ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------***---------- LÊ THÙY LINH

HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

(1945 - 1954)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------***----------

LÊ THÙY LINH

HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

(1945 - 1954)

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. LÊ MẬU HÃN

HÀ NỘI - 2008

MỤC LỤC

TRANG

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5

4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5

5. Đóng góp chính của luận văn 6

6. Cấu trúc của luận văn 6

CHƢƠNG 1: NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH LÊN ÁN

NỀN GIÁO DỤC THỰC DÂN 8

1.1. Thực trạng giáo dục phổ thông dƣới ách thống trị

của Pháp, Nhật 8

1.2. Nguyễn Ái Quốc đấu tranh chống nền giáo dục thực dân 23

CHƢƠNG 2: HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC TỔ CHỨC

XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI (1945 - 1950) 33

2.1. Giáo dục phổ thông trong năm đầu tiên của nƣớc Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa (1945 - 1946) 33

2.1.1. Chủ trương mới về giáo dục của Hồ Chí Minh 33

2.1.2. Cải tổ và xây dựng bước đầu hệ thống giáo dục phổ thông 40

mới

2.2. Giáo dục phổ thông đồng hành với kháng chiến (1946 -1950) 47

2.2.1. Chủ trương giáo dục phổ thông phục vụ kháng chiến, kiến 47

quốc

2.2.2. Sự phát triển của giáo dục phổ thông những năm 1946 - 55

1950

CHƢƠNG 3: GIÁO DỤC PHỔ THÔNG THEO TINH THẦN

CẢI CÁCH GIÁO DỤC (1950 - 1954) 77

3.1. Chủ trƣơng cải cách giáo dục 77

3.2. Củng cố và phát triển giáo dục phổ thông phục vụ kháng 86

chiến

105 KẾT LUẬN

119 TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

John Dewey (1859 - 1952) - người khởi xướng trào lưu Tân giáo dục

Mỹ có câu nói nổi tiếng: “Giáo dục chính là bản thân cuộc sống” (Education

is life itself). Bởi giáo dục chính là cuộc sống nên ở bất kỳ thời đại nào, hoàn

cảnh nào, quá trình giáo dục cũng luôn diễn ra. Ở đâu có cuộc sống con

người, ở đó có giáo dục. Sự khác nhau là ở trình độ, phương pháp giáo dục ở

mỗi thời điểm và không gian mà thôi.

Liên hệ với thực tế Việt Nam từ xưa đến nay, dù có những thăng trầm

bởi chiến tranh, địch họa nhưng giáo dục vẫn luôn là quá trình liên tục. Đặc

biệt, khi Việt Nam là dân tộc hiếu học, có truyền thống học để làm người. Bởi

vậy, từ trong lịch sử, cha ông ta đã thấy được vai trò của giáo dục nên việc

học hành, thi cử được các nhà nước phong kiến kế tiếp nhau chăm lo phát

triển.

Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta xác định trong Văn kiện Đại hội Đại

biểu toàn quốc lần thứ VII: “Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt

trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất

nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng

khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Trong bài phát biểu

trước Đại học Sư phạm thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội ngày 19 - 1- 1996,

Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi đầu tư

vào con người là đầu tư cơ bản nhất; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát

triển”[36, 11]. Sự tiến thoái của một quốc gia ngày càng phụ thuộc chặt chẽ

vào trình độ phát triển của khoa học, kĩ thuật, suy cho cùng là bởi yếu tố con

người. Bởi vậy, chiến lược phát triển con người được đặt ra, trong đó, lĩnh

1

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

vực đầu tiên là giáo dục, đào tạo là nhu cầu tất yếu và cấp thiết. Giáo dục vừa

là động lực, vừa là mục tiêu xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh.

Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ ý nghĩa của sự nghiệp

giáo dục đối với sự tồn vong của dân tộc. Ngay trong năm đầu tiên của nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, giữa những chồng chất khó khăn, Người

xác định dốt cũng là một thứ giặc mà mức độ nguy hiểm của nó không thua

kém gì giặc đói và giặc ngoại xâm. Cả cuộc đời Người đấu tranh không

ngừng nghỉ cũng vì mục đích duy nhất “dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai

cũng được học hành”. Người từng nói nước độc lập mà không đem lại hạnh

phúc cho nhân dân thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. Bởi thế, ngay sau khi

cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, cùng với việc xây dựng nước Việt

Nam mới, vừa kháng chiến chống Pháp, vừa kiến quốc, Hồ Chí Minh lãnh

đạo toàn dân đồng sức, đồng lòng xây dựng nền giáo dục quốc dân.

Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục phổ thông đóng vai trò đặc

biệt quan trọng, là nền tảng đầu tiên và cũng là tối ưu chuẩn bị cho con người

ở những bước phát triển tiếp theo trong cuộc đời. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo

dục phổ thông là một thể chế xã hội (tức nhà trường phổ thông) có nhiệm vụ

đào tạo thế hệ trẻ từ tuổi có khả năng học tập đến tuổi có khả năng lao động

thành những nhân cách của một chế độ xã hội nhất định, từ đó mà trở thành

người lao động, người công dân theo lý tưởng của xã hội đó. Giáo dục phổ

thông được đánh giá là nền tảng văn hóa của một nước, đóng vai trò quyết

định trong sự hình thành con người mới và là sức mạnh tương lai của dân tộc

[11, 6 - 10].

Nhận thức được quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục và tầm quan

trọng của giáo dục, đặc biệt của giáo dục phổ thông trong cuộc sống nói

chung và bối cảnh hiện nay nói riêng, được sự chỉ bảo của các thầy giáo,

trước hết là sự hướng dẫn tận tâm của PGS. Lê Mậu Hãn, tôi thực hiện luận

văn Thạc sỹ Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954).

2

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Các công trình nghiên cứu về giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục

phổ thông nói riêng chiếm một số lượng khá lớn và quan trọng. Số công trình

nghiên cứu về Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam cũng không

nhỏ, trong đó bao gồm cả những bài nói và viết của Hồ Chủ tịch về giáo dục.

Tựu trung lại có thể chia các công trình nghiên cứu trên thành các loại sau:

- Thứ nhất là tác phẩm của một số nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam từ

sau cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay như:

Vũ Đình Hòe với “Những phương pháp giáo dục ở các nước và vấn đề

cải cách giáo dục”(Thanh Nghị Tùng Thư xuất bản, Hà Nội, 1945).

Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên với “Những bài nói và viết

về giáo dục”, “Quá trình xây dựng nền giáo dục Việt Nam trong 16 năm

qua”, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 1961. Con trai của cố Bộ trưởng, PGS. TS.

Nguyễn Văn Huy sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn những bài viết, những chỉ

thị, nghị quyết liên quan đến giáo dục thành cuốn “Nguyễn Văn Huyên toàn

tập, Văn hóa và giáo dục Việt Nam, tập 3”, nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản

năm 2005.

Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn có rất nhiều bài viết về giáo dục và sự

nghiệp giáo dục Việt Nam: “Giáo dục dân chủ mới” (Bộ Quốc gia Giáo dục

xuất bản năm 1949), “Những vấn đề giáo dục” (Bộ Quốc gia Giáo dục xuất

bản năm 1950), “Hai mươi năm xây dựng giáo dục” (Nhà xuất bản Giáo Dục,

Hà Nội, 1965), “Nền giáo dục Việt Nam lý luận và thực hành” (Nhà xuất bản

Giáo Dục, Hà Nội, 1991). “Hai mươi năm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao”, Nxb. Sự Thật, Hà Nội,

1966, viết chung với Hoàng Minh Giám, Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Văn

Thái.

Giáo sư Phạm Minh Hạc với “Vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục”

(Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1986), “45 năm phát triển nền giáo dục Việt

3

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Nam” (Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1990), “Education in Vietnam (1945

- 1991)” (Hà Nội, 1991), “Sơ thảo lịch sử giáo dục Việt Nam (1945 - 1990)”

(Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1992).

Võ Thuần Nho có công trình nghiên cứu “35 năm phát triển sự nghiệp

giáo dục phổ thông” (Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1990).

Bộ trưởng Giáo dục Trần Hồng Quân với “50 năm phát triển sự nghiệp

giáo dục và đào tạo (1945 - 1995)” (Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội,

1995)…

- Thứ hai là công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lịch sử, văn

hóa, một số nhà văn, nhà báo…

“Hồ Chủ tịch, Nhà giáo dục vĩ đại”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà

Nội, 1990 của Giáo sư Nguyễn Lân đã hệ thống được toàn bộ quan điểm của

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về giáo dục.

Nguyễn Q. Thắng với “Khoa cử và giáo dục Việt Nam” (Nhà xuất bản

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1993).

Phan Trọng Báu với “Nền giáo dục Việt Nam thời cận đại” (Nhà xuất

bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994).

“Hồ Chí Minh với nền văn hóa mới Việt Nam trước 1954” của Bùi

Đình Phong, nhà xuất bản Lao động xuất bản năm 1994.

“Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám 1945” của

Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Tiến Doãn, Hồ Thị Hồng…, Nhà xuất bản Giáo

Dục, Hà Nội, 1996.

- Thứ ba, một số luận văn, luận án viết về giáo dục như:

Đỗ Thị Nguyệt Quang với Luận án Phó Tiến sỹ Khoa học Lịch sử

“Quá trình xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt Nam mới từ tháng 9 -

1945 đến tháng 7 - 1954”, Hà Nội, 1996.

4

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

“Đảng lãnh đạo và tổ chức mặt trận văn hóa kháng chiến (1945 -

1954)”, Luận văn Thạc sỹ Khoa học Lịch sử của Trần Thị Thanh Giang, Hà

Nội, 2006.

“Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc (1945 -

1954)”, Luận văn Thạc sỹ Khoa học Lịch sử của Phạm Nguyên Phương, Hà

Nội, 2007.

Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết in trên các tạp chí của các tác giả khác.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài “Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 -

1954)”, đối tượng nghiên cứu là giáo dục phổ thông trong những năm 1945 -

1954 trong sự tiến triển, vận động không ngừng với cuộc kháng chiến chống

Pháp của toàn dân.

Khung thời gian nghiên cứu được giới hạn từ khi cách mạng Tháng

Tám 1945 thành công đến hết năm 1954 - năm đánh dấu thắng lợi hoàn toàn

của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Phạm vi không gian được mở rộng trong cả nước, ở khắp miền Bắc,

miền Trung và miền Nam.

Để làm rõ thêm bản chất cách mạng của nền giáo dục dân tộc, dân chủ

của nước Việt Nam trong giai đoạn 1945 - 1954, luận văn đề cập đến tình

hình giáo dục phản động, nô dịch của thực dân Pháp thực thi trên đất nước ta

trong giai đoạn trước. Qua đó, gợi lên sự so sánh để thấy được tính khác biệt

về bản chất của hai nền giáo dục cách mạng và giáo dục thực dân, khẳng định

tính ưu việt của nền giáo dục dân chủ.

4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài này, luận văn đã sử dụng các nguồn tài liệu sau:

5

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

- Các bài nói và bài viết về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh

được tập hợp trong “Hồ Chí Minh toàn tập” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 2002).

- Các sách viết về Hồ Chí Minh với giáo dục và các vấn đề giáo dục

của các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nhà báo…

- Các bài viết được đăng tải trên Công báo, tạp chí Nghiên cứu lịch sử,

tạp chí Lịch sử Đảng.

Bên cạnh phương pháp nghiên cứu lịch sử, các phương pháp được dùng

chủ yếu là phương pháp thống kê, phân tích. Tình hình giáo dục phổ thông

được phản ánh qua những con số cụ thể chính xác. Đó là những số liệu về

trường, lớp, số lượng học sinh, giáo viên, số tốt nghiệp các cấp…đòi hỏi học

viên phải sử dụng phương pháp thống kê. Từ đó, phân tích các số liệu để thấy

được giáo dục phổ thông 1945 - 1954 phát triển hay bị suy giảm.

Phương pháp so sánh lịch sử được học viên sử dụng nhằm làm sáng tỏ

sự khác biệt của giáo dục phổ thông trong mỗi giai đoạn 1945 - 1946, 1946 -

1950, 1950 - 1954; cụ thể hơn là dùng so sánh số liệu của các năm học với nhau.

5. Đóng góp chính của luận văn

Luận văn có các mục tiêu nghiên cứu rõ ràng. Những tư liệu lịch sử,

những nhận định, đánh giá về tình hình giáo dục phổ thông 1945 - 1954 rất

phong phú. Tư liệu, đánh giá đó có khi chuyên sâu, có khi khái lược nhưng

nhìn chung, chưa cung cấp được cho chúng ta cái nhìn toàn diện, liền mạch

và chi tiết về các cấp học phổ thông thời gian này, đặc biệt trong việc khẳng

định vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi vậy, với đề tài nghiên cứu này,

chúng tôi hệ thống hóa các nguồn tài liệu nói về giáo dục phổ thông giai

đoạn 1945 - 1954. Trên cở sở đó, chúng tôi trình bày quá trình hình thành,

phát triển và những thành tựu của giáo dục phổ thông 1945 - 1954 theo

6

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

dòng chảy liên tục của thời gian 9 năm và trong góc độ giáo dục phổ thông

dưới tư tưởng và sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thông qua những căn cứ khoa học, luận văn làm rõ quan điểm của Chủ

tịch Hồ Chí Minh đối với giáo dục, phân tích vai trò của Chủ tịch trong việc

xây dựng nền giáo dục phổ thông mới và tác dụng đối với công cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp của dân tộc.

Qua đó, luận văn rút ra một số nhận xét, bài học kinh nghiệm góp phần

phục vụ công cuộc xây dựng nền giáo dục hiện nay.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương chính:

- Chương 1: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lên án nền giáo dục thực dân.

- Chương 2: Hồ Chí Minh với việc tổ chức xây dựng nền giáo dục phổ

thông mới (1945 - 1954).

- Chương 3: Giáo dục phổ thông dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

và tinh thần cải cách giáo dục (1950 - 1954).

Phần Phụ lục và Tài liệu tham khảo.

7

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

CHƢƠNG 1

NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH LÊN ÁN

NỀN GIÁO DỤC THỰC DÂN

1.1. Thực trạng giáo dục phổ thông dƣới ách thống trị của Pháp, Nhật

“Làm cho dân ngu để dễ trị”, đó là chính sách mà các

nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng

nhất.

- Hồ Chí Minh -

“Pháp luật chỉ đàn áp được một thời gian, chỉ có giáo dục mới chinh

phục được con người mãi mãi”. Đuymuchiê - một tổng sứ dưới quyền của

Pôn Be (Paul Bert) đầy ẩn ý khi trích dẫn câu nói nổi tiếng của Khang Hi, bổ

sung vào đó tinh thần của chủ nghĩa thực dân trong bối cảnh mới. Dưới mỗi

thời Toàn quyền, dù thành văn hay không thành văn, dù được phát biểu thành

lời hay ẩn sau những hành động, tư tưởng đồng hóa của thực dân Pháp cũng

đã thể hiện rõ ngay từ khi Pháp xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta.

Giáo dục trở thành một trong những lợi khí để thực dân Pháp chinh phục

thuộc địa. Chỉ thị của Bộ Thuộc địa Pháp ngày 10 - 10 - 1920 chỉ rõ: “Học

chính bản xứ trước hết phải có tính chất thực nghiệm và thực tế. Trước hết

cần phải nghĩ đến lợi ích kinh tế của việc giáo dục quần chúng, và để đạt mục

đích ấy, những cố gắng của chính phủ bảo hộ trước hết phải nhắm vào sự phát

triển ngành sơ học, kỹ thuật và chuyên môn”[32, 168]. Chính sách giáo dục

thực dân Pháp thực thi trên đất nước ta không nằm ngoài mục đích:

- Đào tạo những người bản xứ phục vụ cho bộ máy cai trị.

- Đồng hóa nhân dân Việt Nam nhằm biến họ thành người ngoan

ngoãn, phục tùng sự thống trị của Pháp.

8

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

- Truyền bá tư tưởng nô dịch trong nhân dân.

Thực dân Pháp chinh phục đất đai còn chưa đủ mà còn muốn chinh

phục tâm hồn nữa. Chúng muốn nhân dân Việt Nam phải hoàn toàn quy phục

nước Pháp, muốn đất và người Việt Nam là đứa con dưới quyền của “nước

mẹ” Pháp. Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Pháp cả về vật chất và tinh thần.

Trong một bức thư mật đề ngày 1 - 3 - 1899 của một thống sứ gửi cho

viên Toàn quyền Đông Dương thể hiện rõ tư tưởng nô dịch của chúng trong

giáo dục: “thật không thể nào để cho người An Nam được học lịch sử và đọc

sách của chúng ta mà không gây cho họ lòng yêu nước, yêu tự do...Kinh

nghiệm của các dân tộc Châu Âu khác cũng đã chỉ rõ rằng việc truyền bá một

nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại dột”[62, 17]. Những lời

trắng trợn của thực dân Pháp đầy rẫy trên các ấn phẩm sách báo thời bấy giờ,

ví như: “Đối với cái giống nòi Annamít ấy, chỉ có một cách tốt để cai trị nó -

đó là ách thống trị bằng sức mạnh...Truyền học vấn cho bọn Annamít hoặc

cho phép chúng tự chúng có học vấn, tức là một mặt cung cấp cho chúng

những súng bắn nhanh để chống chúng ta, và mặt khác đào tạo những con chó

thông thái gây rắc rối hơn là có ích...”[17, 7]. “Cái giống người An Nam” vốn

đã bị thực dân Pháp coi là hạ đẳng. Dưới chế độ cai trị của chúng, chúng tìm

mọi cách, kể cả những cách đê tiện nhất để dìm những con người đáng thương

này vào vũng bùn khổ hạnh hơn nữa, ngu dốt, tối tăm và hạ đẳng hơn nữa.

Thực dân Pháp thừa khôn ngoan để nhận thấy sự nguy hại khi cung cấp

một nền học vấn đầy đủ cho các dân tộc thuộc địa. Xâm lược Việt Nam, vấp

phải những cuộc đấu tranh quyết liệt của cả một dân tộc, thực dân Pháp hiểu

rằng không dễ dàng quy phục ngay được những con người bề ngoài có vẻ cam

chịu nhưng bên trong lại tiềm tàng một sức mạnh có thể chống lại chúng bất

cứ lúc nào. Vì vậy, sau khi chiếm được Việt Nam một cách căn bản, thực dân

Pháp đã nhanh chóng thực hiện tư tưởng: sau khi người lính đã hoàn thành sự

9

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

nghiệp của mình thì đến lượt người giáo viên thực hiện sự nghiệp của họ. Tư

tưởng xuyên suốt trong chính sách giáo dục thực dân Pháp là “Nếu chúng ta

muốn đặt được vĩnh viễn ảnh hưởng của nước Pháp lên phần đất này (Việt

Nam) của thế giới, thì phải làm cho họ (người Việt Nam) tiêm nhiễm tư tưởng

của chúng ta (Pháp), dạy cho họ tiếng nói của chúng ta và do đó phải bắt đầu

từ nhà trường và trước tiên chú ý đến trẻ em”[47, 180 - 181].

Trong quá trình xâm lăng và bình định, thực dân Pháp đã tìm cách loại

bỏ dần dần nền giáo dục truyền thống của người Việt Nam. Từ năm 1867, ở

Nam Bộ đã bãi bỏ các khoa thi chữ Nho. Năm 1915, bãi bỏ thi Hương ở Bắc

Bộ và năm 1918 là ở Trung Bộ. Phép học cũ và chế độ khoa cử cáo chung:

“Thi tàn học cũng tàn theo”. Người Pháp không chỉ thành công trong việc

chia cắt nước Việt Nam thành các xứ Bắc, Trung, Nam mà còn thay đổi lối

học tập của người Việt. Luật học mới được thay thế, chính thức ban hành ngày 21 - 12 - 1917 đặt ra nền học Pháp Việt thay cho nền học cũ*1. Thực tế,

bản chất của nền giáo dục này không hoàn hảo, đẹp đẽ như cái tên “Pháp

Việt” bình đẳng, thân thiện và đầy thiện chí các nhà cầm quyền đưa ra. Một

nền giáo dục không ra Pháp, không ra Việt bởi tính chất của nó thấm đẫm

màu thực dân, suy cho cùng vì mục đích kinh tế hơn vì giáo dục và sự phát

*1 Thực tế cho thấy dưới sự chỉ đạo của người Pháp, một số điểm của Luật học mới đã được đưa ra sớm hơn. Từ năm 1908, dưới thời vua Duy Tân (1907-1916), Hội đồng cải lương học vụ đã sửa đổi lại chương trình học và thi cho phù hợp với chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương. Hội đồng cải lương học vụ còn gọi là Cải cách học vụ hội đồng, do Pháp đề nghị và chuẩn y. Nội dung đạo Dụ ngày 31-5-1906 quy định phép học thi chia làm 3 bậc như sau: - Ấu học: dạy ở các trường Tổng sư và lấy bằng Tuyển sinh làm bằng tốt nghiệp. - Tiểu học: dạy ở các trường phủ huyện (Giáo thọ, Huấn đạo) và các trường quy thức ở tỉnh lỵ, tốt nghiệp với bằng Khoá sinh. - Trung học: dạy ở các trường tỉnh (trường Đốc) để luyện học trò đi thi Hương. Chương trình học vần lấy chữ Hán làm chuyển ngữ, nhưng có học thêm các môn cách trí (khoa học thường thức) sử kí, địa dư, toán pháp bằng chữ Quốc ngữ và một ít tiếng Pháp. (Tham khảo: Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài Gòn tái bản, 1957). (Xem Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 1993, tr.46).

triển con người Việt Nam.

10

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Đào tạo một số người bản xứ phục vụ trực tiếp cho công cuộc thống trị

là một trong những động lực thúc đẩy thực dân Pháp thực hiện nhanh những

chính sách giáo dục thực dân. Những cuộc xâm lược và cai trị trên nhiều miền

đất, nhiều châu lục khác nhau đã cho kẻ thực dân già giàu kinh nghiệm những

bài học quý giá về sự thống trị. Không thể nắm được một thuộc địa nếu không

hiểu về lãnh thổ cũng như tâm tính con người của chính thuộc địa đó. Không

thể cai trị một quốc gia nếu lòng người không quy thuận, nhất là những người

nắm quyền lại là kẻ lạ mặt ở miền đất xa xôi nào tới. “Thay thế một cách đột

ngột tận gốc rễ bộ máy cai trị An Nam bằng một số lớn sĩ quan (người Pháp)

mà phần lớn không biết đến cả tiếng nói và phong tục tập quán của xứ này thì

người ta chỉ gây ra một sự hỗn loạn...Việc cai trị bằng người bản xứ đặt dưới

sự kiểm soát của chúng ta là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề”[47, 183 -

184]. Người Pháp nhận thức được những khó khăn khi tự mình cai trị xứ sở

thuộc địa đầy nóng bỏng này cũng như những thuận lợi khi đào tạo ra một số

người bản xứ thừa hành ngoan ngoãn. Hơn nữa, việc cai trị bằng những người

địa phương giúp thực dân Pháp tiết kiệm được ngân sách thuộc địa vì phải trả

lương ít hơn. Toàn quyền Đông Dương Anbe Xarô nhấn mạnh: “Sự khôn

ngoan của một sự minh mẫn sơ đẳng về chính trị đặt cho chúng ta nhiệm vụ

phải duy trì (những người bản xứ) làm những kẻ trung gian giữa chúng ta

(thực dân Pháp) và dân chúng”[62, 15 - 16].

Với thực dân Pháp, việc mở rộng nền giáo dục của Pháp trở thành một

nhu cầu cấp thiết nhất để có thể đào tạo được những người giúp việc có khả

năng như lời của tướng Bôna nhận định.

Trong báo cáo đề ngày 18 - 4 - 1912, Pêran (Peralle) - giám đốc Học

chính Bắc Kỳ - gửi cho Toàn quyền Đông Dương đã nói rõ việc tổ chức giáo

dục ở thuộc địa là: “đào tạo những công chức bản xứ hạ đẳng, những giáo

viên sơ cấp, những thông ngôn và thư ký để làm cho các bộ máy cai trị, cho

11

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

các nhà buôn”[54, 10]. Đào tạo nên những nhân viên phục vụ trực tiếp cho

công cuộc khai thác thuộc địa đã được thực dân Pháp đặt thành một nhiệm vụ

trong việc thực hiện chính sách giáo dục trên đất nước ta.

Trong tay những kẻ đi xâm lược, giáo dục không nhằm phục vụ quần

chúng nhân dân đông đảo mà là công cụ phục vụ cho một số ít người. Thực

dân Pháp bóp méo tính chất cao quý và chân thực của giáo dục, sử dụng giáo

dục vào mục đích thực dụng xấu xa là thực hiện từng bước chính sách đồng

hoá thâm độc và khai thác tối đa những nguồn lợi tài nguyên, nhân lực trên

những phần thuộc địa.

Chủ trương giáo dục bắt đầu từ nhà trường và trước tiên chú ý đến trẻ

em nhằm phục vụ mục đích của thực dân đã quy định nội dung và tổ chức

giáo dục trong giai đoạn này.

Trong vấn đề chữ viết, người Pháp vấp phải vô vàn khó khăn trong quá

trình thực hiện. Đối với thực dân Pháp, thật quá khó để học chữ Hán và chữ

Nôm. Việc tổ chức được đầy đủ giáo viên dạy tiếng cho các lớp học cũng

không đơn giản. Kinh phí đầu tư cho việc đào tạo này rất tốn kém bởi học

sinh muốn đạt được trình độ đọc thông viết thạo cũng phải mất khoảng thời

gian tương đối dài. Điều này lại mâu thuẫn với những kế hoạch của thực dân

Pháp muốn đào tạo nhanh một số người bản xứ để phục vụ cho công cuộc

khai thác thuộc địa và cai trị trước mắt. “Dạy cho họ tiếng nói của chúng ta”

cũng không dễ dàng như người Pháp nghĩ. Thái độ chung của người Việt

Nam là tẩy chay, chống đối nên số người tình nguyện theo học tiếng Pháp thật

quá ít ỏi. Tư tưởng đi học tiếng Pháp - thứ ngôn ngữ của kẻ thù cướp nước là

theo Pháp, làm tay sai cho giặc, là vong tổ, phản quốc, đi ngược lại quyền lợi

của quần chúng nhân dân rất sâu đậm trong nhân dân. Những vần thơ hài

hước “Không học vần Tây” của nhà thơ Tú Xương tỏ rõ thái độ phản đối

quyết liệt chữ Pháp:

Mợ bảo vần Tây chẳng khó gì,

12

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Cho tiền đi học để chờ thi.

Thôi thôi lạy mợ “xanh căng” lạy!

Mả tổ tôi không táng bút chì!

Đạo học của người Việt lâm vào thảm cảnh:

Đạo học ngày nay đã chán rồi,

Mười người đi học, chín người thôi [27, 487, 492].

Do đó, trong con mắt của người Pháp, “tình hình bước đầu của những

trường học quả là vất vả. Dân chúng mới bị chinh phục và chưa thích nghi với

sự quan tâm của các quan cai trị, không hiểu và không thể hiểu nổi tư tưởng

rất đỗi quảng đại của chúng ta. Do đó, những lời kêu gọi đối với những người

chủ gia đình cho con em đi học đều được coi là một cách bắt lính, chủ làng đi

bắt trẻ con như người ta bắt thuế”[2, 37].

Người Pháp đứng trước bức tranh giáo dục thật ảm đạm. Dù trước đây,

có nghèo khổ, người dân Việt Nam cũng cố gắng cho con em theo thầy đồ

học chữ, học lấy đạo làm người. Nhà khá giả hơn thì mời thầy về nhà dạy dỗ,

kèm cặp con em họ. Giờ đây, những cố gắng tạo lập một nền giáo dục theo ý

muốn của thực dân Pháp vấp phải sự phản kháng thầm lặng nhưng hết sức

quyết liệt bởi người dân Việt Nam hiểu rõ “tư tưởng rất đỗi quảng đại” của

chúng là gì.

Để tháo gỡ những khó khăn đó, Pháp buộc phải tiến hành một cách từ

từ, phải đành lòng dùng những phương tiện vừa có sức thuyết phục, lại vừa là

những phương tiện ít tốn kém, đồng thời chính trị hơn, vững chắc hơn [62, 15].

Với chữ Nho, thực dân Pháp tỏ thái độ không quyết liệt ngăn cấm mà

dùng những cách thức tinh vi hơn để giảm tối đa sự phản kháng của người

Việt đối với nền học Pháp - Việt. Ban đầu, chữ Nho vẫn được duy trì trong

các cấp học nhưng có sự quản lý rất lỏng lẻo. Đối với những học trò trường

Sơ đẳng Tiểu học (không toàn cấp), học sinh ai muốn học hay không thì tuỳ

13

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

ý. Trái lại, lại là sự quản thúc sít sao đối với thầy dạy. Thầy đồ phải là người

do nhà trường và Hội đồng kì mục xã lựa chọn. Thầy đồ phải đến tận trường

để dạy và mỗi tuần chỉ được một tiếng rưỡi đồng hồ (90 phút) vào sáng thứ 5

hàng tuần. Hiệu trưởng không được phép vắng mặt tại trường vào các buổi

sáng thứ 5 đó, nhất là không bao giờ được để thầy đồ đến lớp một mình mà

nhất thiết phải có người giám sát việc dạy chữ Nho của thầy đồ sao cho đúng

với “Phương pháp dạy chữ Nho” đã được Tổng Thanh tra Học chánh thông

qua. Với trường Tiểu học toàn cấp, chỉ nơi nào phụ huynh và giới cầm quyền

địa phương yêu cầu thì chữ Nho mới được giảng dạy sau khi đã tham khảo ý

kiến của Hội đồng hàng tỉnh. Thời gian học cũng rất hạn chế và chỉ là môn bắt buộc với hai lớp cuối cấp*2.

