Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
HIỆU QUẢ CỦA GIÁO DỤC SỨC KHỎE TRONG KIỂM SOÁT<br />
NHIỄM GIUN KIM Ở TRẺ MẪU GIÁO TẠI HUYỆN CỦ CHI<br />
TP. HCM TỪ 9/2008 ĐẾN 5/2009<br />
Nhữ Thị Hoa*, Hồ Quốc Cường*, Nguyễn Trương Tường Duy*, Trần Xuân Mai**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mở ñầu: Nhiễm giun kim liên quan trực tiếp ñến vệ sinh cá nhân và môi trường sinh hoạt của<br />
bệnh nhân, vì vậy tẩy giun ñinh kỳ chưa ñủ kiểm soát bệnh, cần phối hợp với GDSK phòng ngừa<br />
nhiễm giun. Đánh giá tác ñộng của GDSK ñối với tỷ lệ nhiễm giun kim trên một cộng ñồng nhất ñịnh<br />
sẽ giúp ñiều chỉnh chiến lược truyền thông một cách thích hợp và hiêu quả hơn.<br />
Mục tiêu: Đánh giá tác ñộng của GDSK trên phụ huynh trong kiểm soát nhiễm giun kim ở trẻ<br />
mẫu giáo huyện Củ Chi TPHCM từ 9/2008 - 5/2009.<br />
Phương pháp: Can thiệp cộng ñồng có ñối chứng ñược tiến hành trên 1677 trẻ thuộc 4 trường<br />
ñược chọn ngẫu nhiên từ 28 trường mẫu giáo huyện Củ Chi, TP.HCM từ 9/2008 -5/2009. GDSK<br />
bằng truyền thông trực tiếp, phát tờ bướm và thư nhắc ñược thực hiện cho phụ huynh thuộc nhóm can<br />
thiệp. Thu thập các biến số khảo sát bằng bảng câu hỏi tự ñiền và kỹ thuật xét nghiệm Graham. Tỷ lệ<br />
nhiễm, kiến thức, thực hành ñúng ñược ñánh giá trước và sau can thiệp.<br />
Kết quả: Ở nhóm can thiệp, sau GDSK, kiến thức, thực hành chưa ñúng chỉ lần lượt bằng 0,45<br />
và 0,36 lần, và tỷ lệ nhiễm giảm 2,77 lần so với ñánh giá ban ñầu (p < 0,01). Sự khác biệt về tỷ lệ tái<br />
nhiễm chưa ñược thể hiện cụ thể một cách thống kê khi so với nhóm chứng (p = 0,17) và chịu sự chi<br />
phối mạnh mẽ bởi tỷ lệ nhiễm ban ñầu, phân hiệu, phân lớp của trẻ (RR lần lượt = 3,56; 1,43 và 1,52;<br />
p < 0,02).<br />
Kết luận và ñề xuất: GDSK ñã dẫn ñến sự thay ñổi kiến thức, thực hành của phụ huynh về phòng<br />
ngừa nhiễm giun kim và tỷ lệ nhiễm ở trẻ. Tác ñộng ñơn thuần lên trẻ bị nhiễm chưa ñủ ñể kiểm soát<br />
nhiễm giun kim. GDSK phải ñược duy trì thường xuyên ñối với phụ huynh và giáo viên. Tẩy giun và<br />
vệ sinh cá nhân liên quan ñến nhiễm giun kim phải ñược áp dụng ñồng thời cho trẻ bệnh và các thành<br />
viên sinh hoạt trong cùng môi trường với trẻ.<br />
Từ khóa: giun kim, tái nhiễm, giáo duc sức khỏe, kiểm soát nhiễm giun kim, phòng ngừa nhiễm<br />
giun kim<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THE EFFECT OF HEALTH EDUCATION ON CONTROLLING ENTEROBIASIS IN<br />
KINDERGATEN CHILDREN IN CU CHI DISTRICT, HO CHI MINH CITY FROM 9/2008 TO<br />
5/2009<br />
Nhu Thi Hoa, Ho Quoc Cuong, Nguyen Truong Tuong Duy, Tran Xuan Mai<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 2 - 2010: 206 - 211<br />
Introduction: Enterobiasis relates directly to personal hygiene and environmental factors,<br />
therefore, mass treatment should be associated with health education to achieve a sound control of<br />
