà, bản lớn có tới 60, 70 nhà, thậm chí có tới 100 nhà, có bản chỉ có

ngƣời Tày, có bản sống xen kẽ với các dân tộc khác. Nhà cửa của ngƣời Tày ở

đây thƣờng dựng theo thế đất, đằng sau dựa vào đồi núi, phía trƣớc thƣờng nhìn

ra cánh đồng, sông suối, bên cạnh nhà có máng nƣớc, ao cá, hƣớng nhà thƣờng

căn cứ vào tuổi gia chủ…Nhà ở của họ phổ biến nhất là nhà sàn, lợp lá cọ, nhà

có điều kiện thì làm nhà gỗ tất cả xà, cửa…đều làm bằng gỗ tứ thiết đƣợc bào

nhẵn, ghép mộng cầu kỳ, kiến trúc trạm trổ đẹp mắt, nhiều hoa văn. Nhà nghèo

thì làm gỗ kê đá, lợp lá cọ, phên vách bằng nứa đan… nhà thƣờng chia làm 3 -

5 - 7 gian, có khi còn làm bếp riêng liền với nhà chính từ 2 đến 3 gian. Xung

quanh nhà đƣợc lắp cửa sổ bằng ván hoặc tre nứa, mở thông thoáng nhìn ra

phía trƣớc, đằng sau nhà… Nhà sàn của ngƣời Tày là loại nhà tổng hợp, gian

giữa thƣờng để bàn thờ tổ tiên, bếp lửa, gian đầu nhà chỗ cầu thang lên thƣờng

là nơi tiếp khách, các gian phía trong là chỗ ngủ của các thành viên trong gia

đình, có bếp nấu ăn và cũng là nơi tiếp khách của nữ giới, có gác để thóc ngô

cùng các đồ dùng khác. Bên cạnh nhà có chuồng chăn nuôi, ngày xƣa nhiều

nhà còn sử dụng ngay gầm sàn để chuồng gia súc, công cụ sản xuất rất mất vệ

sinh… Sự tập trung dân cƣ đông đúc đã tạo điều kiện cho việc giao lƣu văn hoá

phát triển, các chàng trai, cô gái cùng làng, khác bản có thể Hát Iếu đối đáp với

nhau, tìm hiểu nên vợ thành chồng.

15

Trang phục của nam, nữ Tày ở đây chủ yếu mặc quần áo vải chàm, cùng

một kiểu: áo dài 5 thân, quần lá toạ. Đàn ông quấn khăn hay chít khăn kiểu chữ

nhân. áo nữ dài tới bắp chân, ống tay hẹp, xẻ nách phải, cài 5 khuy, thắt lƣng

bằng vải lanh hay đũi màu xanh, đỏ dài khoảng hai sải tay, đặc biệt họ thƣờng

tự tay mình dệt thêm những dải dây nhỏ, dài có nhiều hoạ tiết đẹp để trang trí

cho áo thêm đẹp, tiếng Tày gọi là “Thai Thửa”. Ở một số xã trong huyện phụ

nữ Tày còn mặc áo 5 thân bằng vải khác màu, hoặc áo cánh bằng vải nâu, vải

chàm tự nhuộm. Chị em phụ nữ thƣờng đeo vòng cổ, vòng tay và mang xà tích

bằng bạc hoặc vàng, đầu đội nón cọ tự làm…Họ thƣờng chọn những bộ trang

phục đẹp nhất để diện trong các dịp có lễ hội, đi chợ, các cuộc hát giao duyên.

+ Văn hoá ứng xử:

Trong mối quan hệ xã hội nhìn chung đồng bào Tày ở đây khá phát triển

nhƣng không đồng đều. Ở vùng thấp, dọc các đƣờng giao thông, gần các thị

trấn thị xã trình độ phát triển về các mặt gần bằng các vùng đồng bằng, tuy

nhiên ở những vùng giữa, vùng cao xa xôi hẻo lánh, trình độ phát triển còn

thấp, đặc biệt ở một số vùng còn tồn tại chế độ “Quăng” ( chế độ thổ ty) - Là xã

hội tiền phong kiến ra đời từ rất sớm, tồn tại từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ

XX mới tan dã dần… Kể từ thời Lý đến thời Trần, thời Hậu Lê, các tập đoàn

phong kiến muốn cai quản đƣợc các vùng xa xôi, vùng biên giới đều phải thông

qua các quý tộc, tù trƣởng các dân tộc để nắm giữ chính quyền, đất đai . Nên có

thời kỳ triều đình phong kiến đã phong cho bảy họ lớn ở các vùng miền là

“Thất tộc phiên thần” gồm có họ Nông, Ma, Nguyễn, Hoàng, Hà, Vi, Đinh.

Trong đó Hà Giang có bốn dòng họ là Nông, Nguyễn, Ma, Hoàng, có ngƣời

đƣợc phong tới chức quan Thái bảo, Thái phó, có ngƣời đƣợc phong tƣớc Quận

công. Đến trƣớc Cách Mạng tháng Tám năm 1945, các Quăng vẫn tồn tại và

chuyển sang làm Tri châu, Tổng đoàn, Châu đoàn, Chánh tổng, Lý

trƣởng…của chính quyền phong kiến thực dân. Thời Lý một số tù trƣởng ngƣời

Tày đã trở thành phò mã của triều đình và là ngƣời phải phục tùng chính quyền

16

trung ƣơng về mặt chính trị, quyền lợi, phải nộp cống phẩm hàng năm… Họ

đƣợc phép cai quản dân của mình theo phong tục, tập quán dân tộc. Triều đình

cũng cử các quan lại dƣới xuôi lên trấn thủ vùng biên giới, họ mang theo gia

đình, họ hàng thân thích lên làm ăn, lâu ngày đồng hoá với ngƣời Tày, trở

thành quý tộc địa phƣơng, hoặc gọi là Lƣu quan, nên ngƣời Tày có câu “ Keo

ké piến Tày (Kinh già hoá Thổ). Đặc điểm nổi bật của chế độ quý tộc Quăng là

cha truyền con nối, cai trị từng vùng đƣợc triều đình công nhận, nắm quyền sở

hữu tối cao đối với ruộng nƣơng, rừng rú, sông suối và các nguồn tài nguyên

khác trong vùng. Trƣớc cách Mạng tháng Tám, cƣ dân Tày ở đây có một số

tầng lớp theo học chữ Nho, chữ Nôm Tày, họ trở thành tầng lớp trí thức của

dân tộc và đội ngũ các thầy Mo, Then, Tạo, Pụt…Đây chính là tầng lớp có sự

đóng góp to lớn cho nền văn hoá nghệ thuật của bản địa.

Về quan hệ giữa các gia đình trong thôn bản, làng xóm tuy chịu ảnh

hƣởng bởi nền kinh tế tƣ hữu phong kiến xong chế độ công xã nông thôn vẫn

còn tồn tại dƣới dạng tàn tích. Bà con xóm giềng sớm tối có nhau, thƣờng

xuyên cƣu mang, giúp đỡ lẫn nhau. Tục ngữ Tày có câu: “ Pi noọng tam tó bố

táy pin noọng xó rƣờn” (anh em xa không bằng anh em làng xóm ở gần nhau).

Cƣ dân ở đây còn có tục “Tối vằn lèng” (Đổi công) để giúp nhau làm những

việc cần đông ngƣời nhƣ cấy, gặt hái, đám cƣới…hay tục “Kết tồng” ( kết bạn)

cùng tuổi, cùng năm sinh tháng đẻ, không phân biệt dân tộc miễn là hợp nhau,

khi đã kết bạn tồng thì mọi công việc lớn nhỏ trong hai gia đình đều có nhau.

Tình bạn này rất đƣợc coi trọng dù đó là “Tồng” của con cái, vợ chồng hay ông

bà… Ngày nay những tục lệ này đến này vẫn đƣợc giữ gìn và phát huy trong

cộng đồng cƣ dân ở đây.

Gia đình của ngƣời Tày Bắc Quang cũng giống nhƣ cƣ dân Tày ở một số

nơi khác rất đông, có tới 4 - 5 thế hệ (cụ kị, ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt)

nhiều đời cùng chung sống trong một mái nhà, song sống phổ biến nhất vẫn là

2- 3 thế hệ sống cùng nhau. Trong gia đình ngƣời Tày ở đây đều đƣợc xây

17

dựng theo thể chế và tục lệ hôn nhân một vợ, một chồng, mang tính phụ hệ.

Chủ gia đình là ngƣời chồng, điều khiển mọi công việc từ sản xuất đến sinh

hoạt trong gia đình, cộng đồng; vai trò của ngƣời đàn ông trong gia đình rất

đƣợc coi trọng, họ đƣợc tôn trọng hơn so với đàn bà. Tính chất phụ quyền trong

gia đình ngƣời Tày thể hiện rất rõ trong quan hệ giữa các thành viên trong gia

đình nhƣ vợ phải nghe lời chồng, giữa con dâu và các bậc trên có sự cách biệt

nghiêm ngặt nhƣ không đƣợc ngồi ngang hàng, ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu

với bố, anh chồng, không đƣợc tới chỗ ngủ và nơi dành riêng cho bố, chú, bác,

anh chồng. Một biểu hiện nữa của tính chất phụ hệ trong các gia đình của ngƣời

Tày là cách đặt tên và lấy họ cho con. Cũng giống nhƣ ngƣời Kinh ở chỗ, sinh

con ra đều lấy theo dòng họ và dân tộc của ngƣời cha. Việc con cái lấy theo

dòng họ ông - cha cũng chính là cách xác lập huyết thống, tông tộc, giống nòi.

Đi liền với thể chế này là những quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời con

trai (kế thừa tài sản và chịu trách nhiệm cúng giỗ cha mẹ khi mất). Còn đối với

con gái không đƣợc hƣởng gia sản, trừ khi bố mẹ cho làm của hồi môn và phụ

thuộc vào ngƣời chồng của mình. Tuy vậy, ngƣời Tày không chuyên quyền độc

đoán, gia trƣởng mà những việc lớn chồng đều tham khảo ý kiến của vợ, ngƣời

vợ có vai trò quan trọng hỗ trợ chồng trong sản xuất, quản lý gia đình, tài sản,

nuôi dạy con cái trƣởng thành. Ngƣời Tày rất coi trọng việc giáo dục, dạy dỗ

con cái về đạo đức, nề nếp gia phong, đi đứng ở trong nhà và ngoài xã hội.

Trong vùng của ngƣời Tày ở Bắc Quang và một số huyện khác trong tỉnh

thƣờng có lời răn dạy con cháu bằng thơ gọi là “ bách giáo” ( 100 câu răn dạy)

khuyên bảo con cháu về lối sống đạo đức và các quan hệ xã hội.

+ Văn hoá tinh thần:

Tín ngƣỡng văn hoá của ngƣời Tày mang tính chất phức tạp, do cuộc

sống tồn tại trên cơ sở nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, mang tính chất tự

cung tự cấp… cho nên tàn dƣ của các tín ngƣỡng nguyên thuỷ còn tồn tại trong

đời sống tâm linh của họ nhƣ: Vật linh giáo, ma thuật, bái vật giáo( thờ cây đa

18

to, thờ hòn đá kì dị…) và các lễ nghi liên quan đến sản xuất nông nghiệp, săn

bắn, đánh bắt… tiêu biểu nhất trong tín ngƣỡng, tôn giáo ngƣời Tày là thờ cúng

tổ tiên, bắt nguồn từ thờ cúng gia tộc, thị tộc ở thời kỳ trƣớc để tỏ lòng biết ơn

đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ và mong họ phù hộ cho gia đình có đƣợc cuộc

sốn ấm no, hạnh phúc. Ở mỗi thôn bản họ còn thờ thủ công (cốc bản), thổ đại,

thờ các vị thánh trong vùng mà họ gọi là thần, đƣợc cúng vào dịp tết và rằm

tháng 7 hàng năm. Thổ công có miếu thờ đặt ở gốc cây to đầu làng, mỗi làng,

bản còn có các vị thần thánh ở các khu rừng hay núi cao gọi là Đông thấn, Pù

thấn. Hệ thống điện thần của cƣ dân Tày ở đây phát triển khá cao, có đủ mặt

các vị từ Ngọc Hoàng, Nam tào, Bắc đẩu, thần sông, thần núi, thần sấm, thần

sét…cho tới các loại thần thánh, ma quỷ ở địa phƣơng. Hàng năm vào mùa

xuân, ngƣời ta tổ chức cúng trên một đám rụng nhất định ở trƣớc bản, mỗi gia

đình đều có mâm lễ rƣợu, thịt, xôi, bánh đem đến để cúng. Lễ hội này đƣợc gọi

là hội Lồng tồng( xuống đồng), thầy cúng sính tất cả các thần thánh, ma quỷ ở

địa phƣơng, cầu khấn trời đất mƣa thuận gió hoà, cuộc sống ấm no, mùa màng

bội thu, hạnh phúc. Trong lễ hội này ngoại trừ một số yếu tố mê tín thì nội dung

cầu mùa, vui chơi, giả trí là chính. Sau lễ cúng họ tổ chức các trò chơi nhƣ đánh

yến, đánh quay, tung còn, kéo co…và một phần không thể thiếu trong hội chính

là những lời Hát Iếu, Hát Cọi giao duyên làm đắm say bao tâm hồn từ lớp già

tới trẻ. Ngày nay lễ hội Lồng tồng vẫn đƣợc lƣu giữ, phát huy và bảo tồn.

Văn học nghệ thuật và tri thức dân gian của ngƣời Tày rất phong phú

nhƣ kho tàng truyện thần thoại, cổ tích: Quả bầu, Pú luông – Gia cải, Nàng

Kháy, Nàng Nhi -Nàng Khằm, truyện Kim Quý…còn lại các truyện phần lớn

xuất hiện trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn, xung đột, đấu tranh xã hội gay

gắt nhƣ các truyện Cảu Khay, Tua Nhi - Tua Gia, Thạch Sanh, Tống Lăn, Hán

xuân - Lƣu Đài, Phạm Tứ - Ngọc Hoa, Đình Quân - Thị Xuân, Quảng Chân -

Ngọc Nƣơng…Ngoài ra còn có nhiều truyện cƣời, ca dao, tục ngữ, thành

ngữ…Đặc biệt ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang cũng nhƣ ở một số nơi khác

19

có một số loại hình dân ca đáng coi trọng đó là Hát Lƣợn cọi, Hát Iếu, Hát quan

Làng, Phong Slƣ…

Tất cả những điều kiện trên tạo cho cƣ dân Tày ở Bắc Quang phát triển

một nền kinh tế toàn diện với nền văn hoá nông nghiệp lúa nƣớc đa dạng,

phong phú; sản sinh ra nhiều hình thức sinh hoạt văn học, nghệ thuật giàu bản

sắc đƣợc lƣu chuyển trong đời sống dân gian.

1.2 Khái quát về lƣợn

1.2.1 Khái niệm “Lượn”:

Lƣợn là một loại hình dân ca độc đáo của dân tộc Tày. Bằng nhiều cách

tiếp cận, công tác sƣu tầm nghiên cứu “Lƣợn” nói chung đã và đang mở ra

những triển vọng mới đóng góp cho việc giữ gìn, bảo tồn những giá trị văn hóa

dân gian của dân ca Tày. Cho đến nay nhiều ngƣời vẫn chƣa định nghĩa đƣợc

rõ ràng về loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên qua quá trình khảo sát, nghiên

cứu của một số ngƣời đi trƣớc, chúng tôi tập hợp lại những ý kiến nhƣ sau:

- Vi Hồng trong: Sli Lƣợn dân ca trữ tình Tày – Nùng, có đƣa ra một số

ý kiến sau:

Ý kiến của các cụ nho học:

+ Lượn là do từ “luân” và giải thích “luân” nguyên nghĩa là cái bánh xe

đang lăn. “Làm lƣợn” thì phải có bên lƣợn đi bên lƣợn lại, quay đi quay lại…

không khác gì cái bánh xe lăn hết vòng này laị đến vòng khác. Nghĩa là đối đáp

không dứt.

+ Lượn là do từ chữ “luyến” mà ra. luyến có nghĩ là móc vào nhau.

Cũng nhƣ ngƣời ta “ làm lƣợn” với nhau thì câu nị phải “móc” (ăn nhập) vào

câu kia và cả hai bên cũng đều muốn gắn bó với nhau. Tác giả cho rằng việc

tìm nguồn gốc từ lƣợn từ một nguồn gốc Hán là không thoả đáng, đành rằng

tiếng Tày, Nùng vay mƣợn tiếng Hán khá nhiều. Những loại ý kiến trên phần

lớn là phỏng đoán theo cảm tính, thiếu căn cứ chắc chắn thuyết phục.

Ý kiến cắt nghĩa từ nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc Tày, Nùng, tác giả đơn

20

cử hai ý kiến:

+ Lượn là do từ “lặn” mà ra. Lặn trong tiếng tày, nùng có nghĩa là một

vòng khép kín, “lặn” là một vòng tròn hoặc là hai lƣợt đi về giữa hai địa điểm

hoặc giữa hai đầu nút. Và họ giải thích: lượn thì phải có “câu trai câu gái”,

nghĩa là từng “lặn” từng lƣợt.

+ Một ý kiến khác: lƣợn là do chữ “loặn” mà ra. “ loặn” trong tiếng

Tày có nghĩa là những suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo để dạt tới cái đúng cái hay cái

cần biết. Họ giải thích: làm lượn thì phải suy nghĩ thật nhanh mà câu phải hay,

lời đẹp để đáp lại nhau, cho nên làm lƣợn tức là “loặn”.Tác giả cùng cho rằng

những ý kiến này đều có lý của nó, nhƣng vẫn không có gì chắc chắn để mọi

ngƣời có thể tin nghe.

Cuối cùng tác giả nghiêng về ý kiến của cụ Nông Nguyễn Mô ngƣời Hoà

An - Cao Bằng : “Từ Lượn và từ “vjén” vốn cùng một nghĩa. Ngày xƣa ngƣời

ta thƣờng nói : “Lƣợn lủc” hay “Vjén lủc” - nghĩa là ru con - đều đƣợc cả. Sau

này ngƣời ta cũng gọi là “lƣợn bạn” hay “vjén bạn” cũng thế”. Tác giả còn giải

thích thêm từ “Vjén” trong tiếng Tày, Nùng hiện đại có nghĩa là ru. “Vjén” có

nghĩa là khuyên bảo dỗ dành. Nội dung những bài lượn đúng là những lời

khuyên bạn, là lời gọi rủ bạn tình, lời dỗ dành vỗ về bạn bè đồng bào, đồng

loại thân thƣơng. Trong rất nhiều bài lượn những từ “khuyên bạn”, “khuyên

em” rồi những nhóm từ cố định : Rủ bạn, rủ anh, rủ em cùng đi vào con đƣờng

tình nghĩa luôn luôn lặp đi lăp lại.

Một số khái niệm sau chúng tôi thu thập đƣợc trên mạng Internet:

- Lƣợn cọi - cội là lƣợn gốc, giai điệu xuất hiện sớm hơn hai loại lƣợn

then và lƣợn slƣơng. Lời lƣợn rút từ những câu rọi, một thể loại nói giao duyên

xâu chuỗi theo vần, xƣớng cao giọng công khai, để những ai mến mộ cùng

thƣởng thức.

- Các bài Lƣợn cọi (hát giao duyên): Là những bài hát đối đáp giao

duyên giữa nam nữ thanh niên, chứa đựng nội dung trữ tình trong sáng, lạc

21

quan, yêu đời; là loại dân ca phong phú và phát triển hơn cả trong đời sống tinh

thần của dân tộc Tày - Nùng, là nghệ thuật diễn xƣớng dân gian mang tính nghệ

thuật cao.

- Theo nghĩa rộng lƣợn chỉ toàn bộ kho tàng dân ca ngƣời Tày, bao gồm

cả Then ( lƣợn then), hát đám cƣới ( lƣợn quan làng), phuốc pác ( lƣợn Phuối

pác) và phong slƣ (lƣợn phong slƣ), cọi ( lƣợn cọi)…Theo nghĩa hẹp lƣợn chỉ

là những điệu hát giao duyên của ngƣời Tày. Cả hai cách hiểu trên đều có lí,

song có lẽ phổ biến hơn cả là cách gọi tên lƣợn theo nghĩa hẹp, tức là bộ phận

hát giao duyên đối đáp của ngƣời Tày.[Wikipedia Bách khoa toàn thƣ mở]

Về bản chất lƣợn ở các vùng về hình thức đều giống nhau, có khác là

khác ở giai điệu, tiết tấu. Cũng nhƣ tên gọi của Lƣợn Cọi, ở Bắc Quang - Hà

Giang gọi là Hát Iếu, ở Lục Yên - Yên Bái gọi là Khắp Cọi...

1.2.2. Khái niệm Hát Iếu

Đến nay chƣa có một khái niệm nào về Hát Iếu của dân tộc Tày ở Bắc

Quang - Hà Giang cũng nhƣ ở một số nơi khác.

Hát Iếu là thể loại hát dân ca chỉ dành riêng cho ngƣời chƣa vợ, chƣa

chồng. Tuy nhiên, trong thực tế do sức hấp dẫn của loại hình dân ca này nên

những ngƣời có vợ, có chồng, thậm chí là những ngƣời lớn tuổi đều có thể hát

nhƣng phải đƣợc sự ủng hộ, đồng tình của mọi ngƣời thì mới đƣợc hát. Tiếng

hát giao duyên trai gái trong Hát Iếu là vốn văn học cổ, là mạch nguồn văn hóa

đáng quý của dân tộc Tày Bắc Quang. Do vậy, trong đời sống tinh thần của

đồng bào Tày nơi đây, Hát Iếu không chỉ là một hình thức sinh hoạt văn hóa

mà còn thực hiện chức năng trao đổi tình cảm lứa đôi và biểu hiện nét đẹp

phong tục tập quán mang nội dung trữ tình đằm thắm, mƣợt mà.

Qua quá trình tiếp xúc, tìm hiểu chúng tôi tạm thời đƣa ra cách hiểu về

Hát Iếu nhƣ sau:

Hát Iếu là những bài hát đối đáp giao duyên giữa nam nữ thanh niên,

nhằm bày tỏ tình cảm lứa đôi, ca ngợi cuộc sống.

22

1.2.3. Nguồn gốc của Hát Iếu

Từ xa xƣa tới nay Hát Iếu đã tồn tại, lƣu truyền ở Bắc Quang - Hà Giang

và một số vùng khác, từ ngƣời già tới lớp trẻ chúng tôi không ai biết nguồn gốc

của Hát Iếu ra đời từ khi nào. Tôi có hỏi một số nghệ nhân cao tuổi về sự ra đời

của Hát Iếu, họ trả lời : Thủa còn nhỏ đã đƣợc nghe các ông, các bà, các mẹ,

các anh, các chị hát; Những lời hát đó đã cùng họ lớn lên và để lại dấu ấn trong

lòng là tiếng nhớ thƣơng, lƣu luyến, day dứt khôn nguôi; Và có lẽ Hát Iếu có từ

rất lâu rồi. Hiện nay chúng ta cũng ta chƣa thể biết chính xác Hát Iếu xuất hiện

vào thời kỳ nào. Nhƣng qua nội dung và hình thức các bài hát, chúng ta có thể

phỏng đoán Hát Iếu chỉ có thể xuất hiện vào thời kỳ chế độ kinh tế cá thể đã

phát triển khá cao và chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã thịnh hành trong xã

hội. Từ trƣớc tới nay một số nghệ nhân vẫn thƣờng hát bài “gốc Cọi” để trao

gửi tâm tình:

Cốc cọi dú mƣờng Mú

Mú cọi dú mƣờng mƣời

Cốc cọi dú Lƣơng nhan Thƣợng Đế

A loàn dú nƣa pế lƣơng đông

Chắng au băƣ mạy mà nhặp che thân chang thửa

Mơ xít nhằng ngộ páy minh

Chắng tặt tàng nhình chài thao báo

Nhình chài nhằng hổn hao pay thông

Cốc cọi dú lƣơng đông tạo óc

Chắng lồng lot thế gian

Chắng pân tính cấp đàn lí lọi

Chắng tặt hặt câu cốc cọi than thƣơng

Páo hăử pi táng mƣờng rụ chắc

Tạm dịch:

Gốc cọi ở mƣờng Mú

23

Mú cọi về mƣờng mƣời

Gốc cọi giữa dƣơng gian Thƣợng Đế

Rồng phƣợng trên bể Lƣơng Đông

Mới lấy lá cây về khâu áo che thân

Ngày xƣa còn ngây thơ chƣa biết gì

Mới đặt nên đƣờng tình trai gái

Trai gái chƣa biết làm sao

Gốc cọi trên Lƣơng Đông tạo tiếng

Mới lọt xuống thế gian

Mới thành đàn tính, đàn tình

Mới đặt gốc cọi than thƣơng

Bảo cho anh khác Mƣờng cùng biết.[40.Tr 57,58]

Trong dân gian có lƣu truyền câu chuyện: Ngày xƣa, với ngƣời Tày ở

vùng sông Chảy Yên Bình, Lục Yên (Yên Bái), ở vùng sông Lô Bắc Quang

(Hà Giang), Hàm Yên (Tuyên Quang) đều cùng có một làn điệu hát Khắp (có

nơi gọi là Hát Iếu và làn điệu Hát Cọi ). Cứ mùa xuân, đến tháng Giêng, tháng

Hai, anh em tổ chức đi thăm nhau, con cháu có dịp đi theo cha theo mẹ hoặc

cô, bác, chú, dì… Những nam thanh nữ tú đã đƣợc học sẵn Iếu, Cọi, đi đến đâu

là sẵn sàng đối chọi dân ca, giao lƣu học hỏi, tìm hiểu lứa đôi rồi nên vợ nên

chồng hạnh phúc trăm năm. Mỗi lần cất tiếng Khắp tiếng Cọi, thƣờng thì cô gái

thẹn thùng cất tiếng trƣớc, hỏi gốc Khắp gốc Cọi để cho ngƣời con trai trả lời:

Củ pác tham minh láy,

Ngoáy nả tham minh quan,

Khình bang tham minh pi.

Cốc khắp dú hăƣ oóc,

Cốc cọi dú hăƣ mà.

Lang đạng noọng tờ tham sắc nọi.

Thinh hăƣ tặt tiểng hội dƣơng gian.

24

Thinh hăƣ tặt chiêng nhị lỉn xuân,

Ngoác nả tham lƣờng quân hăƣ minh.

Páo hẳƣ noọng khình bang chắc đởi.

Nghĩa là:

Cất tiếng em hỏi anh,

Cất lời em hỏi đến.

Thƣơng em, anh trả lời.

Gốc khắp ở đâu ra?

Gốc cọi ở đâu về?

Hàng năm để làng quê mở hội,

Đôi ta đƣợc nhộn nhịp vui xuân.

Mong anh kể một lần, em biết.

Ngƣời Tày Mƣờng Lai, Lục Yên truyền kể lại rằng: trƣớc đây, cuộc

sống con ngƣời lao động lam lũ, vất vả lắm, đầu đội trời, chân đạp đất mà vẫn

không đủ ăn. Một hôm, ông cụ già làng ra ngồi trên hòn đá bên bờ suối câu cá,

suy nghĩ bên thác nƣớc chảy. Bỗng đâu có ngọn gió ào qua bụi tre nơi ông

ngồi. Tiếng kẽo kẹt của hai cây tre cọ vào nhau phát ra âm thanh hòa quyện

cùng với thác nƣớc chảy, nghe hay làm sao. Thổn thức lòng ngƣời, ông già tự

dƣng mở miệng "hới lả" vọng theo, thấy ngƣời thanh thản, nhẹ nhõm, quên hết

nỗi u buồn uẩn khuất. Ông già nghĩ rằng: Thiên Nhan Thƣợng đế đã ban

thƣởng tiếng hát cho ngƣời Tày mình đây! Thế rồi, ông gọi mọi ngƣời đến

truyền dạy lời hát. Lấy da ếch bọc ống nứa, căng 2 sợi dây tơ tằm rồi bện mấy

sợi lông đuôi ngựa làm cung để kéo "cò cử", sau này gọi là nhị 2 dây. Lấy ống

nứa tép dùi thành 7 lỗ để thổi tạo tiếng nƣớc chảy sau này gọi là sáo. Từ đấy,

hát khắp hát cọi có nhị, có sáo đệm theo.

Hàng năm, cứ thu hoạch xong lúa gạo, đƣa vào đầy bồ là mọi ngƣời

chuẩn bị cho vui tết đón xuân, mở hội Lồng Tồng thi hát khắp hát cọi. Khi

đƣợc hỏi đến gốc Khắp, gốc Cọi, chàng trai bèn lên tiếng trả lời:

25

Cằm noọng khắm là pi khan,

Cằm noọng tham là pi gạ.

Mƣa nận là mừa tận mƣa đai.

Mì po pú tức bất tềnh hin phjoa,

Chắng hăn thoong điếu mạy tẻo ca,

Hả điếu mạy tẻo cót.

"Hới lả" pân cằm bióoc cằm va.

Mƣa nận vua tạo mà lồng thóa,

Chắng tặt Iếu thiên hạ lỉn khua,

Cốc khắp pi tờ so kể đoạn.

Ngoac nả páo cốc cọi hẳƣ a.

Mẹ luc tả bóm nà mí háy.

Po luc tả nả ray mí bjoai,

Thao đai tả thuôn mòn rộc nhả.

Đếch tả mùn theo háy lầm me.

Kế tả tạu theo háy lầm rƣờn.

Mọi cần mọi phai thƣơng đởi "cọi".

Nghĩa là:

Lời em hỏi anh xin thƣa.

Ngày xửa tận ngày xƣa.

Có cụ già ngồi đánh câu trên thác đá.

Mới thấy điều sự lạ.

Hai cây tre "kẽo két".

Năm cây nứa "ót ét" tiếng xa.

"Hới lả" ông thốt lời cùng gió,

Từ đấy vua cho mở hội vui,

Đặt "Khắp, Iếu" ngƣời đời làm hội.

Còn gốc Cọi anh kể em hay,

Cọi cất lên cha bỏ cày ngoài ruộng,

26

Con vội vàng bỏ trốn lên nƣơng

Gái dƣới Mƣờng hái dâu thổn thức.

Trẻ bú mẹ lập tức lắng nghe

Già bỏ gậy đi về quên lối.

Mọi ngƣời vui khắp, cọi từ đây.

Tiếng hát Khắp hát Cọi đã làm vơi đi những nỗi vất vả đêm ngày, tâm

hồn thanh thản, trong sáng, tự tin nhƣ hoa mùa xuân đang nở. Nhƣ hoa phặc

phiền trên núi đá đã kết nối đôi lứa trăm năm hạnh phúc.[Nguồn: http/www

Báo Yên Bái.com.vn].

1.3. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang.

1.3.1. Hát Iếu trong đời sống văn hoá của người Tày ở Bắc Quang - Hà

Giang.

Trong kho tàng văn học dân gian của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà

Giang, hát Lƣợn Cọi (Khắp Cọi, Hát Iếu…) là thể loại dân ca rất đặc sắc của

dân tộc. Nó có giá trị nhƣ hát quan họ của ngƣời Bắc Ninh, hát dân ca Bắc Bộ

của cƣ dân đồng bằng Bắc Bộ. Những bài hát Lƣợn đã in sâu trong tâm hồn

tình cảm của biết bao ngƣời và vẫn đƣợc lƣu truyền cho con cháu các thế hệ.

Thể loại Lƣợn cũng đƣợc chia ra thành nhiều loại nhƣ hát ví, hát giao duyên,

hát đố, hát ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên, phản ánh khát vọng của ngƣời lao

động muốn vƣơn lên làm chủ cuộc sống, xây dựng hạnh phúc lứa đôi… thông

qua những bài hát đó, thanh niên nam nữ có dịp làm quen với nhau, có ngƣời

dùng bài hát để bày tỏ lòng với ngƣời mình yêu, khi đến nơi khác mà không

đƣợc mời hát đã mất mặt rồi, nhƣng còn đáng xấu hổ hơn là đƣợc mời mà

không biết hát. Vì thế, để khẳng định đƣợc mình họ thuộc rất nhiều bài hát và

có tài ứng đối rất nhanh.Với ngƣời Tày nơi đây cũng vì đối chọi Iếu mà bao

chàng trai cô gái nên vợ, nên chồng; cũng vì câu hát mà bao ngƣời đã có gia

đình chạy theo tiếng gọi của tình yêu thuở xa xƣa không đến đƣợc với nhau.

Địa điểm các cuộc Hát Iếu đều không nhất định, thƣờng vào ngày xuân,

lễ tết, đình đám vui chơi (trừ đám ma không đƣợc hát). Họ hay hát vào ban

27

đêm, chủ yếu là hát với ngƣời ở khác thôn bản, xã đến…Đời tiếp đời, năm tiếp

năm, tiếng hát Khắp, Iếu, Cọi đƣợc lƣu truyền mãi mãi. Nhƣng gần hai chục

năm trở lại đây ngƣời hát đã bớt đi, tầng lớp trẻ không còn tìm hiểu nhau qua

Hát Cọi Hát Iếu, qua lời đối chọi dân ca nữa.

Tìm hiểu Hát Iếu của ngƣời Tày ở Bắc Quang – Hà giang là một vấn đề

rộng, có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên

cứu của mình ở một khía cạnh vấn đề là tìm hiểu vài nét nội dung và nghệ thuật

tiêu biểu thông qua lời Hát Iếu. Từ đó, chúng tôi cố gắng khám phá tâm thức

của ngƣời Tày trong loại hình dân ca trữ tình này. Những bảo lƣu về giá trị tinh

thần của cƣ dân Tày nơi đây đƣợc khám phá trong thế giới nghệ thuật của Hát

Iếu có thể nói đã tạo nên một gƣơng mặt dân ca độc đáo trong nhiều gƣơng mặt

khác của dân ca các dân tộc Việt Nam.

