Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
HIỆU QUẢ LÂM SÀNG DÀI HẠN CỦA ĐIỀU TRỊ<br />
LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG IODOPOVIDONE<br />
HOẶC TALC NHŨ TƯƠNG Ở BỆNH NHÂN TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI<br />
ÁC TÍNH THỨ PHÁT LƯỢNG NHIỀU<br />
Nguyễn Hữu Lân*, Đặng Vạn Phước**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Làm dính màng phổi là một trong những chọn lựa tốt nhất để điều trị cho bệnh nhân tràn dịch<br />
màng phổi ác tính tái phát có triệu chứng. Mục đích của nghiên cứu này là xác định hiệu quả lâm sàng dài hạn<br />
của điều trị làm dính màng phổi bằng iodopovidone hoặc talc nhũ tương ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính<br />
thứ phát lượng nhiều.<br />
Đối tượng - Phương pháp NC: 216 bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều được thu<br />
dung vào nghiên cứu từ tháng 6/2005 đến tháng 6/2008 tại khoa C6, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Bệnh nhân<br />
được nhận ngẫu nhiên hoặc 20mL iodopovidone 10% hoặc 5g talc hòa tan trong 60mL NaCl 0,9% bơm qua ống<br />
dẫn lưu màng phổi. Bệnh nhân được đánh giá về các triệu chứng khó thở, tình trạng hoạt động, ho, đau ngực và<br />
hiệu quả làm dính màng phổi ở thời điểm 48 giờ sau đưa tác nhân gây dính vào khoang màng phổi và, 1 tháng, 3<br />
tháng, 6 tháng sau rút ống dẫn lưu màng phổi, với thời gian theo dõi 6 tháng.<br />
Kết quả: Tỷ lệ làm dính màng phổi thất bại tại thời điểm 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng theo thứ tự là 5,6%,<br />
8,8%, 12,2%. Làm dính màng phổi thành công làm giảm có ý nghĩa thống kê triệu chứng đau ngực cho đến thời<br />
điểm 1 tháng (p = 0,007), triệu chứng ho cho đến thời điểm 3 tháng (p = 0,003), triệu chứng khó thở và tình trạng<br />
hoạt động cơ thể cho đến thời điểm 6 tháng (p = 0,0001) sau rút ống dẫn lưu màng phổi.<br />
Kết luận: Thành công của phương pháp làm dính màng phổi bằng iodopovidone và talc nhũ tương có hiệu<br />
quả làm giảm các triệu chứng, gây ra bởi tràn dịch màng phổi ác tính thứ phát, lượng nhiều.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
LONG-TERM CLINICAL EFFICACY OF PLEURODESIS BY IODOPOVIDONE OR TALC SLURRY<br />
IN MASSIVE SECONDARY MALIGNANT PLEURAL EFFUSIONS PATIENTS<br />
Nguyen Huu Lan, Dang Van Phuoc<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 116 - 123<br />
Background - objectives: Pleurodesis is the one of the best options for the management of symptomatic,<br />
recurent patients with malignant pleural effusion. The purpose of this study is long-term clinical efficacy of<br />
pleurodesis by iodopovidone or talc slurry determination in massive secondary malignant pleural effusions<br />
patients.<br />
Methods: 216 patients with massive malignant pleural effusions were prospectively assessed from June 2005<br />
to June 2008 in C6 ward, Phạm Ngọc Thạch Hospital. The patients were randomized to receive either 20mL 10%<br />
iodopovidone or 5g talc diluted in 60mL saline solution 0,9% through the chest tube. Patients were evaluated<br />
before first thoracentesis and 1 month, 3 months, 6 month after chest tube was removed regarding dyspnea,<br />
