intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiện trạng giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh khiếm thính việt nam (2009-2010)

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

61
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của bài viết nhằm mô tả thực trạng giáo dục sức khỏe sinh sản và tình dục cho học sinh khiếm thính, qua đó cung cấp cơ sở cho các cải cách giáo dục tiếp theo. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiện trạng giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh khiếm thính việt nam (2009-2010)

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2012<br /> <br /> HIỆN TRẠNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE SINH SẢN<br /> CHO HỌC SINH KHIẾM THÍNH VIỆT NAM (2009 - 2010)<br /> Nguyễn Hải Thượng*; Nguyễn Thị Minh Thủy**<br /> TÓM TẮT<br /> Nghiên cứu thực trạng giáo dục sức khỏe sinh sản (SKSS) tại 6 trường giáo dục chuyên biệt cho<br /> thanh thiếu niên (TTN) khiếm thính Việt Nam, nhận thấy còn nhiều bất cập tồn tại từ lâu mà không<br /> được giải quyết như: thiếu trường chuyên biệt cho học sinh khiếm thính (HSKT); chưa có sách giáo<br /> khoa về SKSS chuyên biệt; giáo viên không được đào tạo về giảng dạy SKSS cho HSKT; ngôn ngữ<br /> cử chỉ phát triển tự phát, mang tính vùng miền và không có từ vựng chuyên biệt về SKSS.<br /> * Từ khóa: Giáo dục sức khỏe sinh sản; Học sinh khiếm thính.<br /> <br /> REPRODUCTIVE HEALTH EDUCATION FOR<br /> VIETNAMESE HEARING IMPAIRED STUDENTS (2009 - 2010)<br /> SUmMARY<br /> Qualitative study was conducted on actuality of reproductive health education in 6 specific<br /> schools for Vietnamese hearing impaired adolescents, we remarked that there were many long-exist<br /> serious issues sush as: Lack of specific school; No textbook on sexuality and reproductive health<br /> specific for Vietnamese hearing impaired adolescents; Teachers are not trained in reproductive<br /> health education for hearing impaired students; Sign language was developed spontaneously with<br /> regional characteristic and no sign specific on sexuality and reproductive health.<br /> * Key words: Reproductive health education; Hearing impaired students.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Có khoảng 250 triệu người khiếm thính<br /> trên toàn thế giới và hơn 4 triệu người ở<br /> Việt Nam [9]. Rất ít trong số họ tiếp cận đầy<br /> đủ được với dịch vụ chăm sóc sức khỏe và<br /> phục hồi chức năng. Thanh thiếu niên<br /> (TTN) khiếm thính đang gặp nhiều vấn đề<br /> về SKSS như: mang thai ngoài ý muốn, mắc<br /> các bệnh lây truyền qua đường tình dục,<br /> hay bị xâm hại tình dục... Một chương trình<br /> <br /> giáo dục chuyên biệt, cung cấp đầy đủ kiến<br /> thức và kỹ năng thực hành về SKSS và<br /> phòng tránh HIV đang là nhu cầu bức thiết<br /> không những của TTN khiếm thính mà cả<br /> các bậc phụ huynh, thầy cô giáo và nhà<br /> quản lý giáo dục các cấp. Vì vậy, chúng tôi<br /> tiến thành nghiên cứu đề tài này nhằm: Mô<br /> tả thực trạng giáo dục SKSS và tình dục<br /> cho HSKT, qua đó cung cấp cơ sở cho các<br /> cải cách giáo dục tiếp theo.