Đồng thời, thực dân Pháp chủ trương không vội vàng dạy ngay tiếng

Pháp cho người Việt mà dùng chữ quốc ngữ làm chuyển ngữ trong một vài

lớp đầu tiên rồi mới chuyển sang học tiếng Pháp. Không phải ngẫu nhiên mà

thực dân Pháp sử dụng chữ quốc ngữ như một công cụ mới phục vụ đắc lực

cho chiến lược lâu dài xây dựng trên thuộc địa này một nền giáo dục thực dân

hoàn hảo. Từ đó, chinh phục con người và vùng đất này một cách vĩnh viễn

như kế hoạch và tham vọng của những kẻ cầm quyền. Thấy được khó khăn

của việc dạy và học chữ Hán, chữ Nôm, thấy được sự bất khả thi của việc

truyền dạy tiếng Pháp. Người Pháp nhanh chóng nhận ra giá trị và sự tiện lợi

khi sử dụng chữ quốc ngữ: “Việc người bản xứ có thể đọc viết bằng chữ quốc

ngữ đối với chúng ta hết sức có lợi. Các công chức của chúng ta, các nhà

buôn của chúng ta có thể học rất dễ dàng cách kí hiệu đó, và sự liên hệ của

*2 Chú thích: Bậc tiểu học Pháp-Việt gồm 5 lớp: lớp Đồng ấu (7 tuổi), lớp Dự bị (8 tuổi), lớp Sơ đẳng Tiểu học (9 tuổi), lớp Trung đẳng Tiểu học (10 tuổi), lớp Cao đẳng Tiểu học (11 tuổi). Trường nào mở đủ cả 5 lớp đó gọi là trường Tiểu học toàn cấp (école Primarie de plein exercise). Trường nào không mở đủ 5 lớp đó gọi là trường Sơ đẳng Tiểu học (école Primarie élémentaire). (Tham khảo: Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và Giáo dục Việt Nam, Nxb. Văn hoá - Thông tin, H. 1993, tr.290).

chúng ta với người bản xứ sẽ dễ dàng hơn nhiều”. Đuymuchiê nói rõ hơn:

14

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

“Bất cứ một người cai trị nào, với một cuốn từ điển cũng có thể dịch được dễ

dàng, sự trung gian của một nhà nho trở nên vô ích và sự trung gian của một

người thông ngôn cũng không còn là điều bắt buộc nữa”[47, 183].

Rõ ràng, chủ trương dạy chữ quốc ngữ cho người Việt Nam không chỉ

đem lại tiện ích kinh tế và thời gian cho người Pháp mà còn có ý nghĩa chính

trị rất cụ thể. Nâng cao vai trò của chữ quốc ngữ, đồng thời hạ thấp giá trị của

chữ Hán, chữ Nôm, người Pháp nhằm loại bỏ vai trò của những nhà nho -

những trí thức Việt Nam - người sớm nhận thức được âm mưu của thực dân

Pháp và là những người đầu tiên thấm thía nỗi nhục mất nước, nặng lòng cứu

nước cứu dân, âm mưu chống lại người Pháp quyết liệt nhất. Loại bỏ Hán

học, thực dân Pháp còn nhằm ngăn chặn những luồng tư tưởng tiến bộ tràn

vào nước ta qua con đường Trung Quốc và Nhật Bản.

Với mục đích giáo dục nô dịch, tiếng Pháp dần trở thành thứ tiếng được

dùng chủ yếu trong hầu hết các cấp học. Nhất là hai lớp cuối cấp phải hoàn

toàn dùng tiếng Pháp. Theo lời kể của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn - con người

sống gần trọn thế kỷ XX, được chứng kiến và chịu sự tác động của công cuộc

cai trị và đồng hoá của thực dân Pháp - thì chế độ trường Primaire Franco -

Annamite (Trường Pháp - Việt mà dân gian gọi là Rì-me - có nghĩa nôm: chăn

bò con) thực ra là một trường hoàn toàn dạy bằng Pháp ngữ. Tôi năm 1917,

vào lớp nhỏ nhất, đã phải trả lời thầy câu hỏi: Où est ta tête? Đợt thứ hai là

Primaire Complémentaire (Trường Rì-me-còm) sau đổi lại Primaire

Supérieure. Rồi đến bực Baccalauréat Local, học ba năm và chương trình có

văn hoá Việt Nam nhưng dạy hoàn toàn bằng Pháp ngữ, mà đó cũng là ngoại

ngữ độc nhất đối với ta...Năm 1936, tôi về dạy toán học tại trường Bưởi cũ

nhưng nay đã đổi ra loại Lycée với hoàn toàn chương trình trung học

“Tây”[46, 315 - 316]. Ở trường trung học Pháp - Việt hệ 4 năm, chủ yếu học

chữ Pháp, mỗi tuần có 12 giờ chuyên học tiếng Pháp. Ngược lại, tiếng Việt -

15

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

tiếng nói của dân tộc Việt Nam bị xem nhẹ, được giảng dạy giống như một

ngoại ngữ trong chương trình.

Nội dung giáo dục cho thấy rõ thực dân Pháp đã thực hiện chính sách

ngu dân đối với dân tộc Việt Nam thâm độc như thế nào. Không một yếu tố

dân tộc nào được đề cập đến trong nội dung giảng dạy của các nhà trường

dưới chế độ thực dân. Sau này, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng phản ảnh: “Từ

khi vào các trường Vinh hay Hà Nội, tôi đã sớm nhận thấy hoàn toàn thiếu

phần “Quốc học”, và càng lên càng thấy phần quốc học suy đồi, anh em ít

người chú tâm; đến cả thầy giáo cũng vừa non nớt, vừa uể oải”[46, 315].

Những yếu tố tốt đẹp mang tính chất đặc trưng dân tộc bị vùi dập, bị bóp méo

sai với thực tế. Việc giảng dạy và học tập không có được một chương trình

khoa học mà tùy tiện, chắp vá. Các môn học thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc

như văn học, sử học được giảng dạy hạn chế với sự sai lạc rất lớn về tinh thần

dân tộc. Một áng thiên cổ hùng văn như “Bình Ngô đại cáo” chưa bao giờ

được giảng dạy một cách chính thức trong nhà trường. Kho tàng văn học vô

cùng phong phú là nơi chuyển tải tinh thần và ngôn ngữ trong sáng của dân

tộc không được đưa vào chương trình dạy học. Mấy tập Quốc văn giáo khoa

bậc sơ học mà không có được một câu ca dao ca ngợi cảnh đẹp, lịch sử hay

con người của quê hương đất nước mà chỉ có vài bài giáo huấn và nói chuyện

buôn bán, đi lính...Lịch sử Việt Nam chỉ được tổ chức giảng dạy một cách sơ

sài. Đến năm thứ ba của cao đẳng tiểu học, môn này bị cắt bỏ và không được

xếp lịch trong thời khóa biểu. Không những thế, những giá trị lịch sử bị phủ

nhận một cách trắng trợn. Tấm gương các danh nhân, những anh hùng dân tộc

bị bôi nhọ. Sức mạnh của phong trào quần chúng không những bị phủ nhận

mà còn bị mạt sát. Trái lại, bè lũ Việt gian bán nước lại được ngợi ca và hành

động xâm lược của thực dân được tô vẽ lên bởi những mỹ từ khai hóa, gieo

rắc văn minh...Học trò mới 9, 10 tuổi đã bị nhồi nhét vào đầu những vấn đề

16

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

của môn lịch sử như: Công cuộc chiếm đóng xứ An Nam của người Pháp,

người Pháp đã chiếm đóng xứ An Nam từ bao giờ và đã chiếm đóng như thế

nào, người Pháp đã làm gì cho xứ An Nam, công việc bình định và tổ chức

cai trị của người Pháp. 10 tuổi, học sinh phải học: triều Nguyễn, Trịnh -

Nguyễn phân tranh, cuộc khởi loạn của Tây Sơn, người Pháp ở xứ Đông

Dương, giám mục Adran, sơ lược về tổ chức cai trị của người Pháp ở ba

kì...11 tuổi, môn Luân lý, học sinh phải học: bổn phận đối với nước Pháp [46,

292]. Rõ ràng, đối với thế hệ trẻ, hấp thụ nền giáo dục đó là phải gánh chịu sự

thiệt thòi quá lớn vì họ không có điều kiện để hiểu về truyền thống dân tộc, đất

nước và con người ở chính mảnh đất mình sinh ra, lớn lên. Nguy hại hơn, những

tư tưởng này gieo rắc vào những thế hệ trẻ kế cận của đất nước về sự cúi đầu cam

chịu phục tùng, tôn sùng kẻ mạnh hơn và tôn thờ một Tổ quốc không phải Tổ

quốc mình.

Người Pháp từng lo lắng “thật không thể nào để cho người An Nam

được học lịch sử và đọc sách của chúng ta mà không gây cho họ lòng yêu

nước, yêu tự do...Kinh nghiệm của các dân tộc Châu Âu khác cũng đã chỉ rõ

rằng việc truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại

dột”[62, 17]. Với lối suy nghĩ và những hành động theo lối suy nghĩ đó cho

thấy “làm cho dân ngu để dễ trị” mới là thực chất của cái gọi là “chính sách

giáo dục” của thực dân Pháp ở Việt Nam. Ngay cả đến một văn sĩ Pháp -

Mácxơ cũng thấm nhuần tư tưởng này và phát biểu một cách trắng trợn rằng:

“Chỉ cần dạy tiếng Pháp cho người An Nam, dạy cho họ biết đọc, biết tính

toán chút ít, biết nhiều hơn chỉ là thừa và vô ích”[62, 21]. Hạn chế tối đa sự

hiểu biết của dân thuộc địa - chính sách giáo dục ngu dân Pháp thực thi trên

đất nước ta là triệt để.

Không chỉ thế, thực dân Pháp còn ra sức ngăn trở những luồng tư tưởng

tiến bộ, những thành tựu giáo dục của nhân loại vào Việt Nam. Chương trình

17

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

triết học ở bậc trung học không bao giờ nhắc tới chủ nghĩa Mác, có chăng thì

cũng chỉ là sự xuyên tạc, bóp méo bản chất của học thuyết. Ngay đến cuộc

Đại cách mạng Pháp 1789 được ca ngợi hết lời ở trên nước Pháp thì với người

Pháp ở Việt Nam, có lúc sự kiện này bị xem là hiện tượng lịch sử sai trái. Khi

giảng dạy cho học sinh bản xứ, thầy giáo không được viết chữ Révolution với

chữ R hoa. Sự chuyển dịch về vị trí địa lý liệu có làm lật ngược bản chất của

một sự kiện đã từng diễn ra trong lịch sử? Câu trả lời đích thực chỉ có thể căn

cứ vào tâm địa của những nhà cầm quyền Pháp ở xứ An Nam mà thôi! Trong

tay thực dân, giáo dục không chỉ phục vụ cho công cuộc khai thác kinh tế

thuộc địa mà còn là phương sách để phòng ngừa tối đa những cuộc nổi loạn

có thể có của người bản xứ, hòng triệt tiêu cả những mầm mống nảy nở trong

tư tưởng của thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường. Nội dung giảng dạy có

sự phân biệt giữa chương trình “chính quốc” và chương trình “bản xứ”. Tất cả

những điều đó đủ cho thấy sự bưng bít, sự hẹp hòi đến mức nào trong chính

sách giáo dục mà thực dân Pháp thực thi tại Việt Nam. Với nội dung giáo dục

nô lệ, trình độ thấp kém về dân trí sẽ làm hạn chế tinh thần đấu tranh của quần

chúng nhân dân. Sự vây hãm một dân tộc trong vòng lạc hậu giúp cho chúng

dễ bề cai trị vốn là mục tiêu xuyên suốt của thực dân Pháp không chỉ đối với

thuộc địa Việt Nam.

Ngoài những tác dụng nhất định đối với nền giáo dục cổ truyền Việt

Nam, mái trường thực dân phần lớn làm hỏng đi tính nết của người học. Báo

chí hàng ngày thời bấy giờ đưa không ít tin về những cô cậu tiểu học, thành

chung nhảy xuống sông hoặc uống thuốc ngủ tự tử. Chỉ nhìn vào hiện tượng

này thôi cũng đã thấy bản lĩnh của người học trở nên yếu ớt và xa rời cuộc

sống thực tại. Môi trường giáo dục thực dân tạo ra bầu không khí ngột ngạt

đối với người học bởi chương trình học nặng nề (như đã trình bày ở trên), bởi

18

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

thời lượng học quá dài và căng thẳng*3. Điều đó không chỉ tạo áp lực đối với

học sinh mà còn là thử thách kinh tế đối với nhiều bậc phụ huynh muốn cho

con em mình ăn học “đến nơi đến chốn”. Bởi thế, với nhiều nguyên nhân khác

nhau, số lượng học sinh học lên cao ngày càng rơi rụng dần. Thật đúng với

mưu đồ của thực dân Pháp không muốn cho người dân Việt Nam học rộng,

hiểu sâu sẽ chỉ là “những bài học về phiến loạn”! Bên cạnh đó giáo dục thực

dân đẩy nhà trường ra ngoài nhiệm vụ xã hội, tạo ra tính xa rời thực tế, vị kỷ,

học không để mở mang kiến thức phục vụ xã hội mà theo bằng cấp, danh lợi

như sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “Dưới chế độ thực dân phong

kiến, mục đích đi học là cốt được mảnh bằng để làm ông thông, ông phán,

lĩnh lương nhiều, ăn ngon, mặc đẹp. Thế thôi, số phận dân tộc thế nào, tình

hình thế giới biến đổi thế nào, không hay, không biết gì hết”[23, 398]. Rõ

ràng, giáo dục thực dân đã làm nặng thêm những căn tính do nền giáo dục

phong kiến để lại trên đất nước ta.

Với tất cả những đặc điểm trên cho thấy tinh thần chủ đạo xuyên suốt

nội dung giảng dạy trong các trường Pháp - Việt là phản dân tộc, nô dịch,

thấp kém, đầy rẫy tư tưởng phản động, đặc biệt là thiếu tính khoa học và xa

rời quần chúng nhân dân.

Quy mô giáo dục rất bé nhỏ, số lượng trường học ít ỏi. Để vây hãm dân

ta trong vòng ngu dốt, thực dân Pháp hạn chế tối đa việc mở trường nên nạn

thiếu trường học diễn ra trầm trọng. Việc học trở thành một đặc quyền của

*3 Muốn tốt nghiệp Trung học, trẻ em Việt phải học: - 3 năm sơ học để thi tốt nghiệp yếu lược rồi thi lên lớp nhì. - 3 năm tiểu học để thi cơ thuỷ (C.E.P.F.I) rồi thi lên đệ nhất. - 4 năm cao đẳng tiểu học để thi thành chung rồi thi lên đệ nhị trung học. - 2 năm trung học để thi nửa trung học (bán phần tú tài). - 1 năm chuyên khoa và thi tốt nghiệp trung học (tú tài tây hoặc tú tài bản xứ). Như vậy tổng cộng là 13 năm học và 8 kỳ thi. Trong khi một trẻ em Pháp học trường Li-xê chỉ học một mạch 11 năm và qua 1 kỳ thi. (Vũ Ngọc Khánh, Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1985, tr.160).

những tầng lớp trên trong xã hội, của các con em thực dân và tay sai thân

19

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Pháp. Đến trường học chỉ còn là giấc mơ xa vời của nhân dân lao động bởi họ

không thể vượt qua được gánh nặng kinh tế cũng như những sự đảm bảo ngặt

nghèo do nhà trường thực dân đề ra.

Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra:

“Thế mà người An Nam lại có những 10 trường học, những 1500 đại lý rượu

và thuốc phiện cho 1000 làng kia đấy!”[18, 38].

Trong thực tế, con số trường lớp thật sự bi thảm!

Thực trạng giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp thuộc trở nên tồi tệ hơn

khi Toàn quyền Meclanh - con người từng bỏ ra ba mươi sáu năm của đời

mình để nhồi nhét cái văn minh đầy ân huệ của nước Pháp vào đầu óc người

bản xứ [18, 44] - cho thực thi chính sách giáo dục không gì phản động và

phản khoa học hơn: “chỉ cung cấp cho nhân dân Việt Nam một sự giáo dục

nhỏ giọt, phát triển theo chiều nằm chứ không theo chiều đứng”[32, 161]. Với

nhãn quan thực dân, Meclanh cho rằng 9/10 học sinh nông thôn Việt Nam

không đủ sức theo học hết bậc sơ học nên chỉ cần mở nhiều trường thuộc bậc

sơ học, những trường cao hơn là không cần thiết. Thực tế cho thấy Meclanh

hô hào “phát triển giáo dục theo chiều nằm” không đồng nghĩa với việc hệ

thống giáo dục cấp thấp sẽ được Pháp chú trọng mở mang và phát triển đầy

đủ. Một số ít trường sơ cấp có một, hai lớp đầu của bậc tiểu học được mở ở

một số xã thôn. ở Bắc Kỳ gọi là trường hương học (école communale), ở

Trung Kỳ gọi là trường dự bị (école préparatoire) và ở Nam Kỳ gọi là lớp phù

trợ dự bị (cours auxiliaire préparatoire). Với những tên gọi khác nhau, người

ta dễ nhầm tưởng là sự đa dạng trong các cấp học nhưng về bản chất chúng

chỉ là một mà thôi. Còn các trường tiểu học hoàn chỉnh (trường kiêm bị)

tương đương với trình độ lớp bốn cấp I chỉ được mở ở một số thị trấn huyện

và thị xã (ở miền núi có nhiều huyện chưa có).

Số học sinh đi học rất ít ỏi. Người ta tính bình quân cứ 100 người dân

thì có 0,4 học sinh tiểu học, chiếm tỷ lệ có 0,4% trong dân số. Bậc sơ học

20

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

được coi là khả dĩ hơn trong thời Pháp thuộc thì cũng chỉ chiếm 2%. Bậc tiểu

học, năm 1924 - 1925, ở những nơi giáo dục phát triển nhất thì cũng chỉ có

1/12 em trai và 1/100 em gái, còn các nơi khác thì có 1/20 trẻ em được nhận

vào học [47, 213].

Bảng số liệu trong Đông Dương niên giám thống kê tập VII 1936 -

1937 cho thấy rõ điều này [47, 209]:

Diện tích

Bình quân

Bậc học

Số làng

Số trƣờng học

bình quân

dân số

Sơ học

52 km2

3.000

1

3

(3 năm)

Tiểu học

513 km2

30.000

1

34

(3 năm)

Trường Cao đẳng tiểu học có 4 lớp (đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ) chỉ

được mở một số rất ít ở thành phố và tỉnh lỵ lớn. Trung Kỳ có 15 tỉnh với trên

5 triệu dân mà chỉ có 4 trường là Quốc học Huế, Nữ học Đồng Khánh ở Huế,

một trường ở Vinh và một trường ở Quy Nhơn.

Năm 1936 - 1937 được coi là năm phát triển thịnh vượng nhất của Đông

Dương mà trên toàn cõi Việt Nam chỉ có 16 trường cao đẳng tiểu học so với số

dân có sự khập khiễng, chênh lệch cho thấy mức độ thiếu trường học là rất lớn:

- Bắc Kỳ với 8.700.000 dân có 8 trường.

- Trung Kỳ với 5.656.000 dân có 4 trường.

- Nam Kỳ với 4.616.000 dân có 4 trường [47, 210].

Tính bình quân dân số cứ 1.200.000 dân mới có 1 trường cao đẳng tiểu

học với số học sinh bình quân là 263 người và 4,5 tỉnh mới có 1 trường. Tỷ lệ

học sinh cao đẳng chỉ chiếm một con số vô cùng khiêm tốn là 0,02% dân số.

Bậc trung học cũng chỉ có ở Hà Nội và Sài Gòn. Số lượng trường và

học sinh dường như có thể đếm được trên đầu ngón tay. Mang danh khai hoá

văn minh cho người An Nam mà đến năm 1917, trên toàn Việt Nam mới có 5

21

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

trường Trung học: 1. Trường Trung học Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn (mở

năm 1874); 2. Trường Trung học Bảo hộ ở Hà Nội (Collège du Protectorat à

Hanoi) mở năm 1908 - sau đổi là Chu Văn An; 3. Trường Quốc học Huế (mở

năm 1896); 4. Trường Trung học Le Myre de Viler ở Mĩ Tho (mở năm 1879),

sau đổi là trường Nguyễn Đình Chiểu; 5. Trường áo Tím (Sài Gòn) mở năm

1913 [46, 293].

Với chủ trương phát triển giáo dục theo chiều nằm, không theo chiều

đứng, cộng với chất lượng và quy mô giáo dục như thế, các trường phân bố

không đều giữa các nơi nên trường lớp và người theo học rất ít ỏi. Càng lên

cao, số người học lại càng bị rơi rụng dần.

Bảng thống kê sau cho thấy trong năm 1936 - 1937 chỉ có 3 trường trên

cả nước Việt Nam [39, 211]:

Bắc Kỳ

Trung Kỳ

Nam Kỳ

Số tỉnh

Số trường

Số tỉnh

Số trường

Số tỉnh

Số trường

1(Trung học

1(Trung học

1(“Pêtơruýt”

29

18

24

Bảo hộ Hà

Khải Định

Kí Sài Gòn)

Nội)

Huế)

Theo “Niên giám thống kê Đông Dương”, tập 7, năm 1942, số trường

và số học sinh bản xứ trong năm học 1941-1942 như sau [42, 14]:

Loại

Trƣờng công

Trƣờng tƣ

trƣờng

Số trƣờng (%)

Số học sinh

Số trƣờng

Số học sinh

Bậc học

(%)

(%)

(%)

Trung học

3 (0,032)

652 (0,012)

Cao đẳng Tiểu học 16 (0,172)

5521 (0,12)

49 (4,12)

11203 (12,52)

Tiều học

503 (5,41)

58629 (10,64)

234 (19,68)

29573 (33,06)

Sơ học

8775 (94,39)

486362 (88,24) 906 (76,20)

48675 (54,42)

22

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Tổng cộng (%)

9296 (100%)

551164 (100%) 1189 (100%)

89451 (100%)

Trước sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta, từ năm 1930, chính

quyền bảo hộ cho phép mở trường tư cấp Tiểu học và Trung học nhưng quy

định đặt ra rất chặt chẽ. Mọi quy chế đều do Thống sứ (hoặc Thống đốc,

Khâm sứ) duyệt y. Mở trường Trung học phải được Toàn quyền quyết định.

Việc giảng dạy có thể có chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng

dạy riêng nhưng tuyệt đối không được trái với luân lý, thể chế, pháp luật của

nhà nước. Thực tế đây chỉ là chiêu bài của thực dân Pháp nhằm xoa dịu cuộc

đấu tranh của nhân dân ta, không phải sự thay đổi theo thiện ý của người Pháp

nên kết quả đem lại không đáng kể. Số học sinh gồm cả trường tư cũng chỉ

chiếm 2,6% dân số.

Hạn chế mở trường nhưng thực dân Pháp lại cũng ra sức ngăn cấm việc

đi du học của những người có mong muốn học cao hơn. Theo chúng “con

đường sang Pháp là con đường chống Pháp”[47, 188] nên chúng ra sức gây

khó dễ. Toàn quyền Xarô nói rõ: “Để cho người thượng lưu trí thức đi đào tạo

ở nước ngoài, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của chúng ta, chịu ảnh hưởng văn hóa

và chính trị các nước khác thì thật là nguy hiểm vô cùng”[56, 32]. Người nào

muốn sang Pháp du học phải được phép của quan Toàn quyền, không những

thế còn bị theo dõi sát sao và bị đưa vào các trường học chẳng ra gì do các tên

thực dân đầu sỏ “kèm cặp”.

Thực dân Pháp coi giáo dục là công cụ quan trọng để chinh phục thuộc

địa và là “lợi khí của bọn thực dân để thực hiện mục đích đầu độc các thế hệ

thanh niên”[29, 5] nên kết quả thu được rất hạn chế. Cụ Huỳnh Thúc Kháng

đã tổng kết: “Trên vài mươi năm, khoa cử đã bỏ xó mà cái trò Hán học càng

lan theo điều đó đã đành. Còn nói về Tây học thì trường nọ, trường kia, bằng

cao, bằng thấp (...) thế mà xét về thực tế thì trừ công việc viết thuê nói mướn

23

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

và làm công ở các sở ra nào ai đã mấy lưu tâm đến chỗ triết lý tìm được chỗ

tinh tuý Âu học mà tự lập lấy mình và du nhập cho bà con đâu? Chẳng qua

ngày trước nói Khổng Mạnh thì ngày nay thay vào Hi Lạp, La Mã, Mạnh

Đức, Lô Thoa, đổi cái lối “chi hồ giả giã” mà bước sang “a, b, c, d” cũng chỉ

là ngoài biểu diện”[46, 148 - 149]. Sự đổi mới trong nền giáo dục Việt Nam

mà thực dân Pháp vẫn ca ngợi là khai hoá văn minh thực chất chỉ là sự khai

hoá giả hiệu.

Trước cách mạng Tháng Tám 1945, giáo dục được thực dân Pháp sử

dụng như một lợi khí thực hiện chính sách ngu dân phục vụ cho công cuộc cai

trị và khai hoá của chúng trên toàn cõi Đông Dương nói chung, Việt Nam nói

riêng. Đó thực sự là nền giáo dục nô dịch phản động được che đậy bằng luận

điệu “Người Pháp đến đây để nâng cao đời sống nông nghiệp, công nghiệp,

kinh tế và còn nâng cao cả đời sống tinh thần bằng giáo dục”[2, 55]. Trên

thực tế, thực dân Pháp đã để lại những di hại nặng nề đối với nền giáo dục,

đời sống văn hoá và tinh thần của người Việt Nam. Điển hình là cả một dân

tộc bị thất học là kết quả của 80 năm “khai hoá” của người Pháp ở Việt Nam.

1.2. Nguyễn Ái Quốc đấu tranh chống nền giáo dục thực dân

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có ý thức rất sâu sắc về vai trò, tác

dụng của giáo dục. Sinh thời, trong những bài nói và viết của Người cũng như

những hoạt động cụ thể cho thấy dù ở hoàn cảnh nào, Người cũng đặc biệt

quan tâm đến giáo dục. Quan điểm của Người thể hiện sâu sắc như một triết

lý trong bài thơ “Dạ bán”:

Thụy thì đô tượng thuần lương hán,

Tỉnh hậu tài phân thiện, ác nhân;

Thiện, ác nguyên lai vô định tính,

Đa do giáo dục đích nguyên nhân.

Dịch:

24

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Nửa đêm

Ngủ thì ai cũng như lương thiện,

Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền;

Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,

Phần nhiều do giáo dục mà nên [19, 383].

Cả cuộc đời Người đấu tranh vì mục đích duy nhất như lời Người từng

bộc bạch khi trả lời phỏng vấn các nhà báo nước ngoài: “Tôi chỉ có một ham

muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân

ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được

học hành”[20, 161]. Hồ Chí Minh coi đó là tôn chỉ của cuộc đời mình nên đã

gắn cuộc đấu tranh giành độc lập với cuộc đấu tranh chống chế độ giáo dục

nô lệ, đòi một nền giáo dục dân tộc tiến bộ [63, 18].

Ngay từ thời gian mới tham gia hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc

đã có nhiều bài viết, bài nói và hành động lên tiếng tố cáo chính sách ngu dân

của thực dân Pháp. Đó là nỗi trăn trở, canh cánh trong lòng nên không chỉ

một lần Người bàn về nội dung này mà phản ánh ở nhiều hoàn cảnh, địa điểm

với những hình thức, văn phong khác nhau. Người tổng kết thành những

luận điểm có sức tố cáo mạnh mẽ: “Làm cho u mê để thống trị”, đó là

phương pháp mà nhà cầm quyền ở các nước thuộc địa của chúng ta ưa dùng

nhất”. “Thâm ý của họ chỉ là đẩy người An Nam vào vòng ngu tối”[17,155,

398]. “Làm cho dân ngu để dễ trị, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở

các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”[18, 99].

Năm 1919, người thanh niên trẻ Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị

Vecxay bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gồm 8 điểm đòi những quyền

tự do tối thiểu cho người dân. Trong đó, điểm thứ 6 ghi: “Tự do học tập,

thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người

bản xứ”[17, 435]. Những yêu sách đó tuy không được đáp ứng nhưng đã gây

25

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

được tiếng vang lớn trên thế giới lúc bấy giờ. Người Pháp coi hành động đó

giống như một quả bom, với người Việt ở Pháp, đó là tiếng sấm mùa xuân

xua tan đi màn sương mù vây bọc, thức tỉnh lòng yêu nước trong họ.

Khi đã là thành viên của Đảng Xã hội Pháp, Người tích cực hoạt động

trong các tổ chức, viết sách báo nhằm vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân,

đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa. Trong Đại hội Tua năm 1920, Nguyễn

Ái Quốc đã thẳng thắn phát biểu ý kiến: “Trong vài phút, tôi không thể vạch

được hết những sự tàn bạo mà bọn tư bản ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương:

nhà tù nhiều hơn trường học và lúc nào cũng chật ních...Chúng tôi phải sống

trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”[17, 22

- 23]. Trong “Đông Dương”, Người viết rõ thêm: “Sự thật là người Đông

Dương không có một phương tiện hành động và học tập nào hết”[17, 27].

Người lên án Pháp trong việc hạn chế mở trường cho người An Nam: “Người

ta bảo ngân sách không cho phép chính phủ mở trường mới. Không hẳn thế

đâu. Trong số 12 triệu đồng của ngân sách Nam Kỳ, thì 10 triệu đã tìm đường

chui sâu vào túi các ngài viên chức rồi”[18, 99]. Vì thế, trường học thiếu một

cách nghiêm trọng. Người đưa ra một thực tế là “Mỗi năm, vào kỳ khai giảng,

nhiều phụ huynh phải đi gõ cửa, chạy chọt mọi nơi thần thế, có khi chịu trả

gấp đôi tiền nội trú, nhưng vẫn không tìm được chỗ cho con học. Và hàng

ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường”[18, 98]. Thiếu trường học

trở thành vấn nạn nhức nhối dưới thời Pháp thuộc. Dân An Nam khát trường

học như người đi giữa hoang mạc khát nước! Và chính phủ bảo hộ nhân từ chỉ

mở nhỏ giọt mà thôi bởi một lẽ thật dễ hiểu rằng “nhiệt tình của người An

Nam đối với nền giáo dục hiện đại làm cho chính phủ bảo hộ lo sợ. Bởi thế,

chính phủ đóng cửa các trường làng, biến trường học thành chuồng ngựa cho

các quan nhà binh, đuổi học trò và bỏ tù thầy giáo”[18, 112].

26

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ mâu thuẫn trong việc hạn chế mở trường với

việc kiềm toả những ai có ý định đi du học. Hình thức là mâu thuẫn nhưng

thực chất là sự thống nhất trong việc thực hiện chính sách ngu dân của thực

dân Pháp: “Chính phủ Pháp cố đưa du học sinh An Nam vào học ở những

trường phản động nhất. Những sách vở báo chí mà anh ta đọc, những hoạt

động giao thiệp hàng ngày của anh ta đều bị kiểm soát, theo dõi. Người ta

giao cho những tên thực dân ba que già đã về hưu trông nom...”[17, 401].