performance status, cough, chest pain and effectiveness of pleurodesis.<br />
Results: one-month, three-month, six-month unsuccessful pleurodesis rate was 5.6%, 8.8%, 12.2%<br />
respectively. The successful pleurodesis statistically significant reduce the chest pain until 1m (p = 0,007), cough<br />
* BV. Phạm Ngọc Thạch ** Bộ môn Nội – Đại học Y Dược TP.HCM<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
1<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
until 3m (p = 0,003), dyspnea and performance status (p = 0,0001) until 6m after chest tube removing, during six<br />
month of follow-up.<br />
Conclusions: Iodopovidone and talc slurry pleurodesis are effective to reduce symptoms, specially dyspnea<br />
and performance status, caused by massive secondary malignant pleural effusions.<br />
Thạch từ tháng 6.2005 đến tháng 6.2008, bị tràn<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
dịch màng phổi ác tính thứ phát lượng nhiều<br />
Tràn dịch màng phổi ác tính thường là biểu<br />
(thể tích tràn dịch màng phổi ≥ 1L), không có<br />
hiện tình trạng bệnh lý ung thư giai đoạn cuối,<br />
khả năng hóa trị và/hoặc xạ trị ung thư hay<br />
làm mất khả năng hoạt động của bệnh nhân(21).<br />
vẫn còn tràn dịch màng phổi sau hóa trị<br />
Tiên lượng của bệnh nhân tràn dịch màng phổi<br />
và/hoặc xạ trị ung thư. Sau khi tháo hết dịch<br />
ác tính rất xấu(3,8,11,15,16,18,20), với thời gian sống<br />
qua ống dẫn lưu màng phổi, phổi nở ra hoàn<br />
thêm sau chẩn đoán ngắn, chỉ tính bằng tháng(21).<br />
toàn, triệu chứng lâm sàng giảm so với trước<br />
Trên 75% bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính<br />
khi đặt ống dẫn lưu màng phổi, chỉ số<br />
có triệu chứng lâm sàng(1,6,13,24). Khó thở, đau<br />
Karnofsky ≥ 60%, PaO2 ≥ 60 mmHg, hoặc SpO2<br />
ngực, ho làm xấu đi chất lượng cuộc sống của<br />
≥ 90%, không có thai và/hoặc đang cho con bú.<br />
bệnh nhân(3,11,16,17,19,20). Mặc dù chọc tháo dịch hay<br />
Tại các lần khám khi nhập viện, sau tháo hết<br />
đặt ống dẫn lưu màng phổi làm giảm nhanh<br />
dịch qua ống dẫn lưu màng phổi, trước khi bơm<br />
triệu chứng khó thở, đau ngực, ho do tràn dịch<br />
thuốc làm dính màng phổi, ghi nhận thân nhiệt,<br />
màng phổi gây nên, tỷ lệ tái phát tràn dịch màng<br />
mạch, huyết áp, SpO2 và/hoặc PaO2, nhịp thở,<br />
phổi có thể lên đến 100% sau 1 tháng(1,9,13,22). Chọc<br />
đánh giá mức độ đau ngực bằng thang điểm<br />
tháo dịch màng phổi nhiều lần gây cạn kiệt<br />
hiển thị số (Visual Analog Scale:VAS), mức độ<br />
protein, dịch, điện giải, làm xấu dần tổng trạng<br />
khó bằng thang điểm Borg, thang điểm Sadoul,<br />
của bệnh nhân(2,16,17,21), làm tăng nguy cơ xuất<br />
tình trạng hoạt động cơ thể (Performance status)<br />
hiện các biến chứng như tràn mủ màng phổi,<br />
của bệnh nhân theo thang điểm Karnofsky và<br />
tràn khí màng phổi(1,3,22). Làm dính màng phổi<br />
thang điểm WPS (WHO Performance Scale).<br />
dường như là điều trị chọn lựa tốt nhất hiện nay<br />
Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào hai<br />
để ngăn ngừa tái phát tràn dịch màng phổi ác<br />