<br /> <br /> * ASUAID Việt Nam<br /> ** Đại học Y tế Công cộng<br /> Phản biện khoa học: PGS. TS. Đoàn Huy Hậu<br /> PGS. TS. Lê Văn Bào<br /> <br /> 21<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2012<br /> <br /> ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 1. Đối tƣợng nghiên cứu.<br /> Giáo viên và cán bộ quản lý của 6<br /> trường giáo dục chuyên biệt cho HSKT tại<br /> Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Lâm Đồng,<br /> Bình Dương và Thành phố Hå ChÝ Minh.<br /> Phụ huynh đang có con là HKST tại 6 trường.<br /> HSKT tuổi từ 13 - 25, đang học tại 6 trường<br /> trong năm học 2009 - 2010.<br /> 2. Phƣơng pháp nghiên cứu.<br /> Nghiên cứu định tính, mô tả thực trạng<br /> chương trình giáo dục về SKSS và tình dục<br /> tại các trường chuyên biệt cho trẻ khiếm<br /> thính gồm: giáo viên, thời lượng, sách giáo<br /> khoa, phương pháp giảng dạy, giáo cụ hỗ<br /> trợ giảng dạy và cơ cấu môn học. Nhu cầu<br /> và mong đợi của HSKT, phụ huynh học<br /> sinh, giáo viên và cán bộ quản lý nhà trường<br /> được phản ánh để rót ra khuyến nghị.<br /> 48 cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận<br /> nhóm với 36 giáo viên và cán bộ quản lý,<br /> 30 phụ huynh đang có con là HKST tại 6<br /> trường và 72 HSKT tuổi từ 13 - 25; 9 buổi<br /> quan sát lớp học có nội dung về SKSS thực<br /> hiện trong năm học 2009 - 2010. Thầy cô<br /> giáo hỗ trợ phiên dịch ngôn ngữ cử chỉ<br /> trong các cuộc phỏng vấn và thảo luận<br /> nhóm với HSKT.<br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> VÀ BÀN LUẬN<br /> 1. Nội dung giảng dạy SKSS và tình dục.<br /> Cung cấp kiến thức về SKSS và tình dục<br /> cho HSKT là việc thiết yếu và không thể<br /> chờ đợi. Nhận thức sâu sắc nhu cầu đó,<br /> các thầy cô giáo đang cố gắng truyền đạt<br /> những nội dung và lượng kiến thức thay<br /> đổi, tùy theo nhu cầu và khả năng tiếp thu<br /> của các em, cũng như khả năng và kiến<br /> thức của mỗi giáo viên.<br /> <br /> “…Chúng em đều thấy kiến thức về<br /> SKSS rất cần thiết với cuộc sống của mình,<br /> vì chúng em muốn có một tình yêu tốt, biết<br /> được kiến thức về SKSS sẽ bảo vệ cuộc<br /> sống của chúng em” (nhóm HSKT nam<br /> Bình Dương).<br /> Giáo viên và cán bộ quản lý nhà trường<br /> đều cho rằng việc sử dụng giáo trình phổ<br /> thông để giảng dạy về SKSS cho HSKT<br /> như hiện nay là bất cập. Hơn nữa, nội dung<br /> về SKSS đang được truyển tải khá hạn hẹp<br /> về chủ đề, đơn giản về kiến thức và khác<br /> biệt theo từng trường, từng giáo viên. Đó<br /> cũng là tình trạng chung của chương trình<br /> giáo dục tại các trường giáo dục chuyên<br /> biệt theo điều tra của Bộ Giáo dục và Đào<br /> tạo năm 2006 [1].<br /> “…Tuy nhiên, mức độ kiến thức của các<br /> đầu mục trên còn rất sơ sài, chưa đầy đủ và<br /> hoàn thiện. Ví dụ, nội dung về vệ sinh thân<br /> thể chỉ đề cập đến vấn đề tắm rửa, đánh<br /> răng rửa mặt, cắt tóc, cắt móng tay. Không<br /> có nội dung về vệ sinh khi có kinh nguyệt”<br /> (Nhóm giáo viên Đà Nẵng).