1.3.2. Khảo sát, phân loại

Trong dân gian, Lƣợn là một hình thức có từ lâu đời, Lƣợn còn là một từ

thuần dân tộc để chỉ âm thanh hát lên với những làn điệu khác nhau, Nói chung

Lƣợn bao gồm toàn bộ dân ca trữ tình Tày, Nùng. Tuy vậy nhiều ngƣời dễ hiểu

nhầm giữa Lƣợn và các điệu Lƣợn nhƣ: Lƣợn Then, Lƣợn Nàng ới, Lƣợn Cọi,

Lƣợn Slƣơng…Cũng nhƣ dân tộc Kinh có làn điệu hát Quan họ, hát Cò lả, hát

Trống quân, hát Ví…Chúng ta có thể tìm hiểu rõ về một số điệu Lƣợn của dân

tộc Tày theo Tác giả Vi Hồng trong cuốn : “Sli, Lƣợn dân ca trữ tình Tày -

Nùng” có khái quát một số điệu Lƣợn nhƣ:

“Lƣợn then, có nghĩa là lƣợn tiên - Điệu lƣợn thanh cao nhƣ “tiên giới”,

“tiên cảnh”.

Lƣợn nàng ới, có nghĩa là điệu lƣợn gọi bạn tình tha thiết. Nàng ới có

nghĩa là “em ơi” và cũng là những từ mở đầu cho mỗi trổ của làn điệu này.

Lƣợn cọi, cọi có ngƣời cho là từ tiếng Kinh mà ra - cọi là gọi. Lƣợn cọi -

là lƣợn “gọi bạn tình”!

28

Lƣợn sƣơng - là những lời lƣợn yêu thƣơng, tha thiết - Sƣơng có nghĩa là

thƣơng - thƣơng chứ không phải yêu đƣơng.

Lƣợn nài, lƣợn kết, lƣợn pjảc là những chƣơng khúc của một cuộc lƣợn”.

Tác giả nhận định: Những cách phân loại trên của dân gian không theo

một quy tắc nào cả, khi thì căn cứ vào hình thức diễn xƣớng, khi thì căn cứ vào

nghi thức lƣu hành, khi thì căn cứ vào đề tài hoặc vào các làn điệu, khi thì căn

cứ vào hình thức tồn tại, phƣơng thức lƣu truyền để phân loại…Riêng theo tác

giả thì cho rằng: “Nếu cần phân loại Lƣợn thì chỉ cần phân thành hai loại:

- Sli, lƣợn tự sự

- Sli, lƣợn trữ tình.

Sli, lƣợn tự sự chủ yếu là một hình thức sinh hoạt văn nghệ quần chúng,

có mang hơi thở trữ tình.

Sli, lƣợn trữ tình chủ yếu là những lời trò chuyện tâm tình giữa thanh

niên nam nữ, nhƣng vẫn không hoàn toàn gạt bỏ những bài mang tính tự

sự”.[19. Tr.35,36].

Đối với dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang cũng có nhiều làn điệu hát

Lƣợn khác nhau nhƣ: Then, Lƣợn Cọi, Lƣợn Nàng ới, Phong thƣ...Trong đề tài

nghiên cứu này chúng tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu làn điệu Hát Iếu, một tên gọi

riêng nhƣng vẫn có những đặc điểm chung với hát Lƣợn nói chung của dân tộc

Tày.

Qua quá trình khảo sát, điền dã, tìm hiểu Hát Iếu ở Bắc Quang chúng tôi

thấy hình thức Hát Iếu cũng giống nhƣ Lƣợn cọi, song nổi bật lên một số loại

Hát Iếu sau:

Iếu định rƣờn (định duyên)

Iếu phặt phòng (dậy sóng - quấn quýt)

Iếu Sỏi (Iếu kháy)

Iếu tạ (Iếu đố)

29

Iếu Định rƣờn (định duyên) diễn ra khi có khách từ bản, mƣờng hay

khác xã đến chơi. Trong không gian, địa điểm chủ yếu là nhà sàn “khách” đƣợc

“chủ” tiếp đón ân cần bằng hình thức “chủ” mời những ngƣời trong bản có tài

đến cùng thi Iếu với “khách. Đầu tiên là đặt câu trai lạ đến bản, gái bản Iếu

trƣớc. Mở lời thƣờng là lời xin phép của “noọng”:

Giờ khuất cần thôi khảu lừ páy

Tôi thí lạu thôi bôm piềng pàn lừ páy

Nhắc bôm oóc hoỏng hoóng hẳƣ pi so toan

Nhắc bôm oóc hỏng chang hẳƣ lan so lỉn

(Giờ tuất nhà cơm xong chƣa đấy

Tất cả đã dọn xong mâm bàn chƣa đấy

Sắp mâm ra gian trái cho em xin thƣa

Nhắc mâm ra gian giữa cho cháu xin hát).

[8. Tr.34]

Tiếp đó bên “chủ” tiếp tục Iếu nài, Iếu mời cho “khách” mở lời mới thôi.

Từ đó giữa “chủ” và “khách” đối đáp giao duyên, bày tỏ tình cảm, tâm trạng,

sự quan tâm lẫn nhau. Khi hát giao duyên với nhau ngƣời ta thƣờng dùng Iếu

Định duyên, xen vào đó là những câu Iếu Phặt phòng để bày tỏ tâm trạng, cảm

xúc của các chàng trai cô gái trong tình yêu. Chẳng hạn đây nỗi lòng thầm kín

nuối tiếc của chàng trai khi cô gái bỏ đi lấy chồng. Chàng trai đã mƣợn hình

ảnh: “Tả điêu co bióoc lục luôc khác loay” để nói lên sự lẻ loi, trơ trọi trong

lòng mình: Chiêng thoong nặm noòng ỏi lup đon

Nặ bốc pioa lồng phoòng đởi ngƣơc

Tả điêu co bióoc lục luôc khác loay

Cạy noọng đảy phua đay mí chứ

(Giêng hai nƣớc lũ cỏ ngập cồn

Nƣớc cạn cá xuôi dòng đi mất

Bỏ mình bông hoa tím khác trôi

30

Cậy em đƣợc chồng sang không nhớ).

[8.Tr.61]

Hay hình ảnh “Bióoc mặn” nở xen lá xen ngọn nhƣ lòng em có hai

hƣớng để anh không dám kết:

Bióc mặn phống khuồn băƣ chắn nhot

Tổn công lọi co bióc pân đuông

Noọng tao au cần táng mƣờng mà lit

Tả điêu pi nòn vin phiác mƣơi

Đảy soỏng noọng chê cuôi nả múng

Pi chắc pi mí giám toan

Chắc noọng giam vằn pi mí giảm kết.

(Hoa mận nở xen lá xen ngọn

Tốn công chắp cánh hoa thành bông

Em lại thấy ngƣời khác Mƣờng đến gõ

Bỏ mình anh nằm vắng phơi sƣơng

Đƣợc sỏng em chê mặt bủng

Anh biết chẳng dám yêu

Biết em giam lòng anh chẳng dám hƣớng).

[40. Tr. 50,51]

Thời gian Iếu diễn ra rất dài có thể thâu đêm đến sáng. Còn Iếu sỏi ( Iếu

kháy) thì ít dùng hơn, thƣờng chỉ dùng trong những trƣờng hợp khi họ muốn

nói trả miếng, chê bai hoặc không vừa lòng nhau. Chẳng hạn nhƣ có bài Hát

Iếu “Lồng đoay” (xuống thang) cƣời chê ngƣời con gái già rồi nhƣng vẫn chƣa

lấy đƣợc chồng thật thấm thía:

Lồm pặt khửn cốc túm hua nà

Pú gia thẳm phuc phà vạy thả

Pi nay thâng pi nả noọng pay

Thoong mừng chổm hua đoay lồng lang

31

(Gió thổi lên gốc xổ đầu thôn

Cha mẹ sắm chiếu chăn để đợi

Năm nay sang năm nữa em đi

Hai tay chống cầu thang xuống bãi.

[40. Tr.45,46]

Ta cũng bắt gặp một anh “Chồng ở bẩn” trong cuốn Iếu dân ca dân tộc

Tày của tác giả Hoàng Văn Chữ sƣu tầm:

Phua noọng pi hăn giá

Nung băƣ thửa cáp ná mạy pàu

Thứ cái khăn lau năng noỏng

Nả piác hả căm khày

Cói dú quay chăƣ lac

(Chồng em anh thấy rồi

Mặc chiếc áo nhƣ mo cây vầu

Dùng chiếc khăn lau vỏ sui

Trên trán năm nắng ghét

Ở xa nhìn buồn nôn).

[8. Tr.31]

Riêng Iếu đố diễn ra khi ngƣời hát muốn kết thúc cuộc chơi, thƣờng một

bên nam hoặc nữ đƣa ra câu đố, bên đối tƣợng phải hát đối lại, khi hát trả lời

đƣợc rồi thì có thể đặt ra câu đố, tình huống khó hơn cho ngƣời đã đố mình lúc

trƣớc. Cứ nhƣ vậy hai bên đối đáp nhau cho tới bên nào đó thua thì thôi, thậm

chí bên thua còn tỏ ra cay cú, ấm ức về nhà mất ăn, mất ngủ, rồi bằng mọi cách

tìm dịp khác để hát cho thắng hoặc cho thoả lòng mới thôi.

Nhìn chung sự phân loại trên chúng tôi chủ yếu dựa vào hình thức tồn tại

và phƣơng thức lƣu truyền của Hát Iếu để phân loại, Do điều kiện sƣu tầm còn

hạn chế nên chúng tôi chƣa khám phá thêm đƣợc những bài Hát Iếu mang

những nội dung khác trong kho tàng dân ca của dân tộc Tộc Tày ở Bắc Quang

Hà Giang. Riêng Hát Iếu tuy có nhiều điểm tƣơng đồng với các loại hình dân

32

ca Lƣợn khác song chủ yếu nó vẫn thuộc thể loại lƣợn trữ tình nhƣng cũng

không phải hoàn toàn mất đi yếu tố tự sự.

1.3.3. Hình thức diễn xướng trong Hát Iếu.

Hình thức diễn xƣớng trong dân ca của các dân tộc đều có những cung

cách tiến hành khác nhau, điểm khác nhau đó bắt nguồn từ những điều kiện

sinh hoạt, nét tâm lý và phong tục tập quán của các dân tộc. Chính những điều

đó đã tạo nên đặc điểm riêng mang tính đặc thù về sinh hoạt dân ca ở mỗi vùng,

mỗi dân tộc anh em.

Nói riêng về diễn xƣớng trong Hát Iếu của dân tộc Tày ở Bắc Quang -

Hà Giang, qua quá trình thực tế điền dã ở một số vùng trong huyện và qua các

tài liệu tin cậy của giới nghiên cứu chúng tôi thấy rằng: Hình thức Hát Iếu của

ngƣời Tày ở đây tƣơng đối phong phú, nhƣng chủ yếu là hình thức hát có lề lối,

tổ chức và đôi khi chúng ta bắt gặp hình thức hát tự phát đơn lẻ. Hát tự phát

đơn lẻ không phụ thuộc vào thời gian, không gian và ngƣời hát không có ý nghĩ

rằng mình làm văn nghệ; còn hát có tổ chức, lề lối lại đƣợc tổ chức theo nghi lễ

khá chặt chẽ. Sự phong phú trong hình thức hát tự phát đơn lẻ của đồng bào

Tày ở đây nói lên nhiều mặt trong cuộc sống giàu bản sắc, mang tính đặc trƣng,

thể hiện kho tàng ngôn ngữ hằng ngày khá dồi dào của quần chúng lao động mà

trƣớc hết là nam nữ thanh niên lao động cần cù, chăm chỉ khép kín nơi bản

làng. Đối với hình thức hát có tổ chức, lề lối thì nội dung thƣờng bao gồm cả

phần nghi thức và giao duyên với các chặng hát nhƣ: Hát chào, hát mời, hát nài,

hát trông (ngắm), hát tỏ tình, hát trả đũa, hát đố...

Hát có tổ chức, lề lối: Là hình thức hát đƣợc hai bên chuẩn bị trƣớc,

đồng thời cũng đƣợc tổ chức theo những nghi thức khá chặt chẽ, điển hình nhƣ

hát hội đầu xuân của ngƣời Dao tuyển ở Lào Cai, hát Xin cốm của đồng bào

Dao ở Lào Cai, Hà Giang. Hình thức, lề lối tổ chức này cũng giống nhƣ hát Ví

cuộc, hát Quan họ Bắc Ninh, hát Phƣờng vải, hát Ví dặm của ngƣời Kinh ở

33

Nghệ Tĩnh; Giống nhƣ hát xƣờng của ngƣời Mƣờng, To Tăm của ngƣời Chăm,

Ayay và Bropcay của ngƣời Khơ Me…

Hát Iếu của ngƣời Tày ở Bắc Quang – Hà Giang đƣợc tổ chức vào ban

đêm trên nhà sàn, khi có trai hoặc gái lạ khác bản, khác xã đến hoặc đƣợc mời

đến hát. Ngày xƣa, những Chánh Tổng, Lý Trƣởng, trƣởng bản, các quan có

chức sắc trong làng, bản thƣờng hay mời các đôi hát đến nhà mình để thi thố tài

năng, hát giao duyên với nhau. Trƣớc khi vào cuộc hát các quan thƣờng đặt

tiền, bạc lên đĩa trƣớc mặt ngƣời hát để thƣởng và khuyến khích ngƣời hát. Và

một khi tiếng hát bắt đầu cất lên trong không gian nhà sàn náo nhiệt đầy tiếng

cƣời, tiếng nói lúc này đã không còn, thay vào đó là một không khí nghiêm

trang, tĩnh lặng, thậm chí có ngƣời còn nén tiếng thở của mình để cho tiếng Iếu

cất lên rồi tỏa ra trong tâm hồn mỗi ngƣời những cảm xúc sâu xa khó quên…

Mở đầu cuộc hát bao giờ cũng là giờ “khuất” (giờ Tuất) – khoảng 7 giờ

tối, thƣờng thì “noọng” cất lời xin phép hát trƣớc, hỏi thăm sức khoẻ, sự vui

mừng khi đến với cuộc hát… Ở đây, chúng tôi sƣu tầm đƣợc lời hát có lề lối

khi mở đầu một cuộc hát có sự xuất hiện trƣớc lại là lời hát của chàng trai “Pi”.

Thời điểm diễn ra cuộc hát là “giờ khuất”, chàng trai đã mƣợn cớ hỏi thăm

“nhà” đã dọn mâm bàn xong xuôi chƣa để “pi” còn xin đƣợc thƣa chuyện. Câu

chuyện mở lời của anh khi đến làng khác Hát Iếu lúc này đã có đƣợc sự chý ý

của mọi ngƣời và anh bắt đầu hoà nhập cùng lời ca:

Giờ khuất cần thôi khảu rụ páy giờ rạu

Cần thôi bâm đế chiềng pân rụ páy

Nhắc bâm óc hỏng hóng là pi so toan

Nhắc bâm óc hỏng chang là vằn pi so lỉn

Vằn nạy pi dú rƣờn khau vài nà chả

Chắng hăn báo thíp hả mà mƣờng

Mự nay pi khen mạ nà đon

Chắng hăn thao tỏn thào mà tô

34

Giờ nạy pi so đọc thố cón chàu

(Giờ tuất nhà cơm xong chƣa đấy

Tất cả đã dọn xong mâm bàn chƣa đấy

Sắp mâm ra gian trái cho anh xin thƣa

Nhắc mâm ra gian giữa cho anh xin hát

Hôm nay anh chăn trâu ruộng mạ

Đƣợc thấy trai mƣời lăm đến Mƣờng

Hôm nay anh chăn trâu đồng cao

Đƣợc thấy gái đƣờng xa đến trọ

Cho anh xin mở sổ trƣớc giờ)

[40.Tr.1]

Có rất nhiều lời ca mở đầu nhƣ vậy trong Hát Iếu, cách thức trình bày rất

giống nhau, chỉ khác là ở lời bày tỏ của nhân vật có thể bị thay đổi một số câu,

từ cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh giao tiếp, hoàn cảnh diễn xƣớng.

Đây là một lời ca mở đầu khác:

Giờ tuất trong nhà đã xong bữa chƣa?

Mâm cơm rƣợu tiếp khách bản đã xong chƣa?

Nhấc mâm ra gian đốc anh xin nói

Nhấc mâm ra gian giữa anh xin hỏi

Hỏi thăm bố mẹ em mạnh khoẻ không đấy?

Hỏi thăm họ hàng, ông bà bình an không đấy?

[5.Tr. 68]

Ngoài ra chúng tôi thấy cách mở lời trong Hát Iếu cũng giống nhƣ hầu

hết các cung lƣợn ở những nơi khác nhƣ:

Giờ tuất ngƣời thổi nấu,

Đặt mâm xuống gian dƣới ta làm

Giờ dậu sắp ghế bàn

35

Cất mâm vào giữa ta lƣợn

[50.Tr.322]

Tiếp đó cuộc hát đƣợc tiếp diễn bằng các bài hát mời, hát nài, những bài

hát này ngắn hay dài đều phụ thuộc vào bên đƣợc mời hát có ứng đáp hay

không, do vậy mà những bài hát này có khi diễn ra chỉ một hoặc hai bài, cũng

có lúc lên tới mấy chục bài. Đây là một trong những lời hát mời nài của cô gái

trong cuộc hát. Bằng giọng điệu mời mọc tha thiết tận đáy lòng mình cô gái

mời chàng trai hát trả lời “khan mà dớ khan mà”, lời mời nhƣ một nhịp điệu láy

lại nhiều lần :

Khan mà giở khan mà

Khan mà khan hẳƣ lắt hẳƣ lẻo

Chắng pân mit chiềng kẻo cắt may

Khan mà khan hẳƣ đay

Chắng pân khâm chiềng may nhặp nhọm.

(Hát về hỡi hát đi

Hát về tiếng lâm li khôn khéo

Mới nhƣ dao cùng kéo cắt tơ

Hát về hát cho hay

Mới nhƣ chỉ luồn kim khâu áo).

[8. Tr.3, 35]

Chàng trai đƣợc cô gái mời hát da diết nhƣ vậy nhƣng vẫn chƣa hề rung

động để lên tiếng trả lời buộc lòng “noọng” - cô gái lại đƣa ra những lời khuyên

nài tiếp theo. “Nọng” khuyên đủ mọi điều, nào là nặm: “thuổm băƣ bon”, “lup

đom pài thài”, “thuổm lac mòn chì”…và “noọng” lại nài da diết hơn: “khan mà

giở khan mà”:

Khuyên mất vằn noọng khuyên mắƣ

Khuyên au nặm thuổm thúm băƣ bon

Khuuyên au nặm lup đom pài thài

36

Khuuyên au nặm thuổm lac mòn chì

Khuyên au mèng thi oóc loọng

Khan mà giở khan mà

Khan mà cơ đấm phải vằn noọng cụng va dào

Khan mà cơ dằƣ sao vằn noọng cụng va mắn.

(Khuyên nữa em khuyên tiếp

Khuyên cho nƣớc ngập lụt lá mon

Khuyên cho nƣớc tràn qua bãi cát

Khuyên cho nƣớc ngập rễ nƣơng dâu

Khuyên cho ve sầu ra gọi

Đáp lại hỡi hát đi

Hát đáp bằng sợi tơ em cũng cho là to

Hát đáp bằng sợi vải em cũng cho là dài

Hát đáp bằng sợi tơ nhện em cũng cho là chắc).

[8.Tr.35]

Sau những lời chào, lời mời của cô gái chàng trai dƣờng nhƣ vẫn muốn

thử thách sự kiên trì của cô gái, nên chàng trai chƣa vội trả lời, để rồi cô gái

tiếp tục cất tiếng hát, thậm chí cô gái còn tỏ ra quả quyết, thẳng thắn:

Anh thƣa hay không thƣa

Đem đi buộc gốc cau trƣớc cửa

Động mõ cho làng bản đến xem

Mới hay ngƣời làng chơi đến bản.

Tới lúc này chàng trai không thể làm ngơ đƣợc nữa nên cất tiếng trả lời

tấm chân tình của cô gái:

Hát lên cũng lo nƣớc trong chum nó đổ

Thóc phơi trên gác bếp cũng lo nó rung

Nhà dƣới nhà trên cũng lo ồn tiếng

Nhà dƣới nói tiếng to tiếng nhỏ trách ta

37

Nhà trên nói lời khôn ngoan trách anh.

[8.Tr.37]

Khi đối phƣơng cất tiếng hát đối lại cũng là lúc cuộc hát mới đƣợc coi là

chính thức bắt đầu. Từ đây các chàng trai, cô gái trao đổi tình cảm - hát giao

duyên với nhau, nội dung hát rất phong phú, đa dạng. Họ hỏi thăm về gia cảnh,

cuộc sống riêng tƣ của nhau rồi họ cùng nhau “Iếu”, cùng nhau trông, cùng

nhau ngắm, cùng nhau xem để bày tỏ nỗi lòng với nhau:

Bƣớm trắng ơi bƣớm trắng

Bay về đậu cây đào phía trên

Cành chuyền cành đi mãi

Đôi bƣớm bay mãi về phía trƣớc

Hàng năm xuống thiên hạ chơi hoa

Mọi thứ hoa rừng bƣớm đều biết

Cùng nhau chơi khắp bốn phƣơng.

[4.Tr.52]

Ta hãy lắng nghe tâm tình của chàng trai đối với cô gái “quấn quýt” bên

nhau, dù chết cũng quyết không dời xa:

Hoa ƣởng tựa nhƣ cây

Chết cũng không quên lời bạn nhắn

Hàng năm nƣớc còn đọng trên lá dong

Em kết anh không nhớ thời gian còn dối

Còn có chợ Tam Quang làm chứng

Lòng em kết ngƣời là thì chết

Lòng em kết ngƣời khác trời diệt

Thƣơng nhau kết cho rõ ràng

[5.Tr.120]

Trong cuộc Hát Iếu, ngƣời hát không chỉ cất lên những lời ca tỏ tình tha

thiết, dịu ngọt, đằm thắm mà đôi khi trong cuộc hát có sử dụng những bài hát

38

“Iếu kháy”. Đây là những bài hát thƣờng ít đƣợc mọi ngƣời hát trong cuộc Iếu,

bởi vì, “Iếu kháy” chỉ dùng trong những trƣờng hợp ngơại lệ nhƣ dùng lời hát

để trả đũa, hay nói kháy nhau. Ví dụ có trƣờng hợp ngƣời chồng không hiểu vì

lý do gì mà Iếu về cô vợ dại của mình nhƣ sau:

Mìa pi noọng hăn giá

Dặng phắng ta ca dần

Pác khốp mần pân tẹn

Hua pẻn pân hua ngù

Su lì pân su mạ

Pác ả pân pác vài

pảng lài pân pảng khỉa

Năng ca nhuệ trang lƣờn

(Vợ anh em thấy rồi

Đứng bờ sông chơ chẽn

Miệng cắn rận thành trai

Đầu bẹp nhƣ đầu rắn

Tai dài nhƣ tai ngựa

Mồm há nhƣ mồm trâu

Bụng vằn nhƣ kỳ đà

Ngồi chễm chệ giữa nhà).

[8.Tr. 31]

Một phần khác nữa trong cuộc Iếu chiếm đƣợc sự thu hút của mọi ngƣời

là các chàng trai cô gái Tày còn Iếu đố để thử tài nhau, tìm hiểu kiến thức của

nhau khiến cho cuộc hát càng sinh động. Ví dụ đây là lời Iếu đố đối đáp giữa

hai bên. Bên A đố rằng:

Thức lăng hẹt nàng thao pay áp

Dƣơng lăng dặng trang hát tức pioa

Bióoc lăng phống lý lặm theo băƣ

39

Bióoc lăng phống khao thăƣ mừa nhot)

(Con gì làm gái tơ đi tắm

Con gì đứng giữa thác đánh câu

Hoa gì nở lẫn hoa cùng lá

Hoa gì nở trắng xoá trên cây?

Bên B trả lời: Me pất hẹt nàng thao pay áp

Nộc tân dặng trang hát tức pioa

Bióoc ả phống lý lặm theo sau

Bióoc láp phống khao thăƣ mừa nhot.

(Con vịt làm gái tơ đi tắm

Chim bói cá đứng giữa thác đánh câu

Hoa mua nở lẫn hoa cùng lá

Hoa bƣớm nở trắng xoá trên cây).

[8.Tr.33]

Lúc này cuộc hát càng trở nên sôi nổi bởi trong khi đối đáp có thể bên

này thắng, bên kia thua. Trong trƣờng hợp bị thua nhiều họ phải nhờ đến những

ngƣời có tài ứng đối, thông thạo về thơ ca giúp sức, nhiều khi ngƣời giúp sức

lại đƣợc đối phƣơng quan tâm và tập trung trí tuệ để công kích nhiều hơn khiến

cuộc vui càng trở nên hấp dẫn. Bên thua cuộc thƣờng bị phạt bằng cách uống

một hoặc hai chén rƣợu, còn nếu khách thua, khách tỏ ra rất cay cú và đòi hát

tiếp. Có một điều đặc biệt nữa là khi Iếu đố diễn ra cũng là lúc cuộc chơi nghệ

thuật gần đi vào hồi kết của nó. Sự đối đáp giữa hai bên cũng phải có kẻ thắng

ngƣời thua, ngƣời thắng thì tâm trạng vui vẻ, hân hoan, ngƣời thua cũng không

phải vì thế mà buồn, họ quyết tâm hẹn cuộc chơi lần sau sẽ đối chọi tiếp.

Cuộc hát cứ nhƣ vậy tiếp diễn tuỳ thuộc vào tình huống, hoàn cảnh ứng tác của

đôi bên. Thời gian hát có thể kết thúc trong vài giờ đông hồ, hoặc cũng có thể

40

kéo dài thâu đêm suốt sáng tuỳ thuộc vào những ngƣời “cầm chƣơng” có rung

cảm đƣợc lòng đối phƣơng và những ngƣời xem hát hay không.

Hát tự phát đơn lẻ: Là hình thức hát của một nam, một nữ hoặc một tốp

nam nữ tình cờ gặp nhau ở chợ, ở nƣơng rẫy, trên đƣờng đi chơi tự cất tiếng hát

với nhau. Điều đặc biệt là nội dung những bài hát này là do hoàn cảnh ứng tác

và ngƣời hát tự quyết định. Thông thƣờng trai gái ngƣời Tày hễ thấy mặt nhau

lần đầu dù trên đƣờng đi chợ, trên nƣơng rẫy hay đồng ruộng, họ cảm thấy

trong lòng xao xuyến, vào mắt trƣớc đối tƣợng là có thể đƣa ra lời ƣớm hỏi,

những lời hát chào hỏi xã giao để làm quen. Hình thức này chúng ta cũng thấy

quen thuộc ở nhiều dân tộc khác nhƣ hát ví lẻ, ví vặt của ngƣời Kinh, hát giao

duyên của ngƣời Dao…Chẳng hạn nhƣ hình thức hát theo từng tốp, đây là hình

thức hát tự phát, trong không gian không bị gò bó, không theo quy định chặt

chẽ nào, không gian ấy là những ngày hội, ngày phiên chợ, ngày tết hay vào dịp

bản, làng có tiệc vui nhƣ lễ cƣới, mừng nhà mới, những ngày nông nhàn

rỗi…Lối hát này không quy định nam hay nữ hát trƣớc mà phụ thuộc vào tốp

nào nhìn thấy trƣớc, đôi khi chỉ cần nghe thấy tốp nào đó vào bản hay đang

ngồi đâu đó dù chƣa nhìn thấy mặt là họ đã cất tiếng hát giao duyên. Ban đầu là

những lời ƣớm hỏi, gọi mời tốp kia hát lại, nếu hát rồi mà không thấy bên kia

đối lại thì lại hát tiếp lần thứ hai, thứ ba…Nếu tốp kia vẫn im lặng thì tốp trƣớc

phải trổ tài trêu chọc, mỉa mai cho đến khi đối phƣơng hát thì mới thôi. Lúc này

cuộc hát cũng mới chính thức bắt đầu, cuộc hát có khi chỉ diễn ra một lúc, cũng

có thể kéo dài suốt ngày, suốt đêm. Nội dung bài hát là sự ứng tác của những

ngƣời tham gia hát, có khi đó là những lời ca bày tỏ tình ý của một tốp nữ bên

bờ sông “bển ta”, “bển chào”:

Củ tin oóc bển ta

Nhang kha oóc bển chào

Tứ bức nặm bển bồng lai lạng

Củ pác đởi thao bản tàng quay

41

Chắc thinh dăƣ thƣơng là lừ bấu?

(Bƣớc chân ra bờ bên này

Bƣớc chân sang bờ bên kia

Bốn phía nƣớc bồng lai

Mở lời cùng gái bản đƣờng xa

Biết có ngƣời nào thƣơng ta không chứ?)

[5.Tr.75]

Có khi lại là tiếng hát hỏi đƣờng, hỏi thăm nhà cửa - dù chỉ là cất tiếng

hỏi nhƣng cũng chứa đựng bao ẩn ý trong cách “tham tàng”- hỏi đƣờng vòng

vo của chàng trai: Tàng hăƣ tàng mừa me noọng ơi

Qué hăƣ qué mừa thiên

Tàng hăƣ tàng chính tuyên khảu bản

(Đƣờng nào về quê mẹ em ơi

Ngả nào dốc lên trời

Đƣờng nào là con đƣờng vào bản)?

[8.Tr.7]

Cô gái trả lời đáp lời hỏi của chàng trai cũng không kém phần hấp dẫn:

Tham thíp qué tàng tạu

Cảu thíp qué tàng tom

Thíp thong tàng ngạ ba mà cáp

Tàng lộc là pay Sả

Nả nặm tàng pay keo

Bản noọng mì tàng điêu khảu bản

(Ba mƣơi ngả đƣờng vòng

Chín mƣơi quả núi xanh

Mƣời hai đƣờng ngã ba hội tụ

Đƣờng rậm là lên núi

Đƣờng nƣớc là về xuôi

Quê em chỉ một đƣờng vào bản).[8.Tr.7]

42

Đây lại là lời hát của đôi nam nữ bên sông, cô gái hát rồi bày tỏ mong

muốn của mình, em cất lời hát mong anh lấy về đón em sang bên anh: “Vàn pi

au lừa mà tỏn noọng”: Chiồm bióoc vằn căn đạ chồm giá

Củ tin oóc bển ta

Nhang kha oóc bển thông

Mông hăn nặm mênh mông lai láng

Củ pác vàn pi táng bản khảm lừa

Củ pác vàn pi au lừa mà tỏn noọng khình châm

khảm sử

(Xem hoa ta đã xem rồi

Đƣa chân ra bến nƣớc

Bƣớc chân ra bờ sông

Trông thấy nƣớc mênh mông lai láng

Cất lời nhờ anh khác bản sang thuyền

Nhờ anh lấy thuyền về đón em khình châm sang sứ).

[8.Tr.12]

Chàng trai đáp lại lời cô gái với giọng điệu ngờ nghệch vờ nhƣ không

nghe thấy lời cô gái:

Thinh hăƣ để lả thinh hăƣ

Thinh hăƣ loọng phắng thông bƣởng pại

Thinh hăƣ loọng phắng hải bƣởng nằƣ

Giở lả cần puôn pất puôn cáy mà chai lụ đay

Giở là cần puôn mò puôn vài mà quá?

Lừa pi pay ta tẳƣ puôn cƣa

Lừa pi mừa ta nƣapuôn bióoc

Nhằng điêu bẳng lừa đóoc chốc trang

Au lăng mà chớ noọng khào bang khảm nặm.

(Tiếng ai đó tiếng ai

43

Tiếng ai đó gọi bờ sông bên ấy

Tiếng ai gọi bờ bể bên kia

Có phải ngƣời buôn gà buôn vịt đó chăng

Hay là ngƣời buôn bò buôn trâu qua lại

Thuyền anh đi buôn muối chƣa về

Thuyền anh đi buôn hoa chƣa lại

Còn chiếc thuyền rách nát để không

Lấy chi về chở em đẹp xinh sang xứ).

[8.Tr.12]

Cũng có lúc đâu đó ta bất chợt nghe đƣợc tiếng lòng thổn thức của cô gái

vào buổi sớm mai “tứn chạu” đầy sƣơng bay:

Tứn chạu moóc tốc tông phân phân

Toọng noọng cũng muổn phiêng pân nặm

Đởi chƣng chắc kỷ lặm tàng quay

Pác nả củ tin pay mí lot

Tổn công đởi nạu bióoc khát lèng

tổn công theo phua mèng khac liêt

Hoi hin pạu hoi ngƣơc kỷ pày

Pioa sát pạu pioa noày lừ biển

(Buổi sáng trời lất phất sƣơng bay

Lòng em muốn bằng nhƣ mặt nƣớc

Chỉ vì nỗi ngăn cách đƣờng xa

Miệng nói chân bƣớc đi chƣa tới

Tốn công theo nhị hoa hết hơi

Tốn công theo ve sầu thêm mệt

Ốc nhỏ bạn ốc to mấy lần

Trạch làm bạn cá chép sao biến).