(4)<br />
nhóm<br />
điều trị: hoặc bơm talc nhũ tương (đã<br />
tính . Phương pháp làm dính màng phổi bằng<br />
được tiệt trùng bằng nhiệt 132oC trong 6 giờ)<br />
hoá chất có tỷ lệ biến chứng và tử vong đều<br />
hoặc, bơm iodopovidone qua ống dẫn lưu màng<br />
thấp, giải thích lý do được ưa chuộng của thủ<br />
phổi. Sau đặt ống dẫn lưu tháo hết dịch màng<br />
thuật này so với bóc vỏ màng phổi, cào xước<br />
phổi, khi X quang lồng ngực cho thấy phổi đã nở<br />
màng phổi trong điều trị tràn dịch màng phổi ác<br />
ra hoàn toàn, sử dụng midazolam 5mg (tiêm<br />
tính. Đa số bác sĩ chuyên khoa hô hấp chấp nhận<br />
tĩnh mạch), paracetamol 1g (truyền tĩnh mạch).<br />
làm dính màng phổi bằng hoá chất là phương<br />
15 phút sau, bơm 5g bột talc y khoa đã được hấp<br />
thức đủ để điều trị triệu chứng tại khoang màng<br />
vô trùng và lidocain 2mg/kg cân nặng, pha trong<br />
phổi(21). Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này để<br />
60mL nước muối sinh lý hoặc, 20mL<br />
đánh giá hiệu quả lâm sàng dài hạn của điều trị<br />
iodopovidone 10% vô trùng và lidocain 2mg/kg<br />
làm dính màng phổi bằng talc và iodopovidone<br />
cân nặng, pha trong 60mL nước muối sinh lý để<br />
ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác tính thứ<br />
bơm vào khoang màng phổi. Sau khi bơm tác<br />
phát lượng nhiều.<br />
nhân gây dính vào khoang màng phổi, ống dẫn<br />
ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNCỨU<br />
lưu được kẹp lại, bệnh nhân xoay trở theo 6<br />
Chúng tôi thực hiện thử nghiệm lâm sàng<br />
hướng (nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng phải,<br />
chứng ngẫu nhiên không mù, cho 216 bệnh<br />
nằm nghiêng trái, ngồi thẳng lưng, nằm đầu<br />
nhân ≥ 18 tuổi, nhập bệnh viện Phạm Ngọc<br />
thấp), mỗi 10 phút, trong vòng 2 giờ. Sau khi<br />
<br />
2Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009<br />
tháo kẹp ống dẫn lưu, duy trì áp lực hút qua ống<br />
dẫn lưu là –20cmH2O. 4 giờ sau bơm thuốc,<br />
truyền tĩnh mạch paracetamol 1g. 48 giờ sau khi<br />
bơm hóa chất vào khoang màng phổi, nếu lượng<br />
dịch chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi <<br />
150mL/24 giờ, kẹp ống dẫn lưu màng phổi trong<br />
24 giờ, chụp X quang lồng ngực thẳng kiểm tra,<br />
nếu không có tràn khí màng phổi sẽ tiến hành<br />
rút ống dẫn lưu màng phổi. Nếu lượng dịch<br />
chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24<br />
giờ, sẽ tiến hành bơm thuốc gây dính màng phổi<br />
lần 2 với thuốc cùng loại với lần 1. Nếu sau 2 lần<br />
bơm talc hay iodopovidone không có kết quả<br />
làm dính màng phổi thành công (lượng dịch<br />
chảy ra qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24<br />
giờ), sẽ thay đổi chất gây dính màng phổi lần 3<br />
bằng iodopovidone hay talc. Lập lại làm dính<br />
màng phổi lần 4 bằng iodopovidone hay talc,<br />
nếu sau 48 giờ bơm thuốc lần 3 vào khoang<br />
màng phổi, lượng dịch chảy ra qua ống dẫn lưu<br />
màng phổi ≥ 150mL/24 giờ. Sau 48 giờ bơm<br />
thuốc lần 4 vào khoang màng phổi, sẽ tiến hành<br />
rút ống dẫn lưu màng phổi.<br />