infestation. Assessing the impact of health education on pinworm prevalence is necessary for proper<br />
and effective campaigns.<br />
Objective: Assessing the effect of health education on controlling pinworm infestation in<br />
kindergarten children in Cu Chi district, HCM city from 9/2008 to 5/2009.<br />
Subjects & Methods: Controlled community intervention study was conducted among 1677<br />
* ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch.<br />
<br />
** Đại học Y Dược TP. HCM<br />
<br />
Tác giả liên hệ: ThS. Nhữ Thị Hoa ĐT: 0903379566 Email: drnhuhoa@yahoo.com<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Kỹ Thuật Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch<br />
Năm 2010<br />
<br />
206<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
children of 4 kindergartens selected randomly from 28 nursery schools in Cu Chi district in the<br />
academic year 2008 – 2009. Health education campaign on enterobiasis was carried out for parents<br />
of intervention group, including direct informations,flyers and remind letters. The structure<br />
questionaire was used to collect the administrative information, knowledge and practice. Enterobiasis<br />
was determined by Graham’s technique. The rates of pinworm infestation, correct knowledge and<br />
practice were evaluated before the campaign and three monthsafter intervention. Stata 8.0 was used<br />
for data analysis.<br />
Results: In the intervention group, rates of incorrect knowledge, incorrect practice after<br />
health education were respectively 0.45 and 0.36 times, and rate of reinfestation was 2.77 times<br />
greater than that of the beginning (p < 0.02). Difference in reinfestation rate between two groups<br />
has not been statistically significant (p = 0.17) and was drastically influenced by the former<br />
result, campus and stratification (RR = 3.56, 1.43 and 1.52 respecively; p < 0.02).<br />
Conclusions & recommendations: A combination of frequent health education for parents and<br />
sanitating in children and other members living at the same environment is necessary for an effective<br />
control of enterobiasis.<br />
Keywords: Enterobius vermicularis, pinworm, pinworm infestation, enterobiasis, pinworm<br />
control, prevention on enterobiasis, health education, reinfestaion.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Trải qua nhiều thập niên, nhìn chung, y học vẫn chưa kiểm soát ñược tình trạng nhiễm giun ký<br />
sinh ñường ruột. Đây là nhóm bệnh liên quan trực tiếp ñến vệ sinh thực phẩm, vệ sinh cá nhân cũng<br />
như vệ sinh môi trường. Nói cách khác, tẩy giun ñịnh kỳ chưa thể khống chế hoàn toàn tỷ lệ nhiễm<br />
giun, nhất là ở các nước ñang phát triển(6)<br />
Thật vậy, các khảo sát từ thập niên 1990s và 2000s ñã chứng tỏ tính phổ biến dai dẳng của nhiễm<br />
giun kim tại Việt Nam với tỷ lệ hiện mắc dao ñộng từ 18,5% ñến 47%, có vùng lên ñến 73,45%, tập<br />
