intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

So sánh hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" và bà cụ Tứ trong "Vợ nhặt"

Chia sẻ: Lan Zhan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:8

91
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, thế nhưng bà cụ Tứ đã trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực trong từng hình ảnh và từng chi tiết. Bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận bất hạnh vì chồng bà chết sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, bà chỉ còn lại một đứa con trai duy nhất làm nghề kéo xe bò và anh ta là người dở hơi. Chính vì vậy, hai mẹ con sống trong một căn nhà tồi tàn, rúm ró ở xóm ngụ cư và người con trai đang có nguy cơ ế vợ. Nỗi đau khổ, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà. Chân dung nhân vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần. Bắt đầu là "tiếng người húng hắng ho", rồi một bà lão với cái dáng "lọng khọng" từ đầu ngõ "vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng". Tính từ "lọng khọng" rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung ra cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái đói nghèo. Và chính cái nghèo khó cũng làm trên khuôn mặt bà hiện lên một nét "bủng beo u ám". Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, mà chúng ta thấy được, đó là người mẹ có cuộc đời khổ cực, bất hạnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: So sánh hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" và bà cụ Tứ trong "Vợ nhặt"

Đề bài: So sánh hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm "Chiếc thuyền  <br /> ngoài xa" và bà cụ Tứ trong "Vợ nhặt"<br /> <br /> Bài làm<br /> <br /> Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, thế nhưng bà cụ Tứ đã trở thành  <br /> nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực trong  <br /> từng hình  ảnh và từng chi tiết. Bà cụ  Tứ hiện lên là một bà mẹ  có số  phận bất hạnh vì  <br /> chồng bà chết sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, bà chỉ còn lại một đứa con trai duy nhất <br /> làm nghề kéo xe bò và anh ta là người dở  hơi. Chính vì vậy, hai mẹ con sống trong một  <br /> căn nhà tồi tàn, rúm ró  ở  xóm ngụ  cư  và người con trai đang có nguy cơ   ế  vợ. Nỗi đau  <br /> khổ, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà. Chân dung nhân  <br /> vật bà cụ  Tứ  được tác giả  giới thiệu dần dần. Bắt đầu là "tiếng người húng hắng ho", <br /> rồi một bà lão với cái dáng "lọng khọng" từ  đầu ngõ "vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì <br /> trong miệng". Tính từ "lọng khọng" rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình <br /> dung ra cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ  già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái đói  <br /> nghèo. Và chính cái nghèo khó cũng làm trên khuôn mặt bà hiện lên một nét "bủng beo u  <br /> ám". Qua miêu tả  ngoại hình bà cụ  Tứ, mà chúng ta thấy được, đó là người mẹ  có cuộc  <br /> đời khổ cực, bất hạnh.<br /> <br /> Kim Lân rất khéo léo dẫn dắt để  người đọc cùng suy nghĩ, cùng hòa vào những nét tâm <br /> trạng buồn vui của bà cụ Tứ. Tác giả đặt bà cụ Tứ vào một hoàn cảnh hoàn toàn bất ngờ. <br /> Giữa những ngày đói kém khủng khiếp năm 1945 "người chết như ngả rạ" và "không khí  <br /> vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", rồi thứ tiếng "gào lên từng <br /> hồi thê thiết" của những con quạ đậu trên "mấy cây gạo ngoài bãi chợ", thì đứa con trai  <br /> của bà cụ bỗng dưng "nhặt" được vợ  trong một lần kéo xe thóc bò của liên đoàn lên tỉnh <br /> và dẫn về nhà giới thiệu với mẹ mình. Chính những điều đó đã tác động rất mạnh khiến <br /> cho bà cụ Tứ xuất hiện nhiều nét tâm trạng đan xen. Những nét tâm trạng của bà thể hiện  <br /> ở hai thời điểm chiều hôm trước và sáng hôm sau rất khác nhau, nhưng những tâm trạng <br /> của bà đều là sự nhìn nhận và suy ngẫm về chuyện lấy vợ của Tràng.