Tiêu chí đánh giá kết quả làm dính màng<br />
phổi vào tháng thứ 1, thứ 3, thứ 6 được tính từ<br />
khi bệnh nhân được rút ống dẫn lưu màng phổi<br />
cho đến thời điểm được đánh giá:<br />
Thành công hoàn toàn: không có tích tụ dịch<br />
trên X quang lồng ngực cho đến thời điểm được<br />
đánh giá.<br />
Thành công một phần: chỉ có một lượng ít<br />
dịch tích tụ trong khoang màng phổi (dịch tích<br />
tụ trong khoang màng phổi < 50% so với lượng<br />
dịch được đánh giá trên X quang lồng ngực<br />
trước khi tháo dịch để làm dính màng phổi), và<br />
không có yêu cầu rút dịch giải tỏa để duy trì<br />
cuộc sống cho bệnh nhân cho đến thời điểm<br />
được đánh giá.<br />
Thất bại: khi thiếu những tiêu chí đánh giá<br />
làm dính màng phổi thành công (hoàn toàn, một<br />
phần) vừa nêu trên.<br />
Chúng tôi sử dụng phép kiểm chi bình<br />
phương để so sánh tỉ lệ khác biệt cho các biến<br />
định tính, và phép kiểm Kruskal-Wallis cho các<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
biến định lượng. Tất cả các phương pháp kiểm<br />
định giả thuyết được thực hiện bằng cách sử<br />
dụng kiểm định 2 bên (two-sided alternatives).<br />
Ngưỡng ý nghĩa là 0,05 (p < 0,05) để chấp nhận<br />
hay bác bỏ giả thuyết thống kê. Tất cả phân tích<br />
được thực hiện bằng phần mềm thống kê<br />
STATA 8.0.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Tham gia vào nghiên cứu có 107 (49,5%)<br />
bệnh nhân nam, 109 (50,5%) bệnh nhân nữ, tuổi<br />
trung bình 63 ± 13 tuổi (từ 31 tuổi đến 91 tuổi),<br />
116 (53,7%) bệnh nhân làm dính màng phổi bằng<br />
talc nhũ tương, 100 (46,3%) bệnh nhân làm dính<br />
màng phổi bằng iodopovidone. Số lần trung<br />
bình chọc tháo dịch màng phổi trước nhập viện<br />
là 3,6 ± 2,3 lần/tháng (3,6 ± 2,2 lần/tháng trong<br />
nhóm bơm talc vào khoang màng phổi; 3,6 ± 2,4<br />
lần/tháng trong nhóm bơm iodopovidone vào<br />
khoang màng phổi). Do bệnh nhân được chọn<br />
ngẫu nhiên, nên hầu như không có sự khác biệt<br />
có ý nghĩa thống kê của các tham số nghiên cứu<br />
trong nhóm làm dính màng phổi lần 1 bằng talc<br />
hay iodopovidone, ngoại trừ số lượng tế bào đơn<br />
nhân trong dịch màng phổi của nhóm bệnh<br />
nhân làm dính màng phổi bằng talc thấp hơn<br />
nhóm bệnh nhân làm dính màng phổi bằng<br />
iodopovidone (185 ± 421/mm3 so với 205 ±<br />
288/mm3, p < 0,05). Có 52 bệnh nhân thất bại làm<br />
dính màng phổi sau bơm thuốc lần 1, bao gồm<br />
23 bệnh nhân làm dính màng phổi bằng talc, 29<br />
bệnh nhân làm dính màng phổi bằng<br />
iodopovidone. 52 bệnh nhân này được làm dính<br />
màng phổi lần 2, với thuốc bơm vào khoang<br />
màng phổi cùng loại với thuốc làm dính màng<br />
phổi lần 1. Không có khác biệt có ý nghĩa thống<br />
kê của các tham số nghiên cứu trong nhóm làm<br />
dính màng phổi lần 2 bằng talc hay<br />
iodopovidone Ngoại trừ số lượng tế bào dịch<br />
màng phổi và số lượng bạch cầu đơn nhân dịch<br />
màng phổi ở nhóm bệnh nhân bơm<br />
iodopovidone cao hơn một cách có ý nghĩa<br />
thống kê so với nhóm bệnh nhân bơm talc (theo<br />
thứ tự 655 ± 211/mm3 so với 604 ± 415/mm3, p =<br />
0,048 và 310 ± 310/mm3 so với 218 ± 502/mm3, p =<br />