[40.Tr.47-48]

44

Trong Hát Iếu, các cuộc hát đôi thƣờng gần gũi, sâu sắc, dƣới các lùm

cây bên đƣờng, ven bờ sông, bờ suối hay một góc chợ nào đó họ trao nhau

những lời ca mộc mạc, chân thành; Để rồi những lời ca đó gắn kết họ lại với

nhau gần gũi, thân thiết tự bao giờ; Hơn nữa, tiếng hát có vai trò quan trọng

trong sinh hoạt cộng đồng, giúp cƣ dân Tày thƣờng sống thân ái, đoàn kết,

tƣơng trợ lẫn nhau.

Hát Iếu là một hình thức dân ca dao duyên của ngƣời Tày ở Bắc Quang -

Hà Giang, qua những lời ca mộc mạc, chân thành của họ chúng ta có thể thấy

đƣợc phần nào bản sắc văn hoá, tín ngƣỡng; Thấy đƣợc vẻ đẹp tâm hồn phong

phú đa dạng của đồng bào nơi đây. Hát Iếu của cƣ dân Tày Bắc Quang thƣờng

hay diễn ra trong những ngày hội dân gian, trong cuộc sống sinh hoạt hằng

ngày, trong lao động sản xuất, vui chơi giải trí, trên đƣờng lên nƣơng, lên rẫy,

bên bếp lửa ấm nồng… Có khi Hát Iếu thu hát cả làng, cả bản vào những cuộc

hát giao duyên hấp dẫn kéo dài từ đêm này qua đêm khác cùng những đêm Iếu

đƣợc chuẩn bị từ trƣớc và đặc biệt hơn có những cuộc hôn nhân đƣợc bắt đầu

từ đối đáp giao duyên và là nơi để họ giãi bày tâm tƣ tình cảm sâu kín khó thổ

lộ của mình. Tất cả những hình thức diễn xƣớng trên cho ta thấy Hát Iếu là một

sinh hoạt văn hoá không thể thiếu trong đời sống của đồng bào Tày nơi đây.

Hát Iếu của ngƣời Tày Bắc Quang không chỉ thực hiện chức năng biểu

hiện trao gửi tình cảm lứa đôi mà còn là phong tục tập quán giao tiếp, truyền

thống tín ngƣỡng, là hình thức giải trí và vui xuân, vui hội; Hát Iếu tạo nên một

truyền thống tốt đẹp, một giá trị văn hoá riêng góp phần làm cho con ngƣời đẹp

lên cả về nhân cách lẫn tài năng, khơi dậy niềm vui trong cuộc sống sinh hoạt,

trong lao động sản xuất của đồng bào ngƣời Tày.

Hiện nay diễn xƣớng Hát Iếu đang có nguy cơ bị phai nhạt trong đời

sống cộng đồng ngƣời Tày Bắc Quang. Với các chính sách, sự quan tâm của

45

Đảng, Nhà nƣớc tới ngành văn hoá nói chung, dân ca Iếu nói riêng đang đƣợc

phục hồi, bảo tồn và phát huy ở địa phƣơng.

Tiểu kết.

Qua những vấn đề đƣợc trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng dân tộc

Tày ở Bắc Quang cũng nhƣ dân tộc Tày sinh sống ở những nơi khác trong cả

nƣớc đều có truyền thống lịch sử, nền văn hoá lâu đời phong phú, đa dạng, có

những nét đặc trƣng riêng về phong tục tập quán của cƣ dân từng địa phƣơng.

Trong tổng thể văn hoá dân gian của cƣ dân Tày Bắc Quang, Hát Iếu là một

hình thức sinh hoạt dân ca độc đáo, giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh

thần, phản ánh sinh động tâm hồn cũng nhƣ phong tục tập quán, tín ngƣỡng dân

gian của cƣ dân bản địa. Hát Iếu không chỉ là nét đẹp văn hoá, mà còn là một

bộ phận tiêu biểu trong văn học dân gian của đồng bào Tày ở địa phƣơng Bắc

Quang.

Với những nét khái quát, sơ lƣợc về lịch sử, địa bàn sinh sống và một số

đặc điểm về truyền thống văn hoá, văn học dân gian của cƣ dân Tày Bắc

Quang, trong đó có Hát Iếu chỉ mang tính giới thiệu, làm nền tảng cho việc

nghiên cứu sâu về một số nội dung và nghệ thuật trong đời sống tƣ tƣởng, tinh

thần, trong quan niệm, tâm hồn và tính cách của đồng bào Tày nơi đây.

46

Chương 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HÁT IẾU Ở BẮC

QUANG HÀ GIANG

Tình yêu nam nữ luôn là đề tài nổi bật, hấp dẫn trong kho tàng thơ ca

dân gian của ngƣời Việt từ xƣa tới nay; Với dân tộc Tày cũng vậy, đề tài tình

yêu luôn luôn đƣợc trở đi trở lại rất nhiều trong những khúc hát dân ca trữ tình

mƣợt mà, đằm thắm, dịu ngọt làm đắm say bao tâm hồn chàng trai cô gái Tày.

Chúng ta có thể nhắc đến những làn điệu dân gian đó nhƣ: Hát then, hát Quan

làng, hát Iếu, hát Cọi… tất cả là kho tàng quý báu, góp phần tạo nên sự phong

phú, đa dạng trong một vƣờn hoa đầy hƣơng sắc của dân ca các dân tộc Việt

Nam. Trong đề tài này chúng tôi chỉ tìm hiểu một số nội dung hát giao duyên

trong làn điệu Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. Tuy có sự phong phú về nội dung

nhƣng tình yêu lứa đôi vẫn là chủ đề lớn nhất và đƣợc biểu hiện một cách sâu

sắc nhất với đầy đủ các cung bậc, sắc thái tình cảm của lứa đôi. Dƣới đây

chúng tôi xin trình bày một vài khía cạnh về chủ đề tình yêu trong lời Hát Iếu.

2.1. Hát Iếu là những lời bày tỏ tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ.

Sự e ấp, ngƣợng ngùng, sự mạnh dạn có đôi chút táo bạo mãnh liệt hay

những day dứt, xót xa, bùi ngùi, giận hờn…trong tình yêu nam nữ cũng tạo nên

những sắc thái thi vị riêng của tình yêu đôi lứa thủa ban đầu. Không có một

trang thơ nào diễn tả hết đƣợc những êm dịu đó trong tình yêu bằng những lời

ca ngọt ngào hay chua xót, cay đắng hay nồng nàn…đƣợc cất lên từ sâu thẳm

của những trái tim yêu lại làm nên điều kỳ diệu ấy. Hát Iếu của ngƣời Tày Bắc

Quang là một lời ca nhƣ thế.

2.1.1. Hát Iếu là những lời tỏ tình thiết tha, chân thành, nồng thắm.

Những chàng trai cô gái gặp gỡ nhau trong tình yêu thuở ban đầu qua

những cuộc Hát Iếu bao giờ cũng có sự đối đáp bộc lộ tình cảm của mình rất

47

thiết tha, đây là lời gọi mời nhập cuộc hát của cô gái mong chàng trai đáp lời

(khan, khan mà, khan hẳƣ) nhƣ một lời gọi:

Khan mà giở khan mà

Khan mà khan hẳƣ lắt hẳƣ lẻo

Chắng pân mit chiềng kẻo cắt may

Khan mà khan hẳƣ đay

Có nghĩa là: Hát về hỡi hát đi

Chắng pân khâm chiềng may nhặp nhọm.

Hát về tiếng lâm li khôn khéo

Mới nhƣ dao cùng kéo cắt tơ

Hát về hát cho hay

Mới nhƣ chỉ luồn kim khâu áo

[8.Tr. 3]

Sau sự e dè chối từ không đƣợc chàng trai cũng cất lên tiếng hát của

mình và không quên ƣớm hỏi lòng cô gái:

Anh đang ngủ ngon giấc

Ve gì gọi phƣơng bắc lại đây

Giấc ngủ anh đang say

Ve gì gọi đông tây xao xác

Mƣời giờ mới đƣợc giờ này hay

Trăm giờ mới đƣợc giờ này tốt

Mở lời với chim khiếu

Mở lời với chim yểng

Biết nên lời đáp nghĩa đƣợc không

Biết nên đôi đũa hoa trả đƣợc không

[8.Tr.37]

Cô gái đáp lời chàng trai bằng sự chân thành, mạnh dạn của mình:

48

Xoè quạt đón lời hay

Nâng quạt đón lời đẹp

Lời hay em không cho rơi rát

Lời đẹp em không cho qua lòng

Lời hay lên giƣờng bạc với em

[8.Tr.37]

Chàng trai lúc này trả lời cô gái bằng giọng điệu vừa gần vừa xa, một

phần chàng lấy cớ rằng đƣờng chỉ thêu: “Po me mí páo”, đƣờng yêu đƣơng” Po

me mí thon”, phần nữa chàng mong khi học đƣợc sẽ cùng em “coi kết” (định

duyên):

Chiêm đếch tàng khêm may po me mí páo

Tàng lín chu va đáo po me mí thon

Chống vạy pi mừa thon đắy thay

Thon đáy pi còi váy tao mà

Noọng mắƣ mí chê là coi kết.

Từ bé đƣờng chỉ thêu cha mẹ không bảo

Đƣờng yêu đƣơng bố mẹ không cho

Chống gậy anh đến hoạc với thầy

Học đƣợc anh sẽ lại quay về

Nếu noọng không chê ta sẽ kết đôi.

[40.Tr.17]

Ta cũng bắt gặp đâu đó cảnh đối đáp của đôi trai gái tìm hiểu, hỏi nhau

về nhà cửa nhƣng thực chất lại không phải hỏi mà là bày tỏ tình cảm cũng chứa

đựng bao điều thú vị:

Chàng trai: Nhà em dựng thấp hay dựng cao

Ném quả mơ có trúng đƣợc không

Áo ƣớt anh đến phơi đƣợc không

49

Đói lòng anh đến ăn đƣợc không

Trai chƣa vợ đến trọ đƣợc không

Cô gái:

Nhà em dựng cột sa nhân

Dựng chông chênh bên đƣờng

Áo ƣớt anh đến phơi

Đói lòng đến ăn cơm thì đến

Trai chƣa vợ đến trọ đƣợc thôi

[8.Tr.40]

Chúng ta cũng bắt gặp đâu đó lời bông đùa bên đƣờng của đôi trai gái:

Chàng trai: Hoa gì nở bên đƣờng sáng loá

Hoa gì nở đầu bản sáng trong

Đỏ thắm là hoa gạo tháng ba

Hoa này nở trên đƣờng vào bản

Thấy hoa nở anh cũng mến thƣơng

Cho anh xin mấy bông để ngắm

Hết bao nhiêu bạc già anh lấy

Hết bao bạc trắng anh mua

Anh mong em khác chỗ hãy thƣơng

Anh mong em khác mƣờng hãy bán

Cô gái:

Hoa mạ nở đầu bản vàng tƣơi

Sắc hoa nhƣ áo vàng vua chúa

Anh cho nhiều bạc già cũng không

Anh cho nhiều bạc trắng cũng chối

Hoa láp nở bờ suối trắng phau

Hoa xấu hổ gần nhà tim tím

Rủ ong bƣớm đại ngàn đến chơi

Mời anh đến ngắm hoa thôi nhé

50

Hãy nghe lời em gái anh khuyên

Hãy nghe lời em yêu bảo anh.

[40.Tr.63]

Ƣớc mơ thành duyên cũng thật đáng yêu trong tâm trạng đắn đo so tính

của chàng trai:

Làm sao đƣợc làm sao

Làm sao đƣợc nhƣ con chim chích

Bay về đậu cuối thích nhà em

Chim chích đậu cuối giàn

Ƣớc sao bay vào nhà em đƣợc

[8. Tr. 56]

Những câu hát bài hát giao duyên biểu hiện tình yêu vừa lúc chớm nở

trong dân ca các dân tộc rất phong phú và đa dạng, Đây là khúc ca trong buổi

đầu gặp gỡ của đôi trai gái ngƣời Thái:

Ở xa ngó thấy lửa

Ở xa ngó thấy nƣớc

Thấy nƣớc vực sâu muốn lặn

Thấy nƣớc vực xanh muốn nhắp

Thấy áo chàm biếc muốn thay

Thấy má đỏ hồng muốn hỏi

Thấy đôi mắt liếc muốn say

Rau ai đây, xin mƣợn hái

Bạn tình ai, xin mƣợn trò chuyện

[22.Tr.720]

Các chàng trai ngƣời Dao cũng có những câu hát dao duyên trong buổi

đầu gặp gỡ:

Gặp lần đầu

Tựa nhƣ hạt cây gặp đất màu

51

Hạt cây đâm chồi song song lớn

Em anh hát tình ca vài bài.

[34.Tr.7]

Chúng ta cũng đã từng gặp cách tỏ tình rất tài tình, tinh tế, kín đáo và ý

nhị của chàng trai Kinh:

Hôm qua tát nƣớc đầu đình,

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.

Anh đƣợc thì cho em xin,

Hay là em để làm tin trong nhà?

(Tát nƣớc đầu đình - Văn học 10, t1, GD - 2000)

Cũng đều là cách bày tỏ tình cảm nhƣng chàng trai, cô gái Tày có phần

thẳng thắn hơn và thật quá! Có lẽ cũng dễ hiểu, bởi bản chất con ngƣời lao

động miền núi so với miền xuôi có phần thẳng thắn, bộc trực, thật thà một cách

hồn nhiên.

Những cuộc hát Iếu đối đáp giữa chàng trai và cô gái có thể còn diễn ra

rất lâu, thậm chí là thâu đêm suốt sáng. Họ cùng nhau hát đối đáp về sự vật

hiện tƣợng, cùng nhau trông, cùng nhau ngắm những vấn đề xung quanh trong

cuộc sống của lứa đôi để đích cuối cùng là bày tỏ tình cảm:

Ve mùa khô mùa chơi hay gọi

Trời sinh đặt mùa hạ mùa đông

Trai gái vui có thời

Tình yêu vui có tháng

Nhà cửa dựng có ngày

Nhƣ khung dệt thổ cẩm

Hai ta chẳng e ngại mới thành

[8.Tr.44]

Nhìn chung những câu hát dao duyên thuở ban đầu của các chàng trai cô

gái thƣờng mang âm hƣởng sôi nổi, vui tƣơi và nhiệt tình; chứa đựng trong đó

52

là sự hồn nhiên, trong sáng, chân thật của tâm hồn tuổi trẻ. Mỗi câu hát, lời ca

ấy đều mang bản sắc của từng dân tộc, nếu chàng trai cô gái Thái biểu hiện tình

cảm một cách uyển chuyển, vòng vo, tình tứ, thì các chàng trai cô gái Dao lại

cùng nhau đồng ca khúc mộc mạc, chân thành, còn ngƣời Tày lại bộc trực,

thẳng thắn không kém phần tinh tế, mạnh dạn. Những câu hát dao duyên thuở

ban đầu đầy ắp niềm vui, hứa hẹn đó đã bắc cầu cho bao đôi lứa tìm đến với

nhau để thành vợ thành chồng trong các bản làng ngƣời Tày, ngƣời

Dao…Những tiếng hát ấy tô đẹp thêm cho vẻ đẹp tâm hồn của mỗi cuộc đời

ngƣời dân lao động nghèo khổ, quanh năm chỉ biết gắn bó cuộc sống của mình

với nƣơng rẫy ruộng đồng. Đó là tâm hồn lạc quan, yêu đời, mộc mạc, chân

thành, ý nhị luôn luôn tràn đầy khát vọng tình yêu cuộc sống tƣơi đẹp.

2.1.2. Hát Iếu là những lời giao ước, kết duyên tình cảm sâu nặng.

Hát Iếu không chỉ chứa đựng những cảm xúc say xƣa quyến luyến thuở

ban đầu của bao chàng trai cô gái Tày mà ở đó còn là những ân tình sâu nặng

họ dành cho nhau. Những ƣớc mơ khát vọng cao đẹp sẽ làm cho tâm hồn con

ngƣời thêm đẹp cả về nhân cách và ý chí, làm cho họ đáng sống và trân trọng

cuộc sống của mình hơn. Trong quan niệm của nam nữ ngƣời Tày, tình yêu

chân thành, mãnh liệt dƣờng nhƣ chƣa đủ, để đến với tình yêu đích thực của

mình, họ luôn mang trong mình nỗi niềm về ƣớc mơ khát khao hạnh phúc cháy

bỏng rất đời thƣờng, mộc mạc:

Anh ƣớc đƣợc hoa Mạ anh chăm

Anh ƣớc đƣợc rào vƣờn anh quản

Cho cây hoa nở mãi toả hƣơng

Hoa trong vƣờn anh thƣơng mãi.

Hay:

Hoa mạ em nở sắc vàng tƣơi

Cho anh vài bông chơi em nhé

53

Anh xin lấy bông hoa về ngắm

Anh xin lấy cây hoa về trồng.

[40.Tr.62]

Đó là nỗi nhớ mong khắc khoải trong tình yêu gắn bó khi xa cách dù chỉ

một giờ; Nhân vật trữ tình đã gửi nỗi niềm đó qua những tiếng ve rừng than

vọng nghìn tiếng “Nghìn thiêng mèng loọng” để bày tỏ nỗi lòng:

Đông luông đảy nghìn thiêng mèng loọng

Toọng pi bấu lìa noọng thắc giờ

Điếp căn mắc thảy thân tờ khát

Thƣơng căn ná chắc piai mừa rƣờn.

Rừng đua rộn tiếng ve kêu

Anh chẳng muốn vắng em một giờ

Nhớ nhau trong lòng thêm vƣơng vấn

Thƣơng nhau chẳng muốn bƣớc về nhà.

[40.Tr.54]

Hay đó là tâm trạng của nhân vật trữ tình trằn trọc suốt đêm không ngủ

đƣợc vì nhớ ngƣời yêu:

Trở về dƣới mắc dây

Trở lên trên mắc núi

Trở lên mây mắc gối trên đầu

Trở giấc ngủ mắc nhớ ngƣời yêu.

[8.Tr.54]

Còn đây lại là lời hứa nếu đƣợc kết duyên họ sẽ dành cho ngƣời mình

yêu thƣơng tất cả những gì tốt đẹp nhất nhƣ lời hát của chàng trai:

Đƣợc em, anh cho em ngồi cửa sổ ngắm gƣơng

Không cho xuống ruộng lầy tháng năm trời nắng

Đƣợc em, anh cho em ngồi cửa sổ làm nàng

Không cho em đi mãi trên đƣờng ta áo rách.

Với cô gái:

Đƣợc anh, cày gãy em không kêu

54

Thiếu gì gỗ khắp mƣờng rừng núi

Đƣợc anh, bát vỡ em không phiền

Thiếu chi ngƣời bán hàng đầy chợ.

[8.Tr.56]

Tâm tình chân thành, nồng thắm của các chàng trai cô gái Tày đƣợc bộc

lộ ở nhiều cung bậc khác nhau. Đó còn là những câu hát mang âm hƣởng mạnh

mẽ, kiên quyết vƣợt qua mọi gian khổ khó khăn để cùng nhau “định duyên”:

Áo thắt lƣng sửa soạn

Dao buộc hông ta đi

Lên trên mới thong thả

Đi nữa mới bình yên

Lên trên mới thanh nhàn phú quý

Lên trên mới định nơi quê nhà

[8: 55]

Đôi khi còn cầu mong để xum họp đôi lứa:

Lạy trời thêm lạy mây

Lạy cho nƣớc lũ muộn đổ phai

Cho cá đƣợc chung dòng suối ở

Cho hai ta đƣợc xum họp sớm trƣa

[8.Tr. 61]

Thậm chí tình yêu của họ đƣợc ví nhƣ hồn vía luôn luôn gắn với cơ thể

con ngƣời nhƣ hạt cơm dính trên môi “Khảu chắp pín pác”:

Mặt khảu chắp pín pác giá mang

Khoăn pi dú tẳƣ càng kin đởi

(Hạt cơm dính môi đừng nguyền rủa

Vía anh ở dƣới cằm cùng ăn).

[8.Tr.59]

Hay:

55

Về thôi ôi về thôi

Trai hai mƣơi ta xuống

Gái mƣời lăm ta về

Vía ơi về vía ơi

Vía quay về với mình

Vía yêu ngƣời thiên cung về ta

Vía yêu ngƣời thiên nga về anh

[8.Tr.55]

Rồi họ nguyện cùng nhau gắn bó trong cuộc sống, cùng nhau chung tay

chèo lái con thuyền hạnh phúc dù bằng phẳng hay chông chênh. Họ nguyện

cùng nhau chung lòng nếu không vƣợt đƣợc qua sóng gió họ sẽ chìm cùng con

thuyền nguyện ƣớc để đƣợc tiếng đồng lòng thuỷ chung bên nhau:

Cùng dậy thêm cùng ngồi

Cùng ngồi thêm cùng đi

Cùng vào chiếc thuyên trôi ta bơi

Chiếc thuyền đứt đôi, đứt ba ta chèo

Chèo không đƣợc cùng chìm

Rơi sóng nƣớc ta cùng đƣợc tiếng

[8.Tr.62]

Hay những câu: Hai ta cùng chịu khó lấy nhau

Lấy nhau không lo chết đói

Còn cái thuổng hai thƣớc đào mài

Soỏng mài đặt bên sƣờn

Soỏng củ đặt trên đầu

Ngủ một giấc sẽ nhai

Dính răng ta sẽ xỉa

Mới phải đạo vợ chồng gian khổ

[8.Tr.58]

56

Trƣớc mắt của họ dù là khó khăn gian khổ nhƣng đã yêu nhau họ quyết

cùng nhau vƣợt qua mọi trở ngại dù đó là dốc cao vực sâu giữa đại ngàn:

Ngắm đến dốc to đại ngàn

Hai bên núi đá nghiêng xuống che

Đôi ta cùng đi qua không đƣợc

Dốc nhỏ đi quanh về co

Dốc này đi uốn về khúc

Hai tay níu gốc cây to lên dốc

Leo dốc không kêu nặng, kêu mệt

Dốc này leo cả đời thêm sức

Leo dốc không kêu ca

Dốc này lên bình an thiên hạ

[4.Tr. 71]

Sức mạnh của tình yêu luôn luôn là một con số bí ẩn, bao chàng trai cô

gái ngƣời Tày dù trong cuộc sống có nhiều vất vả, khó khăn nhƣng tâm hồn của

họ thì đẹp đẽ nhƣ bông hoa giữa núi ngàn. Qua những khúc hát giao duyên biểu

hiện tình yêu giao ƣớc kết duyên sâu nặng lúc thì nhẹ nhàng sâu lắng, lúc thì

mạnh mẽ kiên quyết của ngƣời Tày; Chúng ta thấy đƣợc tâm hồn họ mộc mạc,

chân thành nồng thắm biết bao trong cuộc sống lao động, môi trƣờng thiên

nhiên còn khắc nghiệt...Với các chàng trai cô gái Tày nơi đây trong tình yêu

thuở ban đầu gặp gỡ cho đến lúc giao ƣớc kết duyên tình cảm sâu nặng đều

chân thật, mộc mạc và mãnh liệt đắm say không kém tình yêu của các chàng

trai cô gái ngƣời Dao, ngƣời Kinh. Có thể nói sự mộc mạc, chân thành, tâm hồn

phóng khoáng rộng mở và bản tính mạnh mẽ nhƣ cây đa vững chãi ngàn năm

đã góp phần làm nên bản sắc của ngƣời Tày Bắc Quang trong những khúc Hát

Iếu giao duyên.

57

2.1.3. Hát Iếu là những lời chia tay xót xa, day dứt giữa những người

yêu nhau.

Đến đƣợc với tình yêu gắn bó trọn đời bên nhau nên vợ thành chồng là

điều các chàng trai cô gái luôn mong ƣớc. Song không phải đôi trai gái nào

cũng đi hết con đƣờng tình yêu trọn vẹn ấy. Dù có yêu nhau tha thiết, mãnh liệt

đến dƣờng nào nhƣng vì một trở ngại nào đó mà họ không đến đƣợc với nhau

thì buồn đau nào kể xiết. Do đó ta thấy trong lời Hát Iếu giao duyên của những

ngƣời yêu nhau không đến đƣợc với nhau không còn mang tâm trạng vui nhộn,

đằm thắm nhƣ trƣớc nữa; Thay vào đó là lời hát chia tay xót xa day dứt không

nguôi với tâm trạng khổ đau, trách móc, tủi hờn khi lỗi duyên.

Đây là nỗi lòng của nhân vật trữ tình chia tay nhau (chuà piac) ngay

trong buổi đầu yêu thƣơng nhƣng vẫn lƣu luyến, nhớ nhung da diết qua màn

đêm sƣơng lạnh “Trang khừn tốc mƣơi”:

Pạu căn pay kỷ hâng chùa piac

Y nhƣ nộc kin mác chập căn

Mất mác nộc mừa lằng lẹo quẹnh

Trang khừn tốc mƣơi lẹng còi thƣơng

(Bạn nhau chƣa bấy lâu chia tay

Nhƣ chim tìm quả mới gặp

Hết quả chim tìm tổ vắng tanh

Đêm nhớ nhau qua màn sƣơng lạnh).

[8.Tr.27)

Khi tình yêu chia cách cũng làm thổn thức lòng ngƣời yêu giống

nhƣ bông hoa Mạ trên núi đá nở sắc vàng tƣơi “ Phống nả đán cản

lƣơng” nhƣng trơ chọi một mình gặm nhấm nỗi đơn lẻ. Và anh cùng em

kết duyên (Pi kết noọng) chỉ giữa hai mùa hoa ấy:

Bióc mạ phống nả đán cản lƣơng

Pi kết nọng chiêng thoong mùa bióc

58

Củ lin oóc ngoại nooc lừm ngay

Pi kết noọng pay quay nhằng chứ mí chứ

quén căn chiêng nứt dú noọng puồn

Puồn lai dú là cần là bản

Lồm pặt cải toong héo lừ thâng

Puồn lai dú là cần là mƣờng

Lồm pặt băƣ chỉa lài lƣơng lừ lot.

Hoa mạ nở trên núi cọng vàng

(Anh yêu em giữa mùa hoa nở

Bƣớc chân dời tay nhau quên ngay

Đêm ngày anh còn nhớ hay không nhớ

Quen nhau từng nét ở em buồn

Buồn lắm ở mỗi ngƣời một bản

Gió thổi tàu lá héo bâng khuâng

Buồn lắm ở mỗi mƣờng một ngƣời

Gió thổi bức thƣ tình khó tới).

[40.Tr.50-51]

Tình yêu chia li của chàng trai cô gái Tày đƣợc ví nhƣ đôi én ƣơng lạc

bạn:

Én ƣơng biết bay lạc phƣơng nào

Để anh ở chỗ nào trọn vẹn

Bạn nhau chƣa kịp quen đã lìa

Chọn đƣợc vợ đƣợc chồng lại phải chia tay

[5.Tr.117]

Và đây là nỗi lòng giao ƣớc kết duyên của chàng trai cô gái song tình

yêu của họ cũng không vƣợt qua đƣợc trở ngại nên đành chia tay nhau trong

dòng nƣớc mắt, dòng nƣớc mắt ấy chảy xuống làm ƣớt bao nhiêu chiếc gối hoa

trong đêm:

59

Nƣớc cạn bỏ bãi cát bên bờ

Nhớ bạn giữa canh khuya gà gáy

Sao khuất làn mây trắng đi nằm

Nƣớc mắt rơi gối hoa giàn giụa

[8.Tr.44]

Hay: Hoa Phặc Phiền nở trên đá cuống đen

Chiều đến có đôi ƣơng vỗ cánh

Hai tin ngƣời mặt đá mong mỏi

Hai hồn ƣớc lấy nhau chẳng đƣợc

Đêm nằm khóc thầm vùi trên gối

Gửi lời cho giấc ngủ rạng sáng

Nhìn thấy trời cao trên không trung

Trời ơi giúp hai ngƣời ta với

[5.Tr.120]

Lời nhắn lúc chia tay của cô gái với ngƣời thƣơng cũng chứa đựng bao

ân tình tha thiết, luyến lƣu làm cho tâm trạng của ngƣời nghe thêm vƣơng vấn:

Ở lại nhé đôi đũa cây mun

Ở lại nhé núi cao cây kín

Én nhạn bay rợp núi cao

Chiếc còn bay khoảnh khắc nắng chói

Hàng năm không thấy mặt bảy thƣơng

Gió xiêu trời hoàng hôn hãy nhớ

Chỉ còn cuốn trong cuộn

Hãy nhớ lời vô duyên em nhắn

Nƣớc mắt lƣng tròng hãy quyên nhau…

[5.Tr. 128]

Hay: Hãy ở nhé cục đá dƣới nƣớc

Hãy ở nhé cục đá đen dƣới sàn

60

Cá chơi không đúng thời cá đi

Bỏ mình nƣớc quẩn quanh tự trôi

[5.Tr.125]

Ta cũng bắt gặp nỗi đau của chàng trai Tày trong khúc Lƣợn cọi khi mất

ngƣời yêu nhƣ một vết thƣơng lòng đồng vọng:

Mất em biết làm sao em hỡi

Ngóng trông chốn đào tiên ngàn dặm

Trông bốn mùa tứ quý lập xuân

Một mình anh sầu lòng than vãn

Hỡi ôi thƣơng trong bụng mà đau.

[50.Tr.519]

Nỗi buồn khi phải chia tay trong tình yêu của những chàng trai cô gái

Tày Bắc Quang có day dứt, xót xa nhƣng trong nỗi buồn đau ấy chúng ta thấy

hiện lên vẻ đẹp vị tha. “Thƣơng căn mí au đảy căn lỳ giá”, nhƣng có con ta sẽ

gả cho nhau để lấy tiếng cho tình nghĩa “ thoong thinh làu”. Họ biết trân trọng

nhau nghĩ cho nhau và vì cuộc sống hạnh phúc riêng tƣ của nhau:

Thƣơng căn mí au căn đảy lỳ giá

Mì luc còi khai khá hẳƣ căn

Khai khá mừa vằn lăng au tiểng

Au tiểng đởi thoong làu pi noọng.

(Không lấy đƣợc nhau thì thôi nhé

Có con ta sẽ gả cho nhau

Gả con để ngày sau lấy tiếng

Lấy tiếng với tình nghĩa mai sau).

[40.Tr.58]

Khúc hát trong tình yêu thuở ban đầu của các chàng trai cô gái Tày Bắc

Quang mang nhiều tâm trạng và cảm xúc đa dạng. Đó là niềm vui xốn sang

bâng khuâng thuở ban đầu với những lời bày tỏ mộc mạc, chân thành, nồng

61

thắm; Những lời giao ƣớc kết duyên gắn bó sâu nặng để rồi vì một lý do nào đó

họ có thể chia tay nhau trong nỗi buồn day dứt luyến lƣu. Tất cả những lời ca

đó đều cất lên từ sâu thẳm trái tim yêu của bao chàng trai cô gái ngƣời Tày ở

đây giúp làm phong phú thêm đời sống tinh thần của ngƣời dân lao động chân

chất quanh năm gắn bó với đồng ruộng, thiên nhiên.

2.2. Hát Iếu là những lời bày tỏ cách ứng xử trong tình yêu, ca ngợi cuộc sống.

Trong lời Hát Iếu giao duyên của các chàng trai cô gái Tày nơi đây cũng

bày tỏ cách ứng xử qua những lời trách móc nhẹ nhàng thâm thuý, những lời

đối ứng nhanh trí thông minh, thật thà chân chất nhƣng cũng bản lĩnh không

kém phần.

2.2.1. Hát Iếu là những lời trách móc bạn tình nhẹ nhàng, thâm thuý.

Đối với tình yêu ta vẫn thƣờng gặp rất nhiều lời trách móc, nuối

tiếc ngỡ ngàng với bạn tình nhƣ câu ca dao ngƣời Việt:

Anh tƣởng giếng sâu anh nối sợi dây dài,

Ai ngờ giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây.

Chúng ta nhận thấy rằng trong tình yêu đôi khi không chỉ là những

lời dịu ngọt đắm say mà còn có cả những lời trách móc, giận hờn. Đây là

lời hát, lời trách cứ mang tâm trạng buồn man mác của chàng trai đối với

ngƣời yêu khi cô đi lấy ngƣời khác:

Giêng hai nƣớc lũ nhỏ ngập cồn

Nƣớc cạn cá xuôi dòng đi mất

Bỏ mình bông hoa tím khác trôi

Cậy em đƣợc chồng sang không nhớ

[8:.Tr.61]

Hay:

Pắp páng gọi cửa hang cánh xanh

Từ nhỏ anh ngủ riêng quen giấc

Không dám bạn chim én trời cao

62

Chim én bay sang phƣơng ngƣời

Hoa đẹp ngƣời ta đã rào quanh

Chim chích bay liệng ngoài rã cánh.

[8.Tr.54]

Lời trách cứ của chàng trai có phần nhẹ nhàng nhƣng thấm đƣợm nỗi

buồn chia xa. Có lúc lời hát đƣợc cất lên an ủi ngƣời bạn tình xƣa:

Trồng chuối sao không chọn đất đen

Lấy chồng sao không nhằm trong bụng

Bây giờ mới than thở với ta

Bao giờ kết bạn hoa cho khỏi

[8.Tr.61]

Hay đôi lúc trách ngƣời thƣơng vì ham giàu sang mà kết duyên cùng

chồng già, bỏ nghĩa tình xƣa: Ngọn cỏ xẻ bằng ngọn cọ bàu

Thân em chê anh nghèo chẳng lấy

Lấy chồng giàu nuôi mẹ

Lấy chồng già nuôi thân

Chồng già biết nên ngƣời là hoạ

Mắt anh thấy thiên hạ có nhiều

Anh chẳng dám nói điêu cho em

[8.Tr.60]

Cũng có khi đó là lời hát cảm thông vì món nợ của cha mẹ mà cô gái lấy

phải chồng còn nhỏ: Nƣớc rơi thác ngập đầu

Buồn chi em lấy chồng còn nhỏ

Cha mẹ em thiếu nợ những gì

Bảo cho anh đêm mơ biết với

[8.Tr.61]

Đối với dân tộc Tày ở Bắc Quang cũng nhƣ nhiều nơi khác có tục lệ dạm

hỏi cho con cái từ lúc còn nhỏ nếu gia đình đôi bên đều thuận tình. Có những

63

mối lƣơng duyên định sẵn thì hạnh phúc trăm năm, cũng có đôi lứa vì thế mà

không đƣợc lựa chọn hạnh phúc riêng tƣ nên mới có trƣờng hợp cô gái lấy

chồng trẻ trên.