<br /> bà cụ, gánh hàng Chiều hôm trước, bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngoài  <br /> ngõ đi vào, thấy thái độ  khác thường của Tràng "reo lên như  một đứa trẻ" và "lật đật  <br /> chạy ra đón mình" thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng "phấp phỏng". Đó là  <br /> biểu hiện của sự lo lắng, của sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ  đợi mình ở trong <br /> nhà. Khi đến giữa sân, nhìn thấy người đàn bà thì bà cụ ngạc nhiên "đứng sững lại" ­ một <br /> biểu hiện nữa của sự ngạc nhiên và đó là "sự ngạc nhiên hơn". Điều đó chứng tỏ sự ngạc  <br /> nhiên trong bà càng lúc càng nhiều, sự  ngạc nhiên sau lớn hơn sự ngạc nhiên trước. Tác  <br /> giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà <br /> cụ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: "Quái, sao lại có người  <br /> đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình <br /> thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ ?" Một loạt  <br /> các câu hỏi ấy chính là sự lục tìm trong trí óc của mình để tìm câu trả lời cho thỏa đáng.  <br /> Nhưng bà cụ  vẫn chưa tìm thấy câu trả  lời, vì thế  mà bà đổ  lỗi cho cặp mắt của mình,  <br /> không tin vào mắt mình "bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt <br /> mình nhoèn ra thì phải". Bà lão "nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người <br /> nào" nên bà quay sang dò hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình. Khi <br /> người đàn bà trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào "U đã về ạ", thì kể  cả  tiếng chào ấy ­  <br /> một lời chào thân mật cũng không làm bà hiểu ra. Bà vẫn băn khoăn, phân vân đoán định <br /> và một câu hỏi nữa đặt ra: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?" rồi bà lão "băn khoăn ngồi xuống  <br /> giường". Mãi đến khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích "đây là nhà tôi" rồi "chúng tôi  <br /> phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả" thì bà lão mới bắt đầu  <br /> hiểu ra. Khi hiểu ra thì bà lão "cúi đầu nín lặng". Cái tư thế "cúi đầu nín lặng" của bà cụ <br /> Tứ  hàm chứa biết bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niềm và những tâm sự, nỗi niềm  ấy khó có  <br /> thể  nói thành lời. Dường như  qua tư  thế  đó, người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong <br /> phú bên trong cái vẻ  tưởng chừng như  già nua, lẩm cẩm của bà. Trong bà cùng một lúc <br /> xuất hiện cả  con người lí trí và con người tình cảm. Con người lí trí không chỉ  giúp bà  <br /> hiểu ra là con trai bà đã có vợ  mà nó còn giúp cho bà hiểu ra những khó khăn, đói nghèo <br /> mà Tràng phải chịu đựng; rồi lại giúp bà hiểu ra chính số phận bất hạnh của đời bà khiến  <br /> cho con bà sống trong hoàn cảnh trớ  trêu như  vậy. Còn con người tình cảm của bà tỏ  ra <br /> rất "xót thương cho số kiếp đứa con mình". Sự  ai oán, sự  xót thương đó vừa hướng tới <br /> chính mình, vừa hướng tới con bà, vừa thể  hiện nỗi đau của bản thân, vừa mang tình <br /> thương tới người con trai. Bởi vậy cho nên bao cảm xúc của bà lão vừa tội nghiệp, lại <br /> vừa nhân hậu biết bao !.<br /> <br /> Cảm xúc trong bà càng lúc càng cụ  thể  hữu hình: "Chao ôi, người ta dựng vợ  gả  chồng <br /> cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn  <br /> mình thì...". Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn khổ đang <br /> rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ hàm chứa sự so sánh giữa người ta với <br /> con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Lối so sánh ấy làm nổi bật không  <br /> phải chỉ sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình bà mà dường như còn hàm chứa sự trách <br /> móc của bà với chính bản thân. Một sự ai oán cho bản thân bà ! Đó cũng chính là sự biểu  <br /> hiện của sự day dứt trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu hiện của lòng nhân ái à lòng  <br /> thương con rất tha thiết.