<br /> Theo thiết kế chương trình phổ thông,<br /> kiến thức SKSS được giảng dạy lồng ghép<br /> trong các môn từ lớp 5 trở đi, như khoa<br /> học, giáo dục công dân hay sinh học. Trong<br /> khi đó, HSKT thường đến trường muộn và<br /> chủ yếu học ở cấp tiểu học, tối đa là lớp 4.<br /> “…Nội dung đang được dạy ở các khối<br /> lớp theo chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo<br /> thì có thể không phù hợp với lứa tuổi, vì<br /> nhiều truờng hợp lớn tuổi mới đi học. Có em<br /> học hết lớp 2 thì về cưới vợ” (Nhóm giáo<br /> viên Xã Đàn).<br /> Nội dung kiến thức SKSS được giảng<br /> dạy khá tùy tiện. Đôi lúc đề cập ngẫu nhiên,<br /> thông qua trao đổi, tư vấn trên lớp hoặc với<br /> riêng từng HSKT. Thậm chí, giáo viên còn<br /> bỏ qua các nội dung nhạy cảm.<br /> <br /> 23<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2012<br /> <br /> “Các vấn đề về SKSS thường được đề<br /> cập một cách bộc phát. Một số nội dung đã<br /> được đề cập nhưng lướt qua và tránh né<br /> các vấn đề nhạy cảm” (Nhóm giáo viên Lâm<br /> Đồng).<br /> 2. Giáo trình có nội dung SKSS.<br /> Đối với TTN khiếm thính, tài liệu được<br /> hoan nghênh và tiếp thu dễ dàng nhất là<br /> các loại hình truyền thông trực quan. Trong<br /> khi đó, sách giáo khoa phổ thông đang<br /> được sử dụng ít tranh ảnh, nhiều chữ và<br /> không có ký hiệu ngôn ngữ kèm theo. Vì<br /> vậy, tài liệu giáo dục SKSS hiện nay trong<br /> các trường chuyên biệt chưa đáp ứng được<br /> nhu cầu thông tin trực quan của HSKT.<br /> Theo Maerrawi, tài liệu truyền thông phải<br /> được thiết kế chuyên biệt dành cho TTN<br /> khiếm thính [7].<br /> “Các sách đó quá nhiều chữ, các em ghi<br /> chép nhiều, nhưng không hiểu gì” (Nhóm<br /> giáo viên Đà Nẵng).<br /> Tranh ảnh trong sách giáo khoa hiện tại<br /> chỉ mang tính minh họa, không diễn đạt đầy<br /> đủ nội dung, không giúp nhiều cho HSKT<br /> hiểu được sự vật, hiện tượng. Đặc biệt, khi<br /> đó là một quá trình, ví dụ thụ thai hoặc<br /> mang thai.<br /> “Tranh ảnh còn cô đọng, không thể hiện<br /> các nội dung cụ thể, do đó, không giúp cho<br /> HSKT hiểu được các quá trình” (giáo viên<br /> Lâm Đồng).<br /> 3. Phƣơng pháp giảng dạy SKSS.<br /> Nhìn chung, giáo viên các trường đang<br /> quan tâm áp dụng nhiều phương pháp<br /> giảng dạy cho HSKT: từ thảo luận, kể chuyện<br /> trên tranh ảnh… Nhưng phương pháp giảng<br /> bài vẫn là chủ yếu. Các hoạt động ngoại<br /> khóa, trò chơi hiếm khi được thực hiện.<br /> “…Giảng bài là chính. Tuy nhiên, khi các<br /> em có thắc mắc đến hỏi cô giáo thì cô trò<br /> có thể tâm sự. Nhân lúc đó, cô sẽ cung cấp<br /> <br /> kiến thức về SKSS và tình dục cho các em”<br /> (Giáo viên Đà Nẵng).<br /> Trong khi đó, vì các lý do tâm sinh lý và<br /> khiếm khuyết cơ thể của HSKT như vốn<br /> ngôn ngữ cử chỉ khác nhau; khả năng đọc<br /> khẩu hình miệng hạn chế; sự tập trung chỉ<br /> kéo dài tối đa 20 - 30 phút; nên phương<br /> pháp giảng bài không được các em ưa thích.