Đề bài: So sánh hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm "Chiếc thuyền <br />
ngoài xa" và bà cụ Tứ trong "Vợ nhặt"<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, thế nhưng bà cụ Tứ đã trở thành <br />
nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực trong <br />
từng hình ảnh và từng chi tiết. Bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận bất hạnh vì <br />
chồng bà chết sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, bà chỉ còn lại một đứa con trai duy nhất <br />
làm nghề kéo xe bò và anh ta là người dở hơi. Chính vì vậy, hai mẹ con sống trong một <br />
căn nhà tồi tàn, rúm ró ở xóm ngụ cư và người con trai đang có nguy cơ ế vợ. Nỗi đau <br />
khổ, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà. Chân dung nhân <br />
vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần. Bắt đầu là "tiếng người húng hắng ho", <br />
rồi một bà lão với cái dáng "lọng khọng" từ đầu ngõ "vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì <br />
trong miệng". Tính từ "lọng khọng" rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình <br />
dung ra cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái đói <br />
nghèo. Và chính cái nghèo khó cũng làm trên khuôn mặt bà hiện lên một nét "bủng beo u <br />
ám". Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, mà chúng ta thấy được, đó là người mẹ có cuộc <br />
đời khổ cực, bất hạnh.<br />
<br />
Kim Lân rất khéo léo dẫn dắt để người đọc cùng suy nghĩ, cùng hòa vào những nét tâm <br />
trạng buồn vui của bà cụ Tứ. Tác giả đặt bà cụ Tứ vào một hoàn cảnh hoàn toàn bất ngờ. <br />
Giữa những ngày đói kém khủng khiếp năm 1945 "người chết như ngả rạ" và "không khí <br />
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", rồi thứ tiếng "gào lên từng <br />
hồi thê thiết" của những con quạ đậu trên "mấy cây gạo ngoài bãi chợ", thì đứa con trai <br />
của bà cụ bỗng dưng "nhặt" được vợ trong một lần kéo xe thóc bò của liên đoàn lên tỉnh <br />
và dẫn về nhà giới thiệu với mẹ mình. Chính những điều đó đã tác động rất mạnh khiến <br />
cho bà cụ Tứ xuất hiện nhiều nét tâm trạng đan xen. Những nét tâm trạng của bà thể hiện <br />
ở hai thời điểm chiều hôm trước và sáng hôm sau rất khác nhau, nhưng những tâm trạng <br />
của bà đều là sự nhìn nhận và suy ngẫm về chuyện lấy vợ của Tràng.<br />
bà cụ, gánh hàng Chiều hôm trước, bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngoài <br />
ngõ đi vào, thấy thái độ khác thường của Tràng "reo lên như một đứa trẻ" và "lật đật <br />
chạy ra đón mình" thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng "phấp phỏng". Đó là <br />
biểu hiện của sự lo lắng, của sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ đợi mình ở trong <br />
nhà. Khi đến giữa sân, nhìn thấy người đàn bà thì bà cụ ngạc nhiên "đứng sững lại" một <br />
biểu hiện nữa của sự ngạc nhiên và đó là "sự ngạc nhiên hơn". Điều đó chứng tỏ sự ngạc <br />
nhiên trong bà càng lúc càng nhiều, sự ngạc nhiên sau lớn hơn sự ngạc nhiên trước. Tác <br />
giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà <br />
cụ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: "Quái, sao lại có người <br />
đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình <br />
thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ ?" Một loạt <br />
các câu hỏi ấy chính là sự lục tìm trong trí óc của mình để tìm câu trả lời cho thỏa đáng. <br />
Nhưng bà cụ vẫn chưa tìm thấy câu trả lời, vì thế mà bà đổ lỗi cho cặp mắt của mình, <br />
không tin vào mắt mình "bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt <br />
mình nhoèn ra thì phải". Bà lão "nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người <br />
nào" nên bà quay sang dò hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình. Khi <br />
người đàn bà trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào "U đã về ạ", thì kể cả tiếng chào ấy <br />
một lời chào thân mật cũng không làm bà hiểu ra. Bà vẫn băn khoăn, phân vân đoán định <br />
và một câu hỏi nữa đặt ra: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?" rồi bà lão "băn khoăn ngồi xuống <br />
giường". Mãi đến khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích "đây là nhà tôi" rồi "chúng tôi <br />
phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả" thì bà lão mới bắt đầu <br />
hiểu ra. Khi hiểu ra thì bà lão "cúi đầu nín lặng". Cái tư thế "cúi đầu nín lặng" của bà cụ <br />
Tứ hàm chứa biết bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niềm và những tâm sự, nỗi niềm ấy khó có <br />
thể nói thành lời. Dường như qua tư thế đó, người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong <br />
phú bên trong cái vẻ tưởng chừng như già nua, lẩm cẩm của bà. Trong bà cùng một lúc <br />
xuất hiện cả con người lí trí và con người tình cảm. Con người lí trí không chỉ giúp bà <br />
hiểu ra là con trai bà đã có vợ mà nó còn giúp cho bà hiểu ra những khó khăn, đói nghèo <br />
mà Tràng phải chịu đựng; rồi lại giúp bà hiểu ra chính số phận bất hạnh của đời bà khiến <br />
cho con bà sống trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Còn con người tình cảm của bà tỏ ra <br />
rất "xót thương cho số kiếp đứa con mình". Sự ai oán, sự xót thương đó vừa hướng tới <br />
chính mình, vừa hướng tới con bà, vừa thể hiện nỗi đau của bản thân, vừa mang tình <br />
thương tới người con trai. Bởi vậy cho nên bao cảm xúc của bà lão vừa tội nghiệp, lại <br />
vừa nhân hậu biết bao !.<br />
<br />
Cảm xúc trong bà càng lúc càng cụ thể hữu hình: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng <br />
cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn <br />
mình thì...". Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn khổ đang <br />
rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ hàm chứa sự so sánh giữa người ta với <br />
con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Lối so sánh ấy làm nổi bật không <br />
phải chỉ sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình bà mà dường như còn hàm chứa sự trách <br />
móc của bà với chính bản thân. Một sự ai oán cho bản thân bà ! Đó cũng chính là sự biểu <br />
hiện của sự day dứt trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu hiện của lòng nhân ái à lòng <br />
thương con rất tha thiết.<br />
<br />
Cảm xúc xót thương còn được thể hiện qua sự lo lắng của bà hướng tới các con: "Biết <br />
rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không". Vừa tủi phận <br />
mình, vừa thương con khiến cho "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước <br />
mắt". Bà lão kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào cõi lòng vốn <br />
đã chất chứa đầy đau khổ của một đời tủi cực. Những giọt nước mắt vẫn cứ lặng lẽ rỉ ra <br />
từ đôi mắt đục mờ của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn không chỉ là những câu trần <br />
thuật đơn thuần mà mỗi câu văn đều rưng rức cảm xúc xót thương của tác giả.<br />
<br />
Diễn biến câu chuyện đã lên tới đỉnh điểm. Cái sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu tả <br />
tâm lí nhân vật của Kim Lân được thể hiện khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có chung <br />
một tâm trạng căng thẳng. Tràng và người "vợ nhặt" chờ đợi người mẹ già nua lên tiếng. <br />
Bà cụ Tứ hiểu ra câu chuyện thì sự đau buồn của bà khiến cho bà lão "khẽ thở dài" vì bà <br />
muốn giấu đi nỗi buồn khổ và sự lo lắng của chính mình. Bà lão tạm thời bứt ra khỏi tâm <br />
trạng triền miên của cảm xúc suy tư để hướng về người vợ nhặt, để "đăm đăm nhìn <br />
người đàn bà" khi thị "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt". Bà lão không chỉ nhìn <br />
người con dâu bằng thị giác mà còn hướng tới con dâu bằng cả tấm lòng. Vì thế bà lão <br />
nghĩ: "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà <br />
con mình mới có vợ được...". Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai đối tượng <br />
"người ta" và "con mình". "Người ta" trở thành người mang ơn và "con mình" là người <br />
chịu ơn. Điều đó đã chứng tỏ người mẹ già không hề coi thường, khinh bỉ người vợ nhặt, <br />
mà còn cảm thông, trân trọng, mặc dù đó là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không <br />
gia đình. Từ tâm tình dành cho người vợ nhặt, bà lão lại nghĩ về bổn phận người làm mẹ, <br />
để tiếp tục day dứt "chẳng lo lắng được cho con...". Bà đã phó thác, trông chờ số phận <br />
vào sự may rủi: "May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, <br />
nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo <br />
cho hết được". Hoàn cảnh thật bi đáp khốn cùng ! Mặc dù lo lắng, mặc dù đau buồn <br />
nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận "nàng dâu mới" tự lúc nào. Sau khi "khẽ dặng <br />
hắng một tiếng", bà lão "nhẹ nhàng" nói với "nàng dâu mới": "Ừ, thôi thì các con phải <br />
duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...". Một sự chấp nhận tự nguyện của người <br />
mẹ trong tâm trạng vui mừng. Hai tiếng "mừng lòng" mà bà lão nói với các con thật chất <br />
phác, chân tình biết bao ! Lời nói mộc mạc ấy đã đem lại sự xúc động và yên tâm cho <br />
người vợ nhặt đáng thương kia. Sự chấp nhận của bà cụ Tứ khiến anh Tràng "thở đánh <br />
phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi".<br />
<br />
Bà mẹ nghèo khổ, nhân hậu đã thấu hiểu cảnh ngộ và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ <br />
bỗng dưng trở thành "con dâu" của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ở đoạn này một <br />
lần nữa diễn tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Cảm xúc như những <br />
đợt sóng cứ cuộn lên trong lòng người mẹ, khiến người đọc xót xa. Chao ôi, người mẹ <br />
thật tội nghiệp !. Tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà phải lo <br />
cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng, dẫu chỉ là lời nói...<br />
<br />
Khi đã nhận "nàng dâu mới" thì bà cụ Tứ tiếp tục tâm sự, từ tốn dặn dò các con mình: <br />
"Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà <br />
ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái <br />
chúng mày về sau". Trong lời tâm sự của bà, có lời thú nhận rất chân thật là "nhà ta thì <br />
nghèo". Từ cái lí do ấy thì bà mẹ đã nhắc nhở các con "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo <br />
nhau làm ăn". Tuy nhắc nhở vậy, bà còn động viên các con mình bằng một câu nói rất <br />
quen thuộc trong dân gian: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời ?". Lời động viên đó thể hiện <br />
niềm lạc quan của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khốn cùng. Hơn nữa, bà lão còn gieo <br />
cho các con niềm tin vào tương lai. Quả là một lời động viên đáng quý, giúp cho các con <br />
bà có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này. Tâm trạng của bà cụ Tứ lẫn lộn buồn vui, lo <br />
lắng. Trong lòng bà cụ vẫn luôn ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến cho bà lão "đăm đăm <br />
nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc <br />
trong cánh đồng tối. Mùi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét <br />
lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài". Trong lòng bà còn ám ảnh bởi cả sự bất hạnh về thân <br />
phận của bà. Bởi vậy, trong kí ức của bà lão "nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. <br />
Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình". Tất cả đã hiện về như một <br />
cuốn phim dài bất tận, như một tấn bi kịch của cuộc đời bà. Từ những cảm xúc đó, tâm <br />
trạng lo lắng lại một lần nữa hiện về trong bà, bà lo cho các con: "Vợ chồng chúng nó lấy <br />
nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...". Mặc dù lo lắng nhưng bà <br />
vẫn cố gắng gần gũi với người con dâu bằng lời mời thân mật: "Con ngồi xuống đây. <br />
Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân". Lời mời ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa người mẹ <br />
và "con dâu" và cũng đã an ủi người "vợ nhặt" ít nhiều. Lời mời của người mẹ thể hiện <br />
tình thương, sự chấp nhận "nàng dâu mới" của bà. Nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng <br />
thương xót của bà cụ Tứ với người con dâu mới: "Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy <br />
thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi". Bà lão tiếp tục tâm sự với người vợ <br />
nhặt bằng những lời thân mật: "Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà <br />
mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa <br />
thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương <br />
quá...". Trong lời nói của bà cụ chứng tỏ bà là người rất hiểu đời và hiểu người. Bà hiểu <br />
rằng khi cưới xin cho con thì phải có vài ba mâm cỗ trước trình tổ tiên, ông bà, sau mời <br />
làng, mời xóm. Bà cũng hiểu được lòng người, hiểu được sự bao dung của mọi người, họ <br />
sẽ thông cảm cho cảnh nghèo của bà mà không chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu ra đạo <br />
lí tạo nên gắn kết vợ chồng chính là sự hòa thuận. Nói đến đây thì bà cụ "nghẹn lời <br />
không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng". Những giọt nước mắt của bà <br />
cụ Tứ chất chứa bao tình thương hướng tới các con. Giọt nước mắt của bà là biểu hiện <br />
của tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó rất đáng quý hơn bao những <br />
vật chất tầm thường mà bà dành cho các con.<br />
<br />
Tâm trạng của bà cụ Tứ vào chiều hôm trước là sự đan xen cảm xúc lo lắng, vui mừng, <br />
xót xa, buồn tủi, thế nhưng vào buổi sáng của ngày hôm sau, thì tâm trạng bà luôn tràn <br />
ngập một niềm vui. Niềm vui ấy được thể hiện trên khuôn mặt của người mẹ: "bà nhẹ <br />
nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Niềm <br />
vui còn được thể hiện qua hành động của bà: "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa" với ý <br />
nghĩ "thu xếp của nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có <br />
cơ khấm khá hơn". Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất. Bà cũng vơi đi <br />
một mối lo âu bấy lâu cứ canh cánh bên lòng và trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu <br />
chỉ có "rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo" nhưng bà "toàn nói chuyện vui, <br />
toàn chuyện sung sướng về sau này". Câu chuyện người mẹ già kể cho các con vào bữa <br />
cơm đầu tiên sau ngày cưới, mặc dù đó vẫn chỉ là chuyện làm ăn, chuyện gia cảnh nhưng <br />
trong câu chuyện của bà không còn có quá khứ mà chỉ có tương lai. Câu chuyện của bà <br />
thật giản dị ! Đó là chuyện mua gà, nuôi gà, có đàn gà con mà người mẹ nói với Tràng: <br />
"Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái <br />
chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà con mà <br />
xem...". Chính câu chuyện vui của bà mẹ đã làm cho cuộc sống trở nên vui vẻ và đầm ấm <br />
hơn rất nhiều. Tuy vậy, trong bữa ăn càng lúc càng trở nên nghèo nàn khiến cho "câu <br />
chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được <br />
có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn". Thế nhưng, bà lão lại "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ <br />
bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút" và bà lão khen "chè khoán đây, ngon đáo để <br />
cơ". Dường như bà lão cố xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng quên đi tình cảnh khốn <br />
khổ bằng thái độ tươi tỉnh. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy là tấm lòng người mẹ đang thổn <br />
thức lo âu. Bà lão "đãi" nàng dâu mới món ăn đặc biệt gọi là "cháo khoán", nấu bằng cám, <br />
khen "ngon đáo để" và so sánh "xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Qua đó, bà <br />
động viên các con, để các con bà có thêm sức mạnh tinh thần để vượt qua "tao đoạn" ngặt <br />
nghèo, khó khăn này. Chi tiết này làm cho chúng ta cũng phải cảm động rơi lệ bởi tình <br />
thương, tấm chân tình đáng quý của bà. Kết lại đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ <br />
nhưng bà lão "ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".<br />
<br />
Cái tài của Kim Lân là cứ nhẹ nhàng mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của <br />
tâm hồn. Ông đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo <br />
khổ mà hiểu biết, yêu thương con hết lòng và yêu thương cả những mảnh đời oái oăm, <br />
tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa. Bà đã cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối <br />
đáng sợ của thực tại và nhen núm niềm tin, niềm vui cho các con. Trong cái thân hình <br />
khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.<br />
<br />
Trong văn học Việt Nam, ngoài tình phụ tử như của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của <br />
nhà văn Nam Cao thì tình mẫu tử trong đoạn trích "Trong lòng mẹ" của nhà văn Nguyên <br />
Hồng thật đáng chân trọng. Người mẹ vì phải thoát khỏi cổ tục nghiệt ngã mà tha hương <br />
cầu thực nhưng vẫn yêu thương, hi sinh vì con mình. Hay người đàn bà hàng chài không <br />
tên trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu là người mẹ phải <br />
chịu sự hành hạ, đánh đập dã man của người chồng nhưng lại giàu tình thương, lòng bao <br />
dung, vị tha, giàu đức hi sinh, luôn sống vì con, hi sinh cho hạnh phúc của con. Và bà cụ <br />
Tứ cũng là một người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương con.<br />
<br />
Qua truyện ngắn "Vợ nhặt", nhà văn Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân thực và cảm <br />
động về một người mẹ nghèo khổ hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi <br />
sâu phân tích diễn biến tâm lí phức tạp của bà cụ Tứ và thể hiện qua từng lời nói, ánh <br />
mắt, trong suy nghĩ, hành động và sự lo xa cho tương lai các con. Phải là người có vốn <br />
sống phong phú, thấu hiểu và thông cảm, yêu mến và chân trọng những người nghèo khổ <br />
thì Kim Lân mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy.<br />
<br />
Truyện ngắn "Vợ nhặt" không đơn thuần là những trang văn mà là những trang đời thấm <br />
đẫm nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho hiện tại và le lói niềm tin vào <br />
tương lai của bà mẹ nghèo. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc rung động sâu sắc trước <br />
tấm chân tình tha thiết của người mẹ già. Người mẹ già ấy chính là ánh sáng le lói trong <br />
bối cảnh bi thảm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị <br />
nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía, cảm động hơn rất nhiều. Bà cụ Tứ đã đọng lại <br />
trong lòng người đọc bao suy nghĩ và rung động sâu xa.<br />