Cảm động biết bao Lời hát vừa thƣơng, vừa giận của chàng trai đƣa tiễn

cô gái về nhà chồng: Họ đồn là họ đồn

Họ đồn em mƣời hai tuổi làm dâu

Họ đồn em mƣời lăm tuổi em lấy chồng

Em đi đƣờng nƣớc hay đƣờng cạn

Đƣờng cạn anh lấy ngựa yên thẫm đi đƣa

Đƣờng nƣớc anh lấy thuyền bảy chèo đi tiễn

Đƣa em đến đầu bản anh về

Ngoảnh mặt chẳng thấy ta đừng khóc

Hãy về lạy ông bà làm ăn

Trời sinh ngƣời con gái xa mẹ

Đƣa hoãng vào rừng rậm lâu về

Nhà ngƣời làm nhà ta mãi mãi

Cha mẹ gọi ông bà vãi

Gọi ngƣời khác là cha mẹ

Chồng hiền còn đƣợc chơi

Chồng dữ vào hòm kín sơn nâu

Ba tháng nên ngƣời mẹ cháu nhỏ

Bát cơm đặt gác bếp khói bay

Chiều tối em đem nhai cơm bón trẻ

Anh tƣởng em nhuộm răng quả mơ

Chƣa biết em nhai cơm cùng cá bón con.

[8.Tr.59-60]

Trong cuộc Hát Iếu những lời trách móc bạn tình vì lí do nào đó mà phụ

duyên nhau cũng là một đề tài đƣợc nhiều ngƣời quan tâm chú ý, bởi trong đó

64

chứa đựng đáy lòng, tâm tƣ của những ngƣời yêu nhau không lấy đƣợc nhau.

Những lời hát tuy là lời trách móc song nhẹ nhàng, thâm thuý nhƣ tâm hồn

rộng mở của con ngƣời miền núi chất phác giàu lòng vị tha.

2.2.2. Hát Iếu là những lời đối đáp nhanh trí, thông minh và dí dỏm.

Do cách thức của cuộc Hát Iếu chủ yếu là lối hát đối đáp giữa hai bên

nam nữ vì thế mà tài ứng đối nhanh trí, thông minh và dí dỏm đƣợc đặt lên

hàng đầu. Dù là bên đƣờng, bên bờ suối, trên nƣơng rẫy hay trong các cuộc hát

đêm diễn ra trên nhà sàn… chúng ta đều bắt gặp lối hát đối đáp của các đôi Hát

Iếu. Đây là lời hát xin trầu dí dỏm chân thật của chàng trai và lời đối đáp chối

xin trầu của cô gái cũng rất thông minh:

Chàng trai xin rằng mồm anh nhạt nên muốn “kin hút”, miệng anh chua

nên muốn “Kin miàu” nên lời xin của chàng trở thành một lời tỏ tình ý nhị:

Pác thổm pi muổn kin hút

Pác chút pi muổn kin miàu

Thân pi muổn kin ám miàu hom pác

Thân pi muổn kin am mác hom khò

Mì miàu pi so ám

Mì mác pi so cằm

Chuc lừ miàu mac pi pân kin còi pióa

(Miệng anh chua muốn xơi điếu thuốc

Mồm anh nhạt muốn ăn miếng trầu

Anh muốn ăn miếng trầu thơm miệng

Anh muốn ăn miếng quả thơm lòng

Có trầu anh xin miếng

Có quả anh xin phần

Mai sau trầu anh nên ăn sẽ trả).

[40.Tr.56]

65

Trong tình huống này cô gái hát đáp lời từ chối chàng trai thật khéo léo,

thông minh, cô viện đủ lý do nào trầu em do bị sƣơng muối nên cây trầu bị chết

cả cuống liền cây “cá cản liền co” nên anh mở lời em chẳng còn trầu nữa:

Thƣơng lai lả thƣơng lai pi ơi

Pi quá tốc mƣơi lai

Pi chai tốc mƣơi khảng

Miàu noọng phai cá cản liền co

Pi mằƣ củ pác so mất tiểng.

(Thƣơng nhiều ôi thƣơng lắm anh ơi

Năm ngoái bị sƣơng nhiều

Năm kia bị sƣơng muối

Trầu em chết cả cuống liền cây

Anh mở lời xin chẳng có).

[40.Tr.57]

Chúng tôi cũng tìm đƣợc lời hát khác của chàng trai muốn ăn trầu nhƣ

một cái cớ tìm duyên với cô gái đã có chồng:

Anh muốn ăn miếng trầu trong túi

Lo chồng em lội suối đến tìm

Anh muốn ăn miếng trầu trong khăn

Lo chồng em lộn rừng đến mắng.

[40.Tr.56]

Bên đƣờng ta bắt gặp chàng trai hỏi đƣờng cô gái với giọng điệu bông

đùa:

Đƣờng nào về quê mẹ em ơi

Ngả nào dốc lên trời

Đƣờng nào là con đƣờng vào bản

[8.Tr.39]

66

Cô gái đáp lại chàng trai bằng giọng điệu thật tha thiết nhƣng không kém

phần ý nhị:

Ba mƣơi ngả đƣờng vòng

Chín mƣơi ngả đƣờng quanh

Mƣời hai đƣờng ngã ba hội tụ

Đƣờng rậm là lên núi

Đƣờng nƣớc là về xuôi

Quê em chỉ một đƣờng vào bản

[8.Tr. 40]

Đâu đó ta bắt gặp cách ƣớm hỏi đƣờng tình duyên thông minh, thẳng

thắn của cô gái với chàng trai:

Vừa đi vừa hái rau anh ơi

Vừa đi vừa nhặt mon

Vừa đi vừa hát nổi sóng lòng mới nhớ

Em nghe ngƣời ta đồn

Gốc chuối đã có gai

Cây cau đã có cành

Thân anh đã có vợ

Van anh chớ chồng chuối trong vƣờn

Gió thổi lá chuối khô ồn tiếng

Con anh khóc to nhỏ em buồn

Thân em chƣa có ngƣời khác vọng.

[8.Tr.43]

Chàng trai đã đối ứng lại cô gái một cách nhanh chóng không hề do dự,

suy nghĩ:

Ngƣời đồn là đồn dối em ơi

Họ nói là nói điêu

Cây chuối không có gai

67

Cây cau không có cành

Thân anh cƣa có vợ

Em nói anh thêm buồn với hoa

[8.Tr.43]

Lời hát ƣớm hỏi trong tình yêu thuở ban đầu của cô gái Tày cũng rất

thông minh, ý nhị nhƣng có phần bộc trực thẳng thắn khác với lời đối đáp ẩn ý

của chàng trai cô gái ngƣời Kinh:

Chàng trai: Tiện đây mận mới hỏi đào,

Vƣờn hồng có lối ai vào hay chƣa?

Cô gái: Mận hỏi thì đào xin thƣa,

Vƣờn hồng có lối nhƣng chƣa ai vào.

(ca dao Việt Nam)

Đặc biệt những đêm Hát Iếu việc thể hiện tài ứng đối nhanh trí, thông

minh, dí dỏm trong Iếu đố diễn ra rất sôi nổi và hấp dẫn. Bởi vì đối phƣơng có

thể đƣa ra bất kỳ sự vật hiện tƣợng nào trong cuộc sống và đòi hỏi ngƣời chơi

trong cuộc ( các chàng trai cô gái ) phải trả lời đƣợc, nếu không sẽ mất mặt, xấu

hổ trƣớc nhiều ngƣời. Đây cũng là một nghệ thuật trong cuộc chơi Hát Iếu giao

duyên. Ví dụ đây là một bài hát đố về con cua giữa hai bên:

Bên A đố:

Thứ gì giống kim kích kim kỳ

Thứ gì giống chỉ tơ kết lại

Thứ gì không có áo che thân

Thứ gì tựa bƣớm đen che nắng

Thứ gì đi quét nƣớc sủi bọt

Bên B giải đố:

Con cua giống kim kích kim kỳ

Râu cua giống chỉ tơ kết lại

68

Con cua không có áo che thân

Lƣng cua tựa bƣớm đen che nắng

Con cua đi quét nƣớc sủi bọt

Mắt cua đi liền bên mình

Chân cua giống guồng quay chỉ

Nhấc chân đi nhƣ một dàn nhạc

Ruột cua giống hoa cải nở vàng

Càng cua đi đào nƣơng không nổi

Miệng cua đi kiếm ăn cả đời không đƣợc

Đêm ngày lo vào thân không no đủ.

[5.Tr.98 - 100]

Còn đây là một bài Iếu đố về chiếc thuyền:

Bên A đố:

Thức gì tựa dây sắn dây bừa

Thức gì tựa bàn cờ trong vƣờn quả

Thức gì tựa bàn hạc tiên chầu

Thức gì tựa quân minh quét nƣớc

Thức gì tựa bản thẳm ngƣời xa

Thức gì tựa chiếc muôi che nắng

Thức gì tựa quét nƣớc thiên lý đi về

THức gì tựa mƣa gió phong ba bão bùng

Phải không có phải không

Nếu đúng noọng khẽ nói, khẽ khuyên răn

Nếu đúng noọng sẽ đến chơi nơi này

Để anh tựa cửa đại hàm ơn

Bên B giải đố:

Dây buộc thuyền tựa dây sắn dây bừa

Mũi thuyền tựa bàn cờ vƣờn quả

69

Giữa thuyền tựa bàn hạc tiên chầu

Dầm thuyền tựa quân Minh quét nƣớc

Cột buồm thuyền tựa bản thẳm ngƣời xa

Mái thuyền tựa chiếc muôi che nắng

Mái chèo tựa quét nƣớc thiên lý đi về

Quạt nƣớc tựa mƣa gió phong ba

Phải không có phải không

Nếu đúng noọng khẽ nói khẽ khuyên răn

Nếu đúng noọng sẽ đến chơi nơi này

Để anh đƣợc tựa cửa đại hàm ơn.

[40.Tr.44]

Những bài Iếu đố là những bài hát thể hiện niềm lạc quan yêu đời. Trong

tình yêu của những chàng trai cô gái Tày, họ cùng nhau hát những bài hát đố để

thử tài, trí thông minh, sự nhanh nhẹn tinh nhạy trong việc nắm bắt các hiện

tƣợng sự vật xung quanh cuộc sống của mình thật sâu sắc.

2.2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống, thiên nhiên gần gũi giàu đẹp.

Tình yêu cuộc sống tƣơi đẹp, ấm no đầy đủ là niềm mong mỏi, là ƣớc

mơ khát khao cháy bỏng đời thƣờng mà họ luôn luôn mong muốn có đƣợc. Tuy

nhiên, trong cuộc sống không phải tất cả mọi điều đều thực hiện đƣợc và chỉ có

lời ca tiếng hát khi đƣợc cất cao lên tâm hồn họ cảm thấy mình nhƣ đang sống

giữa cuộc đời tƣơi đẹp ấy. Các chàng trai cô gái Tày trong tình yêu thuở ban

đầu cũng đều mong muốn, ƣớc ao có đƣợc cuộc sống trên bản làng trù phú,

ruộng nƣơng nhiều, lợn gà đầy chuồng, thóc lúa đầy kho…; Để rồi họ cùng

nhau ngắm, cùng nhau trông, cùng nhau ca hát những khúc nhạc đồng quê giàu

đẹp, những thành quả tự bàn tay lao động mà mình xây đắp nên.

Ví dụ đây là một bài hát ngắm mƣờng mà chàng trai cất lên lời ca ca

ngợi: Rơi xuống mƣờng anh xem mƣờng bốn phƣơng

Rơi xuống mƣờng anh ngắm mƣờng bản lạ

70

Mƣờng ngƣời rộng bao la

Tứ phƣơng rồng chầu về uốn khúc

Có bạch hổ chầu phục về mƣờng

Mƣờng ngƣời về rải thơm quảng đại

Bách hoa nở lai láng bằng an

Vạn vật tụ hai hàng lao xao

Núi cao kéo xung quanh bách vận

Bốn phƣơng mƣa thuận gió hoà

Mƣờng ngƣời có cầu vồng uốn khúc

Đông và tây rất nhiều đƣờng đi

Y nhƣ hoa rải khắp mặt đƣờng

Thứ nhất là nơi đất lành chim đậu

Thứ nhì có trai gái làng rất đẹp

Chủ nhà không mời mọi ngƣời tự đến

Đến đây tôi viết bài ca ngợi ca.

[40.Tr.42]

Hay: Bản này thật to đẹp rộng dài

Bản này quang đãng bằng an

Mọi thứ ong bƣớm trong rừng cất tiếng gọi thƣơng

Cánh đồng này đất vàng thóc tốt

Trâu ở đồng này đến hàng trăm hàng ngàn…

[40.Tr.60]

Nhà sàn là một trong những kiến trúc đẹp của dân tộc Tày, ở đó là cả

một không gian văn hoá đa dạng và phong phú. Những bài hát ngợi ca về nhà

sàn vẫn luôn vang lên trong tiếng hát của các chàng trai cô gái:

Tôi ngợi ca cầu thang

Bậc nhất là chữ thánh

Bậc nhị là chữ vƣơng

Bậc ba chữ an nhàn

71

Bậc tƣ là phú quý

Bậc năm thành nguyệt hoa

Bậc sáu kề bậc bảy

Thang nhà ai đẹp quá

[40.Tr.25]

Ngoài những bài hát ngợi ca về cuộc sống, sự nghiệp sáng tạo của con

ngƣời nhƣ một bản làng, một cánh đồng, một con suối nhỏ...chúng ta còn thấy

đƣợc vẻ đẹp của thiên nhiên hiện lên trong khúc ca Iếu. Đó là hệ thống những

bài hát ngắm đến bãi soi, bãi cát, ngắm cau, ngắm vƣờn, ngắm ruộng, ngắm ao,

ngắm núi, ngắm rừng, gắm hoa…Đây là bài hát ngắm bãi soi, bãi cát:

Ngắm đến bãi soi bƣớm biến hình

Ngắm đến bãi cát bƣớm nhiều vô kể

Bãi này trâu ăn cỏ

Bãi này ngựa kéo quân.

[4.Tr.18]

Rồi ngắm đến con suối nhỏ:

Suối nhỏ suối cá khuy

Suối dài suối mỏ tôm

Tôm thấy nƣớc trong tôm uống

Tôm thấy nƣớc trong tôm tắm

Tôm đội giáo lên đầu

Tôm kéo rác dƣới nƣớc

Anh nhƣ ngƣời suối trong đƣợc vui.

[40.Tr.42]

Có rất nhiều bài Hát Iếu về các loài hoa, từ hoa phặc phiền, hoa mạ…

trên núi đá cao, rừng sâu đến hoa muống, hoa mơ, hoa ké…giản dị bên vƣờn

nhà, tất cả các loài hoa tạo nên sắc màu đa dạng nhƣ chính tâm hồn ngƣời Tày

trong cuộc sống; Họ gửi gắm vào đó tâm sự, nỗi lòng thầm kín của mình trong

mỗi lời ca về hoa. Đây là lời ca về hoa ké, một loài hoa ít đƣợc chú ý tới:

72

Hoa ké nở xoè mặt đất anh ơi

Hẹn nhau về gặp lại

Vợ anh ngồi nhòm ngó

Thân em là hoa lài nhƣ cỏ

Thành nụ rồi chắc nở đƣợc không

[40.Tr.50]

Các loài hoa cùng sánh bên nhau trông thật đẹp mắt:

Tháng giêng sánh tháng hai

Hoa vông sánh hoa dâu da đất

Tháng hai sánh tháng ba

Hoa cam sánh hoa quýt

Tháng ba sánh tháng tƣ

Lả ly sánh ba cạnh…

[40.Tr.52]

Cái nhìn về thiên nhiên có tính chất ngợi ca này còn phảng phất những

nét hồn nhiên của “thời thơ ấu nhân loại”, song cũng có những bài hát mang nét

hùng tráng của anh hùng ca. Đó là bài hát về cây Lùng:

Ngắm đến cây Lùng ba mƣơi gậy

Ngắm đến cây Lùng ba mƣơi cành

Cành hƣớng bắc lá xanh

Cành hƣớng rừng xanh biếc

Cành đi chợ Mƣờng Khà

Cành đi phƣơng nƣớc lặng

Cành đi uống nƣớc thôn Lâm

Cành đi ruộng ngàn hái lúa

Cành đi cùng bạn lấy kinh

Cành đi Đông Minh chợ lớn

73

Cành đến vật vờ mƣờng bạn

Cành đi chầu hoa đa

Cành còn lại cùng em kết duyên định nhà.

[5. Tr.53]

Chúng ta cũng tìm thấy đƣợc vẻ đẹp của thiên nhiên trong khúc hát lƣợn

của dân tộc Tày nơi khác:

Sông nƣớc bên đƣờng tôi xem cá

“Lý ngƣ” tung tăng chật dòng xanh

Đến đây mở hội vui sông cả

Bến nƣớc những ngƣời đứng chật ghềnh

Bóng hoa bóng ngƣời soi mặt nƣớc

Ngày xuân hoa nở đợi quả về

Tôi là ngƣời khác quê tạm ngắm.

[57.Tr.178)

Tất cả những cảnh, những vật quen thân, gần gũi của núi rừng trong Hát

Iếu đều đƣợc ngợi ca và đem lại cho con ngƣời những cảm xúc say sƣa. Từ

những bài hát ngợi ca bản làng, cánh đồng, con suối…đến các loài hoa, loài

bƣớm, loài cây…đã tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống đa sắc màu

của ngƣời Tày nơi đây. Thiên nhiên mang vẻ đẹp khoẻ khoắn, tƣơi non tràn đầy

nhựa sống, không đẽo gọt, chau chuốt, nó tồn tại nhƣ những gì vốn có giữa đại

ngàn của tự nhiên. Tâm hồn họ luôn rộng mở, gần gũi với thiên nhiên và quyết

tâm sáng tạo để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.

2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi Đảng, Bác và cuộc sống mới.

Bên cạnh sự tiếp tục về mặt nội dung cũ thì Hát Iếu trong thời hiện đại

đã có sự chuyển biến về nội dung tƣ tƣởng tình cảm, phản ánh đúng tinh thần

của thời đại lịch sử với nhiều chủ đề khác nhau, song nổi bật nhất vẫn là chủ đề

74

ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi sự nghiệp anh hùng vĩ đại của cả dân tộc Việt

Nam trong hai cuộc đấu tranh, kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong đề

tài này chúng tôi mới chỉ tập hợp đƣợc một số chủ đề về Đảng, Bác Hồ và cuộc

sống mới.

2.3.1. Hát Iếu là những lời ca ngợi, bày tỏ niềm vui từ khi có Đảng và

Bác Hồ.

Đảng ra đời nhƣ một mốc son chói lọi đƣa cả dân tộc Việt Nam bƣớc ra

khỏi cuộc sống tăm tối, mịt mùng. Có thể nói, khắp nơi đều vang tiếng ngợi ca

ánh sáng của Đảng: “Vầng dƣơng loé sáng khi khắp nơi ta có Đảng, bóng tối

lui dần tiếng chim vui hót vang”, những ca từ đƣợc nhạc sĩ Phạm Tuyên viết

trong ca khúc: “Đảng đã cho ta một mùa xuân”, đã phản ánh đƣợc tâm trạng

vui tƣơi, náo nức khắp non sông đất nƣớc khi Đảng ra đời. Đảng đem lại mùa

xuân cho đất trời và mùa xuân trong lòng ngƣời. Những lời ca trong Hát Iếu

cũng rộn vang tâm trạng đó từ khi Đảng:

Không lo nữa không lo anh chị em ơi

Không lo chi suốt đời vất vả

Đƣờng ta lên phía trƣớc đẹp tƣơi

Cả nƣớc đang chuyển mình đổi mới

Nắng xuân đã đuổi hết mây mƣa

Hoa đào gọi mùa xuân đến cửa

Làm ăn chẳng lo muộn đêm ngày

Đời nay mới là đời hoa thắm…

[9.Tr.54]

Hay: Đảng ta là một Đảng mến thƣơng

Tỏa sáng khắp Đông dƣơng, thế giới

Đã thu đƣợc tháng lợi lớn lao

75

Hoa nở sắp đủ bông trên cành.

Con đƣờng mà Đảng đến đƣợc với vinh quang cũng trải qua nhiều gian

truân:

Chặng đƣờng bốn mƣơi năm buồn vui

Đảng chịu biết bao điều cay đắng

Dong duổi đi khuyên nhắc đồng bào

Mới dựng nên phong trào cách mạng

Đảng ta nay đã đông vững vàng

Đủ sức mà đập tan Đế Quốc

Mừng Đảng mừng cả nƣớc sang xuân

Sáng chói theo mặt trời đang mọc

[9.Tr.47]

Đảng là niềm tin sáng chói, dẫn đƣờng chỉ lối cho toàn thể các dân tộc

anh em vững bƣớc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, quyết tâm đập tan lũ

quân xâm lƣợc để giải phóng mình:

Nhờ những ngƣời yêu nƣớc thƣơng dân

Đảng ta đã làm nên mọi việc

Từ những trận Xô Viết Nghệ An

Về tới trận Điện Biên toàn thắng

Đảng ta đã đứng dậy ngoan cƣờng

Dẫm nát lũ tanh hôi bọ xít

Đốt cháy mọi mồ ma trên đồng

Cắt xích thả chân tay ngƣời khổ.

[9.Tr.44]

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, miền Bắc đƣợc giải phóng nhƣng

miền Nam ruột thịt vẫn trong cảnh xiềng xích của Đế quốc. Là ngƣời con dân

tộc Tày không chịu đứng yên để quân giặc cƣớp nƣớc, họ đã gửi tâm tình, niềm

76

tin của mình vào sự lãnh đạo của Đảng. Tấm lòng đó đƣợc biểu hiện qua những

lời ca trong Hát Iếu:

Còn phƣơng Nam nửa nƣớc chƣa yên

Vƣờn hoa còn côn trùng quấy phá

Lửa nóng còn rát mặt bao ngƣời

Trái tim còn cách ngăn đôi ngả

Nam - Bắc cùng một Đảng một thân

Giờ đây chịu cách ngăn sao đƣợc

Bác Hồ cầm bó đuốc soi chung

Toàn Đảng đã sáng lòng việc đó.

[9.Tr.45]

Hay những câu:

Miền Bắc đã kiến thiết đẹp tƣơi

Miền Nam còn lầm than tăm tối

Hiền Lƣơng còn đôi bến vui - buồn

Xây đời chƣa đẹp đời với hoa

Đại hội Đảng toàn quốc thứ ba

Chỉ đƣờng cho Bắc - Nam thƣơng nhớ

Miền Bắc cứ kiến thiết thật hay

Miền Nam cầm dao phay đuổi giặc

Giặc Mỹ dù ăn cƣớp thêm quân

Đảng ta vẫn cứu dân bằng đƣợc

Bom Mỹ dù thiêu cháy Trƣơng Sơn

Không thiêu đƣợc lòng dân theo Đảng.

[9.Tr. 56-57]

77

Nghĩa tình dân Đảng luôn luôn bền chặt gắn bó, chính ân tình đó đã tạo

nên niềm tin yêu tất thắng trong lòng dân:

Chim én bay trên trời chào xuân

Bƣớm lƣợn đó đây chào hoa thắm

Bản vui mừng Tổ quốc hoà bình

Mừng Đảng bao nghĩa tình sâu nặng

Ơn Đảng ngƣời thật biết thƣơng thân

Ơn Bác sinh nên cuộc đời mới

Muôn cây đƣợc cao lớn thành rừng

Cũng nhờ ánh mặt trời soi sáng

Tin đồn khắp bản dƣới mƣờng trên

Mỗi ngƣời mỗi cƣời vui kiến thiết

Mừng Đảng mừng nghị quyết mùa xuân

Mừng nƣớc mừng toàn dân hạnh phúc.

[9.Tr.57]

Trong Hát Iếu bên cạnh những lời ca ngợi Đảng quang vinh, vĩ đại còn

những lời ngợi ca ngƣời đã sáng lập ra Đảng cộng sản - Bác Hồ. Ngay từ

những ngày đầu Bác ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc với những gian nan vất vả, khó

khăn đến ngày Bác tìm đƣợc chân lý đều đƣợc khắc họa trong lời ca Iếu. Đây là

hình ảnh Bác đƣợc nhắc đến trong nhiều bài hát “Nhớ thƣơng Bác Hồ”:

Tinh mơ thấy nắng sáng trên đồi

Con nhớ thƣơng Bác Hồ xƣa ấy

Nhớ Bác hồi còn trẻ còn xuân

Một mình đi thâu đêm tìm nắng

[9.Tr.36]

78

Rồi Bác đi:

Bác đi sang nhiều nƣớc nhiều châu

Lênh đênh trên con tàu biển cả

Bác đã thấy nhiều nơi xót thƣơng

Cũng nhƣ cảnh Đông Dƣơng Châu Á

[9.Tr.37]

Trên hành trình ra đi của mình, Bác đã gặp nhiều hoàn cảnh sống khác

nhau và Bác nhận ra một chân lí dù ở đâu trên trái đất này ngƣời dân lao động

vẫn là những ngƣời nghèo khổ nhất.Và ngƣời đã tìm:

Bác tìm từng miếng đất ƣơm mầm

Chòng chành nhƣ thuyền bè giữa biển

Có đất không có nơi làm vƣờn

Có ngƣời không có nhà nói chuyện

Bí mật đi tìm gọi nhau về

Bác gieo từng gói “mầm” cách mạng

Từ mảnh đất Hƣơng Cảng lửa nung

Bác trồng cây thành rừng cho đất nƣớc.

[9.Tr.38]

Sau Ngƣời đã trở về nƣớc:

Bác về với Tổ quốc mến thƣơng

Mƣa gió còn bốn phƣơng mù mịt

Bác đã cùng đồng chí đồng bào

Nhen nhóm nên phong trào chống Pháp.

[9.Tr.39]

Bác đã đặt nền móng vững chắc cho Tổ quốc đánh đuổi mọi lũ Đế quốc

xâm lăng; Chƣa kịp chứng kiến giang sơn của mình thống nhất, Ngƣời đã vội ra

79

đi để lại “muôn vàn tình thƣơng cho chúng con”, những lời ca “Iếu” cũng nghẹn

ngào tiếng khóc thƣơng Ngƣời:

Hoa tàn còn để quả trên cây

Bác đi Bác còn lo cho hậu thế

Bác viết lời di chúc tình thƣơng

Nhƣ ngọc để đầu giƣờng sáng mãi.

[9.Tr.40]

Và trong lòng họ hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại vẫn luôn in dấu không bao

giờ nhạt phai với lòng tôn kính, biết ơn vô hạn:

Có Đảng mới có cánh đồng xanh

Có Bác mới có chồi cây mới

Mọi ngày ăn hai bữa không quên

Muôn đời còn chịu ơn Đảng Bác.

[9.Tr.53]

Những lời Hát Iếu của ngƣời Tày Bắc Quang trong giai đoạn hiện đại có

thêm sự thay đổi mới về chủ đề, đó là chủ đề ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi sự

nghiệp anh hùng của cả dân tộc Việt Nam. Do vậy, Hát Iếu cũng chứa dựng

những tƣ tƣởng, tình cảm lớn của thời đại.

2.3.2. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống hòa bình, xây dựng chủ

nghĩa xã hội.

Đất nƣớc đƣợc hoà bình, thống nhất, toàn thể dân tộc có đƣợc cuộc sống

độc lập tự do, trong niềm vui chung ấy, khắp các bản làng của ngƣời Tày,

ngƣời Mông, ngƣời Dao… rộn vang tiếng hát ca xây dựng bản làng quê hƣơng

giàu đẹp của mình.Trong lời ca “Iếu” cũng vang lên những giai điệu vui tƣơi,

khoẻ khoắn phản ánh và ngợi ca cuộc sống đƣợc thay da đổi thịt ấy. Đây là

khúc ca trông bản mƣờng vui tƣơi, no đủ sau giải phóng:

Nhà ai nấy thóc lúa đầy bồ

Đảng lo không cho dân đói khổ

80

Máy điện cùng máy hát có đủ

Lại thêm cả viô cũng chiếu

Mọi nhà đều hăng say làm ăn

Xoá đói và giảm dần dân số

Sinh đẻ theo phân bố chỉ tiêu

Dù giàu nghèo cũng chỉ hai con [40.Tr .59]

Hay ta bắt gặp những câu hát về cuộc sống của ngƣời dân Yên Bình (một

xã thuộc huyện Bắc Quang) có đƣợc cuộc sống mới sau khi đánh đuổi đƣợc

quân thù ra khỏi quê hƣơng:

Từ đó về trời đất Yên Bình

Sáng lên dƣới mặt trời Cách Mạng

Tiếng Iếu còn vang vọng trong ngƣời

Từ đây ta cùng nhau lƣợn Iếu

Ruộng nƣơng cũng đã xanh về dần

Suối nƣớc đã tới ngày trong vắt.[9.Tr. 53]

Cả niềm vui nho nhỏ từ khi bản ta có trạm xá cũng vang lên trong lời ca Iếu:

Từ ngày có trạm xá dân y

Tuy rằng việc thuốc men còn thiếu

Nhƣng về chuyện ốm đau chết oan

Ta đã thấy giảm hơn xƣa ấy

Phụ nữ đến ở cữ đầu tiên

Sắp nở vẫn cƣời tƣơi roi rói

Vì em đƣợc ơn nữ hộ sinh

Ngày đêm cô nhiệt tình chăm sóc.[9.Tr.58]

Những sự kiện từ nhỏ đến lớn đều đƣợc họ ngợi ca với niềm vui tràn

ngập. Xe về Vĩnh phúc - Đồng Yên là lời ca nhƣ thế:

Hôm nay làm nắm cơm đi bộ

81

Thấy đƣờng xe tôi tƣởng đƣờng tiên

Xe về Vĩnh Phúc - Đông Yên

Pá Tao, Nà Búng, Bến Kiềng, Ba Lê

Nào ai ra Vĩnh tuy mua vải

Hãy cùng nhau bƣớc vội lên xe

Xe đi qua dốc Nà Mè

Qua động Khuổi Niếng qua đồi Bình Long

Đƣờng này mới khai thông năm ngoái

Mồ hôi trên cỏ chƣa khô

Mỗi ngày thấy bóng ô tô

Còn ngỡ nai hoẵng qua đồi cây xanh.[9.Tr.62]

Để bảo vệ cuộc sống bình yên của mình, chúng ta không chỉ đấu tranh về

mọi mặt trong chiến tranh ác liệt mà ngay cả khi hoà bình vẫn phải nêu cao tinh

thần đấu tranh đó. Chẳng hạn nhƣ việc chống lại bệnh quan liêu, tham nhũng:

Anh em hỡi trông ngắm rừng xanh

Có thấy bệnh quan liêu không đấy

Nếu thấy ta phải bảo nhau ngay

Cƣơng quyết chống bệnh đây kịch liệt.

[9.Tr. 61]

Căn bệnh này chẳng làm đƣợc gì có lợi cho dân:

Quan liêu làm cho ta đắng cay

Việc nhà và việc dân việc nƣớc

Quan liêu họ chẳng giúp chẳng lo

Chỉ mồm hét bô bô vang dậy

Quan liêu làm chẳng nổi việc dân

82

Quan liêu làm chẳng nên việc nƣớc

Quan liêu chỉ bút sách ngồi biên

Mơ ƣớc làm nàng tiên đại khái.[9.Tr. 61]

Hay: Tham nhũng đƣợc tiền của lắm thay

Nhƣng lƣơng tâm đã bay biến mất

Mỗi ngày mỗi tổn thất lòng dân

Cũng tại chuyện cá nhân “mọt mối”.[9.Tr. 64]

Trong Hát Iếu vang lên tiếng nói phải kiên quyết loại trừ nó để mỗi cá

nhân và cộng đồng trong sạch, vững mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

chủ nghĩa xã hội:

Quan liêu bị ngăn cách đi xa

Bản mƣờng khắp đó đây mới vững

Ngƣời ngƣời sống bên nhau mến thƣơng

Mọi việc sẽ làm nên tốt.[9.Tr. 61]

Và tiếng Iếu vẫn ngân vang trong lòng ngƣời yêu nƣớc tinh thần bảo vệ sự

trong sạch của lƣơng tâm :

Hỡi những ngƣời yêu nƣớc thƣơng dân

Hãy gạt chuyện cá nhân đi nhé

Mọi ngƣời mọi ăn ở chính tâm

Mới đúng ngƣời Tiên đời mới.[9.Tr. 64]

Có thể nói, một bộ phận lời ca trong Hát Iếu đã phản ánh một cách chân

thực tâm tƣ, tình cảm, trạng thái của đồng bào mình trong sự đổi mới của thời

đại. Đặc biệt là phản ánh đƣợc chủ đề ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi sự nghiệp

anh hùng Cách mạng và ca ngợi cuộc sống tƣơi đẹp của cả dân tộc Việt Nam.