trung chủ yếu ở nhóm 3-6 tuổi(1,2,3,5,7). Củ Chi là một huyện ngoại thành TP.HCM với chương trình xổ<br />
giun ñịnh kỳ ñược triển khai nhiều năm qua tại các trường mẫu giáo nhưng tỷ lệ hiện mắc giun kim<br />
vẫn vượt quá 23%(6)<br />
Với chu trình phát triển trực tiếp ngắn, biện pháp phòng ngừa bệnh giun kim Enterobius<br />
vermicularis không phải là “ăn chín, uống sôi”, “mang găng, ñi ủng khi làm việc, tiếp xúc với ñất bị ô<br />
nhiễm phân người” như các loài giun khác. Trứng giun kim ñược ñẻ ở rìa hậu môn và có khả năng lây<br />
nhiễm ngay từ lúc mới sinh ñã tạo ñiều kiện cho quá trình tự tái nhiễm xảy ra liên tục và mầm bệnh<br />
phát tán rộng rãi vào môi trường chung quanh, dễ dàng lây nhiễm vào các thành viên sinh hoạt trong<br />
cùng không gian với bệnh nhân. Do ñó, bên cạnh xổ giun ñịnh kỳ, giáo dục sức khỏe (GDSK) cho<br />
người dân về các biện pháp phòng tránh nhiễm giun kim là tất yếu. Tuy nhiên, mức ñộ tác ñộng của<br />
GDSK trong một cộng ñồng cụ thể sẽ như thế nào? Đánh giá vấn ñề này không chỉ góp phần kiểm<br />
soát bệnh tại ñịa phương ñó mà còn rút ra những kinh nghiệm, những thông tin cần thiết có thể áp<br />
dụng vào chương trình phòng chống giun sán cho các cộng ñồng khác.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Nghiên cứu can thiệp cộng ñồng có nhóm chứng ñược tiến hành từ tháng 9/2008 ñến tháng<br />
5/2009 tại 4 trong 28 trường mẫu giáo thuộc huyện Củ Chi, TP. HCM (rút thăm ngẫu nhiên) với mong<br />
muốn ứng dụng kết quả lên trẻ 3 – 6 tuổi trong huyện. Tất cả trẻ học tại 4 trường trên, có mặt suốt thời<br />
gian nghiên cứu và phụ huynh ñồng ý tham gia ñều ñược ñưa vào mẫu khảo sát. Cỡ mẫu tối thiểu cho<br />
mỗi nhóm là 844 trẻ, ñược tính dựa trên công thức ước lượng một nguy cơ tương ñối với α = 5%, ñộ<br />
chính xác mong muốn ε = 15%, p tham khảo về thực hành ñúng trước và sau GDSK lần lượt là 72,6%<br />
và 28,4%(4,5), hệ số giảm hiệu ứng mẫu cụm = 2.<br />
Thu thập thông tin bằng bảng câu hỏi cấu trúc phát cho phụ huynh tự ñiền. Áp dụng kỹ thuật<br />
Graham ñể chẩn ñoán nhiễm giun kim trước ñiều trị, sau ñiều trị 2 tuần và sau GDSK 3 tháng (1<br />
mẫu/trẻ/ñợt). Thực hiện 3 ñợt xổ giun với Mebendazole 500mg ñơn liều: i) ñiều trị tất cả trẻ tham gia<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Kỹ Thuật Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch<br />
Năm 2010<br />
<br />
207<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
nghiên cứu; ii) 2 tuần sau ñợt 1, ñiều trị các trường hợp còn dương tính nhằm ñảm bảo tối ña các trẻ<br />
ñã sạch giun trước khi thực hiện GDSK; iii) thực hiện sau GDSK 3 tháng. Truyền thông giáo dục trực<br />
tiếp ñược tiến hành theo từng nhóm PH (30 – 50 PH/nhóm), sau ñó lập lại lần 2 bằng tờ bướm và lần<br />
3 bằng thư nhắc. Dữ liệu ñược phân tích bằng Stata 8.0. Sử dụng tần số, tỷ lệ ñể ño lường kiến thức,<br />
thức hành và tình trạng nhiễm giun kim; kiểm ñịnh χ2, MacNemar ở mức ý nghĩa 5% và tính RR<br />
