Đề bài: Hình ảnh con sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn <br />
Tuân<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Tác phẩm Sông Đà, với mười lăm tùy bút, là kết quả của chuyến đi thực tế tây Bắc vào <br />
năm 1958 của Nguyễn Tuân, đã ghi nhận nhiều bức tranh sinh động và nhiều hình ảnh <br />
nghệ thuật đầy sức hấp dẫn, đậm đà cảm hứng lãng mạn trong sáng.<br />
<br />
Một trong các tùy bút đó là Người lái đò Sông Đà. Bài văn đầy ắp những tư liệu địa lí, lịch <br />
sử như ngọn nguồn của sông Đà, những địa thế đặc biệt, những con thác dữ, lịch sử đấu <br />
tranh cách mạng của nhân dân vùng cao Tây Bắc, đồng thời miêu tả hình ảnh con sông Đà <br />
bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo.<br />
<br />
Sông Đà hung bạo, hiểm ác: Nét dữ dội đầu tiên của con sông là những thác nước gầm <br />
réo muôn đời. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như <br />
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngả con trâu <br />
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa cùng <br />
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Con sông chợt trở nên hung bạo hơn khi sóng <br />
nước reo hò làm thanh điệu cho đá, mặt nước hò la vang dậy quanh mình ùa vào mà bẻ <br />
gãy cán chèo (...) Có lúc chúng đội cả thuyền lên.<br />
<br />
Có những quãng sông đầy thác ghềnh, lòng sông như bày một thạch trận chực nuốt chìm <br />
những con thuyền non tay lái. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng <br />
đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông, đòi ăn chết cái thuyền... Phép nhân hóa <br />
được tận dụng để tả thạch trận mà khúc sông đã bày ra thành một chiến thuật hiểm ác <br />
Vòng đấu vừa rồi nói mở ra năm trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh này nằm lập <br />
lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và <br />
cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.<br />
<br />
Bên cạnh hình ảnh hung bạo, hiểm ác là hình ảnh con sông Đà hiền hòa, thơ mộng, hai bờ <br />
sông tràn đầy cảnh sắc tươi vui.<br />
Sông Đà thơ mộng, hiền hòa: Con Sông đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân <br />
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc... Nước sông đổi thay tùy mùa: Mùa xuân dòng xanh <br />
như ngọc bích... Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ...<br />
<br />
Có những quãng ven sông lặng lờ: Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này <br />
cũng lặng lờ đến thế mà thôi và bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. <br />
Nét hiền hòa ấy làm cho cảnh vật trở nên gợi cảm, làm cho khách trên đò chợt mơ màng <br />
như nghe tiếng con hươu đang thủ thỉ: "Hỡi ông khách sông Đà có phải ông cũng vừa <br />
nghe thấy một tiếng còi sương (...) của một chuyến xe lửa đầu tiên" trong tưởng tượng <br />
của tác giả.<br />
<br />
Biện pháp nhân hóa và ẩn dụ được vận dụng: Và con sông như đang lắng nghe những <br />
giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm <br />
vải...<br />
<br />
Hai bờ sông Đà tràn ngập cảnh sắc tươi vui của một cuộc sống mới đang đầu. nương ngô <br />
nhú lên mây lá ngô non đầu mùa (...) một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương <br />
đêm (...), đàn cá đầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Nhìn <br />
chung, cái đẹp của sông Đà có khi do những nét hùng tráng, dữ dội, có từ những dáng nét, <br />
thanh sắc êm dịu, mượt mà được thể hiện bằng một phong cách độc đáo, tài hoa với <br />
những hình ảnh chọn lọc, từng ngôn từ chăm chút, câu, đoạn văn giàu tính nhạc. <br />
<br />
Nguyễn Tuân nhìn thiên nhiên và con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt, đồng thời cảm <br />
nhận thiên nhiên và con người ở cả phương diện thẩm mĩ, tài hoa. Sông Đà nói chung và <br />
Người lái đò sông Đà chính là áng thơ trữ tình bằng văn xuôi ca ngợi tổ quốc giàu đẹp, <br />
thể hiện niềm tin yêu cuộc sống mới đang diễn ra trên đất nước ta.<br />