Do vậy mà những bài Hát Iếu cũng mang những tƣ tƣởng, tình cảm lớn của

83

thời đại. Hơn nữa đây là việc làm thiết thực đóng góp cho công cuộc bảo lƣu,

gìn giữ vốn dân ca cổ truyền của địa phƣơng mình.

Tiểu kết

Tìm hiểu về một số nội dung trong lời Hát Iếu chúng tôi nhận thấy: Cộng

đồng dân tộc Tày Bắc Quang - Hà Giang đã xây dựng cho mình một kho tàng

vô cùng phong phú, đa dạng về lời hát giao duyên của tình yêu đôi lứa thuở

ban đầu với những lời ca tỏ tình thiết tha, chân thành, nồng thắm; Lời giao ƣớc,

kết duyên tình cảm sâu nặng và cả những lời ca chia tay day dứt, xót xa hay

cách ứng xử trong tình yêu…Tất cả đã tạo nên sắc màu tâm trạng trong tâm

hồn của bao ngƣời yêu Hát Iếu. Sắc màu ấy cũng tạo nên nét đẹp riêng, dấu ấn

riêng của đồng bào ngƣời Tày Bắc Quang, trong tình yêu không chỉ là sự chân

thành, tha thiết, nồng thắm mà tình yêu đó cần phải đƣợc xây đắp, thực hiện lời

hứa, giao ƣớc kết duyên sâu nặng nên vợ thành chồng sống trăm năm hạnh

phúc. Quyết tâm đồng cam cộng khổ, cùng nhau vƣợt qua mọi trở ngại gian

khó và dành cho ngƣời mình yêu tất cả những gì tốt đẹp nhất mà mình có thể

đem lại. Tuy nhiên thực tế cuộc sống không thuận theo mong ƣớc của họ nên vì

một lẽ nào đó mà các chàng trai, cô gái Tày không cùng nhau đi trọn con

đƣờng màu hồng mơ ƣớc ấy. Song chia tay nhau không có nghĩa là cắt đứt mọi

mối quan hệ, họ vẫn dành cho nhau những tình cảm đẹp đẽ, quan tâm đến cuộc

sống, hạnh phúc của nhau, lo lắng, khuyên răn, nhắn nhủ nhau. Do đó mà hạnh

phúc, khổ đau trong tình yêu với đủ mọi cung bậc cảm xúc, tâm trạng luôn luôn

tồn tại trong cuộc sống lứa đôi. Đó cũng là một thực tế của đời sống tâm hồn

mà họ đã gửi gắm qua lời ca tiếng hát giao duyên của Hát Iếu về chủ đề tình

yêu đôi lứa.

Hát Iếu giao duyên còn là biểu hiện của tình yêu nam nữ ngƣời Tày Bắc

Quang luôn gắn bó với khung cảnh bản làng, điều kiện sống, lao động sinh hoạt

và gắn với truyền thống văn hoá phong tục, tập quán, tín ngƣỡng tâm linh. Có

thể nói rằng ngoài nhu cầu biểu hiện, trao đổi tình cảm lứa đôi, thì chính môi

84

trƣờng sống với những nét đặc trƣng về văn hoá tinh thần, phong tục tập quán

cùng với môi trƣờng lao động là nguồn gốc, nơi lƣu giữ, phát sinh những khúc

Hát Iếu của đồng bào Tày nơi đây. Đó cũng là nét bản sắc riêng của ngƣời Tày

Bắc Quang trong sự so sánh với các làn điệu dân ca của các dân tộc anh em

khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Bƣớc sang giai đoạn hiện đại, Hát Iếu vẫn tồn tại và phản ánh các khía

cạnh của đời sống xã hội, trong đó nổi bật lên là những lời ngợi ca Đảng, Bác

Hồ và cuộc sống mới - cuộc sống hoà bình, độc lập tự chủ. Thể hiện đƣợc tƣ

tƣởng, tình cảm mang tính thời đại của lịch sử xã hội.

Từ đó, chúng ta nhận thấy rằng Hát Iếu là những lời ca giao duyên có nội

dung phong phú, đa dạng, phản ánh đƣợc bức tranh chân thực và sinh động về

tâm hồn con ngƣời trong cuộc sống. Đặc biệt là khía cạnh tình yêu đôi lứa thuở

ban đầu với mọi cung bậc, sắc thái tình cảm đƣợc biểu hiện sâu sắc nhất. Đồng

nhất với lời ngợi ca:

“Ngƣời Tày nói rằng chỉ riêng những câu lƣợn của họ đã nhiều hơn sao

trên trời, và ý tứ của nó cũng nhiều hơn nƣớc chảy. Đó là những lời từ gió mà

ra thành tiếng, vọng vào núi, rền vào đá, thấm vào cây để đồng vọng, để lan

toả mọi buồn vui khổ sƣớng của cõi ngƣời. Ngƣời Tày nói rằng ngƣời thì có

hạn nhƣng tiếng Sli, tiếng lƣợn của họ thì đông nhƣ rừng”., [58.Tr.195]:

Tiếng hát giao duyên của mỗi dân tộc đều có những sắc thái riêng, điều

đó là dễ hiểu bởi môi trƣờng sinh hoạt, môi trƣờng lao động, phong tục tập

quán và truyền thống tín ngƣỡng của họ khác nhau. Hát Iếu của ngƣời Tày Bắc

Quang cũng có những nét độc đáo riêng so với các dân tộc Tày ở nơi khác, đặc

biệt là về giai điệu, tiết tấu. Do điều kiện thời gian còn hạn hẹp và vốn hiểu biết

còn hạn chế nên trong đề tài này chúng tôi mới chỉ khái quát đƣợc vài nét riêng,

sơ lƣợc trong nội dung của làn điệu dân ca địa phƣơng mà chƣa đi sâu vào việc

so sánh trên phƣơng diện rộng lớn nhƣ so sánh giữa Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà

Giang với Hát Iếu ở các vùng khác và so với các loại hình dân ca của các dân

tộc anh em.

85

Chương 3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU

CỦA HÁT IẾU Ở BẮC QUANG HÀ GIANG

Hát Iếu giao duyên của dân tộc Tày Bắc Quang - Hà Giang giữ một vai

trò vô cùng quan trọng trong tổng thể văn hóa dân gian của đồng bào. Nó phản

ánh một cách phong phú, sinh động đời sống tinh thần, phong tục tập quán và

tín ngƣỡng dân gian của họ. Qua Hát Iếu chúng ta còn thấy đƣợc hiện thực đời

sống của đồng bào đƣợc tái hiện, đặc biệt là tình yêu lứa đôi với nhiều sắc thái

tâm trạng đƣợc diễn tả và khắc họa. Cùng với thời gian, cuộc sống sinh hoạt và

lao động của mình, Hát Iếu ngày càng đƣợc chắt lọc tinh tuý, tồn tại một cách

bền bỉ mãnh liệt trong tâm hồn của những ngƣời con yêu quê hƣơng bản sắc

của dân tộc mình. Sức hấp dẫn của Hát Iếu không chỉ ở nội dung, chức năng

của những bài ca mà còn ở giá trị nghệ thuật độc đáo của nó. Để thấy đƣợc điều

đó chúng tôi tiến hành tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của Hát

Iếu. Cụ thể đó là:

3.1. Thể thơ trong Hát Iếu.

3.1.1. Thể thơ tự do

Hát Iếu là khúc ca giao duyên của các chàng trai cô gái Tày Bắc Quang

trong tình yêu thuở ban đầu với nhiều cung bậc, cảm xúc, tâm trạng khác nhau.

Có lẽ đây chính là một phần tạo nên hình thức thơ của Hát Iếu.

Thể thơ - phần lời của Hát Iếu chủ yếu đƣợc sáng tác theo thể tự do, các lời

ca của Hát Iếu dài hay ngắn tuỳ thuộc vào nội dung cũng nhƣ hình thức của bài

hát. Số từ trong một dòng thơ thƣờng không theo một quy định nào, ví dụ nhƣ:

Chiồm bióoc vằn căn đạ chiồm giá

Củ tin oóc bển ta

Nhang kha oóc bển thông

86

Mông hăn nặm mênh mông lai láng

Củ pác vàn pi táng bản khảm lừa

Củ pác vàn pi au lừa mà tỏn noọng khình châm khảm sử.

(Xem hoa hai ta đã xem rồi

Đƣa chân ra bến nƣớc

Bƣớc chân ra bờ sông

Trông thấy nƣớc mênh mông lai láng

Cất lời nhờ anh khác bản sang thuyền

Nhờ anh lấy thuyền về đón em khình châm sang sứ).

[8.Tr. 44]

Trong bài Hát Iếu “Sang sông” trên chúng ta thấy có dòng 7 âm tiết, có

dòng 5 âm tiết, 8 âm tiết, dòng cuối lại có tới 13 âm tiết. Điều đáng chú ý ở đây

dù số dòng thơ không có sự hạn chế hay quy định về số lƣợng âm tiết nhƣng

đều có lối hiệp vần, điệp từ réo rắt, linh hoạt, sinh động ở các vị trí khác nhau

trong cùng một bài hát. Chúng ta có thể thấy lối bắt vần linh hoạt, réo rắt với

những hình ảnh vô cùng sinh động hấp dẫn trong lời ca Iếu ở bài hát trên:

Chiồm bióoc vằn căn đạ chiồm giá

Củ tin oóc bển ta

Nhang kha oóc bển thông

Mông hăn nặm mênh mông lai láng

Củ pác vàn pi táng bản khảm lừa

Củ pác vàn pi au lừa mà tỏn noọng khình châm khảm sử.

Lối bắt vần tự do lúc ở đầu câu, giữa câu, lúc ở cuối câu đƣợc Hát Iếu sử

dụng với mức độ đậm đặc trong nhiều lời ca nhƣ vậy:

Chiồm tàng là vằn căn chồim giá

Củ pác tham minh láy

Ngoáy nả tham minh màng

Pi khào bang tham minh noọng…

87

(Ngắm đƣờng là cùng nhau ngắm mãi

Cất giọng hỏi ngƣời làng

Ngoảnh mặt hỏi cô nàng

Anh xin hỏi mình noọng)

[40. Tr.23]

Cách bắt vần này tạo nên nhịp điệu linh hoạt, thông thoáng cho lời ca

Iếu, cũng nhờ vậy mà khi tiếng hát vang lên chúng ta cảm nhận đƣợc nhịp điệu

tha thiết đƣợc láy đi láy lại, lúc khoan thai dìu dặt, lúc trầm bổng ngân vang.

Nhƣ vậy lối thơ tự do trong Hát Iếu tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ với ngƣời

thƣởng thức và ngƣời cảm nhận giai điệu dân ca của dân tộc Tày

Đặc biệt hơn là âm tiết cuối ở các câu thƣờng “trái dấu nhau ” về thanh

điệu bằng / trắc: Pi cạy ái kin miằu lai thắng

Lac mần lai lắm khổn thƣơng

Pi củng ái quá nặm pế khảu mƣờng

Nặm pế pay lai lồng khốn páo

Pi củng chăƣ kin miằu luồm đởi

Lo phua noọng lội khuổi mà hăn

Pi củng chăƣ kin miằu luồm thông

Lo phua noọng lập thông mà pióng.

(Anh cũng muốn ăn nhiều trầu

Rễ trầu nhiều nên khá thƣơng

Anh cũng muốn qua nƣớc quản vào mƣờng

Nƣớc to quay nhiều xuống khó khăn

Anh cũng muốn ăn trầu chung với

Lo chồng em lội suối đến gặp

Anh cũng muốn ăn nhiều trầu chung túi

Lo chồng em lội suối đến kịp).

[5.Tr.30]

88

Sự đối lập nhau về thanh điệu bằng trắc ở âm tiết cuối câu trên với câu

dƣới không phải là sự ngẫu nhiên mà đó là quy định, song quy định này cũng

không phải hoàn toàn là nghiêm ngặt mà đôi lúc giữa hai câu thơ trong bài thơ

vẫn có sự trùng lặp thanh điệu, trƣờng hợp này ít khi xảy ra hơn. Tuy nhiên khi

hát ngƣời ta có thể hát biến thanh điệu để lời hát ngân đƣợc dài hơn và có sự dàn

trải xa hơn. Chẳng hạn nhƣ âm tiết cuối câu 1 là thanh bằng “va”, lại trùng với

âm tiết cuối câu 2 - thanh bằng là “đu”, nhƣng khi hát ngƣời ta có thể hát biến

thanh cho phù hợp với giai điệu của Iếu từ “đu” thành “đú” Âm tiết cuối của các

câu sau cũng sẽ đƣợc hát biến thanh nhƣ vậy cho đến khi kết thúc lời ca. Trong

thể thơ tự do với lối đối lập về thanh điệu nhƣ vậy trong lời ca Iếu đã tạo nên

hiệu quả thẩm mĩ cao trong nghệ thuật ca hát của ngƣời Tày địa phƣơng:

Piặc mì thửa chuổn hua lồng va

Thửa pạt bá lồng đu

Phung muàu kéng kéng phông thƣ lồng tỏn

Chúp nọi chúp cóp đăm hăƣ mà

Lang khằm chúp cóp đón hăƣ mà

Nhị phóng dú táng tông hăƣ mà

(Thoáng thấy áo đội đầu đến cùng

áo vắt vai xuống gặp

Trầu cau với phong thƣ ra đón

Nón nhỏ nón vành đen đâu tới)

[40.Tr. 15]

Sự không gò bó, không hạn định về độ ngắn dài của lời ca trong thể thơ

tự do đã đáp ứng đƣợc nhu cầu trong việc diễn đạt cảm xúc của ngƣời hát. Đặc

biệt trong đời sống hiện thực vô cùng phong phú việc tự do hát những bài Hát

Iếu cũng dễ dàng với không khí diễn xƣớng trong sinh hoạt ca hát của họ. Mỗi

lời Hát Iếu đều có thể diễn tả một tâm trạng, một tình huống, một hoàn cảnh,

89

đôi khi là cả câu chuyện chất chứa nỗi niềm, những cung bậc tình cảm phong

phú đa dạng của con ngƣời trong các mối quan hệ xã hội.

3.1.2. Thể thơ thất ngôn.

Thơ thất ngôn là thể thơ khá phổ biến của nhiều dân tộc khác nhau.

Ngƣời Trung Quốc có thể thơ thất ngôn cổ phong hay thất ngôn luật Đƣờng.

Khác với cách gieo vần trong thơ Trung Quốc chỉ gieo vần chân và thƣờng là

độc vận, trong thơ Tiếng Việt truyền thống có thể thơ song thất lục bát, hai câu

bảy chữ cộng với những câu lục bát. Lời ca trong Hát Iếu có những bài đƣợc tổ

chức dƣới dạng thơ thất ngôn (7 chữ). Thể thơ bảy chữ hay còn gọi là “thất

thất lƣu thuỷ” của ngƣời Tày là thể thơ mỗi câu có bảy âm tiết, chữ thứ năm

câu dƣới vần với chữ thứ bảy câu trên và cứ nhƣ thế cho đến hết một bài.

Lƣợng thơ đó đều đặn lặp lại với với số lƣợng không hạn định và cũng không

phối hợp với nhau thành các khổ nhƣ song thất lục bát của tiếng Việt. Hát Iếu

sử dụng thể thơ thất ngôn tạo nên sự linh hoạt trong việc kể, miêu tả và bộc lộ

nội tâm.

Điều đáng chú ý ở đây là cũng giống nhƣ thể thơ tự do thanh điệu của

tiếng thứ 7 câu trên phải trái thanh với tiếng thứ 7 của câu dƣới thì khi hát âm

hƣởng mới ngân dài, có độ dàn trải, xoáy sâu vào tâm trạng của ngƣời nghe

cũng nhƣ ngƣời hát. Khi một từ đƣợc đặt vào vị trí bắt buộc mà không có thanh

điệu phù hợp thì từ (âm tiết) đó khi hát lên phải biến thanh thì lời ca mới đúng

với giọng của điệu hát. Ví dụ bài hát Iếu “Trách” sau ở cuối câu một là thanh

bằng, câu hai phải là thanh trắc, câu ba thanh bằng, câu bốn lại là thanh trắc.

Cứ nhƣ vậy các thanh điệu trong bài thơ có sự đối lập nhau nhƣ vậy cho đến

hết bài hát.

Piúc cuổi lăng mí chọn đin đăm

B

Au Phua lăng mí giằng đẳƣ toọng

T

Giờ nay chắng mà phoọng đởi là

90

B

Mơ hăƣ kết bạn va đảy khói.

T

(Trồng chuối sao không chọn đất đen

Lấy chồng sao không nhằm trong bụng

Bây giờ mới than thở với ta

Bao giờ kết bạn hoa cho khỏi).

[8.Tr. 61]

Cấu trúc thanh điệu và vần trong Hát Iếu thƣờng đƣợc lặp lại trong cả bài

hát, đáng chú ý là vị trí thứ 5 và thứ 7 trong cùng một câu thƣờng là trái nhau

về thanh điệu bằng / trắc, giữa hai câu thơ liền nhau, các âm tiết thứ 5 và thứ 7

cũng trái dấu thanh điệu và hơn nữa âm tiết cuối của câu trƣớc hiệp vần với âm

tiết thứ 5 của câu tiếp theo, vì vậy mà các âm tiết đó có cùng thanh điệu bằng /

trắc. Nhờ cách phân bố và tổ chức về vần và thanh điệu nhƣ vậy mà các câu thơ

trong Hát Iếu có sự lặp lại, biến đổi và nối tiếp nhau nhƣ một dòng chảy vô tận.

Chúng ta có thể nhận thấy cách hiệp vần, hiệp thanh trong bài ca sau:

Thử nhất phạ lồm luông lắn piáu

Thử thong tằƣ tua táu lăng kho

Thử tham tằƣ nộc só khò lài

Thử thí tằƣ nu vai hang bióc

Thử hả tằƣ tua looc kẻm đeng

Thử sốc tằƣ chặng kèn pác thiểm

Thử chất tằƣ nộc yểng pích đăm

Thử pét tằƣ ca khằm píc đáng

Thử cảu tằƣ tua báng pảng kheo

Thử thíp tằƣ tua mèo nả lại

Thoong thinh làu chê quải mí au

Củ tin khửn pù khau lỉn kiếu.

91

( Thứ nhất gió bão to bẫy bụt

Thứ nhì trúng con rùa mai khum

Thứ ba trúng con chim cổ vằn

Thứ tƣ trúng chuột rừng đuôi hoa

Thứ năm trúng con sóc má đỏ

Thứ sáu trúng “chặng kèn” mồm nhọn

Thứ bảy trúng chim yểng cánh đenn

Thứ tám trúng con quạ cánh đốm

Thứ chín trúng sóc bay bụng xanh

Thứ mƣời trúng con mèo mặt dữ

Hai ta chê quái gở không thềm

Cất bƣớc lên núi rừng xem ghẹo).

[8. Tr.40]

Về cách ngắt nhịp của thể thơ thất ngôn trong Hát Iếu thông thƣờng là

3/4, song đây không phải là quy tắc bắt buộc mà có thể linh hoạt, biến đổi.

Đó có thể là nhịp 2/5, hay 2/3/2…Ví dụ nhƣ cách ngắt nhịp trong một số câu

Iếu sau:

Tứn chạu / phạ lung núm / lung khao

Thinh hăƣ / pân lùa chào / là tứn

Tứn tứn / noọng tăm bƣa liệng nộc

Tứn tứn / noọng tăm bƣa liệng én…

(Tinh mơ trời tang tảng sáng trong

Đời ai là nàng dâu thì dậy

Dậy đi em giã bột chăn chim

Dậy đi em rây bột nuôi én).

[8.Tr. 54]

Cách ngắt nhịp nhƣ vậy chính là yếu tố tạo nên tính linh hoạt, sự hấp dẫn

của các lời ca trong những câu Hát Iếu giao duyên của dân ca Tày nói chung và

92

Hát Iếu nói riêng của Bắc Quang. Có thể khẳng định rằng với thể thơ thất ngôn

này mà ngƣời Tày đã tạo riêng cho mình một nét riêng trong nghệ thuật sáng

tạo thơ ca của dân tộc. Thể thơ này vừa có thể dung nạp ngôn ngữ đời thƣờng,

mộc mạc, dung dị, chân thực, lại vừa có thể diễn tả đƣợc mọi tƣ tƣởng, tình

cảm với nhiều cung bậc tâm trạng khác nhau bằng hình thức giàu hình ảnh,

nhạc điệu của cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống của tình yêu lứa đôi.

Nếu để ý, chúng ta thấy trong lời ca Iếu bằng tiếng Tày không hề sử

dụng một từ nào thanh điệu thứ 5 (dấu ngã) trong hệ thống thanh điệu của tiếng

Việt. Đây cũng là một nét riêng biệt thuộc về ngôn ngữ Tày địa phƣơng.

Đối với ngƣời Tày nói chung, Lƣợn là tiếng nói của tâm tƣ tình cảm, là

nỗi lòng của ngƣời cất tiếng hát giao duyên. Với ngƣời Tày Bắc Quang cũng

vậy, những lời ca trong Hát Iếu đƣợc coi là một phƣơng tiện giao tiếp đặc biệt.

Ngay từ thuở bé thơ họ đã đƣợc nghe Hát Iếu, lớn lên trong lời ca của Iếu và

đến tuổi trƣởng thành tiếng Iếu chính là “nguồn vốn” vô cùng quan trọng trong

giao tiếp, trong cách ứng xử của các chàng trai, cô gái. Nhờ nó mà họ thể hiện

đƣợc sự tài tình, khôn khéo, giỏi giang của mình trƣớc đối tƣợng và nó cũng

chính là phƣơng tiện để họ có thể giãi bày tâm tƣ, tình cảm của mình. Trong

thực tế cuộc sống giao tiếp của ngƣời Tày, Hát Iếu trở thành một truyền thống

tiếp khách từ nơi khác tới hay trong những ngày hội, đám cƣới, đám xin…Do

vậy mà khi xét đến phƣơng diện ngôn ngữ của lời Hát Iếu chúng ta dễ dàng

nhận thấy đó là thứ ngôn ngữ đƣợc bắt nguồn từ đời sống nhƣng có thể coi đó

là thứ ngôn ngữ cao hơn ngôn ngữ thông thƣờng. Bởi lẽ rằng trong quá trình

sáng tác lời Hát Iếu họ đã dùng ngay lời ăn tiếng nói trong cuộc sống sinh hoạt

giao tiếp hằng ngày làm chất liệu chủ yếu. Cũng nhờ vậy mà Hát Iếu mang

nhiều sắc thái biểu cảm, phong phú và đa dạng hơn

3.2. Các biện pháp tu từ sử dụng trong Hát Iếu.

3.2.1. Biện pháp tu từ so sánh

93

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng: “So sánh là một phƣơng pháp

nghệ thuật độc đáo của tục ngữ, ca dao dân ca, là phƣơng pháp chủ yếu trong

sự diễn đạt tƣ tƣởng tình cảm, so sánh cũng là một lối cụ thể hoá những hình

tƣợng làm cho lời thêm ý nhị tình tứ và thắm thiết”.

Chúng ta biết rằng nghệ thuật so sánh là phƣơng thức nghệ thuật chủ yếu

của con ngƣời để nhận thức và phản ánh thế giới. So sánh tu từ cũng là một

trong những công cụ đắc lực giúp chúng ta nhận thức một cách sâu sắc về thế

giới tình cảm đa sắc màu của cuộc sống, đặc biệt là sắc màu trong thế giới của

tình yêu đôi lứa. Trong bộ phận văn học dân gian đa dạng và phong phú của

các dân tộc Việt Nam thì dân ca Tày là một trong những loại hình dân ca có cấu

trúc so sánh đặc biệt và tạo nên nhiều nét bản sắc riêng.

Theo Giáo sƣ Đinh Trọng Lạc thì: “So sánh tu từ là một iện pháp tu từ

ngữ nghĩa, trong đó ngƣời ta đối chiếu hai đối tƣợng khác loại của thực tế

khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau

nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối

tƣợng”[28.Tr.154].

Từ trƣớc tới nay có rất nhiều cách phân loại cấu trúc trong ca dao dân ca,

nhƣng nhìn chung có thể phân loại chúng thành hai dạng nhƣ sau:

- So sánh trực tiếp ( so sánh nổi)

- So sánh gián tiếp (so sánh chìm, kết cấu đối ngẫu)

3.2.1.1. So sánh trực tiếp

Hát Iếu đã sử dụng nghệ thuật so sánh trực tiếp nhƣ một biện pháp nghệ

thuật đắc lực để thể hiện mọi cung bậc tình cảm đôi lứa thuở ban đầu rất phong

phú và đa dạng.

Chúng ta vẫn thƣờng gặp sự hiện diện của các liên từ nhƣ: nhƣ, nhƣ thể,

nhƣ là, tựa, tựa nhƣ, giống, giống nhƣ, khác nào...Mức độ sử dụng so sánh tu từ

trong Hát Iếu tuy không dày đặc nhƣng qua quá trình khảo sát 426 bài Hát Iếu

thì có 20 hình ảnh “anh” (chàng trai), 23 hình ảnh “em” (cô gái) đƣợc so sánh

trực tiếp.

94

Về cấu trúc so sánh, Hát Iếu cũng mang những nét chung của dân ca

ngƣời Việt nhƣ một số môtip thƣờng gặp: em nhƣ, anh nhƣ, hai ta nhƣ… hay

tất cả trạng thái tình cảm của con ngƣời: yêu thƣơng, giận hờn, nhớ nhung, vui

sƣớng, khổ đau…

Trong ca dao ngƣời Việt hình ảnh “em” và “anh” luôn xuất hiện với

nhiều sắc thái khác nhau. Chẳng hạn nhƣ cách nói, cách ví von so sánh đối lập

đã tạo nên một công thức Folklore quen thuộc của dân ca với cấu trúc câu thơ

cân xứng nhằm lột tả tình cảm, tâm lý của nhân vật:

- Em nhƣ chim chích bên đƣờng

Mà nhƣ chim phƣợng vẫy vùng là anh.

- Phƣợng kia bạn phƣợng mới cân

Phƣợng đâu có cần chiền chiện xấu xa

Chiền chiện đậu gốc cỏ gà

Dám đâu cùng phƣợng bạn bè thấp cao.

[54.Tr.245]

Trong Hát Iếu chúng ta gặp cách nói ví von đối lập qua lời hát của chàng

trai. Chàng trai ví thân mình tầm thƣờng nhƣ “Nộc chích”, “nộc dùng” làm sao

xứng với “Phƣợng vàng”, “én nhạn”…cao quý:

Nộc chích pạu phƣợng vàng lừ đảng

Nộc dùng pạu én nhạn mất thân

(Chim ri sao dám bạn với phƣợng hoàng

Chim cút sao dám làm bạn chim én đang bay).

[40.Tr. 5]

Về phƣơng diện hình ảnh so sánh, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều hình

ảnh đƣợc so sánh trực tiếp trong Hát Iếu. Sau đây là một số hình ảnh tiêu biểu

mà chúng tôi tiến hành thống kê đƣợc nhƣ sau:

Nói về thân phận của ngƣời con gái trong ca dao chúng ta thƣờng thấy

“thân em” đƣợc so sánh với những hình ảnh đẹp và mang tính chất ƣớc lệ nhƣ:

95

Thân em nhƣ tấm lụa đào, nhƣ hạt mƣa sa, nhƣ cây quế giữa rừng…nhƣng

thƣờng là không có quyền quyết định cho số phận của mình.

Còn với “Thân noọng” trong Hát Iếu cũng không kém phần. “Thân

noọng” đƣợc ví nhƣ: “Đuông bióoc cài khe nhả”- bông hoa lài trên cỏ, bông

hoa rặm vƣơng trên áo anh, là bông hoa hẩm hiu chứ không phải là bông hoa

đẹp, hoa thơm anh muốn:

Thân noọng pân đuông bióoc cài khe nhả

Bióoc may là phống lả chắng nhằng

Mí thúc đuông bióoc khằm pi lọi

Mí thúc đuông bióoc thỏi pi chƣơng

Pi mừa chƣơng co bióoc cuông rƣờn hẳƣ lung.

(Thân em tựa hoa lài trên dặm cỏ

Hoa nở rồi chắc nở đƣợc không

Hoa này là nở muộn mới còn

Không phải bông hoa thơm anh nhớ

Không phải bông hoa thắm anh chăm

Anh về chăm bông hoa nhà cho đẹp)

[40.Tr.50]

Đôi khi “Thân noọng” trong lời ca Iếu đƣợc đem so sánh với những hình

ảnh chân thật nhƣng có phần cứng rắn, tự quyết hơn:

Thân noọng pân co làng chắng piúc

Tơn thâng đạo phua luc noọng puồn

Thân noọng pân co phúc chắng ƣơng

Tơn thâng đạo giảo lƣờn chắng nái

Nghĩa là:

Thân em nhƣ cây cau mới trồng

Nói đến chuyện chồng con em ngại

Thân em nhƣ cây san là mới ƣơm

96

Nói đến chuyện cửa nhà em chán

[8.Tr.18]

So sánh vốn là kết quả của phép đối chiếu vì vậy mà chúng thƣờng thấy

hình ảnh so sánh là những hình ảnh gần gũi, thân thƣơng, quen thuộc nhất;

Trong tình yêu cũng vậy, chàng trai khi gặp đƣợc ngƣời tâm đầu ý hợp với

mình thì tất cả đều thật gắn bó sâu sắc, chàng coi “noọng” chính là “rƣờn” của

mình: Rƣờn pi là noọng á

Mả pi là noọng mằƣ

Hẳƣ pi kết cần hăƣ tay noọng

(Nhà anh tựa thân em

Vợ anh tựa bóng em

Cho anh đi tìm ai hơn nữa)

[8.tr.18]

Trong tình cảm lứa đôi, những hình ảnh so sánh biểu hiện nỗi nhớ mong

cũng để lại dấu ấn lẻ bạn. Nhân vật trữ tình so sánh nỗi nhớ mong của mình

nhƣ mong “Hai thíp hả”- trăng tròn giữa tháng, và nỗi lòng trơ trọi nhƣ “Tôi

thú thiểu kha”- chiếc đũa lẻ đôi.

Bƣơn hăn nả chụ cáu bƣơn đai

Tông bạn mọ tông hai thíp hả

Tông bạn mà hăn nả khào bang

Cổm hua lồng giƣờng chang là dú

Lọi lọi mọ tôi thú thiểu kha

Tôi thú thiểu kha cụng mọ thoong thinh là thiếu bạn

(Thoáng thấy mặt bạn thoáng không

Mong bạn nhƣ mong trăng giữa tháng

Ngóng bạn chẳng thấy bạn xinh tƣơi

Cúi mặt xuống giữa giƣờng ta ở

Trơ trọi nhƣ chiếc đũa lẻ đôi

97

Chiếc đũa lẻ đôi nhƣ đôi ta lẻ bạn).

[40.Tr.47]

Nỗi buồn của cô gái khi chia cách trong tình yêu đƣợc so sánh nhƣ:

Noọng puồn toọng pân ỏi lip thuôn

Noọng puồn giá pân cƣa cuông lừa tan đởi nặm.

(Em buồn trơ nhƣ nhánh mía trong vƣờn

Em buồn nhƣ chiếc thuyền muối tan trong nƣớc).

[40.Tr47-48]

Rất nhiều hình ảnh so sánh đƣợc hiện lên trong lời ca Iếu, Dù là hoa, là

cây, là chim, là thuyền…Tất cả đều đƣợc đặt trong sự đối lập hay tƣơng đồng

để tìm ra nét khác biệt hay tiếng đồng vọng trong tâm hồn con ngƣời mà thôi.

Hơn nữa cách so sánh nhƣ vậy cũng phản ánh đƣợc những sắc thái tình cảm,

tâm trạng của các cô gái chàng trai Tày đa dạng và phong phú mà chân thực,

gần gũi với cuộc sống sinh hoạt đời thƣờng.

3.2.1.2. So sánh gián tiếp

So sánh gián tiếp là phƣơng thức nghệ thuật chiếm đa số trong những lời

hát của dân ca giao duyên nói chung, dân ca Iếu nói riêng. Việc đối chiếu nét

tƣơng đồng giữa hiện tƣợng thiên nhiên, cảnh vật với trạng thái tình cảm của con

ngƣời, có tác dụng làm nổi bật tâm trạng đa sắc màu khó nắm bắt của tâm hồn

ngƣời. Nhƣ vậy nét tƣơng đồng trong bức tranh miêu tả thiên nhiên với các hình

ảnh trong đời sống con ngƣời tạo nên sự nhất quán trong tƣ tƣởng cảm xúc và ý

đồ nghệ thuật. Trong Hát Iếu, bức tranh thiên nhiên ở đây không đơn thuần là

miêu tả vẻ đẹp của nó mà thƣờng là đằng sau đó là biểu tƣợng của những trạng

thái, tình cảm con ngƣời với đầy đủ mọi cung bậc đa dạng, phong phú.

Lối nói trong Hát Iếu là lối nói giản dị và thƣờng gắn bó với thiên nhiên,

cảnh vật trong cuộc sống lao động, sinh hoạt của con ngƣời. Đó là hình ảnh của

núi non, đồng ruộng, chim cá, trâu ngựa…ví nhƣ câu hát của chàng trai mƣợn

hình ảnh nặm noòng (nƣớc Lũ) để bày tỏ nỗi lòng của mình. Khi mùa xuân đi

98

qua, vào tháng hai (chiêng thong) thì cũng là lúc ngƣời yêu bỏ đi lấy chồng. Qua

cách so sánh giữa hình ảnh của con cá xuôi dòng nƣớc cạn đi ra bể lớn bình yên

bỏ lại một mình “Tả điêu” bông hoa tím bơ vơ trơ trọi giữa dòng nƣớc lũ ngập

tràn nhƣ chính tâm trạng của chàng trai đang nổi sóng lòng cuộn xoáy:

Chiêng thong nặm noòng ỏi lup thuôn

Nặm bốc pioa lồng phoòng đƣởi ngƣơc

Tả điêu co bióc lục luôc khác loay

Cạy noọng đảy phua mí đay mí chứ

(Giêng hai nƣớc lũ nhỏ ngập cồn

Nƣớc cạn cá xuôi dòng đi mất

Bỏ mình bông hoa tím khác trôi

Cậy em đƣợc chồng sang không nhớ.)