(KTC 95%) ñể ño lường sự khác biệt về kiến thức (KT), thực hành (TH), tỷ lệ nhiễm giữa 2 nhóm,<br />
giữa trước và sau GDSK. Khử nhiễu bằng phân tích hồi quy logistic.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Bảng 1: Đặc ñiểm của mẫu nghiên cứu<br />
<br />
Điểm lẻ<br />
<br />
Can thiệp<br />
(n = 877)<br />
n (%)<br />
416 (47,4)<br />
<br />
Chứng<br />
(n = 800)<br />
n (%)<br />
168 (21,0)<br />
<br />
Điểm chính<br />
<br />
461 (52,6)<br />
<br />
632 (79,0)<br />
<br />
Lá<br />
<br />
633 (72,2)<br />
<br />
458 (57,3)<br />
<br />
Chồi<br />
<br />
244 (27,8)<br />
<br />
342 (42,7)<br />
<br />
Đặc ñiểm<br />
<br />
Phân hiệu<br />
Phân lớp<br />
Phụ huynh<br />
(PH)<br />
<br />
Mẹ<br />
<br />
767 (87,5)<br />
<br />
647 (80,9)<br />
<br />
Khác<br />
<br />
110 (12,5)<br />
<br />
153 (19,1)<br />
<br />
Dân tộc của<br />
PH<br />
<br />
Kinh<br />
<br />
875 (99,8)<br />
<br />
798 (99,8)<br />
<br />
Khác<br />
<br />
2 (0,2)<br />
<br />
2 (0,2)<br />
<br />
Nghề của<br />
PH<br />
<br />
Trí óc<br />
<br />
29 (3,3)<br />
<br />
71 (8,8)<br />
<br />
Chân tay<br />
<br />
848 (96,7)<br />
<br />
729 (91,2)<br />
<br />
> cấp 2<br />
<br />
143 (16,3)<br />
<br />
252 (31,5)<br />
<br />
≤ cấp 2<br />
<br />
734 (83,7)<br />
<br />
548 (68,5)<br />
<br />
Có<br />
<br />
333 (38,0)<br />
<br />
182 (22,7)<br />
<br />
Không<br />
<br />
544 (62,0)<br />
<br />
618 (77,3)<br />
<br />
Đúng<br />
<br />
336 (38,3)<br />
<br />
436 (54,5)<br />
<br />
Chưa ñúng<br />
<br />
541 (61,7)<br />
<br />
364 (45,5)<br />
<br />
Học vấn<br />
của PH<br />
Trẻ bị<br />
nhiễm<br />
KT của PH<br />
<br />
TH của PH<br />
<br />
Đúng<br />
<br />
275 (31,4)<br />
<br />
229 (28,6)<br />
<br />
Chưa ñúng<br />
<br />
602 (68,6)<br />
<br />
571 (71,4)<br />
<br />
p (χ2)<br />
<br />
< 0,01<br />
< 0,01<br />
< 0,01<br />
0,92<br />
< 0,01<br />
< 0,01<br />
< 0,01<br />
(OR=2,0<br />
8)<br />
< 0,01<br />
(OR=0,5<br />
2)<br />
0,22<br />
<br />
*<br />
<br />
sau khi khử các yếu tố gây nhiễu bằng phân tích ña biến, tỷ lệ nhiễm ở nhóm can thiệp cao hơn nhóm<br />
chứng 1,95 (1,56 – 2,43) lần (p < 0,01)<br />
<br />
Nhóm chứng và nhóm can thiệp tương ñồng nhau về dân tộc và TH phòng ngừa nhiễm giun<br />
kim của PH. Các thuộc tính như phân hiệu, lớp, tỷ lệ nhiễm của trẻ, quan hệ giữa bé với PH,<br />
nghề, học vấn và KT về nhiễm giun kim của PH phân bố không ñồng ñều giữa 2 nhóm nghiên<br />
cứu.<br />
Bảng 2: So sánh kiến thức, thực hành, tỷ lệ nhiễm trước – sau GDSK trong từng nhóm.<br />
<br />
KT<br />
TH<br />
<br />
Nhóm can<br />
thiệp<br />
<br />
Trước GDSK<br />
<br />
Sau<br />
GDSK<br />
(+)<br />
<br />
(–)<br />
<br />
(+)<br />
<br />
224<br />
<br />
112<br />
<br />
(–)<br />
<br />
249<br />
<br />
292<br />
<br />
(+)<br />
<br />
146<br />
<br />
129<br />
<br />
pMcNemar<br />
<br />