Tố cáo chính sách nô dịch của thực dân Pháp, trong bài “Vấn đề người

bản xứ” viết năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần thái độ khinh miệt của

thực dân phơi bày đầy rẫy trong những sách báo: “Đối với cái giống nòi

Annamít ấy, chỉ có một cách tốt để cai trị nó - đó là ách thống trị bằng sức

mạnh...Truyền học vấn cho bọn Annamít hoặc cho phép chúng tự chúng có

học vấn, tức là một mặt cung cấp cho chúng những súng bắn nhanh để chống

chúng ta, và mặt khác đào tạo những con chó thông thái gây rắc rối hơn là có

ích...”[17, 7].

Nội dung giáo dục “không phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam

một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng

cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục

để đào tạo tuỳ phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho

bọn xâm lược, người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy

hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất

tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, chỉ

dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu

một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nền giáo

dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc, dòng giống mình. Nó

làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc”[17, 399]. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ

trường thuộc địa chẳng qua là nơi “chế tạo” ra những nhà khai hóa tương lai

27

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

mà thôi! Người đã nhìn thấu những âm mưu thâm độc của thực dân Pháp dưới

lớp vỏ bọc gieo rắc văn minh. Người vạch trần tính chất thực dân của nền

giáo dục đó, thấy được tác hại, sự nguy hiểm đối với mỗi con người và với

toàn dân tộc. Thật sâu sắc khi Người nhắc lại lời của tên đại tá Bécna: “Về

phương diện tinh thần, người Pháp không tổ chức một nền giáo dục mới thay

thế cho nền giáo dục An Nam mà họ đã bỏ đi. Họ chỉ xây dựng được một ít

trường học để đào tạo ra những con vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức

và thiếu cả kiến thức phổ thông”. Người dẫn ra lời báo cáo của tướng

Pênơcanh như một sự tố cáo đanh thép: “Trong 50 năm chiếm đóng ở Nam

Kỳ và 25 năm chiếm đóng ở Bắc Kỳ, những trường học Pháp không đào tạo

lấy được một người An Nam thật sự có học thức” và bình luận về lời của một

văn sĩ thuộc địa - Mácxơ - đã “lột tả được đúng tư tưởng đang thống trị trong

đầu óc của các nhà cai trị của chúng ta” khi ông này lên tiếng bày tỏ quan

điểm về sự “truyền bá giáo dục, khai hóa văn minh” cho người An Nam:

“Chúng ta chỉ cần dạy tiếng Pháp cho người An Nam, dạy cho họ biết đọc,

biết tính toán chút ít thôi; biết hơn nữa chỉ là thừa vô ích”[17, 399]. Sự thật

mà Bécna và Pênơcanh đưa ra là kết quả tất yếu của cái gọi là tư tưởng giáo

dục như Mácxơ đã phát biểu và là hậu quả tất yếu của nền giáo dục nô lệ trình

độ thấp. Dưới nhiều hình thức khác nhau, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định

điều đó: “Điều gì có thể rèn luyện được cho học sinh biết suy nghĩ, biết phân

tích thì người ta không dạy ở nhà trường. Vấn đề nào có liên quan đến chính

trị, xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi.

Có học lịch sử nước Pháp đi nữa, thì người ta không hề đả động đến chương

nói về cách mạng. Người ta cấm học sinh đọc tác phẩm của Huygô, Rútxô và

Môngtexkiơ. Nói tóm lại, trường học thật là xứng với chế độ đã khai sinh ra

nó”[17, 400].

Trong khi đó, kết hợp với giáo dục trong nhà trường là hàng loạt những

hoạt động khác bổ sung cho việc thực hiện chính sách ngu dân. Phương tiện

28

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

hữu hiệu nhất là rượu cồn và thuốc phiện: “Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo

chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công cuộc ngu dân của

chính phủ”[17, 28]. Có khi Người lại viết một cách mai mỉa: “May mắn thay!

Tuy chúng tôi thiếu trường học, nhưng nước Pháp đã ban cho chúng tôi rất

nhiều nhà thổ, tiệm hút thuốc phiện và ty rượu”[17, 314]; “Trong tất cả những

cố gắng của các nhà khai hóa nhằm làm cho nòi giống An Nam lành mạnh

hơn và đưa họ lên con đường tiến bộ (?), phải kể đến việc cưỡng bức mua

rượu ty”[18, 111]. Và như thế, tất cả đàn ông, đàn bà, người già, trẻ nhỏ đến

cả phụ nữ mang thai cũng bị bắt phải uống rượu cồn pha nước. Bất kể họ ăn

ngày 3 bữa hay 1 bữa cũng phải để tiền ra mua rượu cho đủ số doanh thu của

nhà nước bảo hộ đã đặt ra. Thuốc phiện được nhà nước khuyến khích mua

bán công khai. Dựa trên một vụ án tàng trữ, buôn bán thuốc phiện ở Pháp,

Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận bi hài: “Tốt lắm! Tính sơ qua cũng thấy một

kilogram thuốc phiện đáng ba mươi sáu tháng tù!”. Người liên hệ đến sự việc

đang diễn ra trên Tổ quốc mình: “Giá mà mọi người đều bình đẳng trước pháp

luật, như người ta thường nói, thì tuổi thọ của ông Xarô, toàn quyền Đông

Dương phải dài ghê lắm mới đủ để cho ông ngồi hết hạn tù. Vì rằng mỗi năm

ông sẽ bị phạt ít ra là một triệu ba mươi lăm vạn (1.350.000) tháng tù về tội

mỗi năm bán cho người An Nam trên mười lăm vạn kilôgam thuốc phiện”[18,

95]. Hài hước, châm biếm mà sâu cay là nghệ thuật đả kích, tố cáo rất tài tình

của Nguyễn Ái Quốc.

Thực dân Pháp ra sức bóc lột, bòn rút của cải và sức lực của người dân

nên nhân dân Việt Nam bị bần cùng hoá. Trước thực trạng đó, Nguyễn Ái

Quốc đã viết: “Người Pháp đến đã làm thay đổi tất cả”. “Nói chung, người An

Nam đều phải è ra mà chịu công ơn bảo hộ của nước Pháp. Riêng người nông

dân An Nam càng phải è ra mà chịu sự bảo hộ ấy một cách nhục nhã hơn: là

người An Nam, họ bị áp bức, là người nông dân, họ bị tước đoạt”[18, 82]. Hệ

quả tất yếu là “họ phải chống đói đã rồi mới có thể nghĩ đến chuyện học

29

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

hành”[17, 398]. Người đã nhìn ra được nguyên nhân sâu xa và thủ phạm cuối

cùng gây nên sự thất học của người dân An Nam. Đó là sự thực không thể

chối cãi!

Lên án thực dân Pháp ngược đãi giáo viên người bản xứ được Nguyễn

Ái Quốc nói đến trong nhiều bài viết. Tội ác của thực dân được phơi bày.

Năm 1907, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu tiến bộ, phong trào cải cách bằng

con đường hòa bình diễn ra sôi nổi ở các đô thị, nhất là Hà Nội. Nội dung của

phong trào chủ yếu là mở trường học, truyền bá tư tưởng mới, cổ động bỏ hủ

tục và lồng vào đó tư tưởng yêu nước, chống Pháp. Vì thế, phong trào bị sự

đàn áp quyết liệt của thực dân Pháp. Không những các trường học bị đập phá

mà giáo viên bị bắt, bị trói giật cánh khuỷu và bị dẫn từng xâu lên tỉnh lỵ

trong khi họ đầu trần, chân đất, nhịn đói nhịn khát và bị đánh đập như trâu

ngựa. Dù là giáo viên nhưng nếu họ làm trái ý những nhà cầm quyền thì ngay

lập tức sẽ bị thuyên chuyển công tác như trường hợp một loạt giáo viên ở một

tỉnh Nam Kỳ. Không những thế, họ còn bị lăng mạ, làm nhục và bị “dọa đánh

vào mõm”[17, 402]. Vì sao có sự đối xử tàn tệ đến như vậy đối với những con

người đáng ra được trân trọng? Nguyên nhân rất đơn giản: họ là giáo viên

người bản xứ! Đã là người bản xứ thì kể cả là giáo viên cũng hạ đẳng như những

người bản xứ khác mà thôi! Thêm nữa, họ lại còn là những kẻ phiến loạn!

Sự bất công trong chế độ tiền lương cũng như các mặt của cuộc sống

giữa giáo viên bản xứ và giáo viên người Pháp là điều dễ hiểu. Bất luận là ai,

dù chỉ là giám thị trong nhà trường nhưng trên đất thuộc địa thì người Pháp

đương nhiên được hưởng một đời sống đế vương. Trong công việc, dù có

cùng cấp bậc thì người da trắng cũng là cấp trên. Điều Nguyễn Ái Quốc gọi là

“dân chủ” được thể hiện như sau: một giáo viên bản xứ lĩnh 555 phrăng và

một giáo sư người bản xứ lĩnh 1.200 phrăng mỗi tháng. Còn một giáo viên

người Pháp lĩnh những 3.750 phrăng và một giáo sư người Pháp lĩnh những

30

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

6.000 phrăng mỗi tháng. Đấy là chưa kể mọi thứ phụ cấp mà chỉ riêng giáo

viên và giáo sư người Pháp mới được hưởng [18, 344]. Tính độ chênh lệch sẽ

thấy lương giáo sư người Pháp gấp 5 lần lương giáo sư bản xứ và lương giáo

viên người Pháp gấp tới gần 7 lần lương giáo viên bản xứ. Thực là những con

số biết nói! Nguyễn Ái Quốc rất sâu sắc khi dẫn ra những con số này mà

chẳng mất mấy lời bình.

Tố cáo thực dân Pháp, ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc trở nên linh hoạt,

sắc bén chĩa thẳng vào kẻ thù, vạch trần những tội ác của chúng. Khi châm

biếm, khi sâu cay nhưng bằng những bằng chứng xác thực, Người đã lên tiếng

tố cáo mạnh mẽ. Với nhiều bài viết trong những thời điểm khác nhau nhưng

trước sau đều làm nổi bật lên tư tưởng chống nền giáo dục thực dân của

Nguyễn Ái Quốc.

Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở việc tố cáo chính sách ngu dân của

thực dân Pháp mà Người đã đấu tranh đòi Chính phủ Pháp phải mở mang

giáo dục. Người gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam" tới hội nghị

Vecxay đòi quyền tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên

nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ. Khi có điều kiện, Người đưa ra chủ

trương, hành động cụ thể để xây dựng nền giáo dục toàn dân và kêu gọi mọi

người đồng lòng thực hiện.

Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Người chỉ rõ khi Công hội có

tiền thì nên làm 7 việc, trong đó 3 việc đầu tiên là trong lĩnh vực giáo dục:

1. Lập trường học cho công nhân.

2. Lập trường cho con cháu công nhân.

3. Lập nơi xem sách báo [18, 307].

Như vậy, ngay từ khi chưa có được một tổ chức lãnh đạo thống nhất

trong cả nước, mới chỉ có định hướng cho con đường cách mạng Việt Na m

31

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

nhưng Nguyễn Ái Quốc đã có quan điểm cụ thể quan tâm đến việc đào tạo

con người và phát triển nền giáo dục nước nhà.

Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự kiện đó đánh dấu một mốc son tạo nên những bước ngoặt lịch sử của cách

mạng Việt Nam. Ngay sau đó, Người ra lời kêu gọi: “Từ nay anh chị em

chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng”[20, 10]. Mục

đích lớn nhất là để giành độc lập dân tộc, thực hiện các quyền tự do dân chủ,

thực hành giáo dục toàn dân. Đây là điều kiện cơ bản để chúng ta chống lại

nền giáo dục thực dân của Pháp và đặt nền móng cho việc xây dựng nền giáo

dục mới của nước Việt Nam khi kết thúc cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Xuyên suốt trong thời gian chuẩn bị giành chính quyền (1939 - 1945),

Hồ Chí Minh vẫn đặc biệt quan tâm tới vấn đề giáo dục cho quần chúng nhân

dân. Người chủ trương:

1. Huỷ bỏ giáo dục nô lệ, lập nền quốc dân giáo dục, cưỡng

bách giáo dục đến bực sơ đẳng, cho các dân tộc được quyền dùng

tiếng mẹ đẻ mình, phổ thông trong việc giáo dục mình.

2. Lập các trường chuyên môn quân sự, chính trị, kỹ thuật để

đào tạo các lớp nhân tài.

3. Giúp đỡ, khuyến khích các hạng trí thức để họ được phát

triển tài năng của họ [23, 151].

Người chỉ đạo phong trào Việt Minh phát triển tới đâu, tổ chức học văn

hoá ở đó. Chính Người cũng tích cực tham gia vào hoạt động giảng dạy với

phương pháp cụ thể, dễ nhớ, dễ học. Đó là biểu hiện sinh động chủ trương của

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chống nền giáo dục nô dịch của Pháp không

chỉ nằm trong tư tưởng mà đã biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn.

Sau này, Người khẳng định lại: “Trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh

hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như: thái độ thờ ơ với xã hội,

32

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy

theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để xây dựng Tổ quốc,

phục vụ nhân dân”[24, 80].

Chủ trương chống nền giáo dục thực dân, xây dựng nền giáo dục dân

tộc và dân chủ của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là xuyên suốt trong cuộc

đời hoạt động cách mạng của Người. Đấu tranh vì một nước Việt Nam có

trình độ dân trí cao luôn luôn song hành với cuộc đấu tranh giành độc lập và

bảo vệ độc lập dân tộc. Đó chính là một tiền đề quan trọng quyết định trực

tiếp đối với công cuộc xây dựng một nền giáo dục mới của nước Việt Nam

trong các giai đoạn sau dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

33

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

CHƢƠNG 2

HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC TỔ CHỨC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI (1945 - 1950)

“Kháng chiến bằng Văn hóa”

“Văn hóa của Kháng chiến”

- Hồ Chí Minh -

2.1. Giáo dục phổ thông trong năm đầu tiên của nƣớc Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa (1945 - 1946)

2.1.1. Chủ trương mới về giáo dục của Hồ Chí Minh

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công. Nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa ra đời đã gặp muôn vàn khó khăn. Chính quyền cách mạng ở vào

một tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Một thách thức nghiêm trọng đối với cách mạng Việt Nam trong thời

điểm này là đối phó cùng lúc với nhiều thế lực quân sự đối địch của các nước

lớn có mặt tại Việt Nam và các lực lượng chống lại chế độ mới ở trong nước.

Ở phía Bắc, vĩ tuyến 16, khoảng 20 vạn quân Tưởng đóng ở hầu khắp

các thành phố, thị xã, thị trấn đến biên giới Việt - Trung. Với danh nghĩa quân

Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân Tưởng còn tìm mọi cách để tiêu

diệt Đảng Cộng sản, phá Việt Minh, lật đổ chính quyền nhân dân để lập ra

chính quyền phản cách mạng làm tay sai cho chúng.

Bên cạnh chúng là lực lượng Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc) và

Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách). Một số tổ chức phản động

khác đều ngóc đầu dậy chống phá chính quyền cách mạng, đòi cải tổ chính

phủ của nước ta. Lực lượng của Tưởng và bọn tay sai phản động là kẻ thù

nguy hiểm đang đe dọa hàng ngày, hàng giờ đối với chính quyền cách mạng.

34

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Quân đội Nhật tuy đã thất trận nhưng vẫn còn trên đất nước ta với số

lượng tới 6 vạn lính, cùng với quân Pháp có thể nổi dậy chống phá bất cứ lúc

nào.

Từ nam vĩ tuyến 16 trở vào, đế quốc Anh có khoảng 26.000 quân với

danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật đã tiếp tay cho Pháp quay

lại xâm lược Đông Dương.

Các đế quốc cùng nhau tranh chiếm Việt Nam, mâu thuẫn về quyền lợi

nhưng lại hết sức thống nhất với nhau về âm mưu xâm lược. Tính chất nguy

hiểm vì thế càng tăng lên gấp bội. Sự có mặt đồng thời của hơn 30 vạn quân

đội nước ngoài thuộc bốn thế lực đối địch với cách mạng Việt Nam đã tạo nên

chênh lệch lớn trong cán cân lực lượng, hết sức bất lợi cho cách mạng Việt Nam.

Tình hình trong nước sau cách mạng làm khó khăn lại chồng chất khó

khăn. Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập chưa được củng cố.

Lực lượng vũ trang của ta tăng từ 5.000 lên 50.000 nhưng vẫn còn non

yếu, tổ chức, trang bị và kinh nghiệm chiến đấu còn ít.

Nền kinh tế, tài chính của nước ta đang ở trong tình trạng kiệt quệ, xơ

xác. Vào lúc Chính phủ lâm thời thành lập, ngân sách Đông Dương đã hụt

185 triệu đồng và nợ tới 564 triệu đồng. Trong ngân khố trung ương chỉ còn

lại 1.230.000 đồng nhưng có tới 586.000 đồng là tiền hào rách nát. Tưởng lại

ép ta tiêu tiền quan kim, quốc tệ. Đó thực là những khó khăn khổng lồ về nạn

tài chính quẫn bách [45, 179].

Thêm vào đó, lũ lụt, hạn hán kéo dài làm cho 50% diện tích ruộng đất ở

miền Bắc bị bỏ hoang [45, 178]. Nạn đói đe dọa khắp mọi nơi trong khi tâm

lý của quần chúng nhân dân chưa hết bàng hoàng vì nạn đói đầu năm Ất Dậu

(1945) đã cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào ta. Thực tế đó được

Văn Tạo và Furuta Moto tái hiện một cách sinh động trong tác phẩm “Nạn đói

năm 1945 ở Việt Nam” qua các số liệu và hình ảnh. Tiêu biểu như tỉnh Thái

35

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Bình, nơi nạn đói diễn ra trầm trọng nhất, số người chết đói lên tới 280.000.

Thảm trạng đó được Vespy khắc họa trong bức thư của ông viết tháng 4 năm

1945: “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt gồm cả gia đình, già lão có, trẻ con có,

đàn ông có, đàn bà có, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ,

toàn thân lõa lồ, gầy guộc giơ xương ra run rẩy, ngay đến cả những thiếu nữ

đã đến tuổi dậy thì đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế”[44, 16 - 17].

Công nghiệp đình đốn làm hàng vạn công nhân bị thất nghiệp, đời sống

vô cùng khó khăn thiếu thốn.

Văn hóa - giáo dục còn nhiều hậu quả nặng nề. Các tệ nạn xã hội cũ

như nghiện rượu, hút thuốc phiện, mê tín dị đoan...rất trầm trọng và phổ biến.

Nổi bật trong những hậu quả về văn hóa - giáo dục thực dân Pháp để lại là

hơn 90% nhân dân Việt Nam mù chữ.

Tất cả những khó khăn đó là cản trở lớn đối với nhân dân Việt Nam

trong việc xây dựng đất nước.

Bên cạnh những khó khăn chồng chất, nước ta có được một số thuận lợi

căn bản là tiền đề quan trọng cho công cuộc kháng chiến kiến quốc và việc

xây dựng nền giáo dục nước nhà.

Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, nước ta hoàn toàn xóa bỏ chế

độ phong kiến ngự trị trên đất nước ta gần 10 thế kỷ, hoàn toàn xóa bỏ chủ

nghĩa thực dân Pháp và phát xít Nhật. Một kỷ nguyên mới được mở ra, kỷ

nguyên của độc lập, tự do. Đây là điều kiện thiết yếu, nền tảng cơ bản cho

việc xây dựng một nền giáo dục dân tộc, dân chủ.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời là thành quả to lớn

của thắng lợi cách mạng Tháng Tám. Người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ

trở thành người làm chủ một quốc gia độc lập. Tinh thần chung của cả dân tộc

là tin tưởng, phấn khởi với thành quả của cách mạng và quyết tâm bảo vệ

chính quyền.

36

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, có Chính phủ, có Đảng lãnh

đạo mà linh hồn là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cả cuộc đời Người dành trọn để đấu tranh cho nước nhà được độc lập,

nhân dân được ấm no, hạnh phúc, được học hành. Vì thế, hơn ai hết, Chủ tịch

Hồ Chí Minh hiểu được tác dụng của giáo dục đối với một dân tộc mà dốt nát

tối tăm đang ngự trị mấy chục năm qua. Người hằng mong mỏi: “Tôi chỉ có

một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc

lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng

được học hành”[20, 161]. Người từng phát biểu trước Ủy ban nghiên cứu kế

hoạch kiến quốc: Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói,

chết rét, thì tự do, độc lập ấy cũng không làm gì. Vì vậy cần thiết phải làm

cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và có học hành. Người nhấn mạnh: “Cái mục

đích chúng ta đi đến là 4 điều đó”. Câu chuyện cảm động sau của Bác được

nhiều người ghi nhớ: tháng 8 năm 1945, Đại hội Quốc dân Tân Trào họp, có cả

những em bé thiểu số gày gò, vàng vọt, ở truồng theo người lớn đến chào Đại

hội. Bác lại gần các cháu, chỉ vào chúng và nói với các đại biểu: “Nhiệm vụ

của chúng ta là phải làm sao cho các em bé có cơm no, có áo ấm, được đi học,

không lam lũ mãi thế này”[37, 55]. Làm cho dân no đủ và có trình độ dân trí cao

trở thành mục tiêu cao cả, tôn chỉ cho mọi hoạt động cách mạng của Người.

Trước tình hình mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chính quyền cách

mạng non trẻ đã có những chỉ đạo kịp thời, đúng đắn:

Nhiệm vụ cần kíp của ta lúc này là phải củng cố chính quyền

cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải

thiện đời sống nhân dân. Phải tập trung lực lượng của dân tộc để

chống giặc ngoại xâm, giặc đói và giặc dốt.

Về văn hóa, phải tổ chức Bình dân học vụ, tích cực bài trừ

nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh

37

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động văn hóa cứu quốc,

kiến thiết nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học hóa, đại

chúng hóa, dân tộc hóa [7, 28].

Dân tộc, khoa học, đại chúng không chỉ đúng trong bối cảnh lúc bấy

giờ mà còn trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối xuyên suốt nền văn hóa Việt

Nam nói chung, nền giáo dục nói riêng trong các giai đoạn kế tiếp.

Ngày 3 - 9 - 1945, chỉ một ngày sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”

khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại phiên họp đầu tiên của Hội

đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách nhằm

bước đầu thực hiện chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Trong đó,

giáo dục được đặt là vấn đề cần kíp thứ hai:

Vấn đề thứ hai, nạn dốt - Là một trong những phương pháp

độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi

phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ.

Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước

ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy,

tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”[20, 8].

“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” đã thể hiện đầy đủ quan điểm của

Người về ý nghĩa, vai trò của giáo dục. Giáo dục không là việc của riêng cá

nhân nào mà đã trở thành vấn đề của quốc gia. Giáo dục không chỉ khai thông

trí tuệ con người mà còn là một động lực thúc đẩy sự phát triển của cả dân

tộc. Chủ trương của Người về một nền giáo dục mới cũng được thể hiện rõ.

Giáo dục thời kỳ này phải góp phần làm cho nước mạnh mới có thể đương

đầu được với họa xâm lăng đang ngày giờ đe dọa và giúp cho quốc dân đồng

bào thoát ra khỏi thế hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”.

Nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

Người gửi thư cho học sinh toàn quốc khuyến khích tinh thần học tập và chỉ

38

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

ra nhiệm vụ học tập của các em có ý nghĩa lớn lao như thế nào đối với công

cuộc kiến thiết nước nhà: “Các em hãy nghe lời tôi, lời của một người anh lớn

lúc nào cũng ân cần mong mỏi cho các em được giỏi giang. Trong năm học

tới đây, các em hãy cố gắng, siêng năng học tập, ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu

bạn. Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta

cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho

chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó,

nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở

nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh

vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn

ở công học tập của các em”[20, 32].

Trong quan niệm của Người, giáo dục không chỉ có tính chất phổ cập

đơn thuần mà phục vụ cho cuộc đấu tranh cách mạng, là phương tiện để thực

hiện cuộc đấu tranh rộng lớn đó. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX,

Người đã viết: “Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở

và bằng diễn văn, nhưng người Đông Dương nhận được sự giáo dục bằng

cách khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp là người thầy duy nhất của

họ...Người Đông Dương tiến bộ một cách rất màu nhiệm và khi thời cơ cho

phép họ sẽ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy của họ. Đằng sau sự

phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào

thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm”[17, 28]. Học tập trở thành một nhiệm

vụ góp phần vào công cuộc kháng chiến của nước nhà. Trong “Toàn dân

kháng chiến”, Hồ Chủ tịch khẳng định: “Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà

trường cũng là kháng chiến”[20, 84]. Người dặn dò những em học sinh lớn,

ngoài việc học ở trường nên tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện cho

quen với đời sống chiến sỹ và giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc

phòng thủ đất nước.

39

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Với những quan điểm mới và sâu sắc về giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã lãnh đạo toàn dân xây dựng một nền giáo dục mới của nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa với quan điểm xuyên suốt là dân tộc, khoa học và đại chúng.

Mục đích giáo dục của Hồ Chí Minh không gì khác là cho nhân dân ai

cũng được đi học, được hưởng nền giáo dục đại chúng, dân tộc, khoa học của

nước Việt Nam độc lập, tự do. Đó là nền giáo dục vì sự nghiệp của quần

chúng nhân dân đông đảo, vì lợi ích của người dân. Thực tế giáo dục những

năm 1945 - 1946 và cả những giai đoạn sau đã chứng minh đường lối giáo

dục của Hồ Chí Minh như Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Khánh

Toàn nhận định: “Trước hết phải xét cái đó (giáo dục) cho ai, do giai cấp nào

nắm lấy, ai, giai cấp nào điều khiển và dùng để làm gì?...toàn cả nền giáo dục

phải là nền giáo dục nhân dân, nghĩa là do dân nắm lấy (của dân), do dân điều

khiển (bởi dân) và dân dùng để làm cho nó có lợi cho dân (vì dân)”[53, 23 - 24].

Quan điểm về giáo dục của Hồ Chí Minh được thể hiện trong nhiều tác

phẩm, kết lại cô đọng, sâu sắc thành triết lý trong bài thơ “Văn thung mễ thanh”:

Mễ bị thung thì, hẩn thống khổ,

Ký thung chi hậu, bạch như miên;

Nhân sinh tại thế dã giá dạng,

Khốn nạn thị nhĩ ngọc thành thiên.

Dịch:

Nghe tiếng giã gạo

Gạo đem vào giã bao đau đớn,

Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông;

Sống ở trên đời người cũng vậy,

Gian nan rèn luyện mới thành công.

Văn Trực - Văn Phụng dịch [19, 350].

40

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Trong các giai đoạn sau, Người chỉ ra rõ hơn trong “Nhiệm vụ của giáo

dục rất vẻ vang”: “không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì

đến kinh tế, văn hóa”[24, 184]. “Chúng ta phải học nhiều, phải cố gắng học.

Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ.

Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà

không chịu học là lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”[25, 554].

Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân xây dựng một

nền giáo dục mới ngay trong quá trình thành lập, củng cố và hoàn thiện bộ

máy chính quyền. Năm đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng

thời cũng là một năm đáng ghi nhớ của nền giáo dục Việt Nam.

2.1.2. Cải tổ và xây dựng bước đầu hệ thống giáo dục phổ thông mới

Trong những năm 1945 - 1946, với vai trò là Chủ tịch Chính phủ của

nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh đã không ngừng hoạt động cho công cuộc

kháng chiến kiến quốc. Riêng trên địa hạt giáo dục, với những công lao to

lớn, Người xứng đáng được coi là người tạo nền móng cho một nền giáo dục

dân tộc dân chủ của Việt Nam mới. Bác từng khẳng định bản chất và mục

đích giáo dục đã thay đổi: “...từ giờ phút này giở đi, các em bắt đầu được

nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam. Trước đây cha anh các em, và

mới năm ngoái cả các em nữa, đã phải chịu nhận một nền học vấn nô lệ, nghĩa

là nó chỉ đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân

Pháp. Ngày nay các em được may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền

giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên

những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm

phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”[20, 32]. Đó thực sự

là nền giáo dục mang tính chất dân tộc, dân chủ, thể hiện tính ưu việt vượt trội

là giáo dục không những vì con người, cho con người ở phạm vi rộng lớn hơn

là đông đảo quần chúng nhân dân lao động trong xã hội.

41

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Tính dân tộc của nền giáo dục mới được thể hiện ở việc tiếng Việt trở

thành ngôn ngữ chính để giảng dạy trong nhà trường thay cho tiếng Pháp dưới

thời thuộc địa. Trong nước dấy lên phong trào Bình dân học vụ, bổ túc văn

hóa, giảng dạy và học tập chữ quốc ngữ sôi nổi, nâng cao trình độ văn hóa

cho mọi tầng lớp nhân dân. Đó là điều kiện quan trọng, tạo tiền đề cho sự phát

triển giáo dục phổ thông trong toàn quốc.

Sắc lệnh 146/SL ngày 10 tháng 8 năm 1946 đặt những nguyên tắc cơ

bản của nền giáo dục mới: “Nền giáo dục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa là một nền giáo dục duy nhất, đặt trên ba nguyên tắc cơ bản: đại chúng

hóa, dân tộc hóa, khoa học hóa và theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và

dân chủ”[77, 443]. Sắc lệnh quy định rõ bậc giáo dục ba cấp học là:

Đệ nhất cấp: bậc học cơ bản.

Đệ nhị cấp có hai ngành: ngành học tổng quát và ngành học chuyên môn.

Đệ tam cấp: bậc đại học.

Như vậy hệ thống giáo dục trong cả nước đã được xác định rõ ràng,

phân chia các cấp từ thấp đến cao, bao gồm cả giáo dục theo chiều rộng và

giáo dục theo chiều sâu.

Trong đó, nhiệm vụ của mỗi cấp được xác định cụ thể:

Bậc học cơ bản dạy những điều thường thức cần thiết và lập những tập

quán tốt cho trẻ từ 7 tuổi với hạn học là 4 năm.

Sau bậc học cơ bản có lớp dự bị hạn học 1 năm có mục đích dạy cho

học sinh những kiến thức phổ thông đại cương, chú trọng đến khuynh hướng

và khả năng trí tuệ của chúng để chọn lọc đưa vào ngành học tổng quát hay

ngành học chuyên môn ở đệ nhị cấp.

Ngành học phổ thông có hạn học là 4 năm, có sự hướng dẫn và tuyển

trạch để đưa trẻ sang học ngành học chuyên nghiệp hay bậc học chuyên khoa

để dự bị đại học.

42

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Bậc chuyên khoa dành cho học sinh đã qua lớp dự bị chuyên khoa và

có hạn học 3 năm.