<br /> “Chúng em không thích phương pháp<br /> giảng bài vì cô giáo ra nhiều ký hiệu, các<br /> em không thể nhớ hết” (Nhóm HSKT nam<br /> Hải Phòng).<br /> Học qua hình ảnh là kênh tiếp thu tự<br /> nhiên của thanh thiến niên khiếm thính. Vì<br /> vậy, các em thích được xem tranh, giảng<br /> giải thông qua tranh ảnh hơn là đọc sách<br /> hay nghe (và xem) thầy cô giảng bài. Có<br /> thể nói, vai trò của giáo cụ hỗ trợ giảng dạy<br /> trong giáo dục TTN khiếm thính rất quan<br /> trọng. Ngoài tranh ảnh, HSKT chưa bao giờ<br /> được tiếp cận với giáo cụ hỗ trợ trực quan<br /> khác như video clip, mô hình, mẫu vật [3].<br /> HSKT rất thích tranh ảnh minh họa, giáo<br /> viên đã cố gắng tự bổ sung, dù chỉ là phô tô<br /> trắng đen.<br /> “Thường phải dạy chay, không có các<br /> tranh ảnh minh hoạ cho học sinh hiểu”<br /> (Nhóm giáo viên Lâm Đồng).<br /> Giáo viên đã rất cố gắng tự làm thủ công<br /> hoặc sưu tầm, nhưng giáo cụ thường không<br /> đẹp, nhỏ và không đầy đủ.<br /> “Các cô thường phải tự sưu tầm tranh<br /> ảnh để dạy các em, tuy nhiên, chủ yếu là<br /> tranh đen trắng và không đẹp, không thu<br /> hút được sự chú ý của học sinh” (giáo viên<br /> Xã Đàn).<br /> 4. Ngôn ngữ cử chỉ.<br /> HSKT không đủ ký hiệu để diễn đạt các<br /> nội dung về SKSS và tình dục. Bộ ngôn<br /> ngữ cử chỉ đang áp dụng trong trường<br /> không có từ vựng chuyên biệt về nội dung<br /> <br /> 24<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2012<br /> <br /> này. Tình trạng trên không thay đổi gì từ<br /> điều tra nhu cầu can thiệp của Viện Nghiên<br /> cứu Phát triển Xã Hội năm 2007 và hạn chế<br /> đáng kể hiệu quả công tác truyền thông,<br /> giáo dục [3]. Thiếu hụt ngôn ngữ cử chỉ<br /> không những cản trở giáo viên truyền đạt<br /> nội dung bài học mà còn cản trở việc giao<br /> tiếp, tiếp nhận thông tin trong gia đình và<br /> giữa HSKT với bạn bè đồng đẳng trong<br /> cộng đồng khiếm thính. Cùng với thực<br /> trạng, phần lớn HSKT do điều kiện kinh tế<br /> gia đình khó khăn, không được trang bị<br /> máy trợ thính, mục tiêu hòa nhập các em<br /> tương tự như trẻ khuyết tật nói chung khó<br /> đạt được [2].<br /> “...Ký hiệu ngôn ngữ về SKSS và tình<br /> dục không có, giáo viên không dạy. Hầu hết<br /> các vấn đề về SKSS và tình dục đều khó<br /> diễn tả bằng ký hiệu ngôn ngữ vì chưa có<br /> ký hiệu nên chúng em cho là khó” (Nhóm<br /> HSKT nam Lâm Đồng).<br /> Ngôn ngữ cử chỉ đang được phát triển<br /> khá tự phát. HSKT sáng tạo ra ký hiệu<br /> trước, giáo viên sử dụng theo. Có thể các<br /> ký hiệu đó khá thô, cộng thêm tâm lý ngại<br /> ngùng về chủ đề SKSS và tình dục, một số<br /> giáo viên né tránh, không muốn học và sử<br /> dụng các ký hiệu mới.<br /> “Giáo viên không được học và cũng<br /> không muốn học các ký hiệu về SKSS và<br /> tình dục. Do ảnh hưởng của văn hoá phong<br /> kiến, giáo viên muốn né tránh các vấn đề về<br /> SKSS và tình dục” (Nhóm giáo viên Lâm Đồng).<br /> 5. Khung chƣơng trình.