OR<br />
(KTC 95%)<br />
<br />
< 0,01<br />
<br />
0,45<br />
(0,36 – 0,56)<br />
<br />
< 0,01<br />
<br />
0,66<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Kỹ Thuật Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch<br />
Năm 2010<br />
<br />
208<br />
<br />
TH<br />
Nhiễm<br />
<br />
Nhóm chứng<br />
<br />
KT<br />
<br />
Nhiễm<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
(–)<br />
<br />
195<br />
<br />
407<br />
<br />
(+)<br />
<br />
125<br />
<br />
208<br />
<br />
(–)<br />
<br />
75<br />
<br />
469<br />
<br />
(+)<br />
<br />
275<br />
<br />
161<br />
<br />
(–)<br />
<br />
145<br />
<br />
219<br />
<br />
(+)<br />
<br />
109<br />
<br />
120<br />
<br />
(–)<br />
<br />
129<br />
<br />
442<br />
<br />
(+)<br />
<br />
53<br />
<br />
129<br />
<br />
(–)<br />
<br />
65<br />
<br />
553<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
(0,52 – 0,83)<br />
< 0,01<br />
<br />
2,77<br />
(2,12 – 3,66)<br />
<br />
0,36<br />
<br />
0,57<br />
<br />
< 0,01<br />
<br />
1,98<br />
(1,46 – 2,72)<br />
<br />
(+): có nhiễm hoặc ñúng (về KT, TH)<br />
(–): không nhiễm hoặc chưa ñúng (về KT,TH)<br />
Sau GDSK, ở nhóm can thiệp, số phụ huynh có KT chưa ñúng, thực hành chưa ñúng và số trẻ<br />
không nhiễm giun lần lượt thấp hơn 0,45 lần, 0,66 lần và cao hơn 2,77 lần so với trước GDSK. Ở<br />
nhóm chứng, KT và TH của PH không thay ñổi nhưng số mẫu Graham âm tính cao gấp 1,98 lần so<br />
với ñánh giá ñầu vào.<br />
Bảng 3: Phân tích hồi quy ña biến sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa hai nhóm.<br />
Tỷ lệ nhiễm<br />
Có GDSK<br />
Phân hiệu<br />
Phân lớp<br />
Nhiễm trước GDSK<br />
TH sau GDSK<br />
KT sau GDSK<br />
Quan hệ trẻ-PH<br />
Nghề của PH<br />
Học vấn của PH<br />
<br />
RR<br />
1,22<br />
1,43<br />
1,52<br />
3,56<br />
0,88<br />
1,05<br />
0,99<br />
0,66<br />
0,99<br />
<br />
(KTC 95%)<br />
(0,93 – 1,61)<br />
(1,07 – 1,91)<br />
(1,10 – 2,09)<br />
(2,74 – 4,61)<br />
(0,67 – 1,16)<br />
(0,81 – 1,37)<br />
(0,70 – 1,42)<br />
(0,32 – 1,39)<br />
(0,69 – 1,43)<br />
<br />
p<br />
0,15<br />
0,02<br />
0,01<br />
< 0,01<br />
0,37<br />
0,69<br />
0,98<br />
0,28<br />
0,98<br />
<br />
GDSK chưa ñủ tạo nên sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa hai nhóm. Phân hiệu, phân lớp, tỷ lệ<br />
nhiễm ban ñầu có ảnh hưởng ñến tình trạng nhiễm giun kim sau GDSK. Với các trẻ học trong cùng<br />
một phân lớp và phân hiệu, nhóm có xét nghiệm ñầu vào dương tính sẽ bị tái nhiễm gấp 3,56 lần<br />
nhóm không bị nhiễm.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Đặc ñiểm của mẫu nghiên cứu<br />
Tổng số trẻ tham gia nghiên cứu là 1677, học tại 4 trường mẫu giáo ñược chọn ngẫu nhiên từ 28<br />
trường của huyện, trong ñó 877 trẻ thuộc nhóm can thiệp và 800 trẻ thuộc nhóm chứng. Với phương<br />
pháp chọn mẫu theo cụm, sự khác biệt ñã xuất hiện giữa hai nhóm về các ñặc tính: tỷ lệ nhiễm ban<br />