[8.Tr. 29]

Có thể nói nhiều hình ảnh thiên nhiên đã trở thành biểu tƣợng trong tâm

thức của ngƣời Tày nhƣ hình ảnh của bông hoa Phặc phiền (vắc viền), hoa Mạ,

hoa gạo, con chim khẳm khắc, chim pắp páng, én ƣơng, loan phƣợng, dòng

nƣớc, khe suối, con thuyền, bến nƣớc…

Đây là hình con chim Pắp Páng. Ngƣời Tày Bắc Quang vẫn kể cho nhau

nghe câu chuyện về con chim Pắp Páng hay kêu vào những đêm mùa đông lạnh

giá. Ngày xƣa có hai anh em mồ côi cả cha lẫn mẹ lại rất nghèo đói, mùa đông

tới hai anh em chỉ có đúng một tấm chăn nhỏ rách nát, đắp đƣợc cho ngƣời này

lại thò ngƣời kia ra. Suốt đêm, hai anh em nhƣờng nhau “ Mằƣ pắc cau páng” -

mày che tao đắp. Vì rét quá cả hai anh em đều chết và biến thành con chim

“Pắp Páng”. Trong lời ca Iếu chàng trai đã dùng hình ảnh của con chim Pắp

Páng để bày tỏ lời nói gián tiếp về thân phận của mình không thể sánh đƣợc với

ngƣời khác: Pắp Páng loọng táng thẳm pích khiêu

Chiêm ỷ pi nòn điêu mại quén

Mí giảm pạu nộc én trang hả trang hao

Nộc én bân khảm chào khôn ƣớc

99

Bióoc đay chào lọn lƣơc chung quanh

Nộc chích bân khát mèng ngoại nooc.

(Pắp páng gọi cửa hang cánh xanh

Từ nhỏ anh ngủ riêng ngon giấc

Không dám bạn chim én trời cao

Hoa đẹp ngƣời ta đã rào quanh

Chim chích bay liệng ngoài rã cánh).

[8.Tr.22]

Hay: Hoa gạo nở trên cây đỏ thẫm

Hoa vông nở trên cành đỏ tƣơi

Hoa coóng nở trong khe đỏ thắm

Vàng anh đậu ngọn diễn hót thƣơng

Vợ anh ngồi đọc thƣ bên cửa

Gối hoa động đến tay không màng

Nƣớc cạn bỏ bãi cát bên bờ

Nhớ bạn giữa canh khuya gà gáy

Sao khuất làn mây trắng đi nằm

Nƣớc mắt rơi gối hoa dàn giụa.

[8.Tr.44]

Thiên nhiên có lúc thật gần gũi, thể hiện đƣợc tâm trạng của bao chàng

trai cô gái Tày khi bƣớc vào tuổi yêu đƣơng:

Hoa đất và hoa xuân

Không thành thì gần chút

Mai sau hoa quá thì

Còn đâu yêu đƣợc nữa.

Đêm xuống khắp làng trên

Đêm xuống khắp mƣờng dƣới

Đêm xuống có trăng rằm

100

Họ yêu nhau khắp chốn.

[40.Tr. 3-4]

Có lúc thiên nhiên diễn đạt lời trách móc thâm thuý của chàng trai:

Trồng chuối sao không chọn đất đen

Lấy chồng sao không nhằm trong bụng

Bây giờ mới than thở với ta

Bao giờ kết bạn hoa cho khỏi.

[8.Tr. 61]

Hình thức so sánh gián tiếp trên đã làm nổi bật trạng thái tình cảm của

con ngƣời trƣớc thiên nhiên. Cảnh vật tạo nên chất thơ mộc mạc, chân thật,

giản dị nhƣng lại giàu tính biểu tƣợng. Có thể nói rằng Hát Iếu luôn tràn ngập

hình ảnh thiên nhiên tạo nên những công thức dân ca của dân tộc mình, đó là

những hoa, những bƣớm, những chim, cây cầu, con đƣờng…và hầu hết hình

tƣợng đó đều mang một ý nghĩa nhất định. Nó vừa nhƣ một sự so sánh ngầm,

vừa nhƣ một ẩn dụ phù hợp với tâm trạng của nhân vật muốn bày tỏ tƣ tƣởng,

tình cảm của mình. Dùng thiên nhiên, cảnh vật để đối chiếu, thể hiện sự phong

phú đa dạng trong đời sống tình cảm của con ngƣời là lối diễn đạt quen thuộc

của dân gian. Song với mỗi một dân tộc đều có quan niệm thẩm mĩ thể qua

nghệ thuật so sánh khác nhau.Với ngƣời Tày Bắc Quang là tất cả những gì gần

gũi, thân thiết, mộc mạc, đơn sơ giữa đại ngàn thiên nhiên sừng sững vốn có.

Qua nghệ thuật so sánh, chúng ta thấy đƣợc vẻ đẹp tâm hồn, trí tƣởng

tƣợng đặc biệt sáng tạo cũng nhƣ những nét sinh hoạt văn hoá, phong cách đặc

thù rất riêng của dân tộc; Thấy đƣợc những giá trị nhận thức có giá trị mĩ cao

trong đời sống tinh thần của đồng bào Tày nơi đây.

3.2.2. Biện pháp điệp ngữ tu từ (công thức trùng điệp)

Điệp ngữ (còn gọi: lặp): Là lặp lại có ý thức những từ ngữ nhằm mục

đích nhấn mạnh ý, mở rộng gây ấn tƣợng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc

trong lòng ngƣời đọc, ngƣời nghe”[28. Tr.93].

101

Điệp ngữ là sự lặp lại một ý thơ, một dòng thơ, một câu thơ, thậm chí

một khổ thơ theo nguyên tắc điệp ý, điệp cấu trúc ngữ pháp nhằm nhấn mạnh

hoặc mở rộng ý, gây ấn tƣợng hoặc gợi ra những cảm xúc mạnh trong lòng

ngƣời đọc ngƣời nghe.

Công thức trùng điệp này đƣợc sử dụng rất nhiều trong ca dao dân ca trữ

tình nói chung và Hát Iếu của dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang nói riêng.

Tuy nhiên, với mỗi một dân tộc đều có mức độ sử dụng khác nhau, trong Hát

Iếu, hầu hết các lời ca đều sử dụng biện pháp trùng điệp. Đây cũng là lối diễn đạt

đặc trƣng tạo nên nhịp điệu, tiết tấu, sức hấp dẫn cho làn điệu dân ca Iếu ở đây.

3.2.2.1. Điệp ý

Trong Hát Iếu ngƣời Tày Bắc Quang không chỉ dùng một hình ảnh, một

tâm trạng mà luôn có sự lặp lại của nhiều hình ảnh, tâm trạng theo một cấu trúc

cú pháp nhằm khắc họa sâu sắc nội dung cần diễn tả giống nhƣ nhân vật trữ

tình ở đây gửi lời ca trong tiếng gọi Bƣớm hoa da diết:

Bƣớm hoa ơi bƣớm hoa

Trăng tròn gọi bƣớm hoa bay ra

Bay đến đậu trời mây trời sƣơng

Chiều tối bƣớm bay theo mặt nƣớc

Ngƣời ngƣời gặp đôi bƣớm vẫn bay

Đôi bƣớm bay theo đƣờng về quê mẹ

Bay theo đƣờng về trời

Đôi bƣớm bay theo về phía trƣớc

Hai tay ngắt cành hoa muốn chầu

Đôi bƣớm chết ngƣời loạn nƣớc buồn

[4. Tr.50]

Còn đây là hình ảnh khác đƣợc lặp lại để diễn tả tâm trạng tình cảm của

chàng trai “Thân Pi” muốn trồng trầu tƣơi tốt “Piúc miàu luôm thặm”, muốn

102

đắp nƣớc bể vào mƣơng “Pản nặm pế khảu mƣơng”, muốn phát rừng rậm làm

vƣờn “Phát đông quảng hẹt thuôn”…song tình cảm đó không đƣợc đáp lại:

Thân pi cụng muổn piúc miàu luôm thặng

Lac miàu pay lai lặm khỏ chƣơng

Thân pi cụng muổn pản năm pế khảu mƣơng

Nặm pế pay lai luồng khỏ pản

Thân pi cụng muốn phát đông quảng hẹt thuôn

Đông quảng mì cần chƣơng đoạn giá

Mí cần hăƣ kết bạn chá pân là

Kết hƣơng bấu pân va pióac nghịa.

(Anh muốn trồng nhiều trầu tƣơi tốt

Rễ trầu đi nhiều hƣớng khó khăn

Anh muốn đắp nƣớc bể vào mƣơng

Nƣớc bể đi nhiều luồng khó đắp

Anh muốn phát rừng rộng làm vƣờn

Rừng rộng có ngƣời chăm rồi đó.

Không ai kết bạn dối nhƣ ta

Kết hƣơng chẳng nên hoa trả nghĩa). [40. Tr.55, 56]

Mặc dù các hình ảnh đƣợc lặp lại nhƣng không lặp hoàn toàn, mà đôi khi

đó là sự thay đổi từ ngữ khiến cho ý đƣợc lặp lại không đơn điệu, nhàm chán

mà đƣợc bổ sung tạo thêm nhiều sắc thái mới, khắc họa sâu sắc hơn tâm trạng

đó. Chẳng hạn nhƣ cách điệp cú pháp nhƣng đối về từ ngữ sẽ luôn tạo ra cảm

giác mới lạ, hấp dẫn thu hút ngƣời đọc, ngƣời nghe:

Bƣớc chân đến đầu đồng phía trái

Bƣớc chân đến đầu ruộng phía phải.

[4.Tr. 64]

Nhà nhỏ nhà bốn bức

Nhà to nhà giàu sang.[4 .Tr.40]

103

Những lời ca trong Hát Iếu sử dụng biện pháp trùng điệp, điệp ý, điệp

dòng thơ đã diễn tả sinh động tâm trạng của nhân vật trữ tình trong khúc hát

giao duyên tình yêu ban đầu. Nhìn chung: “Thủ pháp điệp hai dòng thơ, ba

dòng thơ, điệp cả khổ thơ tạo nên sự tràn đầy trong mạch cảm xúc của nhân vật

trữ tình, tăng sức thuyết phục của lý lẽ và tính nhất quán của hình tƣợng thơ”,

[56.Tr. 64].

3.2.2.2. Điệp từ

Điệp từ là lặp lại một từ trong một câu hay trong một số câu tiếp theo.

Lặp từ đƣợc sử dụng với độ đậm đặc trong Hát Iếu. Trong khúc hát mời bạn

nhập cuộc chơi ta thấy nổi bật lời khuyên của cô gái thật tha thiết, cô khuyên

cho nƣớc: “Thuổm thúm băƣ bon”, “lup đom pài thài”, “Thuổm lac mòn chi”.

Khuyên mất vằn noọng khuyên mắƣ

Khuyên au nặm thuổm lup băƣ bon

Khuyên au nặm lup đon pài thài

Khuyên au nặm thuổm lac mòn chi

Khuyên au mèng thi oóc lọng.

Khuyên nữa em khuyên tiếp

Khuyên cho nƣớc ngập lụt lá mon

Khuyên cho nƣớc tràn qua bãi cát

Khuyên cho nƣớc ngập rễ nƣơng dâu

Khuyên cho tiếng ve sầu ra gọi).

[8. Tr.2]

Hay:

Ngắm đến bãi soi bƣớm biến hình

Ngắm đến bãi cát bƣớm nhiều vô kể

Bãi này trâu ăn cỏ

Bãi này ngựa kéo quân.

[4. Tr.18]

104

Những từ khuyên, ngắm…cứ vậy lặp đi lặp lại trong lời ca của ngƣời

mời hát, chứa đầy sự chân thành tha thiết. Lối trùng điệp một cách dày đặc nhƣ

thế trở thành phƣơng tiện hữu hiện nhất để thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình.

Và sự lặp lại đó có tác dụng nhấn mạnh ý, gây ấn tƣợng sâu sắc, làm tăng sắc

thái biểu cảm, cảm xúc của ngƣời hát nhƣ:

Anh muốn ăn miếng trầu trong túi

Lo chồng em lội suối đến tìm

Anh muốn ăn miếng trầu trong khăn

Lo chồng em lộn rừng đến mắng.

[40.Tr.56]

Nhiều lời ca trong Hát Iếu cùng lúc sử dụng cả phép điệp ý, điệp từ, điệp

cú pháp (kiểu câu) đã tạo nên mạch cảm xúc dạt dào tuôn chảy. Lời ca về giấc

mơ của chàng trai sau là một ví dụ điển hình:

Nửa đêm ngủ buồn mơ man mác

Mơ đƣợc tấm lụa mới gối đầu

Mơ thấy bạn đến mời du ngoạn

Tỉnh giấc chẳng thấy bạn ở đâu

Giấc mơ sao giấc mơ không thiêng

Niềng niễng không ƣớt nƣớc

Mơ đánh câu câu chìm

Mơ cất vó cần nhỏ

Mơ mồi gà đầu thuyền

Mơ đánh cờ lƣng ngựa

Mơ nhìn thấy gƣơng mặt anh yêu.

[8.Tr.53]

Thủ pháp trùng điệp này còn là một biện pháp tạo nên tính nhịp điệu, tiết

tấu cho câu hát. Nó tạo ra những điệp khúc với âm thanh du dƣơng khi trầm,

khi bổng, lúc vút cao, lúc lắng đọng dàn trải mênh mông, diễn tả phong phú đa

105

dạng các cung bậc tình cảm khác nhau khiến cho lời ca Iếu có sức sống bền bỉ,

mãnh liệt trong tâm hồn của những ngƣời yêu thơ ca dân tộc mình trong mọi

thời đại.

3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong Hát Iếu.

Trong quá trình sáng tác dân ca Iếu, các tác giả của những bài hát ấy

chƣa có ý thức rõ rệt về hai phƣơng diện nghệ thuật không gian và thời gian

nhƣ một phạm trù thi pháp. Tuy nhiên qua những lời ca đó chúng ta vẫn cảm

nhận đƣợc những tín hiệu nghệ thuật về thời gian và không gian trở đi trở lại

nhiều lần trong tác phẩm. Điều đó cho ta thấy rằng Hát Iếu đã phần nào tự bộc

lộ đƣợc giá trị nghệ thuật của họ thông qua những sáng tác tƣởng nhƣ bình dị,

giản đơn ấy. Đúng nhƣ ý kiến: “Thời gian và không gian nghệ thuật là những

mặt của hiện tƣợng khách quan đƣợc phản ánh trong tác phẩm tạo thành thế

giới nghệ thuật trong tác phẩm.” [25]

Không gian và thời gian nghệ thuật của tác phẩm là hai yếu tố thƣờng đi

liền với nhau, song trong quá trình nghiên cứu chúng ta có thể xét riêng hai yếu

tố này để tìm ra những nét đặc sắc của tác phẩm.

3.3.1. Thời gian nghệ thuật

Theo Giáo sƣ Trần Đình Sử thì: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta

có thể thể nghiệm đƣợc trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài

của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời gian và hiện tại, quá khứ

hay tƣơng lai”. Và do đó: “Thời gian nghệ thuật là thời gian đƣợc cảm nhận

bằng tâm lý, qua chuỗi liên tục các biến đổi (biến cố) có ý nghĩa thẩm mỹ xảy

ra trong thế giới nghệ thuật”[55].

Nhƣ vậy, chúng ta thấy rằng thời gian nghệ thuật là hệ thống thời gian

liên hệ, nối liền mọi sự vật hiện tƣợng trong đời sống tự nhiên. Nó không chỉ là

phƣơng tiện triển khai hình tƣợng mà còn là phƣơng tiện khám phá sự vận

động của cuộc sống. Nói thời gian nghệ thuật là hình tƣợng nghệ thuật, bởi vì

đó là sản phẩm sáng tạo khách quan trong chất liệu làm nên nghệ thuật của tác

106

giả. Thời gian nghệ thuật còn là biểu tƣợng, tƣợng trƣng thể hiện quan niệm

của nhà văn về cuộc đời con ngƣời.

Thời gian nghệ thuật trong Hát Iếu cũng không đơn thuần là sự thể hiện

quan niệm của ngƣời Tày về thời gian vật lý, mà nó còn là hình tƣợng nghệ

thuật sinh động có tổ chức, kết cấu trong mạch cảm xúc tâm trạng của con

ngƣời về cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống của tình yêu đôi lứa trong khúc hát

giao duyên buổi ban đầu. Vì thế mà thời gian đƣợc cảm thụ trong Hát Iếu là

thời gian nghệ thuật phong phú, đa dạng.

3.3.1.1. Thời gian nghệ thuật trong Hát Iếu là thời gian hiện tại.

Hát Iếu là những tác phẩm của văn học dân gian của đồng bào ngƣời Tày

Bắc Quang đƣợc cất lên trong đời sống cộng đồng. Nếu lời ca của Hát Iếu là

những lời ca ứng tác thì nó sẽ luôn luôn đƣợc gắn với môi trƣờng và cách thức

diễn xƣớng cụ thể. Ở đây vai trò của ngƣời diễn xƣớng là rất quan trọng. Do

vậy mà thời gian của tác giả và thời gian của ngƣời thƣởng thức (ngƣời nghe)

cũng hoà lẫn với thời gian hiện tại của ngƣời hát. Vì thế chúng ta có thể khẳng

định rằng thời gian trong Hát Iếu là thời gian hiện tại. Điều này chúng ta thấy

khác với thời gian trong truyện cổ tích luôn luôn là thời gian quá khứ phiếm

định hay thời gian trong truyền thuyết luôn luôn là thời gian quá khứ xác định.

Trong các cuộc Hát Iếu của đồng bào Tày Bắc Quang thì khung cảnh

môi trƣờng hát, thời gian diễn ra cuộc hát là thời gian hiện tại, chủ yếu là ban

đêm bên bếp lửa ấm nồng. Hầu hết những lời ca Iếu đƣợc cất lên không có từ

chỉ thời gian nhƣng đƣợc hát trong một khung cảnh thời gian cụ thể hiện tại thì

các lời hát ấy mang tính hiện tại.

Khúc hát giao duyên của Hát Iếu trong một đêm Lƣợn, chúng ta thấy

ngay lời hát mở đầu thƣờng đƣợc diễn ra vào giờ tuất (khoảng 7 giờ tối), lúc đó

tất cả mọi việc đã đƣợc chuẩn bị xong xuôi đâu vào đấy và lời ca đƣợc cất lên

với tấm lòng rộng mở, chân thành, tha thiết:

107

Giờ tuất nhà cơm xong chƣa đấy

Tất cả đã dọn xong mâm bàn chƣa đấy

Sắp mâm ra gian trái cho cháu xin thƣa

Nhắc mâm ra gian giữa cho cháu xin hát.

Sau khi thời gian đã đƣợc định đoạt thì tiếng Iếu cất lên:

Hôm nay em chăn trâu ruộng mạ

Đƣợc thấy trai khác xã đến mƣờng

Hôm nay em chăn ngựa đồng cao

Đƣợc thấy trai đƣờng xa đến trọ.

[8.Tr.34]

Mặc dù trạng từ chỉ thời gian là hôm nay nhƣng thực chất hôm nay lại

đang đƣợc cất tiếng vang lên trong thời gian thực tại - thời gian diễn xƣớng của

đêm Iếu. Thời gian này luôn phù hợp với mọi hoàn cảnh, đối tƣợng nhằm diễn

đạt tâm tƣ tình cảm cũng nhƣ tâm lý của ngƣời diễn xƣớng trong tại thời điểm

diễn ra cuộc hát. Vì thế mà thời gian ấy mang tính ƣớc lệ.

Cũng giống nhƣ dân ca của các dân tộc khác, dấu hiệu của thời gian diễn

xƣớng hiện tại đƣợc biểu hiện qua sự xuất hiện của các từ mang tính chất chỉ

thời gian nhƣ: Đêm nay, bây giờ, hôm nay, ngày mai, đêm ngày…Khi hát

ngƣời diễn xƣớng có thể thay đổi những từ chỉ thời gian ấy trong hiện tại sao

cho phù hợp với hoàn cảnh, địa điểm, thời gian diễn xƣớng. Đúng nhƣ ý kiến:

“Cốt sao đảm bảo thể hiện cảm xúc trữ tình trong câu (bài hát) tạo sự thông

cảm, gần gũi giữa những ngƣời tham gia cuộc hát hiện tại”, [51: 133]. Ví dụ

nhƣ:

Nhiều ngày anh không đƣợc đi chăn trâu ruộng mạ

Hôm nay anh mới đƣợc chăn trâu ruộng mạ

Nhiều ngày anh không đƣợc chăn ngựa ruộng đồi

Hôm nay mới đƣợc chăn ngựa ruộng đồi

Mới đƣợc nhìn thấy gái bản khác đến trọ

108

Cho anh xin mở lời trƣớc bữa tối

Gái bản xa rơi mƣờng, ta xin cùng vui chơi.

[5.Tr.45].

Ở đây ngƣời hát có thể thay đổi trạng từ chỉ thời gian “hôm nay” bằng từ

“bây giờ” để phù hợp với không gian, tâm trạng, hoàn cảnh của cuộc hát đang

diễn ra.

Thời gian mang tính ƣớc lệ trong ca dao dân ca các dân tộc đƣợc sử dụng

rất nhiều, đặc biệt là thời gian biểu hiện quan niệm và biểu thị thời gian nhƣ

một đại lƣợng không cụ thể, thiếu tính xác định nhƣ:

Trong ca dao Việt Nam:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau,

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Hay trong dân ca Dao:

Đôi ta quen nhau từ thuở trƣớc

Nhớ lời hẹn ƣớc từ năm nao

Vì ở nơi xa ngƣời mỗi ngả

Nay nhớ buổi hẹn hò hôm nào.[54. Tr.202]

Trong lời ca Iếu ta cũng gặp:

Nhớ bạn giữa canh khuya gà gáy

Sao khuất làn mây trắng đi nằm.

[8.Tr.44].

Hay:

Gặp hoa vui với hoa một xuân

Gặp gió vui với gió một thời.

[8.Tr.53]

Thời gian ƣớc chừng thƣờng đi đôi với tâm trạng của nhân vật trữ tình do

đó thời gian có thể co giãn theo chủ quan của con ngƣời, đáp ứng nhu cầu thể

hiện cảm xúc buồn vui, mong đợi…của con ngƣời.

109

Nhƣ vậy, thời gian trong lời ca Iếu luôn luôn là thời diễn xƣớng thực tại,

cách thể hiện thời gian trong Hát Iếu của tác giả với tƣ cách là cá thể - cái tôi

trữ tình không đƣợc biểu lộ mà nổi bật lên vẫn là vai trò của ngƣời diễn xƣớng

tạo nên nét đặc trƣng vốn có của dân tộc. Điều này cũng lý giải cho sức sống

của những lời ca Iếu mạnh hơn giai điệu của những dàn nhạc đệm hoành tráng.

3.3.1.2. Thời gian nghệ thuật trong Hát Iếu là thời gian hiện thực.

Nếu nhƣ thời gian diễn xƣớng thực tại giữ vai trò quan trọng, bao trùm

trong việc đáp ứng, phù hợp những yêu cầu bày tỏ tâm tƣ, tình cảm trong thời

điểm ngƣời diễn xƣớng; Thì thời gian trong tác phẩm là thời gian phản ánh

thực tại, phản ánh thông qua cảm nhận về sự vận động của thời gian.

Trong sự vận động của thời gian, tâm trạng con ngƣời luôn luôn biến đổi.

Nói cách khác, trong cảm giác về sự thay đổi, vận động của thời gian có sự

thay đổi về tâm trạng cảnh ngộ của con ngƣời.

Đây là tâm trạng của cô gái khi trông ngắm “bióoc Ca” nở giữa lúc vắng

vẻ có bóng nguyệt soi, nở lúc sƣơng đêm rơi xuống lạnh ƣớt đồng. Để rồi trong

cô là khối sầu dằng dặc, đau đáu trong tim “Lọi lọi điếp mà chăƣ lọi lọi”:

Liót phioa mừa hăn nạu bióc ca phống đàn

Bióc ca phống lâm lan tờ quẹng

Trang khừn tốc mƣơi lẹng lằm nà

Bỏng nguyệt chơi khảu mà chại chăng

Puồn lai noọng tứn năng vọng thân

Phung moóc kéng phung lồm bên phỏng

Phung moóc chắc pay vọng phƣơng hăƣ

Lọi lọi điếp mà chăƣ lọi lọi

Phai ná phai tế nọi hẳƣ cam

Biển pân mèng lầm than tom bióc

Me pế thinh làu oóc hẹt lăng

Tôi làu chắng pết căn giờ nạy

110

(Nhìn núi thấy hoa “Ca” nở đều,

Hoa “Ca” nở giữa mùa vắng vẻ.

Nửa đêm sƣơng lạnh xuống ƣớt đồng,

Ánh trăng soi vào nhà chếch bóng

Buồn lắm em ngồi dậy than thân.

Mây gió cuốn nhau bay thấp thoáng,

Mây cuốn biết đi vọng phƣơng nào,

Tha thiết nhớ trong tim đau đáu,

Chết không chết từ nhỏ cho cam.

Biến thành ve lầm than tìm nhị,

Mẹ bể sinh ra để làm gì?

Đôi ta phải xa nhau ôi nhớ).

[40.Tr.53]

Thời gian với lứa đôi luôn là thời gian của tình yêu tràn ngập niềm vui,

trong lòng họ một năm có mƣời hai tháng thì cả mƣời hai tháng họ đều mong

muốn cùng nhau sánh bƣớc:

Tháng giêng sánh tháng hai

Bố Bụt mở cửa sổ hoa

Tháng hai sánh tháng ba

Bố Bụt mở cửa sổ ngƣời

Tháng ba sánh tháng tƣ

Bố Bụt mở sổ thuyền

Tháng tƣ sánh tháng năm

Bố Bụt mở cửa sổ nƣớc

Tháng năm sánh tháng sáu

Bố Bụt mở cửa sổ lộc

Lộc ngăn nƣớc vào ruộng

Tháng sáu sánh tháng bảy

111

Bố Bụt mở cửa sổ sắt

Tháng bảy sánh tháng tám

Bố Bụt mở cửa sổ nắng

Nắng đi chơi nắng đẹp

Nắng về ruộng, nhà cửa nắng tròn

Tháng tám sánh tháng chín

Bố Bụt mở cửa sổ rừng

Tháng chín sánh tháng mƣời

Bố Bụt mở cửa chiêng núm

Tháng mƣời một sánh tháng mƣời hai

Bố bụt mở cửa sổ lớn đón xuân.

[4.Tr.81, 82]

Đôi khi mƣời hai tháng đó cũng chứa đựng bao nỗi buồn chất chứa:

Tháng giêng buồn nắng vàng gió thoảng

Tháng hai buồn côn trùng kêu hoa nở

Tháng ba buồn hoa xoan

Tháng tƣ buồn cất quả không yên

Tháng năm buồn theo công việc

Tháng sáu buồn mƣa to nƣớc lũ

Tháng bảy buồn bữa cơm không cùng

Tháng tám buồn lúa sớm chín đầu

Tháng chín buồn lúa nếp chín đỏ

Tháng mƣời buồn trai gái đều ở ruộng

Tháng mƣời một đón khách

Tháng mƣời hai buồn mặt việc giêng, hai

Rƣợu qua cùng vui xuân thƣờng lệ.

[5.Tr. 135]

112

Trong khúc ca Iếu thời gian là cuốn nhật kí ghi lại từng khoảnh khắc,

từng hơi thở của cuộc sống, vì thế, trong tình yêu chúng ta cần biết phải trân

trọng và lƣu giữ nó:

Ve mùa khô mùa chơi hay gọi

Trời sinh dặt mùa hạ mùa đông

Trai gái vui có thời

Tình yêu vui có tháng

Nhà cửa dựng có ngày

Nhƣ khung dệt thổ cẩm

Hai ta chẳng e ngại mới thành.

[8.Tr.44].

Mọi cảm xúc của con ngƣời thông qua thời gian đều đƣợc biểu hiện lúc

vui, lúc buồn, lúc hi vọng, lúc băn khoăn, day dứt…Tất cả những cảm nhận

nhƣ thế trong lời ca Iếu đậm chất hiện thực, khi tiếng Iếu ngân lên cũng là lúc

chiều sâu cảm xúc và tâm trạng của con ngƣời sâu sắc và chân thực hơn. Đó

cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp trong tâm hồn của ngƣời Tày chân thật,

ngay thẳng, hồn hậu.

3.3.2. Không gian nghệ thuật

Cũng nhƣ thời gian nghệ thuật thì không gian nghệ thuật là hình thức tồn

tại của thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật vừa là đại lƣợng chỉ địa

điểm, vừa gắn với trƣờng nhìn, điểm nhìn, môi trƣờng hoạt động. “Không gian

nghệ thuật trở thành phƣơng tiện chiếm lĩnh đời sống, đôi khi mang ý nghĩa

biểu tƣợng nghệ thuật. Là một hiện tƣợng nghệ thuật, không gian nghệ thuật là

một hình tƣợng ƣớc lệ mang ý nghĩa cảm xúc tƣ tƣởng”, [68.Tr.146].

Không gian nghệ thuật trong Hát Iếu cũng đa dạng và phong phú, không

gian ấy có lúc là không gian của cuộc sống lao động sinh hoạt gần gũi, đời

thƣờng, có lúc là không gian thiên nhiên đa sắc màu phản ánh tâm trạng con

ngƣời trong cuộc sống.

113

3.3.2.1. Không gian sinh hoạt

Không gian sinh hoạt là nơi diễn ra mọi sinh hoạt của con ngƣời, không

gian ấy thƣờng gắn với cảnh vật nơi mà con ngƣời sinh sống. Đó có thể là bến

đò, cây đa, mái đình, đồng ruộng…của ngƣời Kinh; Còn trong Hát Iếu không

gian hiện lên là tất cả những gì gần gũi thân thuộc với cuộc sống của đồng bào.

Không gian ấy gắn liền với địa điểm diễn xƣớng đặc thù của ngƣời dân miền

núi nhƣ trên nƣơng rẫy, bên ruộng đồng, bên bờ suối, ven chợ hay trên nhà sàn,

bên bếp lửa...:

- Xoè quạt đón lời hay

Nâng quạt đón lời đẹp

Lời hay em kkhông cho rơi rát

Lời đẹp em không cho qua lòng.

[8.Tr. 37]

- Ra đồng gặp hoa thơm

Đi đƣờng thấy gái đẹp

Muốn nhặt không chỉ sâu

Trông thấy hoa đƣờng xa muốn nhặt.

[8.Tr.35]

Tất cả những không gian quen thuộc ấy đều trở thành không gian nghệ

thuật, nơi nảy sinh bao cảm xúc của các chàng trai, cô gái Tày; trở thành không

gian bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng:

Gió thổi lên vƣờn mía

Nắng chói khắp chốn quê

Mới biết là dạm bạn

Biết là ngƣời trong bản dạm nhau

[40.Tr.6]

114

Và:

Núi dƣới tựa con thuyền

Núi trên tựa bóng cọn

Núi này có rồng thắm lƣợn bay

Bay đi đậu cửa mây hứng gió

Bản làm ăn giàu có ơn rồng.

[40.Tr.13]

Qua quá trình khảo sát 216 bài ca Iếu trong hai tập thơ Tày Chồm bióoc

mạ và Ra mắt bố mẹ của Hoàng Thị Cấp cùng cuốn Iếu dân ca dân tộc Tày của

ông Hoàng Văn Chữ, chúng tôi thấy có sự nổi bật lên trong không gian sinh

hoạt của ngƣời Tày Bắc Quang trong Hát Iếu là không gian “bản - mƣờng”

đƣợc nhắc tới 84 lần và không gian “nhà” là 63 lần. Bản, mƣờng của ngƣời Tày

vốn có qui mô tƣơng đối rộng lớn và trù phú. Nhà ở chủ yếu là nhà sàn dựa

lƣng về phía đồi núi cao hay bên suối và hƣớng ra đồng ruộng rộng lớn.Vì đặc

điểm ấy mà các bản làng của ngƣời Tày luôn có sự giao lƣu, hoà hợp cùng

nhau sinh sống, phát triển cộng đồng. Hát Iếu là làn điệu dân ca đƣợc sinh ra

trở thành “món ăn tinh thần”, thành “nguồn vốn tri thức” vô cùng cần thiết

trong các cuộc Iếu giao duyên hằng đêm của họ. Đây là lời ca ca ngợi tiếng Iếu

của các chàng trai cô gái cất lên trong không gian tĩnh lặng, ấm áp bên bếp lửa

nhà sàn ấm nồng:

Đêm xuống khắp làng trên

Đêm xuống khắp mƣờng dƣới

Đêm xuống có trăng rằm

Họ yêu nhau khắp chốn.