<br /> Cũng như trong hệ thống giáo dục toàn<br /> quốc, không trường chuyên biệt nào có<br /> môn SKSS riêng biệt. Nội dung SKSS được<br /> lồng ghép vào nhiều môn khác nhau như<br /> giáo dục công dân, khoa học, sinh học,<br /> thậm chí là đạo đức. Cách thiết kế này dẫn<br /> đến một loạt những bất cập trong giáo dục<br /> SKSS. Đó là, không có giáo viên chuyên<br /> <br /> trách về SKSS và tình dục, trong khi giáo<br /> viên các môn khác chưa hề được đào tạo,<br /> tập huấn giảng dạy về nội dung này. Kiến<br /> thức SKSS được cung cấp cho HSKT<br /> không hệ thống, không đầy đủ. Quan trọng<br /> hơn, nhà trường và giáo viên có muốn cũng<br /> không thể thiết kế bài giảng về SKSS theo<br /> mô hình đồng tâm, lấy học sinh làm trung<br /> tâm như nhiều nước tiên tiến đang áp dụng [8].<br /> “Hiện nay chưa có môn học riêng về<br /> SKSS, các nội dung này thường được kết<br /> hợp trong môn học khác như môn khoa học<br /> lớp 5, các hoạt động ngoại khoá, hoặc khi<br /> cô trò tâm sự với nhau. Trong những buổi<br /> đó, các em phát sinh rất nhiều câu hỏi<br /> thêm.” (Nhóm giáo viên Hải Phòng).<br /> “Cần có giáo viên chuyên trách, nếu<br /> không, cần đào tạo toàn bộ giáo viên về<br /> kiến thức SKSS và phương pháp giáo dục”<br /> (Cán bộ quản lý Đà Nẵng).<br /> Trong báo cáo điều tra tình hình học tập<br /> và làm việc của TTN khuyết tật Ninh Bình<br /> và Quảng Nam, tổ chức Catholic Relief<br /> Service cho biết đang rất thiếu giáo viên<br /> dành học sinh khuyết tật. Hai tỉnh Ninh Bình<br /> và Quảng Nam chỉ có ba giáo viên có bằng<br /> cấp đào tạo chuyên biệt học sinh khuyết tật,<br /> số còn lại chỉ có 5% được giới thiệu về giáo<br /> dục hòa nhập tại trường sư phạm và một<br /> phần ba được tập huấn ngắn ngày về giáo<br /> dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật [5]. Chưa<br /> có số liệu thống kê về số giáo viên có thể<br /> sử dụng ngôn ngữ cử chỉ.<br /> Nhiều ý kiến đề xuất khác nhau về<br /> khung chương trình giảng dạy SKSS, thể<br /> hiện sự quan tâm cũng như nhu cầu đa<br /> dạng của giáo viên và cán bộ quản lý.<br /> Nhưng các thầy cô thống nhất về sự cần<br /> thiết có một môn riêng như Baker đã kiến<br /> nghị [4]. Môn này có thể triển khai ở chính<br /> khóa và ngoại khóa, thời lượng khoảng 1<br /> tiết/tuần. Mô hình giáo dục đồng tâm mà<br /> <br /> 25<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2012<br /> <br /> giáo viên đề xuất tương tự mô hình của Hội<br /> đồng Thông tin, Giáo dục SKSS Hoa Kỳ,<br /> theo đó, một chủ đề được giảng dạy cho<br /> nhiều lứa tuổi với những mức độ kiến thức,<br /> thái độ và kỹ năng khác nhau [8].<br /> “Là môn riêng cộng hoạt động ngoại<br /> khoá. Giảm tải các môn tự chọn như kỹ<br /> thuật, hát... Khối lượng là 1 tiết/tuần, 35 tuần<br /> một năm học” (Nhóm giáo viên Hà Nội).<br /> Do khả năng tiếp thu của HSKT hạn chế<br /> nên một bài học thường bị kéo dài gấp đôi<br /> so với học sinh bình thường. Để tránh bị<br /> cháy giáo án, giáo viên hoặc cắt bỏ bớt kiến<br /> thức hoặc không áp dụng các phương pháp<br /> giảng dạy tốn thời gian hơn.