ñầu, phân hiệu, phân lớp của trẻ, quan hệ giữa trẻ với PH, nghề nghiệp, trình ñộ học vấn và KT của<br />
PH (p < 0,01, bảng 1). Sự không tương ñồng này có khả năng gây nhiễu khi ñánh giá kết quả giữa hai<br />
nhóm, do ñó, phương pháp hồi quy ña biến ñược sử dụng khi phân tích sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm<br />
giữa 2 nhóm sau can thiệp.<br />
Trước GDSK, kiến thức ñúng ở nhóm can thiệp chỉ bằng 0,52 lần nhóm chứng (bảng 1), có thể do<br />
học vấn ≤ cấp 2 của nhóm này chiếm ña số (83,7% so với 68,5%); nhưng thực hành phòng ngừa<br />
nhiễm giun kim ở 2 nhóm lại tương ñương nhau. KT ñúng chưa thể ñưa ñến TH ñúng nếu chưa hình<br />
thành thái ñộ ñúng cũng như thiếu ñiều kiện, phương tiện ñể thực hiện. Thật vậy, việc vệ sinh vùng hạ<br />
bộ cho trẻ vào mỗi sáng sớm sẽ khó khả thi khi PH phải ñi làm ñúng giờ hoặc khi có khó khăn về<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Kỹ Thuật Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch<br />
Năm 2010<br />
<br />
209<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 2 * 2010<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
nguồn nước sinh hoạt. Tương tự, việc lau nhà không thể thực hiện nếu nền nhà bằng ñất hoặc bằng<br />
gạch tàu, xi măng nhưng ñã xuống cấp… Sự khác biệt về số lượng phân hiệu và nghề của PH ñã thể<br />
hiện ñiều kiện kinh tế chưa cao ở nhóm can thiệp so với nhóm chứng, qua ñó phản ánh sự khó khăn<br />
trong việc thực hiện các hoạt ñộng vừa nêu.<br />
<br />
So sánh kiến thức, thực hành, tỷ lệ nhiễm trước và sau GDSK trong từng nhóm<br />
Khi ñánh giá KT, TH sau GDSK (bảng 2), sự cải thiện ñã ñược mô tả trong nhóm can thiệp: số<br />
PH hiểu biết chưa chính xác và TH chưa ñúng chỉ lần lượt bằng 0,45 và 0,66 lần trước GDSK; ñồng<br />
thời số trường hợp trở nên âm tính ñã tăng lên gấp 2,77 lần so với số mẫu chuyển dương (p < 0,01).<br />
Sau khi tẩy giun tập thể, tình trạng nhiễm giun kim vẫn ñược duy trì trong cộng ñồng vì mầm bệnh<br />
vẫn tồn tại trong không gian sinh hoạt chung cũng như trên các ñối tượng chưa xổ hết giun. Nếu<br />
không áp dụng các biện pháp phòng ngừa khác, sẽ không thể bảo vệ trẻ khỏi sự tái nhiễm cũng như<br />
mới mắc. Với ñợt truyền thông giáo dục ngắn hạn từ nghiên cứu này, số mới mắc vẫn xảy ra nhưng<br />
chỉ bằng 1/3 kết quả âm tính hóa tỷ lệ nhiễm ban ñầu. Cần phải duy trì hoạt ñộng GDSK ñể kiểm soát<br />
bệnh giun kim hữu hiệu hơn.<br />
Đối với nhóm chứng, do không ñược GDSK nên không thể hiện sự thay ñổi KT, TH so với kết<br />
quả ban ñầu (p > 0,05, bảng 2) và tỷ lệ tái nhiễm, lẽ ra cũng không chênh lệch nhiều với tỷ lệ nhiễm<br />
ban ñầu, hay nói cách khác, số mẫu âm tính không tăng một cách có ý nghĩa thống kê như bảng 2 mô<br />
tả: RR = 1,98 (p < 0,01). Tuy nhiên, hiện tượng này cũng không nghịch lý vì:<br />
i) việc tẩy giun sau xét nghiệm ñầu vào ñã làm giảm mật ñộ nhiễm trong cộng ñồng, do ñó, trong<br />