[40.Tr.4]

Không gian bản mƣờng hiện lên trong tiếng ca Iếu với hình ảnh khang

trang, rộng lớn, bề thế. Đó là vẻ đẹp của những cánh đồng bao la, là con đƣờng

hoa rải khắp mặt đƣờng, là không khí sôi nổi, háo hức trong mỗi ngày hội Lồng

115

Tồng xuân đến…Không gian bản làng đã đi vào từng câu hát giao duyên, từng

nhịp đập trái tim của biết bao chàng trai cô gái chập chững bƣớc vào buổi ban

đầu yêu thƣơng. Không những thế bản làng còn là những nét đẹp trong sắc thái

văn hoá truyền thống của ngƣời Tày. Ở đó còn là không gian sinh hoạt gần gũi

thân thuộc gắn kết mỗi cá nhân với gia đình, với dòng họ, với cả bản mƣờng

mà đứng đầu là các già làng, trƣởng bản, sinh sống theo phƣơng thức tự quản

rất đặc thù. Đây là lời ngợi ca của chàng trai làm khách khi đến mƣờng bạn:

Bản ngƣời lớn thật lớn

Mƣờng ngƣời rộng thật rộng

Mƣờng ngƣời sinh đất đai trù phú

[4.Tr.15]

Trong bƣớc chân ngỡ ngàng của chàng trai khi tới mƣờng bạn, một

không gian rộng lớn, không gian bốn chiều mở ra trƣớc mắt chàng trai vừa thực

vừa mộng. Đó là không gian của “bổn phƣơng” có rồng chầu uốn khúc, có bách

hổ chầu phục, đặc biệt là có bách hoa nở lai láng, có núi kéo bốn phía xung

quanh…: Tốc tông pi chầm tông bổn phƣơng

Tốc mƣờng pi chầm mƣờng bản ta

Mƣờng cần rộc au nhan thổ đa

Tứ phƣơng luồng chàu mà uổn khúc

Hựu bạch hổ chàu phục bằng chăng

Mƣờng cần phoa trải thơn quảng đạng

Bách va nở lai cáng bằng an

Van vụ tập hai hàng lao sao

Pù thung kẻo xung quanh bách vận

Tử bức tông nặm phuân tốc lồng

Mƣờng cần mì luồng va uẩn khúc

Đông kéng tây bấu thiểu sắc tàng

ỷ nhƣ boóc tàng an thinh trự

(Rơi xuống mƣờng anh xem mƣờng bốn phƣơng

116

Rơi xuống mƣờng anh ngắm mƣờng bản lạ

Mƣờng ngƣời rộng bao la

Tứ phƣơng rồng về chầu uốn khúc

Có Bách Hổ chầu phục về mƣờng

Mƣờng ngƣời về rải thơm quảng đại

Bách hoa nở lai láng bằng an

Vạn vật tụ hai hàng lao xao

Núi cao kéo xung quanh bách vận

Bốn phƣơng mƣa thuận gió hoà

Mƣờng ngƣời có cầu vồng uốn khúc

Đông và tây rất nhiều đƣờng đi

Y nhƣ hoa rải khắp mặt đƣờng).

[40.Tr.45]

Bên cạnh không gian “bản mƣờng”, không gian gia đình với những ngôi

nhà cũng xuất hiện nhiều trong Hát Iếu, đây có lẽ là ngôi nhà mơ ƣớc trong lời

ca của nhân vật trữ tình:

Nhà nhỏ nhà bốn bức

Nhà to nhà giàu sang

Nhà rồng nhà chính chuyên

Mƣời hai gian nhà đều rải khắp

Bậc cửa sổ bọc vàng

Cột nhà vẽ nhiều chữ

Xà nhà vẽ rồng phƣợng vảy vàng

Mái nhà khéo lợp ngói

Hai bên mới nối nhiều tiền bạc

Trƣớc nhà có vƣờn hoa

Nút lạt buộc tựa cầu vồng

Nút mây buộc tựa rồng cuốn.

[4.Tr.40]

117

Ngay từ khi mới gặp nhau chàng trai ngƣời Tày đã gửi lời tỏ tình mơ ƣớc

đƣợc gắn bó nhƣ con chim chích bay về “năng táng kíc rƣờn nàng”, “chắp pioai

giàn” và mong muốn lớn nhất là đƣợc bay vào ngồi “ năng giƣờng chang rƣờn

noọng”:

Lừ đảy thêm lừ đáy

Nộc chích la mƣa chắp pioai thích

Ƣớc lừ đảy mừa năng táng kích rƣờn nàng

Chíp la mừa chắp pioai giàn

Ƣớc lừa vằn pi đảy mừa năng giƣờng chang rƣờn nọng.

Làm sao đƣợc làm sao

Làm sao đƣợc nhƣ con chim chích

Bay về đậu cuối “thích” nhà em

Chim chích đậu cuối giàn

Ƣớc sao bay vào nhà em đƣợc).

[8.Tr.56]

Có thể nói qua lời ca của chàng trai ta thấy không gian sinh hoạt quen

thuộc đối với ngƣời Tày là không gian của nhà sàn, mà “Táng kích” hay “Thích

ma” là nơi gẫn gũi nhất trong cuộc sống sinh hoạt thƣờng nhật của họ. “Táng

kích” là nơi trang trọng ở gian trên cùng, gần cửa sổ của nhà sàn có thể nhìn

ngắm ra không gian rộng lớn ở phía trƣớc. Đó là nơi chỉ có khách quý, những

ngƣời cao tuổi, đàn ông mới đƣợc ngồi trên đó.

Đặc biệt hơn trong lời tỏ tình khéo léo của chàng trai ví “nọng” nhƣ

chính ngôi nhà của mình nên chàng muốn gắn bó suốt đời và không muốn đi

tìm ai hơn nữa. Ngôi nhà hiện lên vừa cao, vừa xa vừa gần và dƣờng nhƣ đã trở

thành biểu tƣợng trong tâm thức của ngƣời Tày:

Nhà anh ở trên trời

Vợ anh ở trên mây

Tất cả còn trông chờ em đó

118

Nhà anh tựa thân em

Vợ anh tựa bóng em

Cho anh đi tìm ai hơn nữa.

[8.Tr.50]

Cũng trong ngôi nhà, tình yêu chân chính mới đƣợc khẳng định và đón

nhận:

Áo chàm tay xanh thắm

Anh đứng trƣớc bàn tổ nhà em,

Cha mẹ em mới gọi anh là rể

Áo chàm xen lụa vàng

Anh đứng giữa nhà em,

Thì em mới gọi anh là ngƣời chung thuỷ.

[8.Tr.56]

Ngoài ra chúng tôi còn tập hợp đƣợc thêm hình ảnh về con đƣờng (76/

216) bài sử dụng hình ảnh “con đƣờng”. Đó là một không gian vừa rộng mở

vừa khái quát, rộng mở vì ta bắt gặp trên con đƣờng sinh hoạt quen thuộc đó là

những ngả đƣờng trải rộng, quanh co, lắt léo nhƣng cuối cùng mọi ngả đƣờng

đều hội tụ, trở về lối đi chính duy nhất để vào đƣợc bản. Nhân vật “pi” (chàng

trai) muốn đi vòng qua quãng đƣờng vừa xa xôi vừa cách trở ấy đế bày tỏ nỗi

lòng của mình. Anh mƣợn không gian rộng lớn của con đƣờng để cho anh

đƣợc: “Phác tôi én nhạn mừa nòn”, “Tôi luồng mừa tó nả chảu”, anh muốn qua

những con đƣờng dài, quanh co ấy để thành đôi én nhạn, đôi rồng cùng em

sánh bƣớc:

Tham thíp qué tàng tạu, cảu thíp qué tàng tom

Tham thíp thong tàng ngạ ba mà cáp

Tàng hăƣ tàng mừa me, qué hăƣ qué mừa tiên

Tàng hăƣ tàng chính tuyên khảu bản

Hẳƣ pi phác tôi én nhạn mừa nòn

119

Hẳƣ pi phác tôi luồng còn mừa tó nả chảu”…

(Ba mƣơi ngả đƣờn vòng, chín mƣơi ngả đƣờng quanh

Ba mƣơi hai ngã ba đƣờng gặp nhau

Đƣờng nào về quê mẹ, đƣờng nào đƣờng lên tiên

Đƣờng nào là đƣờng chính nhất vào bản

Cho anh gửi đôi nhạn về cùng

Cho anh gửi đôi rồng về ở).

[40.Tr.26]

Cũng có lúc không gian của con đƣờng hiện lên là không gian thực gần gũi,

song con đƣờng cũng chứa đựng tâm trạng, cảm nhận, sự đánh giá của con ngƣời:

Đƣờng ngƣời rải cây nứa ống dài

Đƣờng ngƣời rải cây piao ống đẹp

Đƣờng ngƣời rải cây gai chọc chân

Đƣờng ngƣời rải đá đi bị vấp.

[4: 68]

Từ không gian sinh hoạt trong lời ca Iếu, ít nhiều chúng ta hiểu thêm

đƣợc phần nào về phong tục tập quán, nếp sinh hoạt văn hoá truyền thống và

quan niệm về cuộc sống của ngƣời Tày nơi đây. Họ luôn gắn bó thân thiết với

bản làng, gia đình, dòng tộc, yêu quý nếp sống, sinh hoạt văn hoá cộng đồng,

Cuộc sống của họ cũng chân chất, thực tế không hề triết lí, suy tƣởng cao

xa. Họ vui với cảnh nghèo nàn, những thành quả mình tạo lập và mơ ƣớc cảnh

thanh bình, cốt sao có thể yêu thƣơng gắn bó, đoàn kết. Tâm hồn họ sáng lên vẻ

đẹp chân thực, mộc mạc, bình dị nhƣ cuộc sống trong lành mà họ vốn có.

3.3.2.2. Không gian thiên nhiên

Thiên nhiên rộng lớn, gần gũi với cuộc sống của đồng bào miền núi là

không gian của cảnh vật ven rừng, bờ suối, núi đồi rộng lớn đến không gian

của sinh sống của tự nhiên là bƣớm, là chim, là hoa…Những không gian ấy đã

trở nên thân thiết và quen thuộc từ bao đời nay. Mang trong mình vẻ đẹp của tự

120

nhiên phong phú và đa dạng, không gian thiên nhiên đã trở thành đối tƣợng để

con ngƣời đối chiếu, bộc lộ tâm trạng trong những bài Hát Iếu. Và xuyên suốt

trong những lời ca ấy là không gian thiên nhiên gần gũi với đồng bào, đậm chất

trữ tình sâu sắc:

Bƣớm trắng ơi bƣớm trắng

Bay về đậu cây đào phía trên

Cành chuyền cành đi mãi

Đôi bƣớm bay mãi về phía trƣớc

Hàng năm xuống thiên hạ chơi hoa

Mọi thứ hoa rừng bƣớm đều đến

Cùng nhau chơi hoa khắp bốn phƣơng.

[4.Tr.52]

Hát Iếu cũng nhƣ các làn điệu dân ca khác đều mang trong mình vẻ đẹp

của thiên nhiên - thiên nhiên hiện lên với đủ màu sắc chân thật nhƣ nó vốn có.

Song đằng sau vẻ đẹp ấy thƣờng là nơi gửi gắm, chứa đựng tâm trạng con

ngƣời, gắn với chức năng giao duyên, thổ lộ, bày tỏ tình cảm, đặc biệt là tình

cảm đôi lứa: Hoa phặc phiền nở mặt đá cuống đen

Chiều đến có đôi ƣơng vỗ cánh

Hai tin ngƣời mặt đá mong mỏi

Hai hồn ƣớc lấy nhau chẳng đƣợc.

[4.Tr.120]

Thiên nhiên luôn đồng hành cùng con ngƣời những nỗi nhớ niềm thƣơng

tha thiết: Hoa bƣởi nở trong vƣờn trắng xoá

Hoa nở còn có chủ đứng trông

Muốn bẻ cũng lo gai

Muốn chặt cũng lo chủ nhà mắng

Cúi mặt dƣớc gốc hoa về không

Tới nhà nghĩ tới hoa càng nhớ.

[40.Tr.53]

121

Không chỉ vậy, con ngƣời khi đứng trƣớc thiên nhiên hùng vĩ dù nhỏ bé,

yếu đuối nhƣng họ vẫn vững vàng cùng nhau vƣợt qua nhƣ cuộc sống hạnh

phúc trắc trở gian nan qua cơn bão táp rồi lại bình yên:

Ngắm đến dốc to đại ngàn

Hai bên núi đá nghiêng xuống che

Đôi ta cùng đi qua không đƣợc

Dốc nhỏ đi quanh về co

Dốc này đi uốn về khúc

Hai tay níu gốc cây to lên dốc

Leo dốc không kêu nặng kêu mệt

Dốc này leo cả đời thêm sức

Leo dốc không kêu ca

Dốc này lên bình an thiên hạ.

[4.Tr.70]

Thiên nhiên chở che cho con ngƣời song thiên nhiên cũng dữ dội và đáng

sợ, đó là không gian của những con đƣờng sâu hun hút quen thuộc nơi rừng

thiêng nƣớc độc “Đông luông thái lẻ”, “Đông ké pù phia”:

Tàng cần lộc đông luong thái lẻ

Tàng cần lộc đông ké pù phia

Mờ xít én bân mà mí đảy

(Đƣờng ngƣời rậm núi cao vực sâu

Đƣờng ngnƣời rậm núi sâu rừng già

Thuở xƣa én bay về không đƣợc)

[5.Tr.6,7]

Trong không gian mịt mù của tự nhiên tiếng gió xoáy làn mây, gầm trên

nóc, rít bên tai…tạo cho con ngƣời cảm giác sợ sệt:

Tiếng gió xoáy làn mây

Tiếng gió gầm trên nóc

122

Gió mây gầm bến thông

Gió rít trên ngọn cây

Thứ gì rát bên tai

Thức giấc giữa mịt mùng

Tiếng gió gầm trên nóc

[40.Tr.6]

Mặc dù thiên nhiên dữ dội, nhƣng có lúc không gian thiên nhiên trong lời

ca Iếu nhƣ có sự hoà hợp tâm trạng con ngƣời:

Buổi sáng trời lất phất sƣơng bay

Lòng em muốn bằng nhƣ mặt nƣớc

[40.Tr.48]

Nhƣ vậy, Không gian nghệ thuật trong Hát Iếu luôn có sự đan xen giữa

không gian sinh hoạt với không gian thiên nhiên,… nói cách khác đó là không

gian vật lý đan xen với không gian tâm lý. Qua không gian nghệ thuật này

chúng ta thấy đƣợc tâm trạng con ngƣời đƣợc bộc lộ với nhiều cung bậc, cảm

xúc khác nhau tạo nên tính đa dạng, phong phú trong đời sống tình cảm; gián

tiếp bày tỏ hoàn cảnh, đời sống riêng tƣ, đời sống gia đình, bản làng và xã hội

với phong tục, tập quán, tín ngƣỡng của đồng bào Tày.

Tiểu kết:

Hát Iếu mang những đặc trƣng chung của dân ca trữ tình cả về nội dung

và hình thức nghệ thuật. Qua nghiên cứu một số phƣơng diện nghệ thuật nhƣ

thể thơ, các biện pháp tu từ nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật…

giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về giá trị Hát Iếu của địa phƣơng Bắc Quang -

Hà Giang; Cũng nhƣ đi sâu vào việc khám phá vẻ đẹp riêng của làn điệu dân ca

dân tộc Tày.

Thể thơ trong Hát Iếu là sự kế thừa thể thơ thất ngôn có khuôn phép, quy

định của dân tộc; lại vừa có sự dung nạp của thể thơ tự do, điều này đã tạo cho

lời ca Iếu có thể diễn đạt một cách sinh động và phong phú đời sống, tâm tƣ,

123

tình cảm của đồng bào Tày. Hơn nữa trong lời ca Iếu có sự đan xen, thâm nhập

giữa các yếu tố của lời nói vào lời hát nên gây đƣợc sự chú ý của ngƣời hát

cũng nhƣ ngƣời nghe. Họ đắm chìm vào lời ca để cảm nhận, lắng nghe, nắm

bắt đƣợc ý tình đƣợc thể hiện qua ngôn từ. Điều này cũng lý giải vì sao trong

khúc ca Iếu lại vắng bóng, nghèo nàn những nhạc cụ dân gian. Yếu tố, vai trò

của nhạc cụ là hầu nhƣ không có, mà nổi bật lên là vai trò của lời ca Iếu. Qua

nghiên cứu một số phƣơng diện nghệ thuật nhƣ các biện pháp tu từ điệp ngữ, so

sánh, không gian và thời gian nghệ thuật trong Hát Iếu giúp ta có cái nhìn khái

quát toàn diện về giá trị của dân ca Iếu của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang

và có điều kiện đi sâu vào khám phá, tìm hiểu những màu sắc riêng của Hát Iếu.

124

KẾT LUẬN

Bắc Quang là một huyện miền núi, cửa ngõ đầu tiên của Tỉnh Hà Giang,

Sau nhiều lần điều chỉnh, thay đổi địa danh địa giới các đơn vị hành chính, từ

năm 2005 đến nay huyện lại chia tách ra thành hai huyện là Bắc Quang và

Quang Bình. Mặc dù có sự thay đổi về địa vực nhƣng cƣ dân cơ bản không bị

xáo trộn. Cho đến nay, dân tộc Tày ở Bắc Quang (cũ) vẫn lƣu giữ đƣợc nhiều

nét văn hoá bản địa. Qua việc tìm hiểu Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang trên

phƣơng diện nội dung và nghệ thuật, chúng tôi nhận thấy rằng huyện Bắc

Quang của tỉnh Hà giang là một tiểu vùng văn hoá dân gian giàu bản sắc trong

đó có tiếng hát giao duyên - Hát Iếu vừa mang những nét chung vừa có nét sắc

thái địa phƣơng. Song hình thức sinh hoạt văn hoá này đang bị mai một dần.

Nhờ có sự quan tâm của Đảng và nhà nƣớc, hiện nay kho tàng văn hoá dân gian

của các dân tộc đang dần đƣợc khôi phục.

Trong điều kiện và khả năng có thể, chúng tôi tìm hiểu những giá trị nội

dung và nghệ thuật tiêu biểu của loại hình sinh hoạt văn hoá Hát Iếu và bƣớc

đầu rút ra một số kết luận sau:

1. Kho tàng văn học dân gian của dân tộc Tày vô cùng phong phú và đa

dạng, cùng là hát lƣợn nhƣng mỗi vùng, mỗi địa phƣơng, mỗi khu vực lại có

những tên gọi và giai điệu, tiết tấu khác nhau, nội dung có thể gần giống nhƣ

nhau nhƣng mỗi làng, mỗi bản lại có sự thay đổi chủ đề, chữ nghĩa để phù hợp

với điều kiện hoàn cảnh giao tiếp. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang là một loại

dân ca giao duyên trữ tình đặc sắc vừa có tính dân gian vừa có tính thành văn.

Nó là văn học dân gian bởi phƣơng thức sáng tác lƣu truyền của nó là truyền

miệng và đƣợc nhuận sắc bởi tập thể. Nó là loại hình nghệ thuật diễn xƣớng

dân gian bởi sự gắn bó sâu sắc với đời sống lao động sinh hoạt của họ. Đối với

ngƣời Tày Bắc Quang cũng nhờ Hát Iếu mà bao chàng trai cô gái nên vợ, nên

chồng; cũng vì câu hát mà bao ngƣời đã có gia đình chạy theo tiếng gọi của

125

tình yêu thuở xa xƣa nhƣng không đến đƣợc với nhau. Đó còn là một làn điệu

dân ca đƣợc đúc kết từ vốn sống, vốn hiểu biết của các thế hệ xa xƣa, là kho

tàng tri thức nuôi dƣỡng tâm hồn, tình cảm, giúp cho các thế hệ con cháu không

bao giờ quên cội nguồn của dân tộc.

2. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang mang chức năng sinh hoạt xã hội, đó

thực sự là phƣơng tiện trao đổi, bày tỏ tình yêu đôi lứa của các chàng trai cô gái

Tày với nhiều cung bậc, sắc thái tình cảm phong phú và đa dạng. Đó là tấm

chân tình thiết tha nồng thắm, lời giao ƣớc kết duyên tình cảm sâu nặng và cả

những lời chia tay day dứt xót xa trong tình yêu thuở ban đầu; Đó là những bài

học đúc kết kinh nghiệm, cách ứng xử trong tình yêu, cuộc sống. Cũng nhƣ các

loại dân ca khác, Hát Iếu còn là lời bày tỏ, là tiếng hát ngợi ca cuộc sống mới từ

khi có Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Tiếng hát giao duyên trong Hát Iếu là tiếng ca

bày tỏ tâm hồn Tày một cách sâu sắc, nồng nàn, chân thực và phong phú. Lời

Hát Iếu cũng khái quát đƣợc quá trình nảy sinh, phát triển của tình yêu nam nữ

dựa trên quan niệm hôn nhân tự do, tiến bộ. Hát Iếu là tiếng lòng ngọt ngào

lắng sâu mà da diết đƣợc cất lên từ trái tim của những tâm hồn giàu tình nhân

ái, thiết tha tràn đầy khát vọng tình yêu, cuộc sống. Đồng thời Hát Iếu còn là

một hình thức sinh hoạt văn hoá văn nghệ hấp dẫn đáp ứng nhu cầu văn hoá

thẩm mỹ của đồng bào Tày ở đây.

3. Nghiên cứu về một số đặc điểm nghệ thuật trong Hát Iếu, chúng tôi

nhận thấy đây là một loại hình dân ca độc đáo của dân tộc Tày. Cũng giống nhƣ

dân ca của các dân tộc khác, Hát Iếu có những nét tƣơng đồng và khác biệt

trong hình thức kết cấu, thể thơ, các biện pháp tu từ hay không gian và thời

gian nghệ thuật…Tuy nhiên, trong tiếng Hát giao duyên của Hát Iếu thì lời văn

trau chuốt, giàu hình tƣợng, hấp dẫn, dễ rung cảm đƣợc lòng ngƣời do thể thơ

có sự dung nạp của thể thất ngôn - thể thơ có khuôn phép, quy định với thể thơ

tự do đã tạo nên sự đa dạng trong cách diễn đạt lời ca nghệ thuật. Hát Iếu còn

sử dụng thủ pháp ẩn dụ, so sánh ví von, không gian và thời gian mang tính

126

nghệ thuật cao. Nghiên cứu các yếu tố thuộc phƣơng diện nghệ thuật đƣợc thể

hiện trong Hát Iếu giúp ta có cái nhìn sâu sắc, thâm nhập vào tƣ duy của ngƣời

Tày để nhận biết khám phá những cái hay, cái đẹp, nét độc đáo của dân ca Iếu.

Từ đó, chúng ta có thể hiểu sâu hơn đời sống văn hoá, phong tục tập quán, nét

đẹp đặc trƣng của các làn điệu dân ca Iếu và tài nghệ của đồng bào Tày ở đây.

4.Trong suốt dòng chảy của lịch sử, từ xa xƣa đến nay Hát Iếu ở Bắc

Quang vẫn tồn tại trong cuộc sống của ngƣời dân lao động, nó ẩn chứa trong đó

là sức sống tiềm tàng mãnh liệt thể hiện niềm khao khát cuộc sống đầy đủ, ấm

no, hạnh phúc lứa đôi. Những lời ca mà chúng tôi sƣu tầm đƣợc trong sinh hoạt

dân gian của đồng bào Tày nơi đây là minh chứng sinh động cho sức sống

mãnh liệt lâu bền ấy. Đó là những giá trị, quan niệm thẩm mỹ, quan điểm nhân

sinh của đồng bào trải qua bao đời nay. Và điều diệu kỳ, sự hấp dẫn của Hát

Iếu nhƣ mạch nƣớc ngầm ngọt ngào chảy trong lòng đất vẫn âm thầm sống, vận

động trong tâm khảm của những ngƣời yêu mến thơ ca dân tộc, trong hơi thở

của tình cảm giao duyên của đôi lứa thuở ban đầu. Tuy nhiên, chƣa thể nói đề

tài đã khám phá đƣợc đầy đủ những giá trị nội dung, nghệ thuật cũng nhƣ sức

sống tiềm tàng của Hát Iếu. Song hiện nay, hình thức sinh hoạt dân ca này đang

dần vắng bóng trong đời sống dân gian. Thế hệ ngƣời có tuổi thì thuộc nhiều

lời hát hơn các thế hệ trẻ, điều này cũng do nhiều nguyên nhân, có lẽ phần

nhiều là các thế hệ trẻ bây giờ tiếp xúc và chịu ảnh hƣởng của nhiều luồng văn

hoá khác nhau, trong khi đó nền văn hoá của dân tộc mình lại không đƣợc bồi

dƣỡng. Hát Iếu cũng nhƣ nhiều loại hình văn hoá dân gian khác của dân tộc

Tày là một kho tàng giàu có đang đòi hỏi sự tìm tòi, nghiên cứu, quan tâm để

những giá trị đó có thể tồn tại ở dạng động của nó.

Vấn đề đặt ra cho các cấp chính quyền, ban ngành của địa phƣơng, nhà

nƣớc là làm sao phát huy, bảo tồn và lƣu giữ loại hình nghệ thuật này để đáp

ứng sự mong mỏi của quần chúng nhân dân đƣợc hƣởng thụ những giá trị tinh

hoa văn hoá của cha ông để lại.

127

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1992),Việt Nam văn hoá sử cƣơng, Nxb Tp HồChí Minh.

2. Bộ văn hoá và Bảo tàng Việt Bắc (1991), Một số vấn đề lịch sử Văn hoá các

dân tộc ở Việt Bắc, Bảo tàng Việt Bắc, Thái Nguyên.

3. Nguyễn Đức Bình (1998), Mấy vấn đề lớn trong nghị quyết hội nghị TW 5

về văn hoá, Tuần báo văn nghệ (34).

4. Hoàng Thị Cấp (2005), Chồm bioóc Mạ, Nxb văn hoá dân tộc, H.

5. Hoàng Thị Cấp (2007), Ra mắt bố mẹ, Hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà Giang.

6. Nông Quốc Chấn (1967), “Hãy khơi dòng dân ca các dân tộc thiểu số”, Tạp

chí văn học (1).

7. Nông Quốc Chấn (1977), Một vƣờn hoa nhiều hƣơng sắc, Nxb Văn hoá dân

tộc, H.

8. Hoàng văn Chữ ( sƣu tầm) (2008), Iếu dân ca dân tộc Tày, chƣa xuất bản.

9. Hoàng Văn Chữ (sƣu tầm)(2008), Iếu hát thơ then, chƣa xuất bản.

10. Chu Xuân Diên ( 1981), “Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian”,

Tạp chí văn học số 5.

11. Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (chủ biên), (2004), Các dân tộc ở Hà Giang,

Nhà xuất bản Thế giới.

12. Vũ Cao Đàm (1999), Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa

học xã hội.

13. Hà Minh Đức (chủ biên), (2008), Lý luận văn học (Tái bản lần thứ 9), Nxb

giáo dục, H.

14. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, H.

15. Tô Hoài (1976), “ Thực trạng vấn đề văn học thiểu số”, Tạp chí văn học số 3.

16. Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), “ Sáng tạo và bảo tồn giá

trị văn hoá, văn nghệ các dận tộc thiểu số Việt Nam”.

128

17. Vi Hồng (2001),Thì thầm dân ca nghi lễ, Nxb Văn hoá dân tộc,

18. Vi Hồng (1976), “Vài suy nghĩ về hát Quan lang, Phong Slƣ, Lƣợn,” Tạp chí văn học, (3).

19. Vi Hồng (1979), Sli lƣợn dân ca trữ tình Tày - Nùng, Nxb Văn hoá dân tộc,H.

20. Nhƣ Hoa ( 2002), Văn hoá ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá thông

tin, H.

21. Nguyễn Chí Huyên (chủ biên), (2002), Nguồn gốc lịch sử tộc ngƣời Tày

vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn học dân tộc,H.

22. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2002), Văn học dân

gian Việt Nam, Nxb Giáo dục,H.

23. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên), (1994), Lễ hội truyền thống trong

đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, H.

24. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), (1997), Kho tàng diễn xƣớng dân gian Việt

Nam, Nxb Văn hoá thông tin, H.

25. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, Nxb KHXH, H.

26. Nguyễn Xuân Kính (1998), Văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên cứu,

Nxb KHXH, H.

27. Hoàng Ngọc La, Hoàng Văn Toàn, Vũ Anh Tuấn ( 2002),Văn hoá dân gian

Tày, Sở văn hoá - Thông tin Thái Nguyên.

28. Đinh Trọng Lạc, (2003), 99 Phƣơng tiện và Biện pháp Tu Từ Tiếng Việt,

Nxb Giáo dục.

29. Lã Văn Lô, Hà Văn Thƣ (1984), Văn hoá Tày - Nùng, Nxb Văn hoá, H.

30. Lã Văn Lô, Đăng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lƣợc giới thiệu các nhóm dân tộc

Tày, Nùng,Thái ở Việt Nam, Nxb KHXH, H.

31. Đặng Văn Lung (1997), Nghiên cứu văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên

cứu, Tập 1, Nxb Văn hoá dân tộc.

32. Cung Khắc Lƣợc, Lê Bích Ngân (1987), Lƣợn cọi Tày - Nùng, Nxb Văn hoá

dân tộc

33. Hoàng Minh Lƣờng (2001), “Quan niệm về nghệ thuật trong văn học cổ

129

truyền các dân tộc thiểu số”, Luận án Tiến sĩ.

34. Triệu Hữu Lý (1990), Dân ca Dao, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc,H.

35. Hoàng Tuấn Nam ( 1997), “ Ngƣời Tày Kin Chiêng”, Tạp chí nguồn Sáng , (3).

36. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội Đảng bộ toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, H.

37. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, H.

38. Trần Đức Ngôn (1990), “ Một số vấn đề lý luận chung quanh việc nghiên

cứu văn bản văn học dân gian”, Văn hoá dân gian (3), H, Trang 16-19.Tạp

chí nguồn sáng, số3.

39. Trần Đức Ngôn (2000), “Những đặc trƣng của văn bản Văn hoá dân gian” in

trong Góp phần nâng cao chất lƣợng sƣu tầm, nghiên cứu Văn học văn nghệ

dân gian, Nxb Văn hoá dân tộc, H, trang 21-37

40. Hoàng Minh Nguyệt, (2009), Một số bài Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang.

(Tài liệu sƣu tầm ).

41. Võ Quang Nhơn ((1983), Văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam,

Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

42. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam, Nxb Văn

học, H.

43. Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày, Nùng, Dao

Lạng Sơn, Nxb dân tộc.

44. Nhiều Tác giả (1974), Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb KHXH, H.

45. Nhiều tác giả (1989), Văn hoá dân gian, những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb

KHXH, H.

46. Nhiều tác giả (1990), Văn hoá dân gian, những phƣơng pháp nghiên cứu,

Nxb KHXH, H.

47 Nhiều Tác giả (1992), Các dân tộc Tày - Nùng ở Viêt Nam, Viện văn học dân

tộc,H.

48. Nhiều Tác giả (1993), Văn hoá dân gian Cao Bằng, Hội văn nghệ Cao Bằng

130

49. Nhiều Tác giả (1998), Văn hoá dân gian, Sở văn hoá thông tin Yên Bái.

50. Lục văn Pảo (sƣu tầm và biên soạn), (1994), Lƣợn cọi, Nxb Văn hoá dân tộc, H.

51. Lê Trƣờng Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb GD.

52. Hoàng Phê (chủ biên), 2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm

từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.

53. Hoàng Quyết, Triều Ân , Hoàng Đức Toàn (1996), Từ điển văn hoá cổ

truyền dân tộc Tày, Nxb Văn hoá dân tộc,H.

54. Hoàng Văn Trụ (1997), Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB VHDT, H.5

55. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại - Bộ GD & ĐT

- Vụ giáo viên - H.

56. Trần Đình Sử (1998), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, H.

57. Sở văn hoá thông tin Việt Bắc, (1974), Bƣớc đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt

Bắc, Nxb Việt Bắc.

58. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày, nguồn gốc, quá trình phát triển và thi

pháp thể loại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

59. Ngô Đức Thịnh (1990), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb

văn hoá dân tộc.

60. Trần Ngọc Thêm (1997), cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.

61. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam ( In lần thứ 4 Có

sửa chữa và bổ sung), Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

62. Lâm Tiến (1995), Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb văn

hoá dân tộc.

63. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân gian,

Nxb Giáo dục.

64. Nông Quốc Tuấn (2006), Văn hoá phi vật thể dân tộc Tày - Đề tài thuộc

khuôn khổ Dự án: “Sƣu tầm cấp thiết di sản văn hoá về con ngƣời và cộng

đồng gắn với môi trƣờng sinh thái nhân văn vùng lòng hồ thuỷ điện Tuyên

Quang”, Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam, Bộ văn hoá thông tin.

131

65.Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Giang, (2001), Hà

Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891 - 2001), Nxb Chính

trị Quốc gia.

66. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (quyển 3),(1992). Tổng tập văn học các dân tộc

ít ngƣời ở Việt Nam, Nxb KHXH, H.