<br /> “… Vì ít thời gian, trong khi khối lượng<br /> kiến thức lại nhiều nên phương pháp cũng<br /> bị hạn chế, chủ yếu là giảng bài, cố gắng<br /> truyền tải cho hết khối lượng nội dung đã<br /> được giao trong tiết học” (Nhóm giáo viên<br /> Lâm Đồng)<br /> 6. Trao đổi trong gia đình về SKSS.<br /> Cha mẹ có vai trò và trách nhiệm to lớn<br /> đối với sự trưởng thành của TTN khiếm<br /> thính. Vì vậy, so với HSKT và giáo viên,<br /> phụ huynh là đối tượng có nhiều tâm tư và<br /> cảm thấy bối rối hơn trong việc áp dụng<br /> giảng dạy SKSS và tình dục cho con em họ.<br /> Một mặt, họ rất lo lắng về nguy cơ gặp phải<br /> các vấn đề SKSS của HKST, mặt khác họ<br /> cảm thấy không có khả năng truyền đạt cho<br /> con mình những kiến thức cần thiết. Phụ<br /> huynh cũng bức xúc vì sự thiếu quan tâm<br /> của Chính phủ, cộng đồng và xã hội. Nhà<br /> trường là cứu cánh cho phụ huynh trong<br /> vấn đề này.<br /> “Ở nhà nói thiệt là mình không có trao<br /> đổi gì với con mình về tình dục hết trơn á,<br /> không có nói, vì theo mình, mình không biết<br /> là phải truyền đạt với con như thế nào” (Phụ<br /> huynh Đà Nẵng).<br /> <br /> Như với phần lớn các gia đình Việt Nam,<br /> SKSS là chủ đề nhạy cảm, thậm chí cấm<br /> kỵ. Cả cha mẹ và HSKT đều thấy rất khó<br /> khăn để gợi mở, chia sẻ.<br /> “Tuổi dậy thì các em rất ít chia sẻ với gia<br /> đình, bố mẹ về những thay đổi cơ thể. Hơn<br /> nữa, tâm lý tuổi dậy thì, cái này gia đình<br /> cảm thấy rất khó khăn với điều đó” (Phụ<br /> huynh TP. HCM).<br /> Trong khi đó, một số gia đình, phụ huynh<br /> lại chưa có sự quan tâm đúng mức đến<br /> SKSS nói riêng và học tập nói chung của<br /> TTN khiếm thính.<br /> “Cha mẹ ít quan tâm đến trẻ điếc, một số<br /> trường hợp sẵn sàng cho con nghỉ học khi<br /> gia đình có việc, cần sức lao động của các<br /> em” (Giáo viên Đà Nẵng).<br /> KẾT LUẬN<br /> Giáo dục cho HSKT về SKSS trong nhà<br /> trường còn nhiều bất cập, dù thầy cô giáo<br /> đã có nhiều cố gắng. Đó là: (1) không có<br /> hướng dẫn nội dung giảng dạy về SKSS<br /> thống nhất; (2) không có sách giáo khoa<br /> chuyên biệt giảng dạy cho HSKT; (3) Phần<br /> lớn HSKT học đến lớp 4, nhưng nội dung<br /> SKSS lại được giảng dạy từ lớp 5; (4) Giáo<br /> viên không được tập huấn, đào tạo; (5)<br /> Ngôn ngữ cử chỉ không thể truyển tải đầy<br /> đủ nội dung giảng dạy do gần như không<br /> có ký hiệu về SKSS; (6) Không có giáo cụ<br /> hỗ trợ giảng dạy trực quan, trong khi sách<br /> giáo khoa phổ thông đang được sử dụng<br /> không có đủ hình ảnh minh họa và dùng<br /> nhiều từ ngữ trìu tượng. Với các thực trạng<br /> trên, chúng tôi khuyến nghị đổi mới toàn<br /> diện và triệt để công tác giáo dục SKSS cho<br /> HSKT để đáp ứng mong đợi thiết tha của<br /> gia đình, của các trường chuyên biệt và quyền<br /> được học tập, chăm sóc một cách bình đẳng<br /> của thanh thiếu niên khiếm thính.<br /> <br /> 26<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2