<br />
3<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009<br />
0,02). Kết quả sau 48 giờ bơm thuốc làm dính<br />
màng phổi lần 2, có thêm 35 bệnh nhân có lượng<br />
dịch thoát qua ống dẫn lưu màng phổi <<br />
150mL/24 giờ, trong đó nhóm bơm talc vào<br />
khoang màng phổi có 19 bệnh nhân, nhóm bơm<br />
iodopovidone vào khoang màng phổi có 16 bệnh<br />
nhân. 4 bệnh nhân thất bại làm dính màng phổi<br />
bằng talc được làm dính màng phổi bằng<br />
iodopovidone. 12 bệnh nhân thất bại làm dính<br />
màng phổi bằng iodopovidone được làm dính<br />
màng phổi bằng talc lần 3 (1 bệnh nhân từ chối<br />
thực hiện tiếp làm dính màng phổi lần 3). Sau 48<br />
giờ, có 3 bệnh nhân bơm iodopovidone, 6 bệnh<br />
nhân bơm talc có lượng dịch thoát qua ống dẫn<br />
lưu màng phổi ≥ 150mL/24 giờ. Thực hiện làm<br />
dính màng phổi lần 4 cho 9 bệnh nhân này bằng<br />
cách bơm vào khoang màng phổi tác nhân cùng<br />
loại với tác nhân làm dính màng phổi lần 3. Kết<br />
quả sau 48 giờ bơm thuốc vào khoang màng<br />
phổi, chỉ còn 3 bệnh nhân trong nhóm bơm talc<br />
vào khoang màng phổi lần 4 có lượng dịch thoát<br />
qua ống dẫn lưu màng phổi ≥ 150mL/24giờ. Tất<br />
cả 3 bệnh nhân này, cùng với 1 bệnh nhân từ<br />
chối bơm thuốc làm dính màng phổi lần 3, đều<br />
phải chọc tháo dịch để duy trì sự sống cho bệnh<br />
nhân trong suốt thời gian theo dõi sau làm dính<br />
màng phổi.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
trên 4 tháng là 69,4%, trên 3 tháng là 79,2%, trên<br />
2 tháng là 91,2%, trên 1 tháng là 99,1%. Trong<br />
vòng 6 tháng sau làm dính màng phổi, 89,8%<br />
bệnh nhân kiểm soát được tràn dịch màng phổi,<br />
10,2% bệnh nhân tái phát tràn dịch màng phổi<br />
cần chọc tháo để duy trì cuộc sống. Thời gian<br />
trung bình kể từ sau khi rút ống dẫn lưu màng<br />
phổi đến khi phải chọc tháo dịch màng phổi để<br />
duy trì cuộc sống cho bệnh nhân thất bại làm<br />
dính màng phổi là 1,9 ± 1,6 tháng. Những bệnh<br />
nhân thất bại làm dính màng phổi có số lần<br />
trung bình phải chọc tháo dịch màng phổi sau<br />
làm dính màng phổi là 3,5 ± 2,7 lần, so với trước<br />
khi nhập viện là 3,1 ± 1,2 lần. Tỷ lệ làm dính<br />
màng phổi thành công sau 1 tháng là 94,4%<br />
(202/214), sau 3 tháng là 91,2% (156/171 bệnh<br />
nhân), sau 6 tháng là 87,8% (101/115 bệnh nhân).<br />
Những bệnh nhân làm dính màng phổi thành<br />
công có số lần trung bình phải chọc tháo dịch<br />
màng phổi trước nhập viện là 3,7 ± 2,4 lần/tháng.<br />
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa<br />
các bệnh nhân được phân nhóm theo kết quả<br />
làm dính màng phổi tại thời điểm 1 tháng, 3<br />
tháng, 6 tháng sau hoàn thành làm dính màng<br />
phổi về triệu chứng ho, chỉ số VAS, chỉ số Borg,<br />
chỉ số Sadoul, chỉ số Karnofsky, và chỉ số WPS<br />
khi nhập viện. Bảng 1 trình bày mức độ cải thiện<br />
triệu chứng lâm sàng được đánh giá theo nhóm<br />
kết quả làm dính màng phổi.<br />
<br />
Thời gian sống thêm sau làm dính màng<br />
phổi trên 6 tháng là 53,2%, trên 5 tháng là 59,3%,<br />
Bảng 1: Mức độ cải thiện triệu chứng lâm sàng được đánh giá theo nhóm kết quả làm dính màng phổi.<br />