Bậc đại học gồm nhiều ban văn khoa, khoa học, pháp lý…niên hạn ít

nhất 3 năm. Sinh viên tốt nghiệp bậc đại học sẽ có bằng đại học sĩ hoặc bác sĩ.

Sắc lệnh số 147/SL ngày 10 tháng 8 năm 1946 tổ chức bậc học cơ bản,

quy định bậc học này là cưỡng bách, đồng thời học sinh không phải trả học

phí…đã góp phần quan trọng vào việc cải tổ các ngành học.

Trên cơ sở kế thừa những giá trị khoa học của giáo dục Pháp để lại,

dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, các trường cũ được cải tổ và thành lập

thêm nhiều trường mới.

Một loạt trường được mở ở các nơi trên cả nước như Hà Nội, Nam

Định, Thái Bình, Bắc Giang, Sơn Tây…theo những sắc lệnh của Nhà nước đã

được phê duyệt của Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Công

báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” trong những năm 1945 - 1946 đã ghi

nhận và thông báo rất kịp thời tất cả những thành quả này:

Ngày 20 - 9 - 1945, Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục

cho phép ông Trương Văn Minh được tạm thời mở lớp trung học chuyên khoa

tại trường nữ học Hoài Đức [65, 24].

Ngày 26 - 9 - 1945, Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục

cho phép ông Hoàng Minh Giám được tạm thời mở tại trường Thăng Long

một ban tiểu học và một ban trung học trong niên học 1945 - 1946 [66, 34].

Ngày 5 - 10 - 1945, Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục

cho phép ông Nghiêm Toản mở tại Hà Nội một trường tư thục đặt tên là

Nguyễn Huệ [67, 46].

Ngày 16 -10 - 1945, Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục

cho phép ông Ngô Duy Cầu mở tại trường Văn Lang ở Thanh Xuân (Hà

Đông) ba bậc học: tiểu học, trung học phổ thông và trung học chuyên khoa

[68, 69].

43

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Ngày 24 -10 - 1945, Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ấn

định những lớp trung học mở tại trường trung học Chu Văn An và Nguyễn

Trãi [69, 101].

Ngày 5 -11 - 1945, Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục

thiết lập tại tỉnh Phú Thọ một trường trung học phổ thông [70, 113].

Ngày 5 -12 - 1945, Nghị định số 246 - NĐ của Bộ trưởng Bộ Quốc gia

Giáo dục tổ chức trường trung học Đông Hải ở Quảng Bình [72, 202].

Ngày 11 -12 - 1945, Nghị định số 260 - NĐ của Bộ trưởng Bộ Quốc

gia Giáo dục cho phép ông Nguyễn Quang Xương mở ở Hà Nội một trường

trung học phổ thông đặt tên là Nguyễn Trực [72, 202].

Sang năm 1946, một loạt trường mới được mở theo các Nghị định của

Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục càng khẳng định bước phát triển của nền

giáo dục Việt Nam trong điều kiện mới. Tiêu biểu có những trường sau:

Nghị định số 4 - NĐ, ngày 4 - 1 - 1946 của Bộ trưởng Bộ Quốc gia

Giáo dục cho phép Nam Định mở tạm thời 2 trường trung học phổ thông (đệ

nhất niên Đ và đệ nhị niên C) [73, 48].

Ngày 21 - 1 - 1946, Nghị định số 35 - NĐ của Bộ trưởng Bộ Quốc gia

Giáo dục về việc mở thêm một lớp đệ nhị A tại trường trung học Hải Phòng

trong niên khóa 1945 - 1946 [74, 92].

Nghị định số 52 - NĐ ngày 30 - 1 - 1946 của Bộ trưởng Bộ Quốc gia

Giáo dục cho phép ông Phạm Đức Cường tạm thời được mở tại Bắc Giang

trường trung học phổ thông Hoàng Hoa Thám [75, 125].

Nghị định số 149 - NĐ của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ngày 28 -

2 - 1946 cho phép ông Bùi Quang Tới mở tại Thái Bình một trường trung học

phổ thông có tên là Việt Tân [76, 171].

Ngày 29 - 10 - 1946, Nghị định số 526 - NĐ của Bộ trưởng Bộ Quốc

gia Giáo dục mở một trường trung học phổ thông tại tỉnh lỵ Sơn Tây [79,

608].

44

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Việc học tập các ngoại ngữ cũng được chú ý. Nghị định số 191 - NĐ

của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục cho phép hội “Việt Mỹ thân hữu” mở

hai lớp học tiếng Mỹ tại Hà Nội [71, 146]. Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc

gia Giáo dục ngày 18 - 2 - 1946 cho phép bà Đào Tiến Hỷ được mở một lớp

tiếng Anh không quá 15 người tại số nhà 50, phố Cửa Bắc, Hà Nội [70, 126].

Việc mở trường thể hiện sự cố gắng lớn của những người lãnh đạo nhà

nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng cho thấy đây là

những quyết định sáng suốt, đáp ứng kịp thời nhu cầu học tập của quần chúng

nhân dân trong thời đại mới.

Lập thêm nhiều trường mới, đồng thời để khuyến khích thêm tinh thần

học tập của học sinh, Hồ Chí Minh phê duyệt quyết định cho đổi tên một số

trường trung học ở Bắc Bộ:

1. Trường trung học Hà Nội là trường trung học Hai Bà Trưng.

2. Trường trung học Nam Định là trường trung học Nguyễn Khuyến.

3. Trường trung học Thái Bình là trường trung học Lê Quý Đôn.

4. Trường trung học Bắc Ninh là trường trung học Hàn Thuyên.

5. Trường trung học Hải Phòng là trường trung học Bình Chuẩn.

6. Trường trung học Lạng Sơn là trường trung học Mạc Đĩnh Chi.

7. Trường trung học Phú Thọ là trường trung học Hùng Vương [75, 124].

Việc lấy tên hiệu của các danh nhân trong quốc sử để đặt tên trường có

ý nghĩa rất sâu sắc. Không chỉ là hình thức nêu gương sáng các anh hùng,

những nhân tài dân tộc mà góp phần khẳng định tính dân tộc của nền giáo dục

Việt Nam. Đó là những trường hoàn toàn Việt Nam từ hình thức đến nội dung

bản chất. Là những mái trường của người Việt Nam, chúng hoàn toàn khác

với những ngôi trường thực dân Pháp đã mở ở trên đất nước ta thời gian trước

đây. Vì thế, khơi gợi lên trong lòng người học niềm tự hào về những mái

trường dân tộc, trở thành nguồn động viên lớn đối với những học trò đang

45

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

được học tập và rèn luyện dưới những mái trường mới của đất nước độc lập,

tự do.

Thời gian này, để đáp ứng nhu cầu giáo dục, các lớp sư phạm đào tạo

giáo viên được mở. Tại Thuận Hóa (Huế), mở lớp huấn luyện giáo sư trung

học dạy Quốc văn và Anh văn. Ngày 8 - 10 - 1946, sắc lệnh 194/SL thành lập

ngành Sư phạm của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được ban hành. Ngành

học gồm 3 cấp:

1. Sư phạm sơ cấp đào tạo các giáo viên nam nữ cho bậc học cơ bản.

2. Sư phạm trung cấp đào tạo các nam nữ giáo viên cho bậc học thực

nghiệp, trung học phổ thông và sư phạm sơ cấp.

3. Sư phạm cao cấp đào tạo các nam nữ giáo viên cho bậc học chuyên

nghiệp và trung học chuyên khoa [78, 547].

“Lần đầu tiên, một ngành giáo dục chuyên nghiệp được công nhận

chính thức là một ngành đào tạo có hệ thống, có mô hình riêng bằng một Sắc

lệnh của Nhà nước, khẳng định ý nghĩa vô cùng quan trọng và nhu cầu to lớn

của sự nghiệp đào tạo giáo viên các cấp cho đất nước”[41, 138].

Ngoài ra Chính phủ còn có những nghị định quy định chặt chẽ về hạn

tuổi của học sinh xin vào các lớp giáo dục cơ bản, về quyền hạn và tiền phụ

cấp dạy học cho các giáo sư, những quy định chặt chẽ về xử phạt và khen

thưởng…

Để phù hợp với bản chất và mục đích giáo dục đã thay đổi, các ngành

học cần cải tổ và xây dựng cho phù hợp. Đường lối chung của Đảng đề ra

trong giai đoạn này là: “mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh

thần mới, bài trừ các dạng nhồi sọ”[7, 63]. Trong bối cảnh lịch sử của nước ta

lúc bấy giờ, việc cải tổ các ngành học là cần thiết. Trong “Lịch sử Đại học và

trung học chuyên nghiệp Việt Nam”, Lê Văn Giang phân tích: “Trước mắt

trong điều kiện của đất nước sau khi cách mạng Tháng Tám mới thành công,

việc cải tổ một bước các trường cũ theo hướng của nền giáo dục đại học dân

46

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

tộc và dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đòi hỏi cấp bách của

sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc lúc này, cuộc cách mạng đang tiếp

diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước ta chưa được độc lập hoàn toàn”[13, 120].

Yêu cầu thay đổi giáo dục Đại học đồng nghĩa với việc phải thay đổi nền tảng

giáo dục từ cấp thấp mà trực tiếp là giáo dục phổ thông phải mang những yếu

tố tiên tiến của chế độ xã hội mới để có thể đáp ứng được nhu cầu của cuộc

cách mạng đang diễn ra.

Thực tế lịch sử cho thấy ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh cùng những nhà lãnh đạo khác đã có kế hoạch

cải tổ nền giáo dục nước nhà. Ngày 10 - 10 - 1945, Người ký Sắc lệnh số

46/SL thiết lập một Hội đồng cố vấn học chính để giúp Chính phủ chỉ đạo sắp

xếp lại bộ máy học chính các cấp và các trường theo đúng tinh thần mới. Do

điều kiện chiến tranh nên cuộc cải cách này không thực hiện được. Tuy nhiên,

trong ký ức của Luật sư Vũ Đình Hòe - người từng đảm trách vai trò Bộ

trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục, Hồ Chí Minh có thái độ đặc biệt thận trọng

nhưng rất quyết tâm đối với vấn đề cải cách để giáo dục Việt Nam trở thành

nền giáo dục dân chủ, đại chúng: “Các ông về hoàn chỉnh Đề án đi, làm sao

cho hợp tình nước ta, rồi đưa ra Hội nghị văn hóa Cứu quốc, nay mai sẽ họp

đấy, trưng cầu ý kiến rộng rãi. Sau đó, Chính phủ sẽ duyệt kỹ”; “Nguyên tắc

Dân chủ đòi hỏi phải thống nhất các cấp, các ngành học thành một hệ thống

chung cho toàn quốc dân không phân biệt giàu nghèo. Đã hàng chục năm nay

ở bên Pháp có phong trào đòi nhà trường Duy nhất (Ecole Unique). Họ làm

thì khó, nhưng chúng ta thì sẽ làm được”. Ngay từ đầu, Người đã xác định

xây dựng một nền giáo dục không chỉ chung cho mọi người mà đó còn phải là

nền giáo dục thiết thực, phù hợp với thực tế đất nước: “Tôi đồng ý ngay ở lớp

cuối sơ học (bây giờ ta gọi là tiểu học) ta đã phải thực hiện việc hướng học

sinh hoặc theo ngành thực nghiệp hoặc theo ngành học phổ thông. Dân ta,

hoàn cảnh xã hội ta đòi hỏi như vậy. Rồi ngành học phổ thông cũng phải sớm

đi vào các cấp phổ thông chuyên ban để cuối cùng chọn và hướng học sinh

47

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

vào các ngành đại học chuyên khoa hoặc các ngành chuyên nghiệp (tức là dạy

nghề ở cấp cao có kỹ thuật hiện đại)”[26, 4, 5]. Dù cuộc cải cách không có

điều kiện thuận lợi để trở thành hiện thực nhưng những tư tưởng cơ bản của

Hồ Chí Minh về một nền giáo dục mới đã thực sự được hiện thực hóa ngay

trong năm đầu tiên nước nhà được độc lập.

Năm 1945 - 1946, giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu

đáng tự hào, đặc biệt trong bối cảnh khó khăn bộn bề lúc bấy giờ là cả một nỗ

lực lớn lao của Chính phủ, Hồ Chủ tịch và toàn dân. Hệ thống trường sở có sự

phát triển vượt bậc so với thời kỳ trước. Theo thống kê của Bộ Giáo Dục, con số

đó cụ thể như sau:

Bậc tiểu học:

- 4952 trường (kể cả trường sơ cấp).

- 8720 giáo viên.

- 284.314 học sinh.

Bậc trung học:

- 29 trường. Trong đó, Bắc Bộ: 9 trường; Trung Bộ: 6 trường công, 10

trường bán công; Nam Bộ: 4 trường.

- 31 giáo sư trường công.

- 2378 học sinh [39, 21].

Ngành học Sư phạm được lập đáp ứng nhu cầu đào tạo giáo viên, phục

vụ cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo của nước nhà. Sắc lệnh 194/SL ngày 8 -

10 - 1946 ghi rõ ngành Sư phạm gồm 3 cấp: sư phạm sơ cấp, sư phạm trung

cấp và sư phạm cao cấp. Từ đó, ngành đào tạo giáo viên ở tất cả các bậc từ

bậc học cơ bản, bậc phổ thông đến bậc trung học chuyên khoa, thực nghiệp

trong toàn quốc.

Tính chất, nội dung giáo dục được xác định dựa trên ba nguyên tắc cơ

bản: Đại chúng hóa, Dân tộc hóa, Khoa học hóa và theo tôn chỉ phụng sự lý

48

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

tưởng quốc gia và dân tộc. Tính chất này thể hiện rất rõ trong việc khuyến

khích giảng dạy bằng tiếng Việt tất cả các cấp học.

Vấn đề thi cử cũng được đổi mới, quy củ hơn. Cuối năm học 1945 -

1946, kỳ thi tốt nghiệp tiểu học và trung học phổ thông đã được tổ chức chu

đáo trong không khí phấn khởi, tin tưởng. Lần đầu tiên các thí sinh không

phải nộp tiền lệ phí. Nhiều học sinh bỏ học lâu ngày đã trở lại học và ôn thi.

Vì thế, số học sinh trúng tuyển đã tăng lên rõ rệt.

Với những thành tựu trên cho thấy chúng ta đã đi từ không đến có, từ

nhỏ đến lớn, từ dưới đi lên trong việc xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông

tương đối hoàn chỉnh.

Những thành tựu đầu tiên về giáo dục dân tộc dân chủ của nước Việt

Nam độc lập tự do cho phép ta đúc rút được những kinh nghiệm quý. Những

kinh nghiệm đó cho tới ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

2.2. Giáo dục phổ thông đồng hành với kháng chiến (1946 - 1950)

2.2.1. Chủ trương giáo dục phổ thông phục vụ kháng chiến, kiến quốc

Năm 1945 - 1946 có thể coi là năm bản lề của nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa. 16 tháng - khoảng thời gian quá ngắn ngủi đối với một đất nước

muốn vực dậy sau chiến tranh trong bối cảnh đầy éo le, phức tạp. Tuy nhiên,

bằng nỗ lực phi thường của toàn dân và những người lãnh đạo nhà nước,

đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã vượt qua muôn vàn thử thách,

xây dựng được chính quyền, củng cố được quân đội, khắc phục được phần

nào những khó khăn trong nước như nạn đói, nạn dốt…Đồng thời, chúng ta

cũng không ngừng đề cao cảnh giác về một cuộc chiến tranh đang đến gần khi

cuộc mặc cả chuyển giao quyền lực của các đế quốc đang diễn tiến trên đất

nước ta. Đúng như nhận định của Hồ Chí Minh, thực dân Pháp đã phản bội lại

Hiệp định sơ bộ (6 - 3 - 1946), tìm mọi cách quay trở lại, trắng trợn nổ súng

tấn công đồng bào ta ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, đánh chiếm Hải Phòng và

Lạng Sơn. Đến tháng 12 - 1946, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.

49

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Thực dân Pháp đã tăng thêm quân chiếm đóng Đà Nẵng, Hải Dương và đánh

phá nhiều nơi ở Hà Nội, gây ra nhiều vụ tàn sát đẫm máu. Sức ép về một cuộc

chiến tranh càng nặng nề hơn khi ngày 18 - 12 - 1946 tướng Moóclie gửi tối

hậu thư đòi chiếm Sở Tài chính và quyền giữ trị an ở Hà Nội và tuyên bố sẽ

hành động ngày 20 - 12 - 1946 nếu Chính phủ Việt Nam không chấp nhận

những yêu cầu đã đặt ra.

Trước tình thế khẩn cấp, Đảng, Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí

Minh phải có quyết định kịp thời, dứt khoát. Đúng 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946,

tín hiệu bắt đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc được phát ra và “Lời kêu

gọi toàn quốc kháng chiến” của Người được truyền đi khắp cả nước:

Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng

chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng

quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu

mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

……….

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối

cùng, để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết

hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta [20, 480].

Theo lời hiệu triệu của Người, cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến

toàn dân, toàn diện. Nền giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng

trở thành một bộ phận không tách rời của cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp xâm lược. Giáo dục phổ thông đồng hành với kháng chiến và phục vụ

cho công cuộc kháng chiến kiến quốc của nước nhà. Những bài nói và viết

trong thời kỳ này đã thể hiện rõ quan điểm giáo dục này của Người.

50

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Từ cuối năm 1945, khi nhận thấy nạn xâm lăng mỗi ngày một trầm

trọng, Người đã nhận định về cuộc kháng chiến lâu dài cần huy động mọi lực

lượng mới có thể đi tới thắng lợi cuối cùng. Góp vào cuộc kháng chiến rộng

lớn đó thì “Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng

chiến”[20, 84]. Vì thế, khi thực sự bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, quan

điểm của Người về nhiệm vụ của giáo dục cách mạng chính là sự tiếp tục và

phát triển cao hơn, hoàn chỉnh, sâu sắc hơn quan điểm đã có từ trước năm 1945.

Trong bài nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh

Thanh Hóa ngày 20 - 2 - 1947, Người không chỉ đặt nhiệm vụ thanh toán nạn

mù chữ trên toàn tỉnh trong kỳ hạn một năm mà còn cần phải phát triển giáo

dục ở mức cao hơn: “Chẳng những chỉ biết chữ mà còn phải học đạo đức

công dân, phổ thông chính trị. Thứ hai, còn cần phải mở mang lớp trung học”.

Giáo dục cần được phát triển vì một mục tiêu rất thiết thực: “Người già thì

chết, người trẻ thì già. Chúng ta già thì chúng ta phải chết, phải chuẩn bị cán

bộ” nghĩa là chuẩn bị đội ngũ kế cận gánh vác công việc kháng chiến kiến

quốc của nước nhà. Vì vậy, giáo dục phát triển phải chấn chỉnh theo nguyên

tắc: “Trước học một đường, hành một nẻo. Nay phải sửa chương trình làm sao

để học thì hành được ngay”[21, 59 - 60].

Trong quan điểm của Người: “Từ tiểu học, trung học cho đến

đại học, là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên. Óc những người trẻ

tuổi trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh.

Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh

hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, và tương lai của thanh

niên tức là tương lai của nước nhà.

Vì vậy, cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương

nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua

kém ai, quyết không chịu làm nô lệ.

51

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Phải dùng những lời lẽ giản đơn, những thí dụ thiết thực mà

giải thích: Dân chủ là gì, tự do là gì, thuộc địa là gì. Vì sao ta phải

kháng chiến. Họ có thể làm những việc gì để giúp đỡ kháng chiến.

Nên giữ bí mật thế nào, đề phòng Việt gian thế nào. Nên giúp đồng

bào tản cư thế nào. Nên giúp bình dân học vụ thế nào, v.v..

Cố nhiên, trong lúc dạy, chớ nên làm cho học trò có tư tưởng

vị quốc như bọn phát xít, vị quốc tức là chỉ biết yêu trọng nước

mình mà khinh ghét nước người. Cũng phải tránh cách nói vu vơ,

như có người nói chuyện với các em nhi đồng, mà đem “tân dân

chủ” và “cựu dân chủ” ra mà nói. Nói tóm lại: Trong chương trình

học, phải trọng về môn tinh thần và đạo đức. Phải tẩy sạch óc kiêu

ngạo, tự phụ, mà giáo dục thực dân còn để lại.

Hơn nữa, phải khuyên học trò tham gia việc tăng gia sản xuất.

Điều này cũng quan trọng lắm. Một là làm cho họ biết kính trọng sự

cần lao. Hai là tập cho họ quen khổ. Ba là cho họ cái chí khí tự thực

kỷ lực (làm lấy mà ăn), không ăn bám xã hội. Bốn là có ích cho sức

khỏe của họ”.

“Lớp này nên thi đua với lớp khác, trường này với trường

khác, làm cho học trò thêm hăng hái” [21, 102 - 103].

Trích đoạn trên chứa đựng những quan điểm cơ bản của Người về giáo

dục thời chiến. Giáo dục kháng chiến hướng tới phát triển con người toàn

diện, có tài, có đức, vừa có chí khí, vừa có tâm hồn. Nền giáo dục ấy làm khơi

gợi lên trong lòng học trò lòng yêu nước thương nòi đúng đắn, giúp học trò

xác định được nhiệm vụ của mình trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh.

Người gọi tất cả những điều đó là thực hiện đời sống mới trong nhà trường.

Nhân kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Người viết thư

ân cần dặn dò nhi đồng toàn quốc: “Còn cháu nào cũng biết siêng học, siêng

52

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

làm, biết ăn ở sạch sẽ, biết giữ kỷ luật, lễ phép, thế là tốt lắm. Bác khuyên các

cháu gắng sức thêm. Việc gì có ích cho kháng chiến, có ích cho Tổ quốc thì

các cháu nên gắng sức làm. Làm được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Tuổi các cháu

còn nhỏ, thì các cháu làm những công việc nhỏ. Nhiều công việc nhỏ cộng lại

thành công việc to. Bác mong các cháu làm việc và học hành, cho xứng đáng

là nhi đồng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thống nhất và độc

lập”[21, 192 - 193]. Trong một bức thư khác, Người còn chỉ rõ cho thế hệ trẻ

nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của mình để khuyến khích tinh thần học tập

của thanh thiếu niên: “Ngày nay, người lớn kháng chiến để tranh lại độc lập

thì mai sau các cháu phải giữ vững nền độc lập của ta. Vì vậy, các cháu phải

cố gắng thi đua học tập và làm việc hơn nữa”[21, 669].

Nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo dục cũng như vai trò của thế hệ

trẻ đối với công cuộc bảo vệ và xây dựng nước nhà, Hồ Chủ tịch nhắn nhủ tới

những người làm công tác phụ trách nhi đồng cách nuôi dạy trẻ và khẳng định

ý nghĩa cao cả của công việc mà họ đang làm. “Giáo dục nhi đồng là một

khoa học” và cần dạy cho trẻ biết yêu Tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao

động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa. Giáo dục nhi đồng thành người

hữu ích cũng là vì tương lai lâu bền của dân tộc.

Giáo dục phục vụ kháng chiến kiến quốc được thể hiện sâu sắc qua thư

Người gửi Hội nghị giáo dục toàn quốc năm 1948:

“Về vấn đề giáo dục, tôi có mấy ý kiến sau đây cống hiến với Hội

nghị.

Chúng ta cần phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc.

Vì vậy, chúng ta:

1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự nghiệp

kháng chiến và kiến quốc.

53

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc

cho các trường.

3. Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài

kháng chiến và kiến quốc.

4. Chúng ta phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn

chỉ kháng chiến và kiến quốc.

5. Về bình dân học vụ, nhờ sự hi sinh cố gắng của nam nữ giáo viên,

đã có kết quả rất tốt đẹp. Bây giờ số đông đồng bào đã biết đọc biết

viết thì chúng ta phải có một chương trình để nâng cao hơn trình độ

văn hóa phổ thông của đồng bào”[21, 462].

Đồng thời đây cũng là những chỉ đạo của Người trong công tác đổi mới

giáo dục. Tuy trên bình diện rộng lớn nhưng những chỉ đạo đó đã vạch ra

đường hướng đổi mới đúng đắn cho giáo dục về nội dung, phương tiện thực hiện

và cách thức giáo dục đều theo tôn chỉ duy nhất: kháng chiến và kiến quốc.

Trong thời gian này, không dưới một lần Người chỉ rõ mục đích của

việc học. Trang đầu Sổ vàng của trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương (sau là

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), Người viết:

Học để làm việc,

làm người,

làm cán bộ.

Học để phụng sự Đoàn thể,

“giai cấp và nhân dân,

Tổ quốc và nhân loại”[21, 684].

Lời căn dặn của Bác đối với cán bộ trường Nguyễn Ái Quốc nhưng cũng là

lời dặn chung đối với mọi tầng lớp nhân dân, mọi cấp học và mọi ngành.

Trả lời cho câu hỏi: “Học để làm gì?”, Bác viết:

54

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

a) Học để sửa chữa tư tưởng: Hăng hái theo cách mạng, điều đó rất

hay. Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì

thế cần phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì

hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng

được.

b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng: Có đạo đức cách mạng thì

mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần

chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn.

c) Học ở đâu?

Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân,

không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn [22, 50].

Chung quy lại, việc học của từng cá nhân nhưng có ảnh hưởng rất lớn

tới tiền đồ của dân tộc vì trong quan điểm của Người, học không ngoài mục

đích phục vụ cách mạng.

Khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến, với vai trò Chủ tịch nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa, Người cùng với Đảng, Chính phủ có những chỉ đạo

sâu sắc về công tác giáo dục để phù hợp với tình hình mới.

Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ IV (tháng 4 - 1947) chỉ

rõ những nhiệm vụ của ngành giáo dục:

- Chương trình học phải thiết thực, nhằm mục đích đào tạo nhân tài,

cần dùng cho kháng chiến, trước nhất về các ngành Y tế, Canh

nông, Quân giới, cũng như Thương mại, Ngoại giao…

- Học sinh phải vừa học vừa tham gia sản xuất để tự túc một phần nào.

- Tiếp tục phát triển Bình dân học vụ.

- Chú ý mở trường ở các vùng quốc dân thiểu số [7, 188].

Thắng lợi Việt Bắc thu - đông 1947 có ý nghĩa chiến lược quan trọng

trong năm đầu toàn quốc kháng chiến, đã đập tan âm mưu “đánh nhanh thắng

55

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

nhanh” của thực dân Pháp. Pháp buộc phải xoay chuyển chiến lược, phải

chuyển sang kế hoạch “đánh kéo dài”, ráo riết thực hiện chính sách “dùng

người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Tính chất lâu

dài của cuộc chiến càng được thể hiện rõ cả ở hai phía ta và địch. Yêu cầu về

một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện được nâng lên một bước. Trước

tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng mở rộng họp tháng 1

năm 1948 vạch rõ biện pháp cải tiến, đổi mới cách dạy và học: “Họp hội nghị

giáo giới, chấn chỉnh và mở mang việc học trong thời kháng chiến, định

chương trình học cho các cấp, soạn sách giáo khoa mới, định cách dạy học trò

theo lối mới, vừa tránh được nạn nhồi sọ của thời thuộc Pháp, vừa thích hợp

với tinh thần kháng chiến và dân chủ, mở trường Sư phạm đào tạo giáo sư

mới và bổ túc cho giáo sư cũ, rút kinh nghiệm của các trường hiện nay và mở

thêm các trường mới theo kế hoạch hẳn hoi (đặc biệt chú ý mở các trường đại

học và gửi du học sinh ra ngoài)…Mở trường và đặt chữ cho các vùng dân tộc

thiểu số”[8, 35].

Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ IV (miền Bắc Đông

Dương) ngày 20 - 5 - 1948 chỉ rõ:

“Chỉnh đốn giáo dục, sửa chữa lại chương trình giáo dục các cấp.

Chính phủ mở thêm trường (tiểu học, trung học, đại học) và khuyến khích tư

nhân mở trường tư”[8, 105].

Ngày 2 tháng 3 năm 1949, Bộ Quốc Gia Giáo dục triệu tập Hội nghị

Giáo dục tại Việt Bắc, khẳng định thêm đường lối giáo dục của Nhà nước và

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Biên bản Hội nghị Giáo dục ghi rõ: “Giáo dục, cũng

như các ngành khác, đã hoạt động nhiều càng phải hoạt động mạnh hơn nữa

cả về số lượng cũng như về phẩm, để tham gia vào công cuộc kháng chiến, để

động viên tinh thần của toàn thể nhân viên giáo giới, của toàn thể học sinh, xúc

56

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

tiến cách mạng Văn hóa để có thể tham gia vào công cuộc kháng chiến một cách

thiết thực hơn”.

Đồng thời, Hội nghị đặt ra những nhiệm vụ cho toàn thể cán bộ giáo

dục: “Ta phải nhận định chính sách giáo dục của ta chuyển biến cách dạy học

để cho ăn khớp với nhiệm vụ của ta, phải đào tạo một lớp dân chúng linh

động hoạt động cho nền dân chủ mới, phải sửa đổi những chương trình học

cho hợp với cá tính quốc dân, đào tạo những cán bộ mới thành những chiến

sĩ, chứ không phải những người bị động”. Do đó, Hội nghị nhấn mạnh những

nguyên tắc của nền giáo dục mới cần phải được thực hiện: dân tộc, khoa học

và dân chủ. Nền giáo dục mới phải có tính khoa học, phối hợp được các

ngành học với nhau để rèn luyện cho học sinh có tinh thần dân tộc và có óc

thực tế cũng như làm nảy nở óc hưng phấn học tập của học sinh [28, 157].

Trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, Trường Chinh -

Tổng Bí thư của Đảng nhấn mạnh: kháng chiến về mặt văn hóa có hai nhiệm

vụ: một là đánh đổ văn hóa ngu dân, nô dịch, xâm lược của thực dân Pháp;

hai là xây dựng nền văn hóa mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dựa

trên ba nguyên tắc : dân tộc, khoa học, đại chúng, coi văn hóa, giáo dục cũng

là một mặt trận đấu tranh của nhân dân ta [4, 47].

Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng, Nhà

nước ta đã có những chủ trương đổi mới giáo dục nhằm phục vụ sự nghiệp

kháng chiến và kiến quốc. Về cơ bản, đó là sự kế tục và phát triển những quan

điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và giáo dục kháng

chiến từ những năm 1945 - 1946. Giáo dục phổ thông là bộ phận không thể

thiếu cấu thành nên nền giáo dục hoàn chỉnh nên cũng phải góp phần thực

hiện những nhiệm vụ chính trị quan trọng đó.