67. Trần Quốc Vƣợng chủ biên (2005), Cơ Sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.

68. Phạm thu Yến, (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, H.

132

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1. MỘT SỐ BÀI HÁT IẾU TIÊU BIỂU CỦA NGƢỜI TÀY BẮC QUANG - HÀ GIANG

1. Những bài Hát Iếu “Định rƣờn” (định duyên)

133

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chài: Giờ khuất cần thôi khảu rụ páy giờ rạu Cần thôi bâm đế chiềng pân rụ páy Nhắc bâm óc hỏng hóng là pi so toan Nhắc bâm óc hỏng chang là vằn pi so lỉn Vằn nạy pi dú rƣờn khau vài nà chả Chắng hăn báo thíp hả mà mƣờng Mự nay pi khen mạ nà đon Chắng hăn thao tỏn thào mà tô Giờ nạy pi so đọc thố cón chàu Khuyên mất là vằn pi khuyên mắƣ Khuyên au nặm pắn pí khửn bâm Khuyên au noọng khình châm khăm nạy Khuyên đảy pi chăng khuyên ăn Vằn pi khuyên ăn buốp lai chà Khuyên ăn qua lai chặng. Chủ rƣờn ới chủ rƣờn Chủ rƣờn năng bấu sôi bấu dục Sôi dục thao táng bản khan Lan sôi dục thao táng mƣờng khan lả. Mạy pàu răng mừa thọn lai rac thao lác Răng mừa thọn lai chăƣ Hẳƣ pi pảu cằm hăƣ thúc toọng Hẳƣ pi phọng cằm chăƣ chắng thúc tâm Mƣa pân noọng khình châm chắng toọng Vằn noọng khan mà bấu lo phua noọng đá Phua noọng đá vằn pi khác têm moằƣ nhá mừa van Khảu thay téng bâm tòng vàn Mừa lôi mừa lội thâng hỏng chang

134

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mừa vàn thang hỏng hóng Phua noọng thƣ cằm nọi cằm ón Tó rà và páo noọng lƣơng nga cứ lỉn. Chập boóc lỉn đởi boóc thắc Không chập lầm lỉn đởi lầm thắc thi Chuc lừ boóc quá tri là thôi lỉn đởi Căn thắc chặp cà va bấu lo pân Mí lỉn đƣởi căn thắc thi cà va bấu lo pân rƣờn Pân lƣờn là vằn pi còi tả Pân mả là vằn pi còi doàng Bấu lo pi chèo tàng chèo noọng Đăm đếch dú táng bản pi đay Đăm đản dú táng mƣờng pi đay Chụ loàn rƣơng dú táng sử pi đay Vằn pi bấu pân rằm đảy pét Bấu pân kép đảy nem. Lỉn là lỉn chặp mòn bƣơn tham chuc lừ mòn quá thí là thôi Nhình khay pác: Chíp mừng lan xo páy Ngoáy nả lan xo chiềng Lan xo chiềng mừa po đế lả chiềng me cuông lƣờn Lan chiềng mừa quan viên quỷ chức Cằm lan ủa bấu thúc bấu pân Bất nhân lan mà thần chốn nạy Chiêm đếch nọi lan mí đảy tạu cằm yếu khổ lai Giờ đay lan xo pản cằm khôn kéng cằm ngoan tó nả lảu Cằm lan tốc nƣa lảu nhà khua Thảu ké năng dƣờng nƣa dá tách Chiêm đếch lan páyđảy học thách nọi lài luộc páy thông Giờ nạy lan mà thông so lọi Cằm lan ủa tằng tơi lý long Chăng pân lấm may mòn lƣờng thán téng chạu Chiêm đếch vằn lan bấu đảy học cằm iếu khổ lai.

Thíp giờ chắng đảy giờ nạy moac Pác giờ chắng đảy giờ nạy đay Giờ đay nọng khay pác Giờ moác noọng khay khò Khay khò đƣởi lƣờng thang noọng vọng. Trai:

Xin rồi anh xin tiếp Xin dòng nƣớc xoáy tròn Lên tận mâm cơm nhỏ Xin rồi tôi anh xin tiếp Xin cô noọng tối nay Về nhà chồng cho kịp Xin đƣợc anh mới xin Họ hàng anh xin nhé. Xin đi rồi xin lại Tiếng anh nhƣ xơ mƣớp Nhiều chặng đƣờng anh xin Đón em về cho kịp

(Giờ tuất nhà cơm xong chƣa đấy Tất cả đã dọn xong mâm bàn chƣa đấy Sắp mâm ra gian trái cho anh xin thƣa Nhắc mâm ra gian giữa cho anh xin hát Hôm nay anh chăn trâu ruộng mạ Đƣợc thấy gái mƣời lăm đến mƣờng Hôm nay anh chăn trâu đồng cao Đƣợc thấy gái đƣờng xa đến trọ Cho anh xin mở sổ trƣớc giờ

135

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chủ nhà ơi chủ nhà Chủ ngồi trên uống nƣớc Con gái ngƣời đẹp quá Tiếng thơm lan khắp làng. Cây vầu nào nhiều rễ Cây vầu nào nhiều măng Cho anh thổi phép màu

Nói những lời chân thật Khi nào noọng đổi ý Là ngày trả lời anh Chồng có mắng nhiều lời Anh xin đi tạ lỗi Tạ lỗi tận giữa nhà

Têm trầu đến anh van

136

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đến khi chồng hết giận Chúng mình đến với nhau Hoa đất và hoa xuân Không thành thì gần chút Mai sau hoa quá thì Còn đâu yêu đƣợc nữa Mới gặp đâu thành duyên Chắc gì thành nhà cửa Anh hát ca trong lòng Đừng sọ anh hại noọng Đêm xuống khắp làng trên Đêm xuống khắp mƣờng dƣới Đêm xuống có trăng rằm Họ yêu nhau khắp chốn Đêm xuống có trăng rằm Tay cầm hoa nắm nem Thƣơng thì thƣơng ngay nhé Tình ai sắp quá thì Gái hát đáp lời: Chắp tay tôi xin nhé Ngoảnh mặt tôi xin trình Xin trình quan, quý tử Lời không thổi mà thành Lấy thân mình để ngỏ Từ nhỏ không biết hát

Xin nói lời đón đƣa Đừng cƣời tôi nói Đừng trách lời tôi xin Tôi đâu nào nói thách Thông tỏ hết mọi đƣờng Đến giờ tôi xin hát Nói cả đời không hết Nhƣ chỉ tằm đƣa nôi Từ nhỏ không biết Iếu Mƣời giờ mới có một giờ Trăm giờ mới chọn đƣợc Giờ này em xin đáp lời Bắp chuối ơi mở ra Cất giọng mọi ngƣời hiểu.

Tuộng piặc nhình chài

137

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhình: Thân pi mà chặu noọng thắm viêc chặu páy đay nai Vằn pi mà thoai noọng thắm viêc thoai páy đảy tuộng noọng so tuộng Piặc hăn tôi cáy đăm lạ lác hẳƣ mà Đảy hăn báo táng xạ la loác hăƣ mà Ca hẳƣ noọng phằn đăm rụ chắc Rụ là pi dú phƣơng bắc mà thâng Khuyên ăn pi khứn dƣơng ngân đối noọng Khuyên nhắc dớ khuyên nháy Khuyên đảy vằn noọng chắng khuyên au Dá hẳƣ nọong khửn pù khau nắc nƣơi. Cáy bản tấp pích chúa khăn là khăn Cáy thuốn tá the lằng mà loạn Khan mà dớ khan mà pi ơi Khan mà noọng khan giá Mí lo cằm pi cá tốc tôm Bấu lo khoăn khình châm tốc đắc Khần bấu lo mìa pí đá Noọng khác nhém mần nhá mừa vàn

138

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Kim ngân lót bâm pàn mừa lội Mừa lội tặt hóng chang Mừa vàn tặt hóng hỏng Phác căn hẳƣ pi cá tón au Dá hẳƣ noọng vọng than nắc nƣới. Đối đáp trai gái Gái: Anh về sớm gặp noọng bận việc sớm. Anh về muộn bận việc chƣa chào đƣợc em Thoạt nhìn thấy đôi gà đen lạ hoắc tới chào Thoạt nhìn thấy trai lạ hoắc đến thăm Thứ lỗi cho noọng chăn đen nên không biết Chắc là anh ở phƣơng bắc tới chăng Chắc là anh tới Dƣơng Ngân với noọng Nói đi rồi nói lại Nếu thƣa đƣợc noọng mới dám thƣa Để noọng lên núi cao nhẹ nhàng Gà nhà vỗ cánh gáy là gáy Gà rừng trốn nơi ngủ về tới Trả lời đi trả lời đi anh Thƣa rồi noọng thƣa lại Không sợ lời anh rơi vãi Không sợ hồn anh xiêu lạc Không sợ vợ anh ghen Noọng sẽ têm trầu về xin Kim ngân lót mâm vàng về lỗi Về lỗi tận gian trong Về xin tận gian giữa Gửi lời cho anh ơi đón lấy. Chớ để noọng buồn than đau đớn. Chài: Chiêm đếch tàng khêm may po me mí páo Tàng lín chu va đáo po me mí thon Chống vạy pi mừa thon đắy thay Thon đáy pi còi váy tao mà Noọng mắƣ mí chê là coi kết.

Từ bé đƣờng chỉ thêu cha mẹ không bảo Đƣờng yêu đƣơng bố mẹ không cho Chống gậy anh đến hoạc với thầy Học đƣợc anh sẽ lại quay về Nếu noọng không chê ta sẽ kết đôi. Nhình: Nhƣợc lăng pi mì rƣờn đoạn gía Tàng lín pi chắng va chạm va ƣơn va nái. Nhƣợc bằng anh có gia đình rồi thôi Đƣờng yêu anh mới nói đi nói lại thêm lời

Chài:

139

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thíp ơn thêm giạ bái ơn cần Ơn mừa noọng khình châm đáp lại Thân pi nhằng chắng thon thói Đếch nọi chắng thon cằm lừ Giám kết bạn đối noọng khao tó ké. Mƣời ơn, thêm xin lại cảm ơn ngƣời Ơn về noọng có lời đáp lại Thân anh chƣa có nơi chốn nào Còn trẻ quá chƣa biết nói lời hay lời đẹp Dám kết duyên với noọng đến tận già nua. Nhình: Cú tin đé lín la nhang pa nọi tin thí Noọng tặt hẳƣ pi mừa chầm rƣờn mắƣ tơi cố là chầm. Bƣớc chân đi chơi xuân, bƣớc chân chầm chậm Noọng mở đƣờng anh về nhà mới là mừng Chài: Pi mịn tắc heo pài Pi chai tắc heo hé Khảm pi nay chắng còi đảy thé tẳng rƣờn Chú rƣờn chắng lặp poại khầm tháy Khảu đông pay chầm chọn đáy tham thíp lằm Chắng đáy lằm mạy me

Khẳm đông ké quén nộc nu Hẳm mạy dú tềng pù lâm luật pịa khoan bán thâng thân Chú rƣờn nghị taolăng chắng ngứn Chắng pay vân lac lan dú sẳƣ sáng mà hƣa Nhắc mạy khứn tông kừa bắc bong pích cáy thàm pác mạ mòng xong Thau me kéng thau cón khứn tắng. Năm ngoái tốc mái nhà Năm kìa tốc trái sau Sang năm nay mới xem đƣợc ngày dựng nhà Ở nhà mới mài dao thật sắc Vào rừng lựa chặt cây Vào rừng già đuổi chuột, đuổi chim Chặt cây trên đồi cao bằng dao bằng rìu Ở nhà nghĩ đằng sau thấy ngán Mới đi nhờ ngƣời lạ về hộ Nhấc cây lên nơi bằng đục đẽo Cánh gà vỗ võ ngựa khua vang Cột cái cùng cột nhỏ dựng lên.

2. Một số bài Hát Iếu “Phặt phòng”(dậy sóng)

140

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Khẳm khắc Khẳm khắc loọng búa bẳng mạy quân Bƣơn hăn nả luc cần bƣơn bấu Bƣơn hăn nả chụ cáu bƣơn đai Tông bạn mọ tông lai thíp hả Tông bạn mà hăn nả khào bang Cổm hua lồng giƣờng chang là dú Lọi lọi mọ tôi thú thiểu kha Tôi thú thiểu kha cụng mọ thoong thinh là thiếu bạn Bƣơn nay chắc bƣơn hâng mèng lọong Mèng loọng pắn săử sảng đua nòn Nặm phioa tốc mƣa mon pân pế Chắc pân mạy pân thế mí tông Tông khảu nả luc cần tông bấu

141

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thƣơng căn phác cằm pián mà là. Khẳm khắp gọi trong ống cây quân Biết thấy mặt con ngƣời không nhỉ Thoáng thấy mặt bạn thoáng không Mong bạn nhƣ mong trăng giữa tháng Ngóng bạn chẳng thấy bạn xinh tƣơi Cúi mặt xuống giữa đƣờng ta ở Trơ trọi nhƣ chiếc đũa lẻ đôi Chiếc đũa lẻ đôi nhƣ đôi ta lẻ bạn Tháng này biết tháng gì ve gọi Ve gọi quanh chiếc gối ta nằm Nƣớc mắt rơi gối hoa nhƣ bể Biết mối tình dang dở không yêu Yêu theo một con ngƣời hút bóng Thƣơng nhau đƣa nỗi vắng về ta Hoa “mạ” Hoa “mạ” nở trên núi cọng vàng, Anh yêu em giữa mùa hoa nở. Bƣớc chân rời tay nhau quên ngay. Đêm ngày anh còn nhớ hay không nhớ, Quen nhau từng nét ở em buồn. Buồn lắm ở mỗi ngƣời một bản, Gió thổi tàu lá héo bâng khuâng. Buồn lắm ở mỗi ngƣời một mƣờng, Gió thổi bức thƣ tình khó tới. Bióc mặn Bióc mặn phống khuồn băƣ chắn nhot Tổn công lọi co bióc pân đuông Noọng tao au cần táng mƣờng mà lit Tả điêu pi nòn vin phiác mƣơi Đảy soỏng noọng chê cuôi nả múng Pi chắc pi mí giám toan Chắc noọng giam vằn pi mí giảm kết.

Hoa mận Hoa mận nở xen lá xen ngọn, Tốn công chắp cánh hoa thành bông. Em lại thấy ngƣời khác mƣờng đến gõ, Bỏ mình anh nằm vắng phơi sƣơng. Đƣợc soỏng em chê sọt mặt bủng, Anh biết chẳng dám yêu. Biết em giam lòng anh chẳng dám hƣớng. Mèng loọng Đông luông đảy nghìn thiêng mèng loọng

Toọng pi bấu lìa noọng thắc giờ Điếp căn mắc thảy thân tờ khát

Thƣơng căn ná chắc piai mừa rƣờn. Ve gọi Rừng đua rộn tiếng ve than vọng, Anh chẳng muốn vắng em một giờ. Nhớ nhau trong lòng thêm vƣơng vấn, Thƣơng nhau chẳng muốn bƣớc về nhà. Cằm thắng Hom mí quá bióc khảu Hom quả mí quá bióc va miài Phai phai mí lừm càm noọng thắng

Thíp pi nặm nhằng ắng đăƣ chăƣ.

Lời dặn Thơm chi bằng hoa lúa, Thơm dịu chẳng qua nhị hoa nhài. Dù chết không quên lời em dặn, Mƣời năm nƣớc còn ứ trong tim.

3. Một số bài hát“Iếu Tạ” (Iếu đố) và “Iếu sỏi"(Iếu Kháy)

142

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nặc kể lừa

143

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thức lăng tƣợng chƣợc phẳn chƣợc phƣa Thức lăng tƣợng bàn cờ phá mác Thức lăng tƣợng bàn hạc tiêm nhàu Thức lăng tƣợng quân chàu quyét nặm Thức lăng tƣợng bản khẳm cần ynh Thức lăng tƣợng làng lình che đét Thức lăng tƣợng quét nặm thiên lý pay mà Thức lăng tƣợng quét nặm phòng ba pay tao Thúc bấu lả thúc bấu Thúc bấu noọng còi páo còi toan Bấu thúc noọng còi toan pay lỉn lại Hẳƣ pi dú cửa đại đảy ơn. Đố thuyền Thức gì tựa dây sắn dây bừa Thức gì tực bàn cờ trong vƣờn quả Thức gì tựa bàn hạc têm trầu Thức gì tựa quân mình quét nƣớc Thức nào tựa bản thẳm ngƣời xa Thức gì tựa chiếc muôi che nắng Thức gì tựa quét nƣớc thiên lý đi về Thức gì tựa mƣa gió phong ba bão bùng Không phải, có phải không Nếu đúng noọng khẽ nói, khẽ khuyên răn Nếu đúng noọng sẽ đến chơi nơi này Để anh tựa cửa đại hàm ơn. Đáp: Chƣợc lừa tƣợng chƣợc phẳn chƣợc phƣa Hua lừa tƣợng bàn cờphá mác Chang lừa tƣợng bàn hạc tiêm nhàu Dầm lừa tƣợng quân chàu quét nặm Thau lừa tƣợng bản khẳm cần ynh Pài lừa tƣợng làng lình che đét Thao lừa tƣợng quét nặm thiên lý pay mà Quát lừa tƣợng quét nặm phòng ba pay tao Thúc bấu lả thúc bấu

144

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thúc bấu noọng còi páo còi toan Bấu thúc noọng còi toan pay lỉn lại Hẳƣ pi dú cửa đại đảy ơn. Giải đố thuyền Dây buộc thuyền tựa dây sắn dây bừa Mũi thuyền tựa bàn cờ vƣờn quả Giữa thuyền tựa bàn hạc têm trầu Dầm thuyền tựa quân mình quét nƣớc Cột buồm thuyền tựa bản thẳm ngƣời xa Mái thuyền tựa chiếc muôi che nắng Mái chèo tựa quét nƣớc thiên lý đi về Quạt nƣớc tựa mƣa gió phong ba Phải không có phải không Nếu đúng noọng khẽ nói khẽ khuyên răn Nếu đúng noọng sẽ đến chơi nơi này Để anh đƣợc tựa cửa đại hàm ơn phiắc cát Nhình: Phiắc cát van đon thài lai poỏng Po chài lai toọng buôn hăn Phiắc cát van đon tắm Po chài pay chang khăm buôn hăn. Chài: Phiắc cát van đon thài lai poỏng Me nhình mì lai toọng buôn hăn Phiắc cát van đin đăm Me nhình pay chang khăm thƣa bốc Rau cải Gái: Rau cải gieo đất cát nhiều dóng Con trai lắm lòng trời oán Rau cải gieo đất đồi Con trai hay đi đêm trời thấy.

Trai: Rau cải gieo đất cát nhiều dóng Con gái có lắm lòng trời oán Rau cải gieo đất đen Con gái hay đi đêm heo bắt. Lồng đoay Lồm pặt khửn cốc túm hua nà Pú gia thẳm phuc phà vạy thả Pi nay thâng pi nả noọng pay Thoong mừng chổm hua đoay lồng lang Xuống thang Gió thổi lên gốc xổ đầu thôn Cha mẹ sắm chiếu chăn để đợi Năm nay sang năm nữa em đi Hai tay chống cầu thang xuống bãi.

(Ngƣời sƣu tầm: Hoàng Minh Nguyệt, ngƣời dịch: Hoàng Bình Dựng và

145

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hoàng Minh Nguyệt, dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang)

PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ KHẢO SÁT VỀ HÁT IẾU TRONG ĐỜI SỐNG

VĂN HOÁ CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG HÀ GIANG.

1. Ông Hoàng Văn Chữ (74 tuổi)

Quê ở xã vĩnh phúc huyện Bắc Quang - Hà Giang, nguyên là cán bộ Ty

văn hoá Hà Tuyên nay đã nghỉ hƣu cho biết:

Hát Iếu là một loại hình dân ca độc đáo của ngƣời Tày ở Bắc Quang,

phần lớn đƣợc phân bố ở khu vực xã Đồng Yên, Xuân Giang, còn ở các xã

khác trong huyện thì ít hơn. Hát Iếu cũng kéo sang cả khu vực của Huyện Lục

Yên - Yên Bái, huyện Hàm Yên của tỉnh Tuyên Quang. Hiện nay trong dân

gian vẫn còn lƣu chuyển kho tàng nội dung vô cùng phong phú của Hát Iếu mà

chƣa ai khám phá đƣợc hết. Bản thân ông là một ngƣời công tác trong ngành

văn hoá nên ông rất tâm huyết với việc sƣu tầm, gìn giữ vốn văn hoá cổ truyền

của dân tộc mình. Ông nói, nghe đƣợc làn điệu dân ca Iếu của mình thì lòng

cảm thấy rƣng rƣng, da diết, sâu lắng; Đặc biệt là những ngƣời già khi họ sắp ,

dời khỏi cuộc sống nếu đƣợc nghe một câu Iếu cũng làm họ ấm lòng và nhắm

mắt trong nụ cƣời với cõi lòng thanh thản, nhẹ nhàng. Thế mới biết trƣớc khi

Bác Hồ ra đi còn tha thiết muốn đƣợc nghe một làn điệu dân ca, một câu hò

giọng điệu của quê hƣơng xứ sở mình đến nhƣờng nào. Theo ông Hát Iếu chủ

yếu là những lời ca giao duyên, bày tỏ tỏ nỗi lòng của các chàng trai, cô gái

Tày. Ngày xƣa, Hát Iếu thƣờng xuyên đƣợc tổ chức trên nhà sàn, khắp bản trên

mƣờng dƣới, ngƣời ta dùng lời ca Iếu theo lối đối đáp để tìm hiểu nhau, nhiều

ngƣời thành duyên vợ chồng. Ngƣời hát Iếu nhiều nhƣng ngƣời đi nghe Iếu

càng đông hơn, từ già đến trẻ ai cũng thuộc lòng hàng trăm bài hát… Đến nay

thì sinh hoạt Hát Iếu đã không còn nhƣ xƣa nữa, thi thoảng ở xã mới tổ chức

một vài cuộc hát. Ngƣời Hát và nghe hát cũng vơi đi nhiều lắm! Ông khẽ thở

dài, có lẽ trong lòng ông buồn vì điều mình vừa nói và vì ông có duyên nợ với

làn điệu quê hƣơng.

146

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2. Bà Hoàng Thị Minh (79 tuổi),

Quê ở xã Đồng Yên, huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Khi đƣợc hỏi về

Hát Iếu và những vấn đề liên quan đến Hát Iếu, bà mỉm cƣời và nói: Bây giờ

già rồi không còn nhớ và thuộc nhiều bài hát nữa nhƣ trƣớc nữa, nhƣng bà vẫn

rất thích nghe hát bởi những lời ca Iếu có sức sống mãnh liệt trong tâm hồn bà.

Khi tôi bật bài hát mình ghi âm đƣợc bà im lặng lắng nghe và hát theo nhịp

điệu của bài hát. Nghe xong bà bảo Hát Iếu của dân tộc Tày ở đây không biết

có từ bao giờ, lớn lên bà đã đƣợc nghe các bà, các chị của mình hát và cũng

thuộc lòng từ bao giờ. Nội dung thì đa dạng, phong phú, chủ yếu là những lời

ca bày tỏ tình cảm, ca ngợi cuộc sống, bản làng… của các anh, các chị. Họ

cùng nhau bày tỏ tình cảm nếu mến nhau, còn không thích họ nói lời “độc” cho

nhau thật cay cú và thấm thía. Trong cuộc chơi họ còn đƣa ra những bài Iếu để

thử tài ứng đối, trí thông minh, nhạy bén qua các lời Iếu đố. Họ dùng cách nói

so sánh ví von, ẩn dụ, phóng đại, điệp từ, điệp ngữ… rất tài tình. Trong những

đêm hội làng, dịp lễ tết hay trong bản có đám cƣới, đám xin thì tất cả mọi ngƣời

lại náo nức chuẩn bị tham dự. Ngƣời nào hát giỏi, hát hay thì đƣợc nhiều ngƣời

ngƣỡng mộ và kính nể lắm. Nhƣng là ngày trƣớc thôi, bây giờ hiếm khi có dịp

nhƣ vậy.

3. Ông Hoàng Nừng (74 tuổi )

Quê ở huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái giáp với xã Đồng Yên của huyện Bắc

Quang - Hà Giang. Ông là một ngƣời yêu mến sâu sắc làn điệu Khắp Cọi (Hát

Iếu) của dân tộc mình. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất của Khắp Cọi nên ông

am hiểu sâu sắc về nó. Ông nói Hát Iếu luôn là mạch nguồn của dân tộc Tày ta

chảy mãi ngàn năm trong lòng ngƣời yêu mến. Ông từng là một nhạc sĩ trong

quân đội, đã từng hát và sáng tác nhiều bài hát theo âm hƣởng dân ca Tày, nay

đã về hƣu nhƣng dòng suối ngọt ngào của Iếu Cọi vẫn chảy trong tâm khảm và

tiếp sức cho ông trong tuổi già, ông vẫn dạy các thế hệ con cháu mình làn điệu

dân ca của dân tộc cùng tiếng đàn tính mƣợt mà lắng sâu. Ông kể với giọng vui

vẻ, tự hào: Năm 2008 ông đi dự thi hát dân ca ở Tỉnh Cao Bằng và đoạt giải A,

147

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ông thấy, làn điệu Hát Iếu (Khắp cọi) của dân tộc Tày quê hƣơng mình cũng

không hề thua kém những nơi khác…Ông còn rất nhiều giải thƣởng, bằng khen

khác nữa treo trang trọng trên tƣờng trong ngôi nhà nhỏ ven thị trấn Lục Yên.

4. Bà Vi Thị Hoà, (68 tuổi)

Quê ở xã Đồng Yên, huyện Bắc Quang - Hà Giang. Bà là một giáo viên

đã nghỉ hƣu, đồng thời cũng là một nghệ nhân Hát Iếu. Bà cho Biết: Mấy chị

em gái nhà bà ai cũng mê và biết Hát Iếu, bây giờ vẫn hát và hát hay nữa. Hiện

nay bà là chủ tịch của câu lạc bộ Hát Iếu ở xã, bà đang dạy các con, các cháu và

những ngƣời yêu thích Hát Iếu. Bà nói: Bà vui lắm, bởi trong trời đại đổi mới

nhƣ bây giờ mà vẫn có ngƣời mong đƣợc nghe và Hát Iếu. Bây giờ cảm thấy

già rồi, giọng mình không đƣợc trong và ngọt nhƣ xƣa nữa. Bà nhớ lại trƣớc

đây trong các cuộc Iếu bà là ngƣời đƣợc nhiều ngƣời chú ý nhất, đặc biệt là các

chàng trai từ bản khác tới cuộc chơi. Nhiều lúc, có ngƣời mê tiếng hát của mình

theo về đến tận nhà xin đƣợc hát cùng. Bà hăng hái kể thêm: Vừa rồi có dịp

sang bản khác thi Hát Iếu, đến đoạn hát đố bà đƣa ra những câu Iếu đố “hóc

búa” quá không ai đối lại đƣợc và họ đành chịu thua cuộc trong sự ấm ức khi ra

về. Trong một đêm Hát Iếu của dân tộc mình vui lắm, nhất là những đêm đông

lạnh giá, bên bếp lửa ấm nồng, các quan làng, trƣởng bản, tất thảy mọi ngƣời từ

già đến trẻ đều im bặt tiếng nói cƣời khi tiếng Iếu đƣợc cất lên. Họ để tâm vào

tiếng hát của các anh, các chị, rồi họ cùng vui, cùng buồn theo lời ca, tâm trạng

của ngƣời hát. Có lúc không khí đƣợc hâm nóng lên bằng những lời ngợi ca

mừng bản mƣờng, mừng cuộc sống vui tƣơi, mừng nhà mới, trông ngắm các

sự vật hiện tƣợng xung quanh cuộc sống…Da diết, đau đáu lắm! bà nói vậy.

5. Chú Hoàng Quang Luận (45 tuổi)

Quê ở xã Hùng An huyện Bắc Quang - Hà Giang nói rằng: Bản thân chú

là một thầy cúng nên với các làn điệu nhƣ Hát Iếu của dân tộc mình chú cũng

biết và hát nữa. Trƣớc đây cha của chú cũng là ngƣời say mê và sƣu tầm những

lời Iếu cổ, nhƣng do không cẩn thận nên chú đã đánh mất. Chú nói: Hát Iếu

luôn là đề tài sôi nổi, nhộn nhịp trong mỗi dịp xuân về trên bản làng của ngƣời

148

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tày mình. Nghe hay hát lên những giai điệu của Iếu tâm hồn mình đang bực

bội, khó chịu cũng dễ xiêu lòng và nó làm cho tâm hồn mình sâu sắc hơn. Chú

khẳng định: Hát Iếu có vai trò to lớn trong đời sống tinh thần và phản ánh đƣợc

những nét phong tục tập quán, đời sống của ngƣời dân Tày.

6. Chị Hoàng Liên Sơn (29 tuổi)

Quê ở xã Yên Hà Huyện Bắc Quang - Hà Giang kể lại: Mỗi khi về quê,

nếu là dịp lễ, hội thì chị lại đƣợc nghe các cụ, các bà, các chị Hát Iếu. Hay lắm!

tuy nhiều từ nghe không hiểu hết nhƣng chị thấy quê hƣơng mình có làn điệu

dân ca thật mƣợt mà, ngọt ngào, da diết tận đáy lòng. Còn các nghệ nhân hát thì

gửi tất cả nỗi lòng, hơi thở, nhịp đập của con tim mình vào từng lời ca. Qua lời

hát thấy tâm hồn con ngƣời thật phong phú, mọi cung bậc, cảm xúc đƣợc bộc

lộ. Vì thế mà những câu hát giao duyên thuở xƣa của dân tộc mình đáng trân

trọng, tự hào biết bao. Chị nghĩ nếu đƣợc bảo lƣu tốt tƣơng lai con cháu mình

còn biết, cứ nhƣ chị bây giờ còn sắp mất gốc đến nơi rồi.

7. Chị Hoàng Thị Khôn (40 tuổi)

Quê ở xã Hùng An cho biết: Từ trƣớc tới nay Hát Iếu ở địa phƣơng mình

đƣợc coi là bản sắc của dân tộc, nói đến văn hoá, văn nghệ thì Hát Iếu vẫn là

làn điệu dân ca cổ đƣợc yêu thích. Không biết từ lúc nào mà mọi ngƣời ở đây

đa phần là biết Hát Iếu, chị kể: Chính bố mẹ chồng chị trƣớc đây lấy đƣợc nhau

đƣợc là do hai ông bà thƣờng Hát Iếu giao duyên với nhau, tình yêu của họ

đƣợc xây đắp nên từ những câu hát ân tình ấy. Trƣớc đây khi về nhà chồng chị

mới đƣợc bố mẹ chồng dạy hát và bây giờ chị lại dạy cho con gái mình biết Hát

Iếu. Chị cảm thấy vui vì mình còn biết hát điệu hát của dân tộc mình.

8. Anh Hoàng Tiến Dũng (25 tuổi)

Quê ở xã Xuân Giang huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang cho biết: Quê

hƣơng anh phần lớn là bản làng của ngƣời Tày sinh sống ở đây từ bao đời nay,

quanh năm chỉ có ruộng đồng, cấy hái, đời sống vật chất còn nghèo nhƣng

đƣợc cái đời sống tinh thần thì không đến nỗi. Ở đây thế hệ nhƣ bọn mình vẫn

say mê những làn điệu dân ca của quê hƣơng, đặc biệt là Hát Iếu, thi thoảng

149

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong bản, trong xã vẫn tụ tập cùng nhau thi Hát. Ngay cả những lúc lên nƣơng

làm rẫy anh cất tiếng hát cũng khối cô ngƣỡng mộ, nhƣng chủ yếu là mình

thích hát và câu hát làm mình vơi đi nỗi vất vả, mệt nhọc thƣờng ngày. Anh

nói: Mình vẫn thích làn điệu Iếu của mình hơn là nghe nhạc trẻ thời bây giờ,

đau đầu lắm! Thật đáng trân trọng khi gặp đƣợc một tâm hồn tuổi trẻ yêu mến

150

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

làn điệu dân ca của mình trong thời buổi nền văn hoá pha tạp nhƣ hiện nay.

PHỤ LỤC 3. MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐIỀN DÃ VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ

CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG HÀ GIANG.

Một bản của ngƣời Tày ở xã Tiên Yên Bắc Quang - Hà Giang

151

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhà ở của ngƣời Tày ở xã Vĩ Thƣợng huyện Bắc Quang - Hà Giang.

Vào mùa ở xã Hùng An Bắc Quang - Hà Giang

152

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngày cấy trên quê hƣơng

Bản của ngƣời Tày ở xã Đồng Yên - Bắc Quang - Hà Giang

Nhà ở của ngƣời Tày xã Xuân Giang Bắc Quang - Hà Giang

153

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhà ở của ngƣời Tày ở xã Tiên Yên Bắc Quang - Hà Giang

154

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ruộng lúa ở Đồng Yên Bắc Quang - Hà Giang

Con đƣờng qua bản hôm nay

155

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mùa cam chín

156

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thác nƣớc trên đƣờng đi điền dã.

157

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Một văn bản Hát Iếu do nghệ nhân Vi Thị Hoà Sƣu Tầm

Tác giả đề tài đang ghi chép sƣu tầm Hát Iếu

158

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nghệ nhân dạy hát

Ảnh nghệ nhân Hát Iếu Vi Thị Hoà ở Đồng Yên Bắc Quang - Hà Giang.

159

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tác giả đề tài chụp ảnh cùng nghệ nhân Hát Iếu Vi Thị Hoà

Tác giả nghe nghệ nhân Hát Iếu

160

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ảnh nghệ nhân Hoà bên góc rào vƣờn quen thuộc của ngƣời Tày

161

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ảnh của các nghệ nhân Hát Iếu ở xã Hùng An Bắc Quang - Hà Giang

162

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ảnh nghệ nhân Hoàng Thị Thƣ, 53 tuổi ở Hùng An Bắc Quang - Hà Giang

Một cảnh trong đêm Hát Iếu

163

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mặc trang phục truyền thống của ngƣời Tày Bắc Quang - Hà Giang Ghi chú: Phụ lục ảnh của Tác giả đề tài chụp khi đi điền dã: 04/ 08/ 2008 và 05/ 02/ 2009