vòng 3 tháng, nếu không áp dụng các biện pháp phòng ngừa thích hợp, tái nhiễm chắc chắn xảy ra<br />
nhưng chưa ñủ sức trở về mức ban ñầu như ghi nhận của nhiều tác giả (4),;<br />
ii) việc GDSK ở nhóm can thiệp có thể gây nhiễu ít nhiều qua nhóm chứng vì các xã nghiên cứu<br />
không cách xa nhau về mặt ñịa lý cũng như mối quan hệ họ hàng có thể tồn tại giữa phụ huynh các xã.<br />
<br />
So sánh tỷ lệ nhiễm sau GDSK giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng<br />
Số trường hợp nhiễm sau GDSK chính là tỷ lệ tái nhiễm của cộng ñồng. GDSK thể hiện rõ tác<br />
ñộng tích cực ñối với việc cải thiện KT, TH và tỷ lệ bệnh trong nhóm can thiệp (bảng 2), nhưng khi so<br />
sánh với nhóm chứng, phân tích ña biến ở bảng 3 ñã không thể hiện sự khác biệt về tình trạng tái<br />
nhiễm sau GDSK. Có vẻ như GDSK ñã thất bại. Tuy nhiên, ñây chỉ là “kết quả ảo” về mặt thống kê.<br />
Khi so sánh tỷ lệ hiện mắc ban ñầu, nhóm can thiệp nhiễm cao hơn nhóm chứng (bảng 1) và việc tẩy<br />
giun tập thể ñã xóa bỏ sự chênh lệch này, làm các tỷ lệ nhiễm trở nên tương ñồng (2,5% so với 2,1%).<br />
Sau GDSK, sự tương ñồng này vẫn ñược duy trì, nói cách khác, nếu không thực hiện GDSK, khoảng<br />
cách trên sẽ tái xuất hiện. Bởi vì trứng giun kim ñược gieo rắc khắp nơi trong nhà, trong lớp do trẻ gãi<br />
hậu môn, ngồi lê la …, do ñó, tập thể nào càng có nhiều trẻ bệnh, mầm bệnh càng hiện diện phong<br />
phú trong môi trường, nguy cơ nhiễm/tái nhiễm của cộng ñồng càng cao. Kết quả ở bảng 3 ñã củng cố<br />
thêm ñặc ñiểm vừa nêu: nhóm trẻ có xét nghiệm ñầu vào dương tính, học lớp lá và học tại phân hiệu<br />
lẻ (nơi có tình trạng vệ sinh kém), sẽ có khả năng tái nhiễm cao hơn lần lượt là 3,56 lần, 1,52 lần và<br />
1,43 lần so với các nhóm còn lại. Đồng thời bảng 1 cho thấy cả 3 yếu tố trên ñều chiếm ưu thế ở nhóm<br />
can thiệp.<br />
Bên cạnh ñó, do chỉ thực hiện 1 ñợt chiến dịch GDSK nên tác ñộng chưa ñủ mạnh ñể tạo ra chênh<br />
lệch có thể nhận biết. Mặt khác, trứng giun kim bám ở rìa hậu môn sẽ dễ dàng phát tán khắp không<br />
gian sinh hoạt của trẻ và hình thành những nguồn chứa mới bao gồm các thành viên sống chung, ñặc<br />
biệt khi ngủ chung với trẻ, như mẹ, ba, anh, chị, em, …, do ñó, vấn ñề tẩy giun cũng như áp dụng các<br />
biện pháp vệ sinh cá nhân, nhất là rửa sạch vùng hạ bộ mỗi sáng sớm, không chỉ tiến hành ñơn thuần<br />
trên trẻ mà phải thực hiện ñồng thời cho tất cả các thành viên sinh hoạt chung môi trường với trẻ. Khía<br />
cạnh này chưa ñược bao gồm trong nghiên cứu hiện tại và có thể ñã ảnh hưởng ñến kết quả tương<br />
ñồng về tái nhiễm giữa 2 nhóm sau GDSK.<br />
So sánh với ñánh giá của Lê Thị Tuyết sau 6 tháng GDSK liên tục(4), bảng 2 mô tả tỷ lệ tái nhiễm<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Kỹ Thuật Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch<br />
Năm 2010<br />
<br />
210<br />
<br />