2.2.2. Sự phát triển của giáo dục phổ thông những năm 1946 - 1950

57

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Bước vào cuộc kháng chiến, nền giáo dục nói chung, giáo dục phổ

thông nói riêng phải từng bước thích nghi với điều kiện đất nước có chiến

tranh. Nhân tài, vật lực của quốc gia đều dồn cho cuộc chiến, đất nước lại

chịu sự phá hoại của thù trong giặc ngoài nên khó khăn chồng chất. Những

điều kiện cho sự phát triển giáo dục tất yếu bị ảnh hưởng. Cùng toàn dân thực

hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”, nhiều trường lớp phải sơ tán về vùng

tự do, vùng du kích. Sự thiếu ổn định của cơ sở trường lớp đã là một trở ngại

lớn đối với việc dạy và học. Thêm vào đó là những thiếu thốn mọi mặt những

điều kiện thiết yếu phục vụ cho giáo dục. Vì vậy, thầy và trò phải cùng nêu

cao tinh thần tự lực cánh sinh. Giáo viên và học sinh gia nhập Vệ quốc quân

hoặc rút về hậu phương, ăn ở, sinh hoạt cùng với dân. Việc học được tổ chức

ngay trong nhà dân hoặc các đình, chùa, các lán liếp tự dựng. Thực hiện đúng

chủ trương “Kháng chiến bằng Văn hóa”, “Văn hóa của Kháng chiến” của Hồ

Chủ tịch, giáo dục phổ thông đã không ngừng vươn lên để góp sức vào cuộc

kháng chiến của nước nhà.

Năm học 1946 - 1947, tình hình chiến sự diễn ra ở nhiều nơi nên những

thành quả của giáo dục trong năm đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

ít nhiều bị ảnh hưởng, nhất là ở bậc tiểu học. Ở một vài nơi, việc học bị ngừng

trệ, nhiều trường phải đình giảng. Tuy nhiên, đến đầu năm 1947, ở nhiều địa

phương, các trường được mở lại. Nhiều nơi trước kia chưa có trường học thì

nay cũng cho mở để đón những học sinh tản cư từ nơi khác đến, tạo điều kiện

học tập cho các em. Vì vậy, với các em lớn hơn ở bậc Trung học vẫn được

đảm bảo đến trường nên về cơ bản, bậc học này được duy trì và phát triển khá

tốt.

Bậc tiểu học:

Trong năm học đầu tiên của toàn quốc kháng chiến (1946 - 1947), cả

nước có số lượng trường lớp như sau [28, 136 - 137]:

58

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Số trƣờng

Giáo viên

Học sinh

289

19.915

174

Liên khu 1

2.502

94.107

2.009

Liên khu 3

56.672

585

Liên khu 4

219

9.262

151

Liên khu 10

3.010

179.956

2.919

Tổng

So với năm học 1945 - 1946, chúng ta bị mất đi 2.033 trường, tức gần

một nửa số lượng trường ta đã xây dựng được là một thiệt hại lớn đối với giáo

dục phổ thông trong điều kiện đất nước có chiến tranh.

Tuy nhiên, được sự quan tâm của Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ

Chí Minh, cùng với tinh thần quyết tâm diệt dốt của toàn dân, giáo dục tiểu

học có những bước tiến đáng kể. Báo cáo tình hình giáo dục năm 1948 và

năm 1949 của Bộ Quốc gia Giáo dục đều chung nhận xét: tiểu học đã tiến hơn

trước, sĩ số tăng đến nỗi nhiều nơi không kịp mở trường vì thiếu giáo viên.

Năm học 1947 - 1948, tình hình giáo dục tiểu học ở các Liên khu thể

hiện qua các số liệu sau [28, 236 - 237]:

Số trƣờng

Giáo viên

Học sinh

1.289

52.854

965

Liên khu 1

2.698

112.520

2.008

Liên khu 3

Liên khu 4

Không có số liệu

80.893 (trường

2.151

công)

Liên khu 5

Không có số liệu

Không có số liệu

60.709

248

11.934

50

Liên khu 10

1.426

Không có số liệu

186

Nam Trung Bộ

7.812

318.910

3.209

Tổng

59

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Tháng 8 năm 1947, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ ra quyết

định thành lập Sở Giáo Dục Nam Bộ do Giáo sư Nguyễn Văn Chì làm giám

đốc và Viện Văn hóa kháng chiến Nam Bộ do Giáo sư, Thạc sỹ Hoàng Xuân

Nhị làm giám đốc. Sự ra đời của hai cơ quan chức năng này có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng, tác động trực tiếp đến tình hình văn hóa, giáo dục của Nam

Bộ trong kháng chiến. Ngay từ khi mới thành lập, Sở và Viện đã lấy nhiệm vụ

chống thất học, xóa nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân,

phát triển giáo dục phổ thông …làm nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Do đó, 4 lớp

đào tạo cán bộ Bình dân học vụ được mở ngay sau đó, đào tạo được 306 cán

bộ, tạo tiền đề cho sự phát triển giáo dục phổ thông ở Nam Bộ [38, 39].

Số thí sinh

Số thí sinh

Tỉ lệ (%)

dự thi

trúng tuyển

Liên khu 1

2.672

1.450

55

Liên khu 3

10.028

5.808

58

Liên khu 10

1.778

567

31

Liên khu 4*

11.058

5.790

52

Kết quả kỳ thi tốt nghiệp Tiểu học năm 1948:

Toàn quốc (không kể Nam phần

25.536

13.615

53

Trung Bộ và Nam Bộ)

Chú thích: *Kết quả kỳ thi tốt nghiệp Tiểu học năm 1948 tại Liên khu 4

ghi trên chỉ gồm 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.

Số trường

Giáo viên

Học sinh

Liên khu 1

910

1.289

61.359

Liên khu 3

2.036

2.909

127.160

Liên khu 4

692

2.238

90.071 (trường

công)

Liên khu 5

Không có số liệu

Không có số liệu

77.209

Năm học 1948 - 1949:

60

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Liên khu 10

100

473

17.418

Nam Trung Bộ

336

1.838

Không có số liệu

Nam Bộ

3.054 (lớp học)

2.660

92.770

Tổng

4.074 trƣờng

11.407

465.987

và 3.054 lớp

Riêng Nam Bộ, không có được số liệu chính xác. Trong bài hồi ký

“Nhớ về văn hóa kháng chiến bưng biền”, Bí thư Tỉnh ủy Long An, Bí thư

Khu ủy khu Trung Nam Bộ Huỳnh Châu Sổ (tức Năm Bê) ghi nhận chính

quyền kháng chiến lập được 4 trường tiểu học kháng chiến. 2 trường là

Nguyễn Văn Dinh ở ven sông Vàm Cỏ Tây, trường Phan Lương Trực ở xã

Nhơn Hòa Lập (ven kinh Dương Văn Dương). Hai trường thuộc Ty Giáo dục

tỉnh Tân An quản lý [43, 444]. Trong điều kiện khó khăn thiếu thốn, Sở Giáo

Dục Nam Bộ tập trung chỉ đạo mở trường tiểu học ở các tỉnh, nhất là các tỉnh

miền Trung và miền Tây Nam Bộ, từ lớp tư (lớp đầu cấp) đến lớp nhất (bớt

một năm so với hệ cũ), dạy theo chương trình thống nhất do Sở biên soạn và

phổ biến. Trên tinh thần đó, trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp,

với nỗ lực của các tỉnh miền Tây và Bộ Tư lệnh khu 9, một số trường Tiểu

học được mở, gồm có: trường Thiếu sinh quân Huỳnh Phan Hộ (Tiểu học Bạc

Liêu) có 230 học sinh, trường Tiểu học Cần Thơ, trường Tiểu học Sa Đéc,

trường Thiếu sinh quân khu 9 với 200 học sinh…[38, 27].

Theo “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo” (Trần Hồng

Quân chủ biên), số liệu báo cáo của Sở Giáo dục Nam Bộ ngày 3 - 8 - 1949

là: 2873 trường công, 2680 giáo viên, 105000 học sinh. Bên cạnh đó còn có

2500 học sinh của hàng trăm lớp tư nhân và đoàn thể tôn giáo tổ chức [41,

66].

Con số thống kê chưa đầy đủ, trong 9 năm (1945 - 1954), Sở Giáo Dục

và Văn hóa kháng chiến Nam Bộ cùng với nhân dân Nam Bộ đã mở được ít

61

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

nhất 50 trường tiểu học nội trú tại các tỉnh Bạc Liêu (20 trường), Rạch Giá (8

trường), Cần Thơ (7 trường), Sa Đéc (5 trường), Châu Đốc (4 trường), Trà

Vinh (3 trường), Vĩnh Long (2 trường), Mỹ Tho (2 trường), Sóc Trăng (1

trường), Chợ Lớn (1 trường) và Tân An (1 trường), Trường Thiếu sinh quân

khu 9… [38, 41 - 42].

Vì tình hình chiến sự, một số nơi, trường tiểu học phải đình giảng

nhưng đây chỉ là biện pháp tạm thời. Các trường chủ động tản cư như ba lớp

ở Bất Bạt, Sơn Tây (Liên khu 3) di sang Vĩnh Yên; một số học sinh ở Liên

khu 4 tản cư đến các tỉnh Bình - Trị - Thiên được Nha Giáo dục quan tâm

giúp đỡ. Trên cơ sở đó, các lớp học dần được mở lại nên dù muôn vàn khó

khăn, số lượng trường lớp, giáo viên, học sinh tăng lên qua các năm học. Đặc

biệt thể hiện ở số học sinh không ngừng tăng lên ở các Liên khu cho thấy tinh

thần vượt khó, ham học của học sinh trong thời chiến.

Liên khu 1: Năm học 1947 - 1948, tỉnh Phúc Yên có 43 trường tiểu

học, 60 giáo viên, 4.144 học sinh. Sang năm học 1948 - 1949, tăng lên là 75

trường, 185 giáo viên, 6.033 học sinh.

Năm học 1947 - 1948, Phú Thọ có 54 trường tiểu học, 167 lớp, 86 giáo

viên, 3.821 học sinh. Năm học 1948 - 1949, số lượng tăng lên đáng kể: 115

trường, 300 lớp, 170 giáo viên và 7.847 học sinh, tăng 105%.

Ở những vùng địch chiếm, nền Tiểu học hoạt động trở lại. Đến năm

1949, riêng huyện Điện Bàn, Hòa Vang, Đại Lộc ở Liên khu 5 đã có 16

trường, 962 học sinh, 22 giáo viên. Ở Tây Nguyên lập được Phòng học vụ,

đến tháng 5 - 1948 đổi thành Ty Thanh tra Tiểu học kiêm Bình Dân Học Vụ

Tây Nguyên, xúc tiến việc giáo dục ở Tây Nguyên. Vì vậy, ở đây đã mở được

12 trường tiểu học với 613 học sinh.

Kết quả kì thi tốt nghiệp tiểu học năm 1949, so với năm 1948 có những

chuyển biến rất tích cực [28, 237]:

62

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Niên khóa 1947 - 1948

Niên khóa 1948 - 1949

Dự thi

Trúng

Tỷ lệ

Dự thi

Trúng

Tỷ lệ

tuyển

(%)

tuyển

(%)

Liên khu 1

(chưa kể Cao

2672

1.450

55

5.611

4.077

71

Bằng chưa có

báo cáo)

Liên khu 3

10.026

5.808

58

15.757

11.645

73

Liên khu 4

11.058

5.790

52

24.083

7.481

31

Liên khu 10

1778

567

31

1803

779

43

(chưa kể nhiều nơi do chiến sự phải hoãn lại đến cuối tháng 8 năm 1949, chưa có báo cáo)

(chưa có báo cáo về niên khóa 1948

Liên khu 5

7748

2788

36

- 1949)

Kỳ thi tốt nghiệp phản ánh chất lượng giáo dục trong suốt năm học.

Nhìn chung, số học sinh dự thi và trúng tuyển năm học 1948 - 1949 tăng gấp

đôi so với năm 1947 - 1948. Tỷ lệ trúng tuyển cũng tăng từ 12% - 16%. Riêng

Liên khu 4, dù học sinh tham gia thi tăng gấp đôi, lượng trúng tuyển cũng

tăng nhưng tỷ lệ đỗ của năm 1948 - 1949 giảm mất 21% do số lượng thí sinh

trúng tuyển chưa cân xứng với lượng tham gia dự thi.

Nền Tiểu học phát triển là nền tảng cho một nền Trung học phát triển.

Bậc trung học:

- 29 trường (Liên khu 1: 5 trường; Liên khu 3: 6 trường; Liên khu 10: 2

*4 Chú thích: “Báo cáo về tình hình giáo dục năm 1948” (tháng 12-1948) của Bộ Quốc gia Giáo dục ghi: Trước tác chiến: 1 trường. “Biên bản Đại hội nghị Giáo dục toàn quốc ngày 10-7-1948 và những ngày sau” ghi: 1946-1947: 2 trường. Căn cứ vào độ tường minh của mốc thời gian, tác giả sử dụng số liệu do “Biên bản Đại hội nghị Giáo dục toàn quốc ngày 10-7-1948 và những ngày sau” đưa ra. (Xem Nguyễn Văn Huyên toàn tập, Văn hóa và Giáo dục Việt Nam, tập III, Nxb. Giáo Dục, H. 2005, tr.57 và tr.132).

trường*4; Liên khu 4: 16 trường).

63

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

- 83 giáo sư chưa kể Liên khu 4 và Nam Bộ không có số liệu (Liên khu

1: 21; Liên khu 3: 52; Liên khu 10: 10*5).

- 5228 học sinh, chưa kể Nam Bộ không có số liệu (Liên khu 1: 759;

Liên khu 3: 2.043; Liên khu 10: 155; Liên khu 4: 2.271).

So với năm học 1945 - 1946, trong năm 1946 - 1947, số trường trung

học không tăng lên, còn giảm mất 1 trường ở Liên khu 4 nhưng số lượng giáo

sư và học sinh tăng lên một cách đáng kể: số giáo sư tăng gấp 2,7 lần và số

học sinh tăng gấp xấp xỉ 2,2 lần. Những con số cho thấy trong khoảng thời

gian ngắn nhưng kết quả đạt được là những cố gắng lớn lao của thầy và trò

trong bối cảnh đất nước vừa chuyển sang thời chiến.

Năm 1947 - 1948, vượt qua những khó khăn của chiến tranh, giáo dục

phổ thông đạt được những thành quả bước đầu quan trọng là tiền đề cho sự

phát triển của giáo dục ở các năm học tiếp theo.

Theo “Báo cáo về tình hình giáo dục năm 1948” (tháng 12 - 1948) của

Bộ Quốc gia Giáo dục, trong 2 năm toàn quốc kháng chiến, sĩ số ở cấp Trung

học phổ thông đã tăng nhiều nên số lượng trường mở nhiều hơn trước. Trong

năm 1947, các tỉnh Hà Đông, Hải Dương, Phúc Yên, Vĩnh Yên mở thêm

trường Trung học chuyên khoa kháng chiến ở Phú Thọ, trường Trung học

Hòa Bình và trường Trung học Việt Bắc. Do điều kiện chiến tranh, các trường

phải tạm thời đình giảng nhưng sang đến năm 1948 đã tái giảng [28, 131].

Đến năm 1948, trong cả nước có 4 trường Trung học chuyên khoa:

trường Trung học chuyên khoa kháng chiến ở Phú Thọ; trường Nguyễn

Khuyến ở Liên khu 3; trường Huỳnh Thúc Kháng, tức trường Khải Định cũ ở

Liên khu 4; trường Nguyễn Văn Tố ở Nam Bộ. Ở Nam Trung Bộ mới bắt đầu

*5 Chú thích: Số liệu của “Biên bản Đại hội nghị Giáo dục toàn quốc ngày 10-7-1948 và những ngày sau” (xem Nguyễn Văn Huyên toàn tập, Văn hóa và Giáo dục Việt Nam, tập III, Nxb. Giáo Dục, H. 2005, tr.132).

mở lớp đệ nhất Trung học chuyên khoa tại trường Nguyễn Văn Thiện.

64

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Bảng số liệu về bậc Trung học tại các Liên khu Giáo dục cho thấy rõ sự

tiến triển của giáo dục trên cả nước [28, 132 - 133]:

Liên khu Giáo dục 1

Số trƣờng

Số lớp

Số giáo sƣ

Số học sinh

Năm 1947

5

21

21

759

Năm 1948

5

31

32

1.369

Liên khu Giáo dục 3

Số trƣờng

Số lớp

Số giáo sƣ

Số học sinh

6

39

52

2043

Năm 1947

46

63

2.204

Cuối

tháng 6

-

9 và 1 trường Trung

1948

học chuyên khoa

Liên khu Giáo dục 10

Số trƣờng

Số lớp

Số giáo sƣ

Số học sinh

1

Trước tác chiến

4

4

155

3

Năm 1947 - 1948

12

18

385

3

Đầu niên học 1948 -

18

21+7 giảng viên

732

1949

dạy giờ

Liên khu Giáo dục 4 (tại mấy tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh)

Trƣớc ngày

Trong năm

Năm

tác chiến

1946-1947

1947-1948

Số trường

17

16

33

Số học sinh

611

2.271

4.875

Tại miền nam Trung Bộ, đến năm 1948 có:

Số

Số lớp

Số giáo sƣ

Số học sinh

trƣờng

4

28

41

1104

kể cả một lớp Trung học

25 giáo sư chính ngạch

chuyên khoa

16 giáo sư dạy giờ

65

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Ở Nam Bộ, trong năm 1948, vấn đề xây dựng lực lượng, đào tạo đội

ngũ cán bộ ngày càng trở nên cấp bách. Số lượng nam nữ thanh niên tham gia

kháng chiến đang học dở dang trung học ngày càng đông. Thực tế đó thôi

thúc Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ mở trường trung học cho các

thanh niên này, góp phần nâng cao trình độ văn hóa, chính trị cho nhân dân,

phục vụ kháng chiến. Từ năm 1948, nhiều trường Trung học kháng chiến

được mở:

Trường Trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố mở ở Thới Bình (Bạc

Liêu), sau chuyển về rạch Hàng Nhỏ trên sông Cái Tàu. Trường tổ chức được

3 khóa với tổng số học sinh là 450, do Giáo sư Nguyễn Văn Nghĩa làm Hiệu

trưởng.

Trường Trung học kháng chiến Thái Văn Lung mở tại Đồng Tháp do

Giáo sư Ca Văn Thỉnh làm Hiệu trưởng. Do tình hình chiến sự nên trường

chuyển về miền Tây, tạm đóng ở rạch Ông Bường (sông Trẹm), sau dời về

rạch Nàng Chăn (sông Cái Tàu). Trường tổ chức được 2 khóa với 256 học

sinh. Về sau này, Giáo sư Lê Văn Chí làm Hiệu trưởng, giáo sư Nguyễn Văn

Nhung làm Hiệu phó. Trong trí nhớ của Đại tá Hồ Kiển Tiên từng học lớp Ba

của trường thì “Trường Thái Văn Lung thật đúng với cái tên trường kháng

chiến”. Khi chuyển qua rạch Nàng Chăn, “trường được xây dựng bề thế hơn,

có trại nam trại nữ, có nhà ở, phòng học và khu làm việc của Ban Giám hiệu

riêng. Trường tổ chức học tập và sinh hoạt rất chặt chẽ, đạt kết quả khá

tốt”[38, 296].

Trường Trung học kháng chiến Huỳnh Phan Hộ mở ở rạch Ông Bường,

tại địa điểm cũ của trường Thái Văn Lung, do Giáo sư Nguyễn Thượng Tư

làm giám đốc. Trường mở được 1 khóa với tổng số học sinh là 180.

66

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Ba trường Trung học kể trên đã gắn việc học tập với các hoạt động

ngoại khóa phục vụ kháng chiến như: lao động kiến thiết, giúp đồng bào làm

ruộng rẫy, vệ sinh công cộng, giúp chính quyền địa phương thu thuế nông

nghiệp, dạy Bình dân học vụ, Bổ túc văn hóa, biểu diễn văn nghệ phục vụ

đồng bào…Tuy nhiên, cả ba trường không tiếp tục học tập, giảng dạy đến

ngày tập kết vì cuối năm 1951, lực lượng thanh niên này đã bổ sung cho quân

đội, cho các cơ quan đầu não Nam Bộ [38, 25 - 26].

Theo thống kê của Bộ Quốc gia Giáo dục, năm 1948, tổng số học sinh

trung học ở Bắc Bộ và Bắc phần Trung Bộ là 9.180, hơn năm 1947 là 3.722

học sinh, tức 68%. Như vậy đến năm học 1947 - 1948, trên cả nước có 79

trường Trung học và Trung học chuyên khoa; số học sinh là 9.937 học sinh.

Kết quả các kỳ thi tốt nghiệp cho thấy chất lượng đào tạo của ngành học

phổ thông và chuyên khoa. Cộng cả hai khóa thi năm 1948 được số liệu sau:

I - Trung học phổ thông II - Trung học chuyên khoa

Dự thi: 1455 Dự thi: 263

Trúng tuyển: 499 Trúng tuyển: 73

Tỷ lệ: 34% Tỉ lệ: 27%

Trong đó, Liên khu 10 có tỷ lệ đỗ tốt nghiệp trung học cao nhất (cả hai

khóa thi năm 1948 đều trên 56% bậc trung học phổ thông và từ 38% - 40%

bậc trung học chuyên khoa) [28, 134 - 135].

Năm 1948, lần đầu tiên, Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành “Chương

trình Trung học phổ thông” theo Nghị định số 85-NĐ/ĐB ngày 10 tháng 5

năm 1948. Nghị định quy định bảng chia giờ dạy hàng tuần cho các môn dạy

và các lớp định theo chương trình môn học. Với việc sắp xếp giờ dạy mới,

việc dạy và học trở nên khoa học, quy củ hơn. Ở tất cả các năm học, ngoài

việc học tiếp nhận những kiến thức văn hóa, khoa học, các em còn được học

67

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

thể dục và những hoạt động khác (thủ công, gia tăng sản xuất, nữ công gia

chánh, nuôi trẻ, nhạc…) nhằm phát triển học sinh một cách toàn diện. Điểm

tiến bộ của Nghị định là đưa việc học ngoại ngữ trở thành môn học bắt buộc.

Học sinh có thể chọn Hán học và một sinh ngữ Tây Âu: Anh, Pháp, Đức cho

thấy dù đất nước còn đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng những

nhà lãnh đạo giáo dục nước ta đã ý thức được tầm quan trọng sâu xa của môn học

ngoại ngữ.

Bộ Quốc gia Giáo dục đã cho in “Chương trình Trung học phổ thông”

thành hai cuốn Chương trình của hai cấp Trung học phổ thông và Trung học

chuyên khoa, phát cho các Liên khu Giáo dục và các trường trung học.

Chương trình này được áp dụng kể từ niên khóa 1948 - 1949.

Năm học 1948 - 1949, nền giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói

riêng gặp nhiều khó khăn do tình hình chiến sự. Việc dạy và học không đồng

đều giữa các Liên khu bởi có nơi tình hình yên ổn, có nơi lại bị địch bắn phá.

Liên khu 3, trường trung học Phùng Hưng, Sơn Tây phải đình giảng từ tháng 5 -

1949.

Bảng số liệu ghi trong “Báo cáo tình hình giáo dục năm 1949” của Bộ Quốc gia Giáo dục phản ánh tình hình trung học trong niên học 1948 - 1949*6

*6 Chú thích: Số Giáo sư của Liên khu 1 là kể cả giáo sư dạy giờ và giáo viên tiểu học cất lên dạy trung học. Bảng số liệu chỉ tính số trường công của Liên khu 4. Nếu tính cả trường bán công thì Liên khu 4 có: 7

trường bán công, 53 giáo sư và 1.088 học sinh.

Số giáo sư và số học sinh các trường công ở Liên khu 4 ghi trên là kể cả giáo sư ở các lớp đệ nhất lập ở

trường tiểu học và 259 học sinh ở các lớp ấy.

Nam Bộ có 2 trường trung học: Nguyễn Văn Tố và trường Thái Văn Lung; trường Nguyễn Văn Tố có 4 lớp,

trường Thái Văn Lung có 2 lớp. Tính trung bình mỗi lớp 50 trò, thì số học sinh ước lượng vào khoảng 300. Biểu thống kê trên đây có những chỗ bỏ trống vì những báo cáo trước không rõ ràng nên không ghi. Trên đây chỉ tính số các trường Trung học phổ thông (trường công). Nếu kể cả các trường bán công Liên khu 4 thì cuối niên khóa 1948 - 1949 số trường sẽ là 29+7=36 trường, số giáo sư (chưa kể Nam Bộ): 264+53=317 giáo sư, số học sinh: 10.123+2.088=12.211 học sinh.

Ngoài ra Liên khu 5 lại có tổ chức hai trường trung học bình dân (Quảng Ngãi 1 trường có 5 lớp đệ nhất trung học phổ thông, mở từ niên khóa 1947 - 1948; đến niên khóa 1948 - 1949 mở thêm 7 lớp đệ nhất, cộng 12 lớp; Bình Định một trường có 3 lớp, mở từ tháng 9 - 1948. Tính trung bình mỗi lớp 50 học sinh, thì hai trường này có tới 750 học sinh) (Xem Nguyễn Văn Huyên toàn tập, Văn hóa và Giáo dụcViệt Nam, tập III, tr. 232 - 233].

[28, 232]:

68

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Số trường

Số giáo sư

Số học sinh

1947-

1948-

1947-

1948-1949 1947-1948 1948-1949

1948

1949

1948

Liên khu 1

5

5

21

39

759

1.575

Liên khu 3

9

8

56

86

2.072

3.167

Liên khu 4

7

7

64

2.485

Liên khu 10

3

3

21

26

389

730

Liên khu 5

4

4

36

49

1.150

1.866

Nam Bộ

2

300

Cộng

10.123

Do tình hình chiến tranh, Bộ Quốc gia Giáo dục không có được số liệu

đầy đủ của giáo dục Nam Bộ trong những năm này. Thực tế cho thấy đến năm

học 1948 - 1949, ở Nam Bộ không chỉ có 2 trường Nguyễn Văn Tố và Thái

Văn Lung như “Báo cáo tình hình giáo dục năm 1949” phản ánh. Bên cạnh

đó còn có sự hoạt động của trường Trung học kháng chiến Huỳnh Phan Hộ

mở từ năm 1948. Bước sang năm 1949, để nâng cao trình độ văn hóa cho đội

ngũ cán bộ, quân, dân, chính, Đảng, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến,

Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ mở trường bổ túc văn hóa tập trung.

Trường Trung học bình dân Nguyễn Công Mỹ mở tại rạch Chệt (Cà Mau).

Trường Trung học Bình dân Huỳnh Phan Hộ mở năm 1950 tại rạch Nàng

Chăn (trên sông Cái Tàu, Cà Mau, Bạc Liêu). Trong điều kiện chiến tranh,

đây là hình thức đặc biệt của giáo dục phổ thông.

Cả hai trường đều hoạt động đến sau Hiệp định Giơnevơ. Từ giữa năm

1949 đến tháng 6 năm 1952, trường Nguyễn Công Mỹ mở được 3 khóa bồi

dưỡng chính trị, văn hóa, khoa học cho hơn 350 học viên đạt trình độ văn hóa

69

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

bậc trung học phổ thông cơ sở, tương đương lớp 7, 8. Trong hai năm (7 -

1952 đến 7 - 1954), trường liên tiếp mở hai khóa 4 và 5 đào tạo cơ bản cho

210 học viên. Như vậy, từ ngày thành lập đến khi kết thúc, trường mở được 5

khóa, cùng trường Chiến sỹ thi đua và cần vụ giao liên gương mẫu bồi dưỡng

được hơn 600 cán bộ trẻ.

Trường Huỳnh Phan Hộ mở được 2 khóa, bồi dưỡng trên 200 cán bộ

phần lớn thuộc các đơn vị bộ đội chuẩn bị vào học tại Phân hiệu Lục quân

Trần Quốc Tuấn [38, 23, 57 - 58].

Nhìn chung, ở các Liên khu, số lượng trường lớp không có điều kiện

mở rộng nhưng được sự quan tâm của các cơ quan, chính quyền địa phương,

các đoàn thể nhân dân và trên hết là sự quan tâm của Chính phủ, đứng đầu là

Hồ Chủ tịch nên sự học của quần chúng nhân dân không bị tàn phá theo chiến

tranh. Số lượng giáo sư và nhất là số lượng học sinh tăng lên rất nhanh chỉ

trong khoảng thời gian ngắn của niên học.

Ở từng Liên khu Giáo dục có những trường tiêu biểu, hoạt động sôi nổi

thúc đẩy giáo dục của toàn khu đi lên. Báo cáo thường niên của Bộ Quốc gia

Giáo dục ghi nhận sự cố gắng của những trường tiêu biểu này:

Liên khu 1 có trường Việt Bắc, trường Phúc Yên dù mới thành lập năm

1947 nhưng đã thu hút rất đông học sinh. Khi mới thành lập, trường Phúc Yên

chỉ có 2 lớp, 78 học sinh nhưng sang đầu niên khóa 1948 - 1949 đã có 6 lớp

với 250 học sinh, hơn năm trước 172 học sinh, tăng 220%.

Trường Phùng Hưng, Sơn Tây ở liên khu 3, năm học 1947 - 1948 có 5

lớp với 209 học sinh. Năm học 1948 - 1949 có 8 lớp, 6 giáo sư, 362 học sinh,

hơn năm trước 153 học sinh, tăng 73%.

Liên khu 10 có sự hoạt động sôi nổi của các trường trung học Hùng

Vương (Phú Thọ), trường Nguyễn Thái Học (Vĩnh Yên), trường Tân Trào

70

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

(Tuyên Quang) và trường Trung học kháng chiến. Nhìn chung, số lượng

trường lớp, học sinh đều tăng nhanh. Riêng trường Nguyễn Thái Học, sang

đến năm học 1948 - 1949, học sinh tăng hơn 208%. Trường Trung học kháng

chiến mới thành lập năm 1947, có 7 lớp, 150 học sinh. Sau một năm học đã

tăng lên thành 8 lớp và 273 học sinh, tăng 82%.

Trung học chuyên khoa có 4 trường: trường Trung học kháng chiến ở

Phú Thọ, trường Nguyễn Khuyến ở Liên khu 3, trường Huỳnh Thúc Kháng ở

Liên khu 4, trường Nguyễn Văn Tố ở Nam Bộ. Ngoài ra có một lớp chuyên

khoa ở trường Đào Duy Từ (Thanh Hóa) và một lớp ở trường Lê Khiết (Quảng

Ngãi).