Biến số lâm sàng<br />
Số bệnh nhân được đánh giá (n)<br />
Có triệu chứng ho (%)<br />
Thời điểm 1<br />
Đau ngực (điểm VAS)<br />
tháng sau<br />
hoàn thành<br />
Khó thở (điểm Borg)<br />
làm dính màng<br />
Khó thở (điểm Sadoul)<br />
phổi:<br />
Năng lực hoạt động (điểm WPS)<br />
Năng lực hoạt động (điểm Karnofsky)<br />
Số bệnh nhân được đánh giá (n)<br />
Có triệu chứng ho (%)<br />
Thời điểm 3<br />
Đau ngực (điểm VAS)<br />
tháng sau<br />
hoàn thành<br />
Khó thở (điểm Borg)<br />
làm dính màng<br />
Khó thở (điểm Sadoul)<br />
phổi:<br />
Năng lực hoạt động (điểm WPS)<br />
Năng lực hoạt động (điểm Karnofsky)<br />
Số bệnh nhân được đánh giá (n)<br />
Thời điểm 6<br />
<br />
4Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
Thành công hoàn toàn Thành công một phần<br />
172<br />
30<br />
23,8<br />
50<br />
-5,7 ± 2<br />
-6 ± 1,7<br />
-6,9 ± 1,7<br />
-6,1 ± 2<br />
-3,8 ± 1,1<br />
-3 ± 1,4<br />
-2,9 ± 1<br />
-2,2 ± 1,2<br />
31,6 ± 11,4<br />
22,7 ± 13,6<br />
137<br />
19<br />
35,8<br />
52,6<br />
-5,3 ± 1,9<br />
-5 ± 2,1<br />
-6,5 ± 2,2<br />
-4,8 ± 2,7<br />
-3,6 ± 1,4<br />
-2,4 ± 1,8<br />
-2,7 ± 1,2<br />
-1,7 ± 1,5<br />
29,3 ± 13<br />
17,4 ± 14,5<br />
92<br />
9<br />
<br />
Thất bại<br />
12<br />
75<br />
-3,8 ± 2,1<br />
-3,4 ± 2<br />
-1,8 ± 1,3<br />
-1,3 ± 1,1<br />
12,5 ± 8,7<br />
15<br />
80<br />
-4,3 ± 2<br />
-3,9 ± 2,4<br />
-1,9 ± 1,2<br />
-1,2 ± 1,3<br />
14 ± 15<br />
14<br />
<br />
p<br />
0,000<br />
0,007<br />
0,0001<br />
0,0001<br />
0,0001<br />
0,0001<br />
0,003<br />
0,13<br />
0,0001<br />
0,0001<br />
0,0001<br />
0,0001<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009<br />
<br />
tháng sau<br />
hoàn thành<br />
làm dính màng<br />
phổi:<br />
<br />
Biến số lâm sàng<br />
Có triệu chứng ho (%)<br />
Đau ngực (điểm VAS)<br />
Khó thở (điểm Borg)<br />
Khó thở (điểm Sadoul)<br />
Năng lực hoạt động (điểm WPS)<br />
Năng lực hoạt động (điểm Karnofsky)<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Thành công hoàn toàn Thành công một phần<br />
31,5<br />
33,3<br />
-4,9 ± 2,6<br />
-4,8 ± 2,3<br />
-6,3 ± 2<br />
-4,2 ± 2,7<br />
-3,5 ± 1,3<br />
-2,1 ± 1,8<br />
-2,5 ± 1,1<br />
-1,4 ± 1,3<br />
27,7 ± 11,7<br />
16,7 ± 13,2<br />
<br />
Thất bại<br />
64,3<br />
-3,1 ± 2,6<br />
-3,4 ± 2,7<br />
-1,6 ± 1,7<br />
-0,9 ± 1,4<br />
10 ± 15,8<br />
<br />
p<br />
0,06<br />
0,07<br />
0,0001<br />
0,0001<br />
0,0001<br />
0,0001<br />
<br />
n: số bệnh nhân, TB: trung bình, ĐLC: độ lệch chuẩn<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Để đánh giá lợi ích lâm sàng của phương<br />
pháp điều trị làm dính màng phổi, chúng tôi<br />
đánh giá kết quả làm dính màng phổi chỉ dựa<br />
trên hình ảnh học tại thời điểm 1 tháng, 3 tháng,<br />
6 tháng. Đây là kết quả thực sự đạt được sau 1<br />
hoặc nhiều lần làm dính màng phổi (2 hoặc 3<br />
hoặc 4 lần).<br />
Trong 216 bệnh nhân tràn dịch màng phổi<br />
ác tính được thu dung vào nghiên cứu, có đến<br />
133 (61,6%) bệnh nhân sống ở nông thôn, 112<br />
(51,9%) bệnh nhân làm nghề nông. Đây là<br />
những người có thu nhập thấp. Vì 5g bột talc<br />
USP giá 0,25 đô la Mỹ(24), 20mL iodopovidone<br />
10% giá 0,5 đô la Mỹ(14), trong khi 70 đơn vị<br />
bleomycin giá 1104 đô la Mỹ, 300mg<br />
minocycline giá 76 đô la Mỹ(24), 100mg<br />
cisplatin/m2 kết hợp 1200mg cytarabine giá<br />
607,65 đô la Mỹ, 50mg doxorubicin giá 236,74<br />
đô la Mỹ, 45mg thiotepa giá 164,13 đô la Mỹ,<br />
500mg doxycycline giá 82,13 đô la Mỹ, 20mg<br />
mechlorethamine giá 17,88 đô la Mỹ, 3g<br />
fluorouracil giá 9,75 đô la Mỹ(6). Nên việc tiến<br />
hành làm dính màng phổi bằng talc nhũ<br />
tương, hay iodopovidone thật sự giúp ích<br />
nhiều cho bệnh nhân tràn dịch màng phổi ác<br />
tính, xét về mặt giá thành của 1 liều điều trị<br />
làm dính màng phổi.<br />
Theo một số tác giả như Antunes, Goodman,<br />
Tassi, phần lớn tràn dịch màng phổi ác tính<br />
lượng ít sẽ tiến triển và gia tăng tụ dịch trong<br />
khoang màng phổi nếu không được điều trị, tỷ<br />
lệ tái phát tràn dịch màng phổi sau chọc tháo<br />
dịch hay đặt ống dẫn lưu màng phổi có thể lên<br />
đến 100% sau 1 tháng(1,9,22). Các bệnh nhân trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi có số lần trung bình<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa<br />
<br />
chọc tháo dịch màng phổi trước nhập viện là 3,6<br />
± 2,3 lần/tháng (3,6 ± 2,2 lần/tháng trong nhóm<br />
bơm talc vào khoang màng phổi; 3,6 ± 2,4<br />
lần/tháng trong nhóm bơm iodopovidone vào<br />
khoang màng phổi). Các bệnh nhân trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi có tốc độ tái tụ dịch<br />
nhanh hơn, có thể do cách thức chúng tôi chọn<br />
mẫu nghiên cứu là bệnh nhân tràn dịch màng<br />
phổi ác tính lượng nhiều, tái phát tụ dịch sau<br />
chọc tháo dịch màng phổi. Sau hoàn thành làm<br />
dính màng phổi, 53,2% bệnh nhân có thời gian<br />
sống thêm trên 6 tháng, 59,3% bệnh nhân có thời<br />
gian sống thêm trên 5 tháng, 69,4% bệnh nhân có<br />
thời gian sống thêm trên 4 tháng, 79,2% bệnh<br />
nhân có thời gian sống thêm trên 3 tháng, 91,2%<br />
bệnh nhân có thời gian sống thêm trên 2 tháng,<br />
99,1% bệnh nhân có thời gian sống thêm trên 1<br />
tháng. Theo dõi trong vòng 6 tháng sau làm dính<br />
màng phổi, 89,8% bệnh nhân kiểm soát được<br />
tràn dịch màng phổi, chỉ có 10,2% bệnh nhân tái<br />
phát tràn dịch màng phổi cần chọc tháo để duy<br />
trì cuộc sống. Thời gian trung bình kể từ sau khi<br />
rút ống dẫn lưu màng phổi đến khi phải chọc<br />
tháo dịch màng phổi để duy trì cuộc sống cho<br />
bệnh nhân thất bại làm dính màng phổi là 1,9 ±<br />
1,6 tháng. Những bệnh nhân thất bại làm dính<br />
màng phổi có số lần trung bình phải chọc tháo<br />
dịch màng phổi sau làm dính màng phổi là 3,5 ±<br />
2,7 lần, so với trước khi nhập viện là 3,1 ± 1,2 lần.<br />
Nhóm bệnh nhân làm dính màng phổi thành<br />
công có số lần trung bình phải chọc tháo dịch<br />
màng phổi trước nhập viện là 3,7 ± 2,4 lần/tháng.<br />
Vì vậy, làm dính màng phổi cho những bệnh<br />
nhân tràn dịch màng phổi ác tính, tái phát sau<br />
chọc tháo dịch màng phổi thật sự có ích, giúp<br />
bệnh nhân giảm đến bệnh viện nhiều lần để<br />
chọc tháo dịch màng phổi, giảm được các biến<br />
<br />
5<br />
<br />