<br /> <br /> Cảm xúc xót thương còn được thể  hiện qua sự  lo lắng của bà hướng tới các con: "Biết <br /> rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không". Vừa tủi phận  <br /> mình, vừa thương con khiến cho "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước <br /> mắt". Bà lão kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào cõi lòng vốn  <br /> đã chất chứa đầy đau khổ của một đời tủi cực. Những giọt nước mắt vẫn cứ lặng lẽ rỉ ra  <br /> từ  đôi mắt đục mờ  của người mẹ  già tội nghiệp. Đoạn văn không chỉ  là những câu trần <br /> thuật đơn thuần mà mỗi câu văn đều rưng rức cảm xúc xót thương của tác giả.<br /> <br /> Diễn biến câu chuyện đã lên tới đỉnh điểm. Cái sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu tả <br /> tâm lí nhân vật của Kim Lân được thể  hiện khá đậm nét. Cả  ba nhân vật đều có chung <br /> một tâm trạng căng thẳng. Tràng và người "vợ nhặt" chờ đợi người mẹ già nua lên tiếng.  <br /> Bà cụ Tứ hiểu ra câu chuyện thì sự đau buồn của bà khiến cho bà lão "khẽ thở dài" vì bà  <br /> muốn giấu đi nỗi buồn khổ và sự lo lắng của chính mình. Bà lão tạm thời bứt ra khỏi tâm  <br /> trạng triền miên của cảm xúc suy tư  để  hướng về  người vợ  nhặt, để  "đăm đăm nhìn <br /> người đàn bà" khi thị "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt". Bà lão không chỉ nhìn  <br /> người con dâu bằng thị  giác mà còn hướng tới con dâu bằng cả  tấm lòng. Vì thế  bà lão  <br /> nghĩ: "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà <br /> con mình mới có vợ  được...". Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai đối tượng  <br /> "người ta" và "con mình". "Người ta" trở  thành người mang  ơn và "con mình" là người <br /> chịu ơn. Điều đó đã chứng tỏ người mẹ già không hề coi thường, khinh bỉ người vợ nhặt,  <br /> mà còn cảm thông, trân trọng, mặc dù đó là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không  <br /> gia đình. Từ tâm tình dành cho người vợ nhặt, bà lão lại nghĩ về bổn phận người làm mẹ, <br /> để  tiếp tục day dứt "chẳng lo lắng được cho con...". Bà đã phó thác, trông chờ  số  phận  <br /> vào sự may rủi: "May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ,  <br /> nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo  <br /> cho hết được". Hoàn cảnh thật bi đáp khốn cùng ! Mặc dù lo lắng, mặc dù đau buồn <br /> nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận "nàng dâu mới" tự lúc nào. Sau khi "khẽ dặng <br /> hắng một tiếng", bà lão "nhẹ  nhàng" nói với "nàng dâu mới": "Ừ, thôi thì các con phải  <br /> duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...". Một sự chấp nhận tự nguyện của người  <br /> mẹ trong tâm trạng vui mừng. Hai tiếng "mừng lòng" mà bà lão nói với các con thật chất  <br /> phác, chân tình biết bao ! Lời nói mộc mạc  ấy đã đem lại sự  xúc động và yên tâm cho  <br /> người vợ  nhặt đáng thương kia. Sự  chấp nhận của bà cụ  Tứ  khiến anh Tràng "thở  đánh <br /> phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi".<br /> <br /> Bà mẹ nghèo khổ, nhân hậu đã thấu hiểu cảnh ngộ và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ <br /> bỗng dưng trở  thành "con dâu" của mình. Ngôn ngữ  độc thoại nội tâm  ở  đoạn này một  <br /> lần nữa diễn tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ  Tứ. Cảm xúc như  những <br /> đợt sóng cứ  cuộn lên trong lòng người mẹ, khiến người đọc xót xa. Chao ôi, người mẹ <br /> thật tội nghiệp !. Tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà phải lo  <br /> cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng, dẫu chỉ là lời nói...<br /> <br /> Khi đã nhận "nàng dâu mới" thì bà cụ  Tứ  tiếp tục tâm sự, từ  tốn dặn dò các con mình:  <br /> "Nhà ta thì nghèo con  ạ. Vợ  chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà <br /> ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái  <br /> chúng mày về  sau". Trong lời tâm sự  của bà, có lời thú nhận rất chân thật là "nhà ta thì <br /> nghèo". Từ cái lí do ấy thì bà mẹ đã nhắc nhở các con "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo  <br /> nhau làm ăn". Tuy nhắc nhở  vậy, bà còn động viên các con mình bằng một câu nói rất  <br /> quen thuộc trong dân gian: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời ?". Lời động viên đó thể  hiện  <br /> niềm lạc quan của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khốn cùng. Hơn nữa, bà lão còn gieo  <br /> cho các con niềm tin vào tương lai. Quả là một lời động viên đáng quý, giúp cho các con <br /> bà có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này. Tâm trạng của bà cụ Tứ lẫn lộn buồn vui, lo  <br /> lắng. Trong lòng bà cụ vẫn luôn ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến cho bà lão "đăm đăm  <br /> nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc  <br /> trong cánh đồng tối. Mùi đống rấm  ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét <br /> lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài". Trong lòng bà còn ám ảnh bởi cả sự bất hạnh về thân <br /> phận của bà. Bởi vậy, trong kí ức của bà lão "nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út.  <br /> Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ  dài dằng dặc của mình". Tất cả  đã hiện về  như  một  <br /> cuốn phim dài bất tận, như một tấn bi kịch của cuộc đời bà. Từ  những cảm xúc đó, tâm  <br /> trạng lo lắng lại một lần nữa hiện về trong bà, bà lo cho các con: "Vợ chồng chúng nó lấy <br /> nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...". Mặc dù lo lắng nhưng bà  <br /> vẫn cố  gắng gần gũi với người con dâu bằng lời mời thân mật: "Con ngồi xuống đây. <br /> Ngồi xuống đây cho đỡ  mỏi chân". Lời mời ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa người mẹ <br /> và "con dâu" và cũng đã an  ủi người "vợ nhặt" ít nhiều. Lời mời của người mẹ thể hiện  <br /> tình thương, sự  chấp nhận "nàng dâu mới" của bà. Nổi bật hơn cả  vẫn là tấm lòng <br /> thương xót của bà cụ  Tứ  với người con dâu mới: "Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy  <br /> thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi". Bà lão tiếp tục tâm sự với người vợ <br /> nhặt bằng những lời thân mật: "Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà <br /> mình nghèo, cũng chả  ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa <br /> thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương <br /> quá...". Trong lời nói của bà cụ chứng tỏ bà là người rất hiểu đời và hiểu người. Bà hiểu  <br /> rằng khi cưới xin cho con thì phải có vài ba mâm cỗ  trước trình tổ  tiên, ông bà, sau mời <br /> làng, mời xóm. Bà cũng hiểu được lòng người, hiểu được sự bao dung của mọi người, họ <br /> sẽ thông cảm cho cảnh nghèo của bà mà không chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu ra đạo <br /> lí tạo nên gắn kết vợ  chồng chính là sự  hòa thuận. Nói đến đây thì bà cụ  "nghẹn lời  <br /> không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng". Những giọt nước mắt của bà <br /> cụ Tứ chất chứa bao tình thương hướng tới các con. Giọt nước mắt của bà là biểu hiện  <br /> của tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó rất đáng quý hơn bao những  <br /> vật chất tầm thường mà bà dành cho các con.<br /> <br /> Tâm trạng của bà cụ Tứ vào chiều hôm trước là sự  đan xen cảm xúc lo lắng, vui mừng,  <br /> xót xa, buồn tủi, thế  nhưng vào buổi sáng của ngày hôm sau, thì tâm trạng bà luôn tràn  <br /> ngập một niềm vui. Niềm vui  ấy được thể  hiện trên khuôn mặt của người mẹ: "bà nhẹ <br /> nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Niềm  <br /> vui còn được thể hiện qua hành động của bà: "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa" với ý  <br /> nghĩ "thu xếp của nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ  có thể khác đi, làm ăn có <br /> cơ khấm khá hơn". Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất. Bà cũng vơi đi  <br /> một mối lo âu bấy lâu cứ canh cánh bên lòng và trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu  <br /> chỉ  có "rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo" nhưng bà "toàn nói chuyện vui, <br /> toàn chuyện sung sướng về sau này". Câu chuyện người mẹ già kể  cho các con vào bữa <br /> cơm đầu tiên sau ngày cưới, mặc dù đó vẫn chỉ là chuyện làm ăn, chuyện gia cảnh nhưng  <br /> trong câu chuyện của bà không còn có quá khứ  mà chỉ  có tương lai. Câu chuyện của bà <br /> thật giản dị  ! Đó là chuyện mua gà, nuôi gà, có đàn gà con mà người mẹ  nói với Tràng:  <br /> "Tràng  ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ  đầu bếp kia làm cái  <br /> chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả  mấy mà có ngay đàn gà con mà <br /> xem...". Chính câu chuyện vui của bà mẹ đã làm cho cuộc sống trở nên vui vẻ và đầm ấm <br /> hơn rất nhiều. Tuy vậy, trong bữa ăn càng lúc càng trở  nên nghèo nàn khiến cho "câu <br /> chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được <br /> có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn". Thế nhưng, bà lão lại "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ <br /> bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút" và bà lão khen "chè khoán đây, ngon đáo để <br /> cơ". Dường như bà lão cố xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng quên đi tình cảnh khốn  <br /> khổ bằng thái độ tươi tỉnh. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy là tấm lòng người mẹ đang thổn <br /> thức lo âu. Bà lão "đãi" nàng dâu mới món ăn đặc biệt gọi là "cháo khoán", nấu bằng cám,  <br /> khen "ngon đáo để" và so sánh "xóm ta khối nhà còn chả  có cám mà ăn đấy". Qua đó, bà <br /> động viên các con, để các con bà có thêm sức mạnh tinh thần để vượt qua "tao đoạn" ngặt  <br /> nghèo, khó khăn này. Chi tiết này làm cho chúng ta cũng phải cảm động rơi lệ  bởi tình <br /> thương, tấm chân tình đáng quý của bà. Kết lại đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ <br /> nhưng bà lão "ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".<br /> <br /> Cái tài của Kim Lân là cứ  nhẹ  nhàng mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của <br /> tâm hồn. Ông đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo  <br /> khổ  mà hiểu biết, yêu thương con hết lòng và yêu thương cả  những mảnh đời oái oăm, <br /> tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa. Bà đã cố  gắng xua đi cái ám  ảnh đen tối  <br /> đáng sợ  của thực tại và nhen núm niềm tin, niềm vui cho các con. Trong cái thân hình <br /> khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.<br /> <br /> Trong văn học Việt Nam, ngoài tình phụ tử như của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của  <br /> nhà văn Nam Cao thì tình mẫu tử  trong đoạn trích "Trong lòng mẹ" của nhà văn Nguyên  <br /> Hồng thật đáng chân trọng. Người mẹ vì phải thoát khỏi cổ tục nghiệt ngã mà tha hương <br /> cầu thực nhưng vẫn yêu thương, hi sinh vì con mình. Hay người đàn bà hàng chài không  <br /> tên trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu là người mẹ  phải  <br /> chịu sự hành hạ, đánh đập dã man của người chồng nhưng lại giàu tình thương, lòng bao <br /> dung, vị tha, giàu đức hi sinh, luôn sống vì con, hi sinh cho hạnh phúc của con. Và bà cụ <br /> Tứ cũng là một người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương con.<br /> <br /> Qua truyện ngắn "Vợ  nhặt", nhà văn Kim Lân đã dựng lên hình  ảnh chân thực và cảm <br /> động về một người mẹ nghèo khổ hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi <br /> sâu phân tích diễn biến tâm lí phức tạp của bà cụ  Tứ  và thể  hiện qua từng lời nói, ánh <br /> mắt, trong suy nghĩ, hành động và sự  lo xa cho tương lai các con. Phải là người có vốn <br /> sống phong phú, thấu hiểu và thông cảm, yêu mến và chân trọng những người nghèo khổ <br /> thì Kim Lân mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy.<br /> <br /> Truyện ngắn "Vợ nhặt" không đơn thuần là những trang văn mà là những trang đời thấm <br /> đẫm nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho hiện tại và le lói niềm tin vào <br /> tương lai của bà mẹ nghèo. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc rung động sâu sắc trước <br /> tấm chân tình tha thiết của người mẹ già. Người mẹ già ấy chính là ánh sáng le lói trong  <br /> bối cảnh bi thảm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị <br /> nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía, cảm động hơn rất nhiều. Bà cụ Tứ đã đọng lại  <br /> trong lòng người đọc bao suy nghĩ và rung động sâu xa.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2