Kết quả kì thi trung học chuyên khoa cho thấy số lượng dự thi tăng gấp

đôi (từ 253 thí sinh năm 1947 - 1948 lên 547 thí sinh năm 1948 - 1949),

lượng thí sinh trúng tuyển tăng 2,3 lần (từ 73 thí sinh năm 1947 - 1948 lên

168 thí sinh năm 1948 - 1949).

Kỳ thi trung học phổ thông năm học 1948 - 1949, số dự thi của 5 Liên

khu tăng 1.095 học sinh (năm học 1947 - 1948: 1645 học sinh; 1948 - 1949:

2.740 học sinh), số trúng tuyển tăng lên 95 học sinh (năm học 1947 - 1948:

535 học sinh; 1948 - 1949: 630 học sinh, chưa tính Liên khu 5 chưa có báo

cáo) [28, 234 - 235].

Hệ thống trường phổ thông tư thục phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn,

có nơi còn lấn át cả trường công lập. Tổng số trường tư ở bốn Liên khu 1, 3,

4, 10 là 97 trường, 560 giáo sư và 8.293 học sinh. Liên khu 4 có nhiều trường

tư thục trung học nhất. Thanh Hóa có 14 trường, Nghệ An 11 trường, Hà Tĩnh

10 trường. Riêng ba tỉnh này đã có 36 trường với 152 giáo sư và 4.102 học

sinh. Bên cạnh đó còn có 7 trường bán tư thục, bán công với 53 giáo sư và

2.088 học sinh [28, 256].

71

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Để đảm bảo sự phát triển của giáo dục nước nhà, ngày 4 tháng 1 năm

1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 102/SL lập Hội đồng Giáo dục, giúp

cho Bộ Quốc gia Giáo dục ấn định chính sách và kế hoạch giáo dục. Người

sáng suốt lựa chọn những nhà chuyên môn, những nhân sĩ có tài, có đức để

góp sức vào sự nghiệp giáo dục. “Biên bản Hội đồng giáo dục đặc biệt” của

Bộ Quốc gia Giáo dục viết: “Chính phủ nhận định trong năm vừa qua, mọi

khả năng về nhân lực, vật lực đã đặt vào các ngành khác nhiều hơn là cho

giáo dục vì vậy giáo dục đã đi chậm, nên cần phải định cho giáo dục một kế

hoạch phát triển cho kịp thời”[28, 175]. Vì vậy, việc Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh

102/SL lập Hội đồng Giáo dục là rất kịp thời và sáng suốt, đồng thời thể hiện

sự quan tâm đối với giáo dục của Người.

Riêng với Nam Bộ, để thuận tiện cho việc quản lý và đảm bảo sự phát

triển của giáo dục, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ra Nghị định số 13 - NĐ

ngày 6 - 1 - 1949 lập tại Nam Bộ một Nha Giám đốc Giáo dục. Nha có nhiệm

vụ tổ chức giáo dục tại Nam Bộ ở tất cả các cấp học. Trung học, Tiểu học và

Bình dân học vụ thuộc về các nha Trung học vụ, Tiểu học vụ và Bình dân học

vụ Trung ương [80, 21].

Bước sang năm học 1949 - 1950, giáo dục chịu ảnh hưởng sâu sắc hơn

bởi chiến tranh. Cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân ta bước vào giai

đoạn quyết định. Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL ngày 2 - 2 - 1950

quyết định tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực của toàn thể nhân dân để

tiến tới tổng phản công. Theo tinh thần của Hồ Chủ tịch, lớp lớp thanh niên

rời mái trường trung học, tự nguyện tham gia chiến trường. Theo con số Bộ

Quốc gia Giáo dục có được, các trường trung học công ở các Liên khu có số học

sinh tòng quân như sau:

Liên khu Việt Bắc: 494

Liên khu 3: 260

72

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Liên khu 4: 502

Trung học tư thục:

Liên khu 4: 546

Hiện còn thiếu số liệu của Liên khu Việt Bắc và Liên khu 3.

Các Liên khu miền Nam chưa có tin tức.

Tổng số học sinh nhập ngũ là 1082. Nhưng con số này không sát thực

vì thiếu một số trường tư thục khá lớn.

Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Quốc gia Giáo dục: “Việc động viên

học sinh đã làm một cách vội vàng vì là việc cấp bách. Nhưng đã rất thiệt cho

các trường học vì đã làm vào giữa niên khóa và không có một kế hoạch. Nên

một số trường đã lúng túng và có trường bị tiêu diệt hẳn, không sao gây lại

được”[28, 626 - 627]. Những khó khăn của các trường trung học trong thời

điểm này cũng vì một mục đích duy nhất: góp sức cùng cả nước chống thực

dân Pháp xâm lược!

Bên cạnh đó, giáo dục phổ thông miền núi được Nhà nước đặc biệt

quan tâm với tinh thần chủ đạo là: “Việc học của đồng bào miền núi là một

vấn đề trọng yếu đã được Chính phủ đặc biệt chú ý đến. Cần phải tổ chức thế

nào để nâng cao và phát triển văn hóa miền núi, để đào tạo một số cán bộ có

học thức trong đồng bào miền núi, gây phong trào học hỏi, củng cố tinh thần

đại đoàn kết giữa miền xuôi với dân miền ngược”[28, 140]. “Biên bản Hội

nghị Giáo dục tháng Ba 1949” ghi rõ: “Ông Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục

trình bày rằng việc phát triển Giáo dục miền núi là chủ trương của Chính phủ.

Nhưng vì thiếu nhiều điều kiện, nhất là về cán bộ, nên Bộ Quốc gia Giáo dục

không đủ phương tiện để phát triển nền học này”[28, 182]. Nhiều chính sách

được đặt ra để khuyến khích việc dạy và học ở miền núi. Năm 1948, một lớp

huấn luyện cán bộ miền núi được mở nhưng chỉ được một khóa vì không có

người học. Vì vậy, cùng với việc mở trường và khuyến khích đồng bào miền

73

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

núi đi học, Nhà nước quan tâm hơn đến đời sống của giáo viên như tăng

lương, có quỹ riêng để cấp thuốc chữa bệnh, đặt lại lệ luân chuyển cho giáo

viên.

Kế hoạch từ năm 1950, Bộ Quốc gia Giáo dục sẽ đặt những bộ phận

riêng cho miền núi như bộ phận phụ trách việc viết sách giáo khoa cho miền

núi, nghiên cứu những vấn đề của miền núi, phục vụ cho việc hoạch định

những chính sách phù hợp hơn.

Nhìn chung, từ 1946 - 1950, giáo dục miền núi có những bước tiến hơn

so với trước đây. Năm 1947, trường Trung học Việt Bắc được mở ở Liên khu

1, vì sự tấn công của địch nên phải tạm đình giảng và mở trường lại từ niên

khóa 1948 - 1949. Liên khu 3 mở một trường trung học cho trẻ em miền núi

Hòa Bình. Năm học 1948 - 1949, Liên khu 4 có 19 trường cơ bản, 30 giáo

viên và 928 học sinh. Liên khu 5, Tây Nguyên trở thành điển hình bởi mặc dù

bị địch chiếm đóng nhưng giáo dục phát triển khá mạnh. Liên khu 10, trường

Nùng Trí Cao được mở tại Tuyên Quang. Đồng thời, lớp huấn luyện giáo viên

được mở ở Tuyên Quang, Lào Cai, Hà Giang.

Nghị định 57 - NĐ ngày 9 tháng 10 năm 1950 của Bộ trưởng Bộ Quốc

gia Giáo dục cho phép trong năm 1950 - 1951, mở ở các tỉnh miền núi các

trường sư phạm sơ cấp để đào tạo giáo viên sơ cấp cho các miền này.

Dù còn nhiều khó khăn, giáo dục miền núi chưa có được những thành

quả như ở miền xuôi nhưng những cố gắng của nước nhà đối với nền giáo dục

miền núi là điều rất đáng trân trọng và ghi nhận.

Song song với việc phát triển giáo dục phổ thông về số lượng và chất

lượng trường lớp, việc đào tạo cán bộ giáo dục cũng được hết sức coi trọng.

Trong suốt những 1946 - 1950, giáo sư trung học, giáo viên tiểu học thiếu

nhiều vì số lượng trường học tăng hơn trước. Vì vậy, nhiệm vụ được Bộ xác

định là: “khâu chính của Bộ Quốc gia Giáo dục ngoài việc phát triển giáo dục

74

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

vẫn là vấn đề đào tạo cán bộ”[28, 249]. Thực tế cho thấy công tác này đã

được Bộ tiến hành sâu sát qua các năm.

Mùa hè hàng năm, các trại Giáo dục Tiểu học được mở ở khắp các tỉnh,

trong khắp các Liên khu để tổng kết các kinh nghiệm về công việc dạy học

trong năm học vừa qua, là dịp các giáo viên trao đổi và học hỏi kinh nghiệm

lẫn nhau, nâng cao trình độ sư phạm.

Các trại Giáo dục Trung học có số lượng ít hơn. Tuy nhiên, đến vụ hè

năm 1949, Nha Tổng Giám đốc Trung học vụ đã tổ chức được hai trại Giáo

dục Trung học: 1 ở Phú Thọ cho các giáo sư trung học ở Liên khu 1 và 10; 1

ở Thanh Hóa cho các giáo sư ở Liên khu 3 và 4.

Những lớp huấn luyện giáo viên được mở nhiều trong các Liên khu:

Năm 1948, Liên khu 1 và 3 mở lớp huấn luyện cấp tốc được 40 giáo

viên cơ bản và 39 giáo viên sơ cấp.

Liên khu 10 cũng mở lớp sư phạm tuyển giáo viên tiểu học. Từ 1 - 3 -

1948 đến 1 - 9 - 1948, lớp huấn luyện giáo viên phụ ngạch được mở ở Tuyên

Quang, mãn khóa có thêm 20 giáo viên cho tỉnh. Lào Cai và Hà Giang mở lớp

huấn luyện giáo viên sơ cấp và dự định lấy 40 người cho mỗi tỉnh.

Trong hè 1948, Liên khu 3 mở lớp huấn luyện được 16 giáo sư trung học.

Trường Cao đẳng Sư phạm huấn luyện giáo sư trung học phổ thông đã

khai giảng bên cạnh trường Trung học phổ thông Nguyễn Khuyến ở Yên Mô,

Ninh Bình học 3 năm, có hai ban Văn học và Khoa học. Trường Cao đẳng Sư

phạm ở Liên khu 4 có một chi nhánh trường Trung học Huỳnh Thúc Kháng

có hai ban Văn học và Khoa học; một chi nhánh ở trường Trung học Đào Duy

Từ có một ban Văn học.

Sang năm học 1948 - 1949, vấn đề cán bộ giáo dục được đặc biệt chú ý

thể hiện ở việc Nha Đại học cộng tác với Nha Trung học tổ chức Ban Sư

phạm Đại học trong trường Đại học Văn khoa và Khoa học để đào tạo Giáo

sư Trung học chuyên khoa Văn học và Khoa học. Khóa đầu tiên có 71 người

75

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

ghi tên vào học. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của trung

học luôn trong tình trạng thiếu giáo sư giảng dạy.

Liên khu giáo dục 3 mở lớp Cao đẳng Sư phạm để huấn luyện giáo sư

trung học phổ thông, đã có 40 người ghi tên. Ở bậc Tiểu học, lớp huấn luyện

giáo viên tiểu học có 46 học viên.

Liên khu giáo dục 4 mở lớp Cao đẳng Sư phạm để huấn luyện giáo sư

trung học phổ thông, đã có 55 người ghi tên.

Liên khu giáo dục 1 mở được 1 lớp huấn luyện giáo viên cơ bản 13 học

viên, 3 lớp huấn luyện giáo viên sơ cấp với 47 học viên và 130 học viên ở các

lớp huấn luyện giáo viên phụ ngạch.

Liên khu giáo dục 10 mở được 1 lớp Sư phạm huấn luyện giáo viên tiểu

học có 3 học viên [28, 249 - 250].

Ở Nam Bộ, trong những tháng đầu năm 1948, Sở đã mở một lớp Sư

phạm cấp tốc tại Tân Bằng (Bạc Liêu), đào tạo cấp tốc 50 giáo viên cho

phong trào giáo dục ở các tỉnh.

Năm 1949, trường Sư phạm Nam Bộ ở rạch Tắt (Cái Tàu) được mở, có

quy mô lớn hơn, gồm cả lý thuyết và thực hành, đào tạo giáo viên dạy đến lớp

nhất tiểu học hoặc bổ sung cho bộ máy lãnh đạo của Ty. Trường mở được 2

khóa, mỗi khóa 6 tháng, đào tạo được 250 giáo viên tiểu học [38, 20 - 21].

Viện Văn hóa kháng chiến Nam Bộ mở lớp đào tạo giảng viên trung

học. Đó là lớp Sư phạm và Văn hóa đặc biệt mang tên Phan Chu Trinh gồm

100 giáo sinh trình độ từ bậc tú tài, đíplôm hoặc tương đương, do Giáo sư

Hoàng Xuân Nhị phụ trách.

Từ năm 1950, Sở Giáo Dục mở trường Sư phạm Tiểu học Nam Bộ tại

rạch Tắc (tỉnh Cà Mau) do Giáo sư Nguyễn Văn Chì làm Hiệu trưởng.

Trường đào tạo được 250 giáo sinh [38, 39, 43].

Đồng thời với việc nâng cao trình độ sư phạm, đời sống của giáo viên

các cấp cũng được chú trọng nâng lên. Đặc biệt, từ khi trường tư thục phát

76

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

triển mạnh mẽ, có nơi còn lấn át cả trường công thì công tác chăm sóc đời

sống giáo viên trường công được nhà nước quan tâm nhiều để các cán bộ giáo

dục yên tâm công tác, phát triển chuyên môn. “Biên bản Hội đồng giáo dục

đặc biệt” (tháng 3 - 1949) khẳng định: “…hậu đãi giáo sư trường công bằng

cách tăng lương, tăng phụ cấp dạy giờ để nâng cao đời sống các giáo sư thì họ

sẽ không có ý muốn cộng tác với tư thục nữa”[28, 177]. Với giáo viên miền

núi, đi lại và cuộc sống khó khăn gấp bội phần, cần tăng lương và có những

khoản phụ cấp hợp lý như: phụ cấp đi lại, phụ cấp khí hậu xấu…Bác Hồ rất

mực quan tâm đến đời sống của anh chị em giáo viên. Ngày 1 - 1 - 1950,

Người ký Sắc lệnh lập ra các khoản phụ cấp chuyên môn và phụ cấp chức vụ

cho giáo viên Tiểu học, giáo sư bậc Trung học và giáo sư bậc Đại học. Quan

tâm đến giáo viên cũng chính là quan tâm đến sự phát triển bền vững của giáo

dục.

Cuộc sống của học sinh Tiểu học, Trung học được Nhà nước quan tâm

thể hiện qua việc học sinh được trợ cấp sinh hoạt phí, cấp sách vở, bút,

đèn…và có chế độ học bổng.

Ngày 31 - 5 - 1948, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành Nghị

định số 09/TT tăng sinh hoạt phí cho học sinh trường Trung học Kháng chiến

Chu Văn An từ 100đ một tháng lên 150đ một tháng kể từ ngày 1 - 1 - 1948.

Báo cáo của Liên khu Giáo dục 3 khẳng định học sinh được nâng đỡ

nhiều. Trong năm 1948, Bộ Quốc gia Giáo dục đã cấp cho Liên khu 78.000

đồng học bổng, các đoàn thể trong Liên khu giúp thêm 28.650 đồng, tổng số

là 10 vạn đồng học bổng cho học sinh [28, 55].

Liên khu 4 giúp đỡ 1.000 xếp giấy cho học sinh bằng cách nhượng lại

với giá rẻ hơn [28, 62].

Từ tháng 9 năm 1948, theo Quyết định số 485/NĐ của Bộ Quốc gia

Giáo dục, học sinh Trung học và sinh viên không được cấp phí khoán hoặc

77

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

sinh hoạt phí mà các học sinh trung học, tiểu học, sinh viên đại học được

hưởng học bổng theo các mức độ sau:

Học bổng toàn phần mỗi tháng (đồng)

Bậc học

Khu vực

Khu vực

Khu vực 3 Khu vực 4

1

2

Sinh viên bậc Đại học

230

200

180

160

Học sinh bậc Trung học chuyên khoa

200

180

150

120

Học sinh bậc Trung học phổ thông

200

180

150

120

Học sinh bậc Tiểu học

50

40

30

20

Học bổng có thể cấp toàn phần, nửa phần hay một phần ba tùy gia cảnh, học lực,

hạnh kiểm của sinh viên và học sinh.

Sinh viên và học sinh miền núi được đặc biệt chú ý [28, 123].

Năm học 1948 - 1949, chỉ riêng học sinh trung học được Chính phủ cấp

500.000 đồng học bổng.

Nhà nước và Bộ rất quan tâm đến đời sống của học sinh nhưng do hoàn

cảnh chiến tranh, nhất là từ khi cả nước có lệnh tổng động viên, chế độ học

bổng cũng bị thay đổi ít nhiều. Ở bậc tiểu học không cấp học bổng, chỉ có một

lượng học phẩm nhất định cấp cho học sinh nghèo học giỏi. Ở bậc trung học

phổ thông chỉ đặt một số học bổng để cấp cho một số học sinh xuất sắc, trúng

tuyển một kì thi lấy học bổng. Ở bậc trung học chuyên khoa, học bổng được

cấp cho toàn thể học sinh với điều kiện người nhận học bổng phải cam đoan

làm việc cho Chính phủ. Từ việc cung cấp sinh hoạt phí cho học sinh đến học

bổng và học bổng có ý nghĩa là phần thưởng khuyến khích cho các lớp học trò

nhưng cũng thể hiện sự cố gắng của Nhà nước trong hoàn cảnh chiến tranh

vẫn có sự quan tâm nhất định đối với nền giáo dục nước nhà.

Một yếu tố không thể thiếu của nền giáo dục nói chung là vấn đề sách

giáo khoa. Đây được coi là khó khăn lớn nhất đối với tiểu học và trung học

trong những năm kháng chiến gian khổ, thiếu thốn. Từ năm 1948, Tổng Giám

78

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

đốc Trung học vụ đưa ra ý kiến: “Mỗi trường là một xưởng in, mỗi lớp là một

nhà in, giáo sư, học sinh mỗi người phải là một người thợ in, một người thợ

sắp chữ. Như vậy, sách giáo khoa mới được phổ biến mau chóng”[28, 78].

Việc soạn và in sách được Bộ Quốc gia Giáo dục phụ trách một phần và một

phần giao đến từng Liên khu đảm nhiệm. Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1948,

số sách giáo khoa tiểu học và trung học đã in là 44 quyển, in ra trên 40.000

bản, không kể ở Liên khu Giáo dục 1 và 10 còn có một số tập san khác.

Để việc soạn sách và in sách có thể nhanh chóng đáp ứng nhu cầu học

tập của quần chúng nhân dân, Hội đồng Tu thư Trung ương được lập theo

Nghị định số 143 - NĐ ngày 17 - 3 - 1949 và 21 - NĐ ngày 15 - 4 - 1949. Kỳ

họp đầu tiên của Hội đồng Tu thư Bộ Quốc gia Giáo dục được tổ chức ngày

11 - 4 - 1949 tại Phú Thọ nêu rõ: “Hội đồng Tu thư Trung ương là trung tâm

của tổ chức Tu thư toàn quốc có hai nhiệm vụ chính: - Định đường lối soạn

sách; - Duyệt sách”. Hồ Chí Minh dặn dò Hội đồng Tu thư soạn sách giáo

khoa và phổ thông của Bình dân học vụ phải nói đến tính cách xã giao mới.

Những sách về công dân giáo dục phải viết rõ thêm về bổn phận của công

dân. Lời nhắc nhở của Người cũng để hướng cho giáo dục có nội dung thiết

thực, phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc.

Được sự quan tâm của Người, cùng với những cố gắng không ngừng

của Hội đồng Tu thư và học sinh, giáo viên các Liên khu, năm 1949, số sách

in thêm tăng lên đáng kể [28, 251 - 252]:

Bậc học

Năm 1948

Năm 1949

Tiểu học

17

15

Trung học phổ thông

19

14

Trung học chuyên khoa

12

11

Tổng (chƣa kể Nam Bộ)

48

40

79

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Riêng số sách in thêm năm 1949 cũng gần bằng số sách in trong năm

1948 là một thành quả đáng quý đối với giáo dục phổ thông trong điều kiện

chiến tranh.

Nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo Dục ký ngày 17 - 6 - 1950

quy định ở mỗi bậc học có một Hội đồng duyệt sách. Tuy nhiên đến cuối năm

1950 có sự thay đổi: Nghị định thiết lập một Hội đồng duyệt sách chung cho

Nha Trung học và Nha Tiểu học để duyệt các sách giáo khoa dùng cho các

cấp học trường phổ thông được Bộ trưởng ký ngày 28 - 12 - 1950. Sự thống

nhất này hợp lý hơn, góp phần đảm bảo tính khoa học trong nội dung chương

trình của các cấp học kế tiếp nhau.

CHƢƠNG 3 GIÁO DỤC PHỔ THÔNG THEO TINH THẦN CẢI CÁCH GIÁO DỤC (1950 - 1954)

3.1. Chủ trƣơng cải cách giáo dục

Từ năm 1950, bối cảnh Việt Nam có những chuyển biến quan trọng.

Vượt lên mọi khó khăn, quân đội ta dần tiến lên giành thế chủ động.

Lực lượng bộ đội chủ lực lớn mạnh. Chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ

tiến dần lên chính quy. Lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành về mọi

mặt. Đảng và Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt

một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần vùng biên giới, mở rộng và

củng cố căn cứ Việt Bắc, mở đường liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa.

Sau 29 ngày đêm chiến đấu, chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi. Quân ta

tiêu diệt và bắt sống hơn 8.000 tên địch, giải phóng 5 thị xã, 12 thị trấn, giải

phóng 35 vạn dân trên 750 km biên giới. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới

đã tạo ra một chuyển biến căn bản cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta,

80

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

chuyển sang thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ và chủ động tiến

công, phản công ngày càng lớn.

Trong bối cảnh Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh Việt

Nam, các chính phủ bù nhìn tay sai kế tiếp nhau được lập lên rồi sụp đổ, nền

Dân chủ Cộng hòa Việt Nam vẫn vững vàng lớn mạnh.

Nhiệm vụ của giáo dục phổ thông thời kỳ này hòa chung với những

nhiệm vụ chính trị, cách mạng của cả nước. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là

đánh thắng giặc Pháp, giành lại hòa bình. Giáo dục không những tiếp tục phục

vụ cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc mà còn phải phục vụ đắc lực

cho cuộc chiến đang ở thời điểm quyết định. Cách mạng càng tiến lên thì lại

càng đòi hỏi chất lượng giáo dục được nâng cao.

Tháng 2 - 1951, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp tại

chiến khu Việt Bắc. Đại hội đã quyết định Đảng ra hoạt động công khai với

tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam. Chính cương của Đảng do Đại hội

thông qua nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ được đặt ra trong ba giai đoạn

cách mạng là không tách rời nhau: hoàn thành giải phóng dân tộc; xóa bỏ di

tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng,

phát triển kĩ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; xây dựng cơ sở chủ

nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.

Về nhiệm vụ và phương hướng của văn hóa giáo dục trong thời kỳ mới

là: “Để đào tạo con người mới, cán bộ mới và để đẩy mạnh kháng chiến kiến

quốc, phải bài trừ những di tích văn hóa giáo dục thực dân và phong kiến,

phát triển nền văn hóa, giáo dục có tính chất: về hình thức thì dân tộc, về nội

dung thì khoa học, về đối tượng thì đại chúng”. Chính sách văn hóa giáo dục

nói chung là: “Thủ tiêu nạn mù chữ, cải cách chế độ giáo dục, mở mang các

trường chuyên nghiệp. Phát triển khoa học kỹ thuật và văn nghệ nhân dân.

Phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc đồng thời học tập văn hóa Liên Xô, Trung

81

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác. Phát triển văn hóa dân tộc thiểu

số”[9, 440].

Với cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn canh cánh về thế hệ

tương lai của nước nhà. Nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 1 - 6 - 1950, Người gửi

thư cho thiếu niên, nhi đồng toàn quốc. Thư của Người viết: “Bác thương các

cháu lắm. Bác hứa với các cháu rằng: đến ngày đánh đuổi hết giặc Pháp,

kháng chiến thành công, thì Bác cùng Chính phủ và các đoàn thể cũng cố

gắng làm cho các cháu đều được no ấm, đều được vui chơi, đều được học

hành, đều được sung sướng”[21, 56]. Để thực hiện lời hứa đó, trong những

năm tháng chiến tranh, bên cạnh việc lãnh đạo toàn dân thực hiện kháng

chiến, quyết tâm giành lấy thắng lợi, Người vẫn luôn quan tâm đến việc giáo

dục thế hệ trẻ Việt Nam.

Từ tháng 7 năm 1948, trong thư gửi Hội nghị giáo dục toàn quốc, Hồ Chí

Minh đã có định hướng về cải cách giáo dục cho phù hợp với tình hình mới:

Chúng ta cần phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến

quốc. Vì vậy, chúng ta:

1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự

nghiệp kháng chiến và kiến quốc.

2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến

quốc cho các trường.

3. Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân

tài kháng chiến và kiến quốc.

4. Chúng ta phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo

tôn chỉ kháng chiến và kiến quốc [21, 462].

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, một sự kiện giáo dục nổi bật diễn ra

từ năm 1950 là cuộc cải cách giáo dục. Chuẩn bị cho cuộc cải cách này là cả

một quá trình lâu dài với sự đầu tư nghiên cứu của nhiều chuyên gia, nhiều

82

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

nhà hoạt động giáo dục có tài năng và kinh nghiệm. Ngay từ khi mới khai

sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 10 năm 1945, Chính phủ, đứng

đầu là Hồ Chí Minh, thành lập Hội đồng cố vấn học chính để nghiên cứu một

chương trình cải cách giáo dục. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh nên cuộc

cải cách này đã không thể thực hiện được. Trong phiên họp của Hội đồng

Giáo dục mở rộng ngày 26, 27, 28 - 2 - 1950 tại Việt Bắc, vấn đề cải cách

giáo dục một lần nữa được đưa ra. Hội nghị được đánh giá là Hội nghị lịch sử

trong lịch sử quốc gia nói chung và trong lịch sử giáo dục nước nhà nói riêng

vì đã phác họa được một chương trình mới cho giáo dục.

Chương trình dạy và học cũ có nhiều điểm không hợp lý như kiến thức

quá nặng, quá khó đối với trình độ học sinh các lớp dưới, hơn nữa lại bị gián

đoạn thành hai, ba bậc. Kiến thức phổ thông và kiến thức chính trị không phối

hợp với nhau, chưa đáp ứng được nhu cầu của kháng chiến trên phương diện

tinh thần. Vì thế, vấn đề cải tổ được đặt ra nhằm ba mục tiêu: 1. Dân chủ hóa

nền giáo dục; 2. Đào tạo con người mới, gột rửa những tàn tích cũ; 3. Chương

trình học phải thiết thực theo nhu cầu của đòi hỏi hiện tại. Các kỳ thi cuối mỗi

cấp học đều bị xóa bỏ. Việc lên lớp căn cứ vào học bạ và các kỳ thi tiện ích

trong lớp. Cuối năm học lớp 9, học sinh mới phải qua một kỳ thi tốt nghiệp có

tính chất kiểm tra tổng quát những kiến thức đã học của học sinh [28, 568].

Đề án tổ chức trường phổ thông 9 năm cùng với việc giải quyết việc chuyển

tiếp cho học sinh ở các lớp cũ sang các lớp học tương đương của bậc học mới.

Hội đồng Giáo dục cũng vạch ra được những nét đại cương về chương trình

dạy và học của từng môn học Sử kí, Công dân giáo dục và Chính trị thường

thức, Đức dục, Sinh ngữ, Việt văn…và những hướng phát triển cơ bản trong

việc thực hiện chính sách cán bộ, tài liệu giáo khoa, giáo dục ở các miền đồng

bào thiểu số và vùng địch chiếm, Nam Bộ…

Trong phiên họp Hội đồng Chính phủ đầu tháng 4 năm 1950, Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã có những chỉ đạo cơ bản, định hướng tư tưởng cho những

83

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

nhà hoạt động giáo dục trong việc hoạch định đường lối cải cách giáo dục.

“Biên bản cuộc họp Hội đồng chính phủ 4 - 1950” ghi rõ mục IV - Ý kiến của

Cụ Chủ tịch:

1. Nên đặt ra câu hỏi: học để làm gì; khi biết được mục đích rồi phải

đặt phương hướng; đặt được phương hướng rồi phải đặt tổ chức;

đặt tổ chức xong phải tìm cán bộ.

2. Phải quan niệm việc học rộng rãi hơn nữa. Không những chỉ trẻ

em học, cả dân cũng phải học: thợ, công chức, dân cày…Ví dụ:

đặt các trường học ở công xưởng, các chỗ nghiên cứu phổ thông

cho dân. Nếu bây giờ chưa làm được sau phải làm.

3. Phải nghiên cứu những nguyên tắc đặt trường tư [28, 589].

Những chỉ đạo của Người ở tầm vĩ mô nhưng lại rất sâu sát, cụ thể.

Xây dựng nền giáo dục mới phải dựa trên mục đích rõ ràng. Để đạt được mục

đích đó, phải có cách xây dựng giáo dục phù hợp về mọi mặt. Đó là quan

điểm khoa học, biện chứng của Người nhằm đưa giáo dục vào đời sống, phục

vụ cho đời sống nhân dân đông đảo.

Trên cơ sở những chỉ đạo của Người, ngày 15, 16 - 6 - 1950, Hội nghị

Giáo dục chuyên môn họp thống nhất với việc cải tổ giáo dục và những vấn

đề cần giải quyết kèm theo trong cuộc cải tổ. Hệ thống trường phổ thông 9

năm gồm 3 cấp: Cấp I: Lớp 1, 2, 3, 4; Cấp II: Lớp 5, 6, 7; Cấp III: Lớp 8; 9 và

được áp dụng trên toàn quốc kể từ đầu niên học 1950 - 1951. Chuyển tiếp học

sinh hiện tại sang bậc học mới được ấn định như sau:

- Đã học hết lớp Nhất Tiểu học, sang lớp 5.

- Đã học hết lớp Đệ I Trung học phổ thông sang lớp 6.

- Đã học hết lớp Đệ II Trung học phổ thông sang lớp 7.

- Đã học hết lớp Đệ III Trung học phổ thông sang lớp 8.

- Đã đỗ Trung học phổ thông sang lớp 9, đã học hết năm Đệ IV Trung

học phổ thông nhưng không đỗ được thì sang lớp 8 [28, 607].

84

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Chương trình giáo dục phổ thông phải dựa trên nguyên tắc: cấp I nặng

về quan sát thực tế; cấp II chú trọng về thực tế và bắt đầu thiên về lý luận; cấp

III thiên hẳn về lý luận.

Nguyên tắc trên cho thấy giáo dục phổ thông không những sát với sự

tiến triển của xã hội mà còn phù hợp với sự tiến triển về nhận thức thực tiễn

và lý luận của người học. Tính khoa học thể hiện ở chỗ phương pháp giáo dục

này đã tuân theo được quy luật nhận thức của con người từ dễ đến khó, từ đơn

giản đến phức tạp mà vẫn kết hợp được nguyên tắc học đi đôi với hành một

cách nhuần nhị, tự nhiên. Theo chủ nghĩa Mác, nguyên tắc này được coi là

phương pháp duy nhất để đào tạo những con người phát triển toàn diện [49, 26].

Đề án cải tổ giáo dục chính thức được Bộ Quốc gia Giáo dục thông qua

ngày 5 - 7 - 1950 với những tinh thần cơ bản đã được vạch ra và hoàn thiện

qua các cuộc họp của Hội đồng Giáo dục mở rộng ngày 26, 27, 28 - 2 - 1950,

Hội đồng Chính phủ đầu tháng 4 năm 1950 và Hội nghị Giáo dục chuyên môn

ngày 15, 16 - 6 - 1950. Ngày 31 - 7 - 1950, Thông tư số 56 - TT/P3 đặt hệ

thống trường phổ thông 9 năm được ban hành. Thông tư chỉ rõ: “Thực hiện

cải cách giáo dục theo một hệ thống hoàn toàn mới, là một vấn đề quan trọng

và khó khăn. Cần có một kế hoạch thật sát mới tránh được những trở ngại về

phương diện tinh thần cũng như về phương diện vật chất, như đã thấy ở nền

giáo dục cũ”[57, 288].

Thông tư số 49 - TT - TKV ngày 30 - 10 - 1951 quy định tổ chức

trường phổ thông 9 năm. Ngoài việc quy định tổ chức nhà trường ở các cấp I,

II, III, Thông tư chỉ rõ ở Bộ Trung ương, cơ quan lãnh đạo ngành học phổ

thông là Nha Giáo dục Phổ thông, từng Liên khu có Khu Giáo dục Phổ thông

Liên khu và mỗi tỉnh có Ty Giáo dục Phổ thông [58, 186]. Từ đó, khơi dậy

tinh thần trách nhiệm của từng địa phương đối với giáo dục phổ thông.

85

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Để đáp ứng tối đa nhiệm vụ giáo dục phục vụ kháng chiến, đồng thời

phù hợp với điều kiện trường lớp và giáo viên thời chiến tranh, một số môn

học chưa thực sự cần thiết, hoặc chưa có điều kiện giảng dạy tốt phải tạm gác

lại như ngoại ngữ, nhạc, vẽ, nữ công gia chánh ở cấp II và cấp III. Các môn

học và hoạt động mới như thời sự - chính sách, giáo dục công dân, tăng gia

sản xuất được tăng cường. Nghị định ngày 30 - 10 - 1951 của Bộ Quốc gia

Giáo dục cho thấy sự thay đổi trong kế hoạch giảng dạy để phù hợp với tình

hình mới:

- Số giờ dạy trong tuần:

+ Cấp I là 17 giờ (lớp 1, lớp 2) và 19 giờ (lớp 3, lớp 4).

+ Cấp II (lớp 5, 6, 7): 20 giờ.

+ Cấp III (lớp 8, 9): 21 giờ.

- Số giờ dạy các môn chính:

+ Cấp I: Quốc văn chiếm thời gian cao nhất từ 6 - 7 giờ; các môn

Quốc văn

Toán

Lý Hóa

Sinh ngữ

Các môn khác

Cấp II

4

3

2

4

1

Cấp III

3

4

2

3

1

khác từ 1/2 đến 1 giờ; hoạt động tập thể 2 giờ.

+ Các giờ Sinh ngữ có chủ trương tạm hoãn [39, 46].

Mục tiêu của nhà trường phổ thông là giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ trở

thành những người “công dân lao động tương lai”, có đủ năng lực và phẩm

chất để phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Phương châm giáo dục là học đi đôi

với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Nội dung giáo dục là bồi dưỡng tinh thần

dân tộc, lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần yêu lao động, tinh thần tập

thể, phương pháp suy luận và thói quen làm việc khoa học. Bộ máy quản lý

nhà trường được cải tổ theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hội đồng quản trị

được thành lập có đại biểu phụ huynh và đại biểu giáo viên, nhằm thông qua ý

86

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

kiến của các đại biểu để nghị quyết và chỉ thị về giáo dục của cấp ủy Đảng và

chính quyền địa phương có cơ sở thực tế vững chắc. Tổ chức nhà trường được

dân chủ hóa thêm một bước để phát huy tính tích cực của cả giáo viên và học

sinh. Đặt trong sự so sánh với nhà trường thuộc địa và “nhà trường cũ” theo

quan điểm của chủ nghĩa Lênin là: “một nhà trường chỉ biết có sách vở thôi,

nó bắt buộc người ta phải thấm nhuần một đống kiến thức vô ích, thừa và

không sinh động, làm cho đầu óc con người bị nhồi đầy và biến thế hệ trẻ

thành những người quan liêu đúc cùng một khuôn”[5, 21] thì mái trường phổ

thông những năm 1945 - 1954 được xây dựng trên những tiêu chí hoàn toàn mới.

Nhìn chung, cải cách giáo dục năm 1950 tuy chỉ được chuẩn bị trong

thời gian rất ngắn giữa hoàn cảnh chiến tranh nhưng đã giải quyết được những

vấn đề cơ bản của cuộc đổi mới giáo dục cho hợp với tình hình lúc bấy giờ.

Cuộc cải cách nhằm tiếp tục xóa bỏ những tàn tích cũ của nền giáo dục thực

dân, xây dựng nền giáo dục mang tính chất dân tộc. Bản chất giáo dục kiên

định là giáo dục dân chủ nhân dân, của dân, do dân, vì dân và dựa trên ba

nguyên tắc cơ bản là dân tộc, khoa học và đại chúng. Giáo dục phổ thông có

mục tiêu thiết thực là đào tạo nên những công dân lao động tương lai có đầy

đủ phẩm chất phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Phương châm giáo dục

là học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn.

Tháng 7 - 1951, Hội nghị giáo dục toàn quốc lần thứ ba được triệu tập.

Đây là Hội nghị đầu tiên sau gần một năm thực hiện đổi mới giáo dục nhằm

tổng kết kinh nghiệm cải cách giáo dục trong năm qua và đề ra những nhiệm

vụ căn bản cho giai đoạn mới. Hội nghị nhận định: “Tình hình giáo dục của

toàn quốc tuy còn nhiều khó khăn, nhưng xét kinh nghiệm những năm vừa

qua, chúng ta nhận thấy nhà trường đã bước vào con đường xây dựng chắc

chắn. Ta thấy con đường dân chủ nhân dân là con đường độc nhất của giáo

dục”[55]. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị, một lần nữa mục tiêu

87

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

giáo dục thiết thực được Người khẳng định lại: “Đại hội nên kiểm thảo kỹ

công tác “cải cách” về chương trình, chủ trương và cách thi hành, để tìm thấy

những khuyết điểm mà sửa đổi, những ưu điểm mà phát triển thêm.

Đại hội nên chú ý làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với đời sống

của nhân dân, với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc. Làm thế

nào để phối hợp việc giáo dục của trường học với việc tuyên truyền và giáo

dục chính trị chung của nhân dân”[22, 266].

Hội nghị chỉ rõ phương châm giáo dục phục vụ kháng chiến chủ yếu là

tiền tuyến, giáo dục phục vụ nhân dân chủ yếu là công nông binh, giáo dục

phục vụ sản xuất chủ yếu là nông nghiệp [35, 101].

Trường học cần phải hòa mình vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc

của dân tộc, không những thế phải tích cực tham gia vào hoạt động giáo dục

và tuyên truyền cách mạng. Với tính chất đó, nhà trường không đứng ngoài

mà trực tiếp tham gia vào đời sống chính trị chung của nhân dân.

Bàn về mục tiêu giáo dục, Người từng viết trong thư gửi giáo sư, sinh

viên trường dự bị đại học ở Thanh Hóa:

“Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho

dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân.

Các cháu thì học tập cần gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện

mục đích cao quý: thật thà phụng sự nhân dân”[22, 467].

Trong quan điểm giáo dục của Người, “thật thà phụng sự nhân dân” trở

thành mục tiêu và tôn chỉ cho hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh.

Học tập để phục vụ cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc không phải là việc

riêng của cá nhân, tổ chức nào hay của lứa tuổi nhất định. Với quan điểm nỗ

lực học tập, lao động cũng là tích cực tham gia kháng chiến, Bác động viên

các em nhỏ trên đất nước Việt Nam:

88

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Các cháu gửi thư cho Bác nhiều lắm. Bác rất vui. Nhưng vì Bác bận

quá, không trả lời riêng cho từng cháu được. Nhân dịp Tết Trung Thu, Bác

gửi các cháu thư này:

Ai yêu nhi đồng

Bằng Bác Hồ Chí Minh?

Tính các cháu ngoan ngoãn,

Mặt các cháu xinh xinh, Mong các cháu cố gắng

Thi đua học và hành.

Tuổi nhỏ làm việc nhỏ,

Tùy theo sức của mình:

Để tham gia kháng chiến,

Để gìn giữ hòa bình.

Các cháu hãy xứng đáng:

Cháu Bác Hồ Chí Minh!

Hôn các cháu

Hồ Chí Minh [22, 572].

Những quan điểm giáo dục trên đây của Người tựu trung lại được dựa

trên quan điểm về mục tiêu sâu xa của giáo dục Người từng tổng kết:

“Học để làm gì?

a) Học để sửa chữa tư tưởng: Hăng hái theo cách mạng, điều đó rất

hay. Nhưng tư tưởng chưa thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì

thế cần phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư tưởng đúng thì

hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng

được.

b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng: Có đạo đức cách mạng thì

mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần

chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn.

c) Học để tin tưởng:

89

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Tin tưởng vào Đoàn thể

Tin tưởng vào nhân dân.

Tin tưởng vào tương lai của dân tộc.

Tin tưởng vào tương lai cách mạng.

Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc

gặp khó khăn mới kiên quyết, hi sinh.

d) Học để hành: Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì

học vô ích.

Hành mà không học thì hành không trôi chảy”[22, 50].

Người không chỉ vạch ra được cái đích đi tới của việc học mà qua đó

còn thể hiện được phương pháp giáo dục bắt đầu đi từ tư tưởng nhằm cải biến

nhận thức, quan điểm, tư duy của người học. Nhận thức đó không chỉ nằm

trong trí não con người mà cần được hiện thực hóa bằng những hành động cụ

thể.

Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh thần cải cách giáo dục,

giáo dục phổ thông giai đoạn 1950 - 1954 tập trung vào một mục tiêu duy

nhất: phục vụ cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc và phụng sự cho

công cuộc kiến thiết nước nhà. Được sự lãnh đạo của Người, dù hoàn cảnh

chiến tranh khốc liệt, thiếu thốn mọi bề nhưng giáo dục Việt Nam nói chung

và giáo dục phổ thông nói riêng không ngừng vươn lên, khắc phục hoàn cảnh

để có thể đóng góp cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn.

3.2. Củng cố và phát triển giáo dục phổ thông phục vụ kháng chiến

Dưới sự chỉ đạo thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối

cải cách giáo dục, trong thời gian 1950 - 1954, giáo dục phổ thông có những

bước đi có thể coi là sự chuyển hướng cho phù hợp với tình hình mới.

Để tinh thần của cải cách giáo dục nhanh chóng đến được với quần

chúng nhân dân đông đảo, các cán bộ giáo dục các cấp không ngừng tuyên

90

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

truyền, giải thích để nhân dân hiểu và làm theo, đồng thời khích lệ tinh thần

học tập của toàn dân. Bộ Quốc gia Giáo dục coi đây là một trong những

nhiệm vụ quan trọng làm được càng sớm càng tốt. Bộ trưởng Nguyễn Văn

Huyên cho ý kiến chỉ đạo về việc đả thông tư tưởng phải có trọng tâm, nhằm

vào những điểm mà nhân dân còn thắc mắc hay hiểu nhầm. Không nên đả

thông lại những điểm đã làm rồi [28, 1057]. Từ đầu năm học 1950 - 1951, Bộ

đã cử cán bộ đến các Liên khu 3, 4 và Liên khu Việt Bắc, tổ chức những Hội

nghị và những cuộc nói chuyện giải thích về cải cách giáo dục.

Cải cách giáo dục với trọng tâm là việc xây dựng hệ thống giáo dục phổ

thông mới 9 năm đã từng bước được triển khai ở các vùng giải phóng từ Liên

khu IV trở ra, bao gồm các tỉnh ở Việt Bắc (Thái Nguyên, Tuyên Quang,

Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang và Yên Bái); Tây Bắc (Sơn La, Lai Châu);

khu IV (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa

Thiên); một phần khu IV cũ (Bình Định, Quảng Ngãi); một phần trong khu du

kích ở đồng bằng sông Hồng (Thái Bình, Nam Hà, Hưng Yên…).

Các tỉnh cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, miền Đông và miền Tây

Nam Bộ vẫn tiếp tục học theo chương trình cũ đã cải tiến.

Ở các vùng địch chiếm đóng, về cơ bản, các trường vẫn dạy theo hệ

thống giáo dục phổ thông cũ từ tiểu học đến hết trung học đệ nhị cấp là 12

năm, nội dung và chương trình gần giống trước năm 1945.

Như vậy, mặc dù những nhà lãnh đạo giáo dục mong muốn sẽ thực

hiện cải cách giáo dục trên toàn quốc nhưng điều đó khó có thể thực hiện

ngay bởi những chia cắt của cuộc chiến tranh. Thực tế, đến thời điểm này,

trên toàn cõi Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hệ thống giáo dục với bản chất

và mục đích giáo dục khác nhau, đặc biệt là giữa vùng tự do và vùng địch

chiếm.

91

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Bằng những nỗ lực không ngừng của toàn xã hội mà trước hết là của

thầy, trò, những năm 1950 - 1954, giáo dục phổ thông đạt được những thành

tựu nhất định, đóng góp cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc của nước nhà.

Năm học 1950 - 1951, do có những lúng túng trong việc chuyển đổi từ

hệ thống giáo dục cũ sang hệ thống giáo dục mới nên đến cuối năm học,

lượng chương trình vẫn chưa được giảng dạy hết. Các trường phải dạy bù

trong 3 tháng (từ 16 - 9 đến 15 - 12 - 1951) cho thấy sự cố gắng không ngừng

của cả các thầy cô giáo và học sinh.

Số lượng trường lớp, học sinh và giáo viên tăng lên nhiều, nhất là ở cấp

I và cấp II. Cấp III có sự sụt giảm về số học sinh như bảng thống kê sau phản

ánh [28, 770]:

Năm 1950

Năm 1951

Chú thích

Cấp I

Số trường

2679

3482

Tăng 803

Số học sinh

279665

373803

Tăng 94138

Giáo viên cấp I (hiện có)

9503

Cấp II

Số trường

30

102

Tăng 72

Số học sinh

12941

36689

Tăng 23748

Cấp III

Số trường

3

7

Tăng 4

Số học sinh

650

546

Giảm 104

Giáo viên cấp II và III

902

(hiện có)

Trong năm 1950, số lượng trường lớp, học sinh và giáo viên giảm một

cách đáng kể do có lệnh tổng động viên, học sinh tình nguyện nhập ngũ

nhiều. Vì vậy, sang năm 1951, một mặt do đã qua thời điểm cao trào của cuộc

92

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

tổng động viên, mặt khác do vào năm học mới, các cháu đến tuổi đến trường

vào cấp I nên số lượng học sinh cấp I tăng rất mạnh. Ngược lại, học sinh cấp

III - cấp học có nhiều nhất học sinh tình nguyện tòng quân - vẫn giảm, tuy số

giảm đã thấp nhiều so với năm trước.

Số liệu thống kê không đầy đủ nên không thể đánh giá được số lượng

giáo viên tăng hay giảm. Tuy nhiên, so sánh số lượng giáo viên và rõ nhất, số

lượng học sinh các cấp học cho thấy số giáo viên, họ sinh cấp I gấp nhiều lần

giáo viên, học sinh cấp II, III. Từ đó cũng có thể rút ra kết luận ban đầu là đến

năm học 1950 - 1951, khi bước vào thực hiện nội dung cải cách giáo dục chưa

được bao lâu thì giáo dục ở cấp thấp vẫn là phổ biến, còn giáo dục cấp cao

hơn, cấp II, nhất là cấp III còn rất hạn chế. Đây là hệ quả tất yếu của một nền

giáo dục chịu sự chi phối hơn tám mươi năm của thực dân Pháp và những tác

động của cuộc chiến chống Pháp đang diễn ra trên đất nước ta.

Do chiến tranh nên việc tổ chức dạy và học vô cùng khó khăn. Các

trường lớp, nhất là những trường lớn phần lớn tổ chức học vào ban đêm để

tránh phi cơ oanh tạc. Tuy vậy, tinh thần học tập của học sinh rất cao, ham

học hỏi và tích cực tham gia các hoạt động kháng chiến. Từ tháng 9 năm

1951, Đoàn sinh viên, học sinh Việt Nam phát động phong trào “Cải tạo học

tập” tại tất cả các trường cấp II, III, chuyên nghiệp và đại học. Qua phong trào

này, tinh thần học tập của học sinh nâng lên đáng kể. Ý thức học tập để phục

vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến và các mối quan hệ với thầy cô giáo, với

bạn bè của học sinh đều được chú ý cải tạo, đem lại kết quả khả quan.

Theo “Báo cáo của Bộ Quốc gia Giáo dục về tình hình giáo dục 6

tháng đầu 1951”, tại các Liên khu miền Nam, miền Nam Trung Bộ đã tổ

chức được hệ thống trường phổ thông 9 năm. Riêng Nam Bộ chưa thực

hiện được hệ thống mới.

93

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Miền Nam Trung Bộ có tổng số học sinh là 14.7767, trong đó có

42.467 là học sinh nữ. Số học sinh tăng hơn năm trước 45%, cấp 2 tăng tới

100%. Tổng số lớp là 3.595.

Số giáo viên là 3.528, trong đó có 1.446 giáo viên là do ngân sách xã

đài thọ.

Ở Nam Bộ, chưa chuyển được sang hệ thống giáo dục mới và có

phần lúng túng về vấn đề cán bộ và tình hình sách giáo khoa. Cuối năm

1949 mãn khóa các lớp trường Nguyễn Văn Tố và Thái Văn Lung nhưng

đến trung tuần tháng 6 - 1951 mới khai giảng khóa mới. Mỗi trường đều

lấy khoảng 170 học sinh.

Trường Huỳnh Văn Đệ mới được khai giảng, lấy được 178 học sinh.

Tháng 7 - 1950, 141 cán bộ tốt nghiệp trường Trung học Bình dân

Nguyễn Công Mỹ.

Năm 1950, Nam Bộ tổ chức được 3.026 lớp với 2.889 giáo viên,

104.702 học sinh. Ngoài ra còn có các đoàn thể và tư nhân tổ chức 122 lớp

học tư thục (đa số là lớp 3 và 4) với 116 giáo viên, 4.380 học sinh.

Đến cuối năm 1951, Nam Bộ có 3.332 lớp tiểu học, với 111.777 học

sinh và 2 trường trung học [28, 760 - 761, 772].

Trong niên học này, Bộ có kế hoạch lập trường dành riêng cho nữ

sinh. Một phần do thiếu kinh phí, phần vì thiếu an toàn và nhất là Hội Liên

hiệp Phụ nữ đang tập trung cho công tác dân công nên không thể có sự

giúp đỡ tích cực được nên kế hoạch không thực hiện được. Nếu mở được

trường nữ sinh thì số học sinh nữ tăng lên nhiều. Hiện tại, mới chỉ có Liên

khu 4 có lượng học sinh nữ tăng.

Niên học 1950 - 1951 còn là năm phản ánh sự thận trọng của các nhà

lãnh đạo giáo dục Việt Nam. Hết 6 tháng đầu năm 1951, Bộ thực hiện công

việc tổng kết kinh nghiệm xây dựng ngành học phổ thông 9 năm. Ưu, khuyết

94

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

điểm được thẳng thắn chỉ rõ: 4 khuyết điểm là trình độ không đồng đều của

học sinh, không đảm bảo đủ chương trình học cho đúng thời lượng do lúng

túng trong việc chuyển hệ thống giáo dục mới; cán bộ phụ trách chưa thấm

nhuần tinh thần cải tổ, chưa thực hiện đúng kế hoạch đề ra; thiếu thốn phương

tiện dạy và học; khuyết điểm do kế hoạch tổ chức không đầy đủ, đồng bộ. Ưu

điểm còn rất ít nhưng cho thấy cải cách giáo dục của ta đi đúng hướng, tiến

tới xây dựng nền giáo dục dân chủ nhân dân, phù hợp với con đường tiến hóa

của dân tộc. Trên cơ sở những tổng kết đó, Bộ tập trung nghiên cứu những kế

hoạch phù hợp hơn cho năm học 1951 - 1952 cả về nội dung chương trình, tài

liệu sách giáo khoa, vấn đề cán bộ….

Năm 1950, sự kiện không chỉ có ý nghĩa giáo dục mà còn có ý nghĩa

chính trị lớn là sự giúp đỡ của các nước anh em đối với nước ta về giáo dục

trong kháng chiến. Tuy cách mạng mới thành công nhưng Trung Quốc đã

nhận một số lớn thiếu nhi của ta sang nuôi dưỡng và học tập chu đáo. Bên

cạnh đó, Liên Xô, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, mỗi nước nhận hàng

trăm thiếu nhi Việt Nam nuôi dưỡng và học tập [50, 24].

Năm 1952, các công việc của Bộ Quốc gia Giáo dục được Hội đồng

Chính phủ ấn định rất chặt chẽ. Nhiệm vụ của Chính phủ giao cho Bộ trưởng

trong năm 1952 liên quan đến giáo dục phổ thông gồm có:

1. Tăng cường giáo dục chính trị cho nhân dân;

2. Đào tạo cán bộ chuyên nghiệp, đặc biệt cán bộ sơ cấp và trung cấp;

3. Tiếp tục cuộc cải cách giáo dục: chú trọng đến việc sửa lại chương

trình cho sát hơn, soạn sách giáo khoa và đào tạo cán bộ.

Phương châm làm việc để có thể thực hiện các nhiệm vụ trên là “phải

làm thế nào để cho nhà trường thành một đơn vị sản xuất và chương trình học

năm nay cũng phải là một chương trình sản xuất (không phải là nếu chỉ nêu

95

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

tăng gia sản xuất suông, không phải chỉ đưa sức vào mà còn phải nâng cao kĩ

thuật)”. Các trường phải góp phần vào việc nâng cao kĩ thuật [28, 918 - 919].

Phương châm hoạt động trên của ngành giáo dục nhằm phù hợp với

phương châm của các lĩnh vực khác như: về quân sự - tiêu diệt sinh lực địch;

về chính trị - phá âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt

trị người Việt của thực dân Pháp; về kinh tế, tài chính - sản xuất và tiết kiệm.

Với mục tiêu này, nhà trường thực sự hòa nhập và tập trung cao độ cho

cuộc kháng chiến cùng cả nước. Tuy nhiên yêu cầu đặt ra là không chỉ sản

xuất mà trường học còn phải là nơi nghiên cứu được những kĩ thuật sản

xuất mới, đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao của con người cũng

như của cuộc chiến tranh.

“Kiểm thảo công tác giáo dục năm 1952”, Bộ Quốc gia Giáo dục nhận

định dù đã sửa đổi chương trình học cho sát hơn nhưng kết quả thu được rất

hạn chế. Giáo dục chưa phục vụ được sản xuất và chưa tiết kiệm được nhiều.

Nhìn chung, giáo dục phổ thông chưa kết hợp được thật cụ thể nội dung giáo

dục với những nhiệm vụ chung mà Chính phủ đề ra. Cũng cần có cái nhìn

đúng đắn về chủ trương biến nhà trường thành một đơn vị sản xuất, biến

chương trình học thành chương trình sản xuất. Điều này dường như có lợi ích

rất lớn đối với cuộc kháng chiến, nghĩa là việc học tập có mục tiêu và ý nghĩa

thiết thực. Nhưng thực hiện được chủ trương đó không phải điều đơn giản,

đòi hỏi cả học sinh và giáo viên phải có năng lực sáng tạo kĩ thuật rất lớn

trong điều kiện đặc biệt thiếu thốn phương tiện học hành. Đánh giá chung lại

của Bộ là giáo dục phổ thông năm học 1951 - 1952, tuy có chậm nhưng tiến

bộ hơn, cụ thể hơn, đi sát với hoạt động trọng tâm của cuộc kháng chiến.

Năm 1952, Sở Giáo Dục Nam Bộ mở trường Tiểu học Văn hóa chiến

sỹ thi đua Nam Bộ do thầy Trần Tuấn Đạo làm Hiệu trưởng. Trường học thể

96

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

hiện rõ ý thức giai cấp và quyết tâm của lãnh đạo nâng cao trình độ học vấn

cho những phần tử ưu tú nhưng trước đây chưa có điều kiện đi học [38, 42].

Tháng 8 năm 1952, Sở Giáo Dục Nam Bộ phối hợp với tỉnh Bạc Liêu

mở trường trung học kháng chiến Bạc Liêu, đáp ứng nhu cầu học tập của một

số lượng lớn học sinh vừa học xong bậc tiểu học ở Bạc Liêu và các tỉnh, của

con em cán bộ, gia đình liệt sỹ. Trường do Giáo sư Nguyễn Văn Nghĩa làm

Hiệu trưởng, Trương Văn Vinh làm Hiệu phó. Trường mở được 1 khóa, dạy

đến ngày tập kết với tổng số 150 học sinh.

Theo đề nghị của Đoàn Thanh niên Cứu quốc Nam Bộ, trường trung

học kháng chiến Tiền Phong cũng được mở trong năm 1952 tại xã Phú Mỹ,

đầm Bà Tường, Cà Mau trước trung học Bạc Liêu mấy tháng. Trường Tiền

Phong đào tạo bồi dưỡng văn hóa, chính trị cho đoàn viên, cán bộ Đoàn các

cấp và con em liệt sỹ. Trường mở được 2 khóa với 150 học sinh.

Bộ Quốc gia Giáo dục vạch chương trình hoạt động năm 1953 gồm 6

điểm. Trong đó có 4 điểm liên quan đến giáo dục phổ thông:

1. Cải tạo tư tưởng cho cán bộ.

2. Huy động lực lượng các trường phổ thông phục vụ công tác

trung tâm.

3. Đào tạo cán bộ miền núi.

4. Tăng cường cơ sở giáo dục trong miền mới giải phóng và ở

địch hậu [28, 1096].

Trong năm học 1952 - 1953, 1953 - 1954, nhờ phong trào quần chúng

chung và cán bộ có ý thức phục vụ hơn nên ngành giáo dục nói chung đi vào

hướng mới và được củng cố hơn. Giáo viên và học sinh hòa nhập được tốt

hơn với những sinh hoạt chung của cuộc kháng chiến. Các lớp chỉnh huấn

được mở, cải tạo tư tưởng cho giáo viên, học sinh như ở Liên khu 2, 3. Liên

khu Việt Bắc tổ chức được các lớp “chính trị thực hành”. Các trường học đã

97

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

gây được những thành tích về sản xuất và tiết kiệm, khắc phục được hạn chế

trong năm học 1951 - 1952. Tiêu biểu như Liên khu Việt Bắc, giáo viên và học

sinh đã sản xuất và thu hoạch được hơn 60 triệu đồng, tiết kiệm được 95 triệu.

Ba xã ở Phú Thọ bắt được 17 tạ sâu, cứu được hơn 1400 mẫu lúa và ngô [28,

1094].

Số học sinh phổ thông năm 1953 là 680270 [28, 1123], riêng vùng tự

do có 769640 học sinh [61, 6]. Theo Võ Thuần Nho, năm 1954 là 633718 học

sinh [39, 58]. Như vậy, theo hai số liệu thống kê này thì số lượng học sinh phổ

thông giảm vào năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Mục tiêu Chính phủ và Bộ Quốc gia Giáo dục đề ra là phát triển gắn

liền với nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Cuộc cải cách giáo dục năm

1950 cũng không nằm ngoài mục đích này. Thực tế giáo dục những năm 1950

- 1954 cho thấy giáo dục tiến gần hơn với đời sống lao động và kháng chiến

của nhân dân, đạt được một số thành tựu nhất định về số lượng học sinh và

giáo viên nhưng thực sự chưa đúng với mong mỏi của những nhà lãnh đạo

giáo dục Việt Nam. Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên nhận định chương trình

còn kém và thiếu sót về nhiều mặt: trí, đức, mỹ, thể dục. Chương trình tuy có

tiến bộ nhưng vẫn xa rời thực tế, chưa theo kịp được với những đòi hỏi của

cách mạng và kháng chiến.

So sánh giáo dục phổ thông từ 1950 - 1954 với giáo dục phổ thông giai

đoạn 1945 - 1950, một điểm khác biệt nổi trội là ở giai đoạn sau, hoạt động

chỉnh huấn giáo viên, rèn luyện học sinh được nâng lên ở mức cao hơn. Đó là

do nhu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến đang đi đến giai đoạn quyết

định nên giáo dục phổ thông gắn liền với mục tiêu thiết thực là phục vụ cho

cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy, cần phải có những con

người có đầy đủ sức khỏe, có lòng yêu nước, dám hy sinh, có tinh thần trách

nhiệm, không sợ khó, không sợ khổ. Giáo dục cũng phải có những hoạt động

98

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

thiết thực khác tham gia vào cuộc chiến như đóng góp sức người, sức của,

góp phần tuyên truyền chống giặc, cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân…

Dù trong điều kiện chiến tranh, lại ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa

nhưng giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng vẫn được Chính

phủ và Bộ quan tâm phát triển. Chương trình giáo dục năm 1950 đề ra hướng

phát triển giáo dục miền núi bằng cách La tinh hóa chữ các miền để dễ học;

có nơi thì dùng tiếng của đồng bào thiểu số để dạy, soạn dịch quốc văn ra

tiếng của các miền thiểu số. Bên cạnh đó là việc châm chước tuổi và trình độ

văn hóa để nhận học sinh vào trường Trung học đặc biệt và Sư phạm đặc biệt;

mở các kí túc xá, tạo chỗ ở ổn định cho học sinh. Đối với giáo viên, Nhà nước

có chính sách riêng, đặc biệt để đào tạo và nâng đỡ giáo viên ở miền xuôi lên.

Với những chủ trương rất linh hoạt này, Chính phủ và Bộ Quốc gia Giáo dục

nhằm tạo điều kiện tối đa để người dân tộc có thể học hành được nhanh nhất,

thuận tiện và tốt nhất.

Trong năm học 1951 - 1952, việc biên soạn một số tài liệu bằng tiếng

Thái và tiếng Thổ đã được Vụ Văn học Nghệ thuật thực hiện và phổ biến vào

đầu năm 1952. Liên khu 4 và Việt Bắc mở được 6 lớp Sư phạm miền núi,

cung cấp cho giáo dục phổ thông 233 giáo viên cấp I người miền núi. Trong

điều kiện rất thiếu giáo viên thì những thành quả này đặc biệt đáng quý, tạo

đà cho giáo dục miền núi phát triển.

Hai năm học 1952 - 1953 và 1953 - 1954, Chính phủ trực tiếp giao

nhiệm vụ cho Bộ Quốc gia Giáo dục, trong đó việc phát triển giáo dục miền

núi và đào tạo cán bộ là những vấn đề thường được nhắc tới. Năm 1953, ở

Việt Bắc đã mở được 3 lớp đào tạo giáo viên miền núi (2 lớp ở Lạng Sơn, 1

lớp ở Tuyên Quang). Dù lượng giáo viên chưa nhiều nhưng các trường phổ

thông cấp II, III phân phối sâu rộng, nhất là ở tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng,

99

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Tuyên Quang nên các giáo viên phải cố gắng khắc phục khó khăn nhiều hơn,

trái lại, lại gây dựng được mạng lưới giáo viên rộng hơn ở các vùng.

Việc mở trường tại các tỉnh miền núi rất được chú ý. Do điều kiện địa

hình xa và hiểm trở nên việc mở trường vô cùng khó khăn. Các trường phổ

thông được mở lại nằm cách nhau khá xa. Đến năm 1953, ở Sơn La mới

củng cố được 2 trường và phát triển thêm 2 trường. ở Yên Bái mở thêm

được 2 trường.

Tại các lớp học ở Cao Bằng và Hà Giang, việc giảng dạy bằng tiếng

địa phương đã có kết quả, tuy nhiên việc phiên âm tiếng Thổ còn gặp nhiều

khó khăn.

Số học sinh đi học khá đông. Riêng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có

39.300 học sinh các dân tộc thiểu số: Thổ, Nùng, Mường, Mán, Thái,

Nhắng…Nữ sinh đi học đông hơn, đầu năm 1952, cả nước có 108700 học sinh*7[28, 1123]. Lượng nữ sinh tăng lên không chỉ phản ánh sự gia tăng đơn

thuần về số lượng mà còn cho thấy sự tiến bộ về tư tưởng, sự thay đổi trong

tư duy, trong quan niệm về việc học của người dân tộc đã có chiều hướng tích

cực.

“Báo cáo công tác giáo dục năm 1953” của Bộ Quốc gia Giáo dục cho

biết số học sinh phổ thông miền núi là 38000 (cấp I: 35500; cấp II: 2700; cấp

III: 19) [28, 1134]. Số lượng học sinh giảm trong sự giảm chung của cả nước.

Những số liệu trên còn phản ánh giáo dục ở cấp thấp của miền núi phát triển

hơn, còn ở trình độ cao hơn thì số lượng càng giảm. Cùng với những khó

*7 Chú thích: “Báo cáo của ngành giáo dục ” năm 1953 ghi số liệu có sự chênh lệch đôi chút. Có thể là do thời gian thống kê các số liệu này khác nhau: “Từ Liên khu 4 trở ra có tới 39300 học sinh các dân tộc thiểu số: Thổ, Nùng, Mường, Mán, Thái, v.v…Nữ sinh đi học ngày càng đông, tổng số ở các trường phổ thông là 108000”, xem Nguyễn Văn Huyên toàn tập, Văn hóa và Giáo dục Việt Nam, tập III, Nxb. Giáo Dục, H. 2005, tr.1085.

khăn khác từ phía học sinh như vấn đề kinh tế, đi lại vất vả…thì giáo viên

100

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

không nhiều, nhất là giáo viên người miền núi rất ít làm hạn chế nhiều sự phát

triển của giáo dục phổ thông miền núi.

Những năm 1950 - 1954, được sự quan tâm của Chính phủ và Bộ Quốc

gia Giáo dục chú trọng phát triển văn hóa, giáo dục miền núi nên giáo dục

phổ thông có những bước tiến nhất định. Sự phát triển này còn nhỏ bé so với

yêu cầu của phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội miền núi cũng như những nhu

cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến chống Pháp - một cuộc chiến lấy địa

bàn miền núi là chủ yếu.

Giai đoạn 1950 - 1954, giáo dục phổ thông trong vùng địch chiếm,

vùng địch hậu có những nét riêng , kết hợp giáo dục với việc chống phá địch,

nhất là trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục.

Hoạt động giáo dục của ngụy quyền rất mạnh mẽ nhằm lôi kéo tối đa

quần chúng nhân dân trong vùng chúng chiếm được. Ngụy quyền lập ra đại

chúng học vụ để cưỡng bách dân chúng đi học, dân huấn học (mở lớp cho

người luống tuổi), phát triển những trường lớn ở đô thị và vùng Công giáo.

Ngoài ra, ngụy quyền còn cấp học bổng, mở các trường thí nghiệm ở các

trường trung học, tổ chức các Hội học sinh, nêu ra các vấn đề cải cách giáo

dục …

Để chống lại những chính sách văn hóa, giáo dục phản động của địch,

Chính phủ và Bộ Quốc gia Giáo dục phải có những đối sách phù hợp.

Chương trình giáo dục năm 1950 đặt ra là phải soạn một số tài liệu

riêng cho vùng địch chiếm và bằng nhiều hình thức để liên lạc với học sinh,

gây dựng được phong trào, đả phá các tổ chức giáo dục của địch.

Việc gây dựng cơ sở đặc biệt được chú trọng. Năm học 1950 - 1951,

Liên khu 3 đã gây dựng được một số trường cấp I trong các tỉnh bị chiếm như

Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam. Ở Sơn Tây dấy lên phong trào đả phá giáo

dục ngụy quyền, chống lại việc phá trường sở và bắt bớ giáo viên. Đồng thời,

101

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

như ở tỉnh Thái Bình và Hải Dương diễn ra những hội nghị giải thích về nền

giáo dục dân chủ nhân dân của ta, tạo niềm tin cho đồng bào trong vùng bị

địch chiếm.

Liên khu 5 và Bình - Trị - Thiên mở được nhiều trường, có khi sát với

vị trí của địch, dù bị địch khủng bố nhưng việc học vẫn diễn ra đều.

Phong trào đấu tranh chống lại giáo dục thực dân có xu hướng phát

triển mạnh mẽ hơn trong năm học 1953 - 1954. Thái Bình, Hải Dương, Kiến

An mở thêm được 143 lớp phổ thông, 168 lớp vỡ lòng. Bắc Ninh chấn chỉnh

được các cơ sở ở Tiên Du, Quế Dương, Võ Giàng, Bình Thuận mở được 18

lớp với gần 1000 học sinh. Quảng Bình, Quảng Trị cũng tăng cường được

trường lớp [28, 1099].

Song song với việc chống lại văn hóa giáo dục phản động của địch, ta

còn phổ biến tài liệu, tích cực tranh thủ và trung lập được các giáo viên, học

sinh trong vùng địch chiếm. Tính đến hết 6 tháng đầu năm 1953, Thái Bình đã

tranh thủ được hơn 50 giáo viên và trung lập được hơn 30 giáo viên. Hòa

Bình trung lập 17 giáo viên. Thái Bình, Hưng Yên, Kiến An lôi kéo được 300

học sinh ra vùng du kích. Số lượng học sinh vùng địch hậu xin ra học ở vùng

tự do ngày càng đông. Điều đó chứng tỏ ảnh hưởng của nền giáo dục dân chủ

nhân dân rất lớn và từng bước phá được âm mưu thâm độc của thực dân và bè lũ

bán nước.

Các phong trào khác được tổ chức ở vùng địch hậu được đông đảo học

sinh tham gia như: vận động học sinh phản đối học tập quân sự, chống bắt

lính, vận động giáo viên, học sinh chống lại văn hóa nô dịch đồng thời với

việc giải thích những chính sách giáo dục của Chính phủ… Phong trào có lúc

phát triển rầm rộ nhưng do phía ta chưa có được những kế hoạch đầy đủ nên

kết quả đem lại còn hạn chế, chưa được như mong muốn.

102

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Những kết quả của giáo dục phổ thông trong vùng địch chiếm, vùng

địch hậu có ý nghĩa nhất định đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Quan trọng hơn, Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Quốc

gia Giáo dục đã tạo được niềm tin đối với nền giáo dục dân chủ nhân dân

trong lòng dân.

Đảm trách công tác giáo dục là trách nhiệm và nhiệm vụ thường xuyên

của các thầy cô giáo, của những cán bộ giáo dục. Hồ Chủ tịch Hồ nhiều lần

dặn dò:

“Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy học là: chăm lo

dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao

động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà.

Để làm tròn nhiệm vụ ấy, cán bộ giáo dục cần phải luôn luôn ra

sức thi đua công tác và học tập, thật thà tự phê bình và phê bình để

cùng nhau tiến bộ mãi”[23, 501].

“Nên yên tâm công tác. Phải hiểu rằng không có công tác gì vẻ

vang bằng việc chăm nom bồi dưỡng cho các cháu là những người

làm chủ tương lai của nước nhà”[23, 561 - 562].

Chính sách cán bộ trong những năm 1950 - 1954 được Chính phủ và

Bộ Quốc gia Giáo dục chú trọng, đặc biệt trong việc bồi dưỡng đạo đức, tư

tưởng cách mạng. Chương trình hoạt động giáo dục năm 1950 đã lập được

Ban “Rèn cán chỉnh cơ” để kịp hoạt động trước khi khai giảng năm học 1950

- 1951. “Rèn cán chỉnh cơ” là cuộc vận động sinh hoạt tư tưởng đầu tiên khá

sâu rộng trong ngành giáo dục kháng chiến. Suốt năm 1951, các lớp huấn

luyện một tháng được mở để giáo viên học tập, thấm nhuần đường lối giáo

dục dân chủ nhân dân. Bên cạnh đó, phong trào kiểm thảo, phê bình và tự phê

bình do Công đoàn phát động đã góp một phần quan trọng vào việc cải tạo

cán bộ.

103

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Từ năm 1953, Đảng và Chính phủ thực hiện triệt để cải cách ruộng đất.

Nhiệm vụ của ngành giáo dục là kết hợp giảng dạy với công tác trung tâm

phát động quần chúng. Các lớp chỉnh huấn cho cán bộ giáo dục được tổ chức,

“ngành giáo dục coi chỉnh huấn cho giáo viên là công tác trung tâm số 1”[39,

60]. Có nơi như Liên khu 5 tổ chức được các lớp “chính trị thực hành”, các

giáo viên đã được chỉnh huấn tổ chức học tập chương trình giảng dạy và biên

soạn tài liệu giáo viên. Ở Phú Thọ và Lạng Sơn, việc tổ chức kiểm thảo được

làm chặt chẽ hơn trong hàng tuần không những giáo viên, học sinh chưa dự

lớp mà cả những giáo viên đã dự lớp chỉnh huấn.

Kết quả của việc cải tạo tư tưởng cho cán bộ là đã gột rửa được những

quan điểm “giáo dục trung lập”, “văn hóa thuần túy”, coi nghề dạy học là bạc

bẽo…, thấm nhuần đường lối giáo dục dân chủ nhân dân.

Cùng với việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị, trình độ nghiệp vụ và

chuyên môn của giáo viên thường xuyên được Chính phủ, Bộ Quốc gia Giáo

dục quan tâm và chú trọng phát triển giáo viên mới.

Năm học 1950 - 1951, giáo viên thiếu nhiều, đặc biệt là giáo viên cấp II

phổ thông. Để khắc phục sự thiếu hụt này, Bộ đã tổ chức các lớp bổ túc cho

những giáo viên đạt yêu cầu về trình độ, nghiệp vụ để dạy cho cấp II. Tháng

7-1951, các Liên khu tổ chức thêm được 1 lớp bổ túc cho 40 giáo viên Liên

khu Việt Bắc và khoảng 100 đến 150 giáo viên cho Liên khu 3 và 4.

40 giáo viên Liên khu Việt Bắc và khoảng 100 đến 150 giáo viên cho

Liên khu 3 và 4 đang dạy lớp 1, 2 được bổ túc để dạy cho lớp 3 và lớp 4.

Tính đến cuối năm 1951, bổ túc được 226 giáo viên cấp 3, 4171 giáo

viên lên dạy lớp 5, 52 giáo viên lên dạy lớp 6 và 82 cán bộ tỉnh (Trưởng ti,

phó Trưởng ti, Hiệu trưởng).

Các trường Sư phạm có 1.070 học sinh cho hầu hết các Liên khu nên

thực tế, con số đó vẫn chưa đủ. Vì vậy, Bộ đang chuẩn bị mở một trường Sư

104

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

phạm cao cấp để đào tạo giáo viên cấp 3. Đến cuối năm 1951, trường Sư

phạm cung cấp được 37 giáo viên cấp II và 125 giáo viên cấp I [28, 756, 774].

Đặc biệt, để đào tạo cán bộ khoa học và giáo viên có trình độ, ngày 1 -

10 - 1951, Nghị định số 234 - NĐ của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục thành

lập Khu học xá Trung ương tại Nam Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc). Khu

học xá gồm các trường Khoa học cơ bản, Sư phạm cao cấp, Sư phạm trung

cấp Trung ương, một số lớp phổ thông cấp I dùng làm nơi thực hành cho học

sinh của trường [58, 182 - 183]. Việc thành lập Khu học xá Trung ương là chủ

trương sáng suốt, nhìn xa trông rộng của Đảng và Nhà nước ta, góp phần

quan trọng vào việc đào tạo cán bộ khoa học và giáo viên các cấp cho giáo

dục Việt Nam.

Năm 1952, hàng loạt lớp sư phạm đào tạo giáo viên các cấp được mở

nhằm đáp ứng lượng giáo viên còn thiếu.

Ngày 3 tháng 3 năm 1952, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ra Nghị

định mở cho Liên khu Việt Bắc và chung cho Liên khu 3 và 4 mỗi nơi một

lớp huấn luyện đào tạo giáo viên dạy lớp vỡ lòng. Số lượng là: Liên khu Việt

Bắc 30 học viên, Liên khu 3 và 4 lấy 50 học viên. Để học viên yên tâm học

tập, mỗi giáo sinh được hưởng sinh hoạt phí bằng giá 30 kg gạo mỗi tháng.

Các trường Sư phạm trung cấp và sơ cấp tiếp tục được chấn chỉnh.

Trường Sư phạm Liên khu Việt Bắc và trường Sư phạm trung cấp Trung

ương hợp làm một, có hơn 1000 học sinh. Trường Sư phạm trung cấp Liên

khu 3 có 2 lớp trung cấp, 4 lớp sơ cấp. Trường Sư phạm trung cấp Liên khu 4

có 5 lớp trung cấp, 5 lớp sơ cấp. Để đáp ứng nhu cầu giáo dục của miền núi,

những trường sư phạm miền núi đặc biệt được tăng cường, đào tạo giáo viên

thiểu số dạy bằng tiếng thiểu số.

Niên khóa 1953, lớp Sư phạm cao cấp đặc biệt được mở tại trường Dự

bị Đại học theo Nghị định số 141 - NĐ ngày 4 tháng 6 năm 1953 của Bộ

105

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

trưởng Bộ Giáo dục. Lớp Sư phạm cao cấp đặc biệt tổ chức thành hai ban Văn

học và Khoa học, đào tạo 60 giáo viên cho cấp 2 và cấp 3.

Những lớp học bổ túc, lớp huấn luyện và nhất là những trường sư phạm

từ sơ cấp đến cao cấp góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ, nghiệp

vụ của người giáo viên, đáp ứng nhu cầu của cuộc cải cách giáo dục.

Song song với việc đào tạo cán bộ giáo dục về mặt đạo đức nghề

nghiệp và trình độ chuyên môn, Chính phủ và Bộ quan tâm nâng cao đời sống

cho giáo viên. Học viên trong quá trình học tập đều được cấp phụ phí sinh

hoạt để có thể yên tâm tập trung vào công tác rèn luyện và học tập. Những

giáo viên ở miền núi, vùng sâu, vùng xa được nâng đỡ nhiều. Chính phủ có

những chính sách riêng đãi ngộ, đặc biệt là với những giáo viên miền xuôi

lên.

Quan tâm đến đời sống của học sinh cũng là một trong những biện

pháp khuyến khích giáo dục. Các hoạt động giúp đỡ học sinh nghèo, cấp học

bổng cho những học sinh có hoàn cảnh khó khăn nhưng nỗ lực trong học tập,

ưu tiên cấp học bổng cho nữ sinh nhiều hơn nam sinh được đưa vào chương

trình hoạt động năm 1950. Đây là sự tiếp nối của những hoạt động đã có từ

thời gian trước cho thấy sự quan tâm của Chính phủ và Bộ Giáo dục là thường

trực. Trong năm 1951, học bổng đã cấp là 380.142 kg thóc, các trường chú ý

đến con thương binh, tử sĩ, học sinh nghèo để góp phần động viên tinh thần

học tập của học sinh.

Bộ có kế hoạch lập kí túc xá, lập trường cho nữ sinh nhằm nâng tỉ lệ

học sinh nữ trong trường học. Do điều kiện chiến tranh, lại có nạn oanh tạc

nên kế hoạch không thực hiện được.

Tiếp tục công việc không thể thiếu của những năm học trước là biên

soạn và in ấn sách giáo khoa, đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của giáo viên,

học sinh.

106

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

Trung tuần tháng 6 năm 1951*8, một Trại Tu thư được tổ chức. Hơn 30

cán bộ đã tập trung soạn chương trình mới sửa đổi cho phù hợp với chương

trình giảng dạy của cải cách giáo dục. Trại Tu thư làm việc từ 3 đến 6 tháng

tùy từng cấp học. Tài liệu biên soạn được sẽ được khẩn trương in ấn, cung cấp

tài liệu cho các lớp đang học bù trong 3 tháng (từ 16 - 9 đến 15 - 12 - 1951).

Các sách đã soạn được gồm có:

- Quốc văn cho các lớp 1, 2, 6, 7 và 8.

- Sử kí cho các lớp 4, 5, 6, 8 và 9.

- Địa lý cho các lớp 5, 6, 8 và 9.

- Toán cho lớp 8.

- Vất lý cho lớp 8.

- Vạn vật cho lớp 7 [28, 757 - 758].

Tính đến cuối năm 1951, Trại Tu thư đã soạn được 66 quyển cho ba

cấp phổ thông: 19 quyển cho cấp I, 27 quyển cho cấp II và 20 quyển cho cấp

III. Bên cạnh đó còn xuất bản được 9 tài liệu giáo khoa và tham khảo, và tập

Chương trình học (tất cả in thành 47000 bản).

Để khắc phục tình trạng thiếu sách giáo khoa, tạp chí Giáo dục tân san

được xuất bản nhằm bổ khuyết phần nào cho giáo viên và học sinh. Năm

1951, 5 số Giáo dục tân san được xuất bản. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ

thì Giáo dục tân san không giúp ích được nhiều lắm cho người học [28, 773].

Ngày 14 - 6 - 1950, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ký Nghị định số 373 -

NĐ: xuất bản mỗi tháng một kỳ Giáo dục tập san. Tập san do Hội đồng Tu thư

Trung ương phụ trách. Giáo dục tập san là tiếng nói của thầy, của trò, của phụ

*8 Chú thích: Ngày, tháng theo “Báo cáo của Bộ Quốc gia Giáo dục về tình hình giáo dục 6 tháng đầu 1951”. Theo “Báo cáo cuối năm 1951 của Bộ Quốc gia Giáo dục”: “Bộ đã tổ chức một Trại Tu thư dài hạn (6 tháng) kể từ ngày 1-7-1951”. Xem Nguyễn Văn Huyên toàn tập, Văn hóa và Giáo dục Việt Nam, tập III, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội. 2005, tr.757, 773.

huynh, của Nhà trường, của nhân dân, là nơi tập trung lý luận và kinh nghiệm

107

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

của nhân dân về vấn đề giáo dục. Do đó, Giáo dục tập san được xác định là

một chủ chốt của công cuộc cải tổ giáo dục [59, 3].

“Kiểm thảo công tác giáo dục năm 1952”, Bộ Giáo dục nhận định việc

soạn sách giáo khoa đã hoàn thành được phần lớn nhưng do việc phát hành

chậm và thiếu kế hoạch cụ thể nên sách chưa đến được với nhà trường. Do đó,

dù đã cải cách nhưng vẫn tồn tại tình trạng nhiều trường chưa thay được

chương trình học làm cho giáo viên rất lúng túng. Sách ra chậm nên những

trường trong vùng địch hậu cũng chậm nắm được chương trình mới.

Để việc biên soạn sách đạt chất lượng tốt hơn, đồng thời tổ chức được

quy củ hơn, ngày 22 tháng 7 năm 1953, Nghị định số 171 - NĐ của Bộ trưởng

Bộ Giáo dục được ban hành. Một Ban biên tập được thành lập tại Bộ Giáo

dục có nhiệm vụ cơ bản sau:

1. Phụ trách tờ báo Giáo dục nhân dân theo chủ trương đường lối của

Bộ và hợp tác với Nhà in Quốc gia về việc phổ biến tờ báo;

2. Phối hợp với các Nha, Vụ để biên soạn các sách và tài liệu giáo

khoa theo chủ trương đường lối của Bộ;

3. Phiên dịch những tài liệu nước ngoài cần thiết cho việc nghiên cứu

và biên soạn sách báo;

4. Phụ trách tổ chức việc duyệt sách báo của Bộ;

5. Quản trị thư viện của Bộ;

6. Phối hợp với các Nha, Vụ Nhà in Quốc gia để đặt kế hoạch xuất bản

và phát hành sách báo của Bộ [28, 1113].

Với sự ra đời của Ban biên tập, các hoạt động biên soạn và in ấn trở

nên có kế hoạch hơn. Ban biên tập phối hợp được các Nha, Vụ cùng tham gia

nên sẽ khắc phục được tình trạng chậm trễ trong in ấn và phát hành.

Giáo dục phổ thông 1950 - 1954 chịu nhiều tác động của kháng chiến

chống thực dân Pháp bởi đây là giai đoạn quyết định những thành bại trên

108

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

chiến trường. Tuy nhiên, đây cũng là quãng thời gian giáo dục phổ thông

đóng góp được nhiều nhất cho cuộc chiến cả về sức người, sức của và những

hoạt động tuyên truyền chính trị quan trọng khác. Giáo dục phổ thông đã thực

sự gắn với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của nước nhà.

109

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

KẾT LUẬN

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của Chính phủ, đứng đầu là

Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với nỗ lực không ngừng của Bộ Quốc gia Giáo

dục, của toàn dân, giáo dục phổ thông giai đoạn 1945 - 1954 đã có những biến

đổi căn bản về chất.

Trước cách mạng Tháng Tám 1945, giáo dục phổ thông thể hiện rõ bản

chất của một nền giáo dục thuộc địa. Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn nhận định:

“Nền giáo dục thuộc địa là một lối tái bản hệ thống giáo dục tư sản với những

đặc điểm tối lạc hậu, tối phản động của nó”[53, 71]. Giáo dục nói chung và

giáo dục phổ thông nói riêng đã trở thành một công cụ quan trọng để chinh

phục thuộc địa và là “lợi khí của bọn thực dân để thực hiện mục đích đầu độc

các thế hệ thanh niên”[29, 5]. Mục đích duy nhất của kẻ xâm lược là làm cho

dân u mê để dễ bề cai trị nên nền giáo dục mà chúng coi là khai hóa, gieo rắc

văn minh thực tế chỉ là một hệ thống chắp vá, không hoàn chỉnh. Ở cấp học

thấp, mang tiếng là được nhà nước bảo hộ chú ý nhưng thực tế giáo dục thật

khác xa với những điều “nhà khai hóa” Pháp khoe khoang. Càng lên cao thì

số lượng trường lớp càng giảm, nạn thiếu trường học diễn ra trầm trọng. Vì

vậy, việc học dưới thời Pháp thuộc dường như là đặc quyền của con cái quan lại

và những nhà giàu có. Không những thế, nội dung giáo dục thì bưng bít, phản

động. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từng nhận định việc hấp thụ nền giáo

dục ấy hoàn toàn không phát huy được khả năng, trái lại còn làm hỏng đi tính

nết của người học.

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa ra đời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là những tiền

đề quan trọng giúp cho chúng ta xây dựng một nền giáo dục hoàn toàn mới,

thay thế cho nền giáo dục thực dân, thuộc địa và phong kiến lạc hậu. Đó là

nền giáo dục cách mạng, dân tộc và dân chủ, dựa trên ba nguyên tắc cơ bản:

110

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

dân tộc, khoa học và đại chúng. Nền giáo dục đó không phục vụ cho một tầng

lớp, giai cấp nào riêng biệt hay vì mục đích của cá nhân nào mà vì toàn dân,

vì sự nghiệp phục vụ quần chúng đông đảo để đi đến đích cuối cùng là kháng

chiến và kiến quốc. Do vậy, không phân biệt lứa tuổi, giới tính hay nghề

nghiệp, tất cả những ai là người Việt Nam đều có quyền được học tập, quyền

được tự do phát triển những năng lực sẵn có của mình.

Đảng Lao động Việt Nam đã định rõ tính chất của nền giáo dục căn

bản là nền giáo dục dân chủ dựa trên tinh thần bình đẳng giữa trai và gái,

bình đẳng giữa các dân tộc, nền giáo dục đó được xây dựng theo ba phương

châm: dân tộc, khoa học, đại chúng. Một là lấy tiếng mẹ đẻ làm chuyển ngữ,

rèn luyện tinh thần yêu nước, kết hợp với tinh thần yêu nhân loại; hai là giảng

dạy những kiến thức khoa học tiến bộ kết hợp với thực tiễn Việt Nam; ba là

phổ cập giáo dục đến đại chúng làm cho quảng đại nhân dân lao động có học

thức [28, 1079 - 1080].

Trong cuốn “Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945 - 1990)” do Giáo sư

Phạm Minh Hạc chủ biên ghi nhận: “Chỉ từ khi nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa ra đời, nền giáo dục phổ thông mới thực sự được phát triển mạnh

mẽ và trở thành một nền giáo dục đại chúng. Đó là nền tảng văn hóa của đất

nước, là sức mạnh tương lai của dân tộc, đặt cơ sở ban đầu rất quan trọng cho

sự phát triển toàn diện thế hệ trẻ Việt Nam, góp phần đáp ứng nhu cầu nâng

cao dân trí, tạo nguồn cho việc đào tạo nhân lực có kĩ thuật và đào tạo nhân

tài cho đất nước”[15, 57].

Trải qua những thăng trầm của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy khốc

liệt, thực tế giáo dục phổ thông những năm 1945 - 1954 minh chứng một sức

mạnh tinh thần, sức mạnh trí tuệ và tri thức lớn lao của cả dân tộc. Thật không

dễ dàng để vực dậy một nền giáo dục xơ xác, tiêu điều trong bối cảnh quốc kế

dân sinh ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Không dễ dàng để xây dựng những

111

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

trường lớp, đào tạo nên con người trong cơn mưa bom bão đạn nếu con người

đó không đủ sức mạnh tinh thần, chí bền gan để vượt qua. Một nền giáo dục

phổ thông hoàn toàn Việt Nam đã được xây dựng nên. Tiếng Việt được dùng

để giảng dạy trong các trường phổ thông. Ở miền núi, tùy từng địa phương để

dạy bằng tiếng của chính dân tộc thiểu số trong vùng. Dù bằng tiếng Việt hay

tiếng các vùng dân tộc thì yếu tố Việt đã được tôn vinh. Tiếng Pháp trước đây

giữ địa vị độc tôn, giờ là một môn học ngoại ngữ trong chương trình. Khi

chiến tranh chống Pháp lên đến đỉnh cao, việc giảng dạy sinh ngữ này còn

tạm thời ngừng lại để nhường cho những môn học có ý nghĩa thiết thực hơn

đối với cuộc chiến đang diễn ra. Nội dung giảng dạy ngày càng gần gũi hơn

với thực tế. Trước cải cách giáo dục 1950, chương trình học cũ vẫn được duy

trì nhưng đã có sự cải biến cho phù hợp với điều kiện mới của đất nước, với

tâm lý chung của dân tộc. Sau cải cách 1950, giáo dục Việt Nam nói chung và

giáo dục phổ thông nói riêng càng thể hiện đậm nét là nền giáo dục kháng

chiến, phục vụ cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc của nước nhà. Các

trường học cũ do thực dân Pháp để lại được cải tổ. Nhiều trường tiểu học và

trung học được thành lập ở các huyện, thị xã và thành phố trong cả nước. Số

lượng trường cấp II, III ít hơn trường cấp I nhưng đã tăng hơn nhiều so với

thời Pháp thuộc. Khi chiến tranh diễn ra ác liệt, trường lớp cùng giáo viên,

học sinh đều phải tản cư nhưng việc học không vì thế mà bị gián đoạn. Nhiều

trường chuyển sang dạy đêm, hoặc nửa ngày học, nửa ngày lao động sản xuất

để phục vụ kháng chiến…Với nỗ lực không ngừng của thầy trò và được sự

giúp đỡ của quần chúng, dù trong điều kiện chiến tranh, nhìn chung các

trường vẫn được duy trì.

Theo thống kê của Bộ Giáo dục, số lượng học sinh tăng: từ năm 1945

đến tháng 9 - 1953, số học sinh phổ thông từ 190.061 lên tới 680.270, tăng

490.209 học sinh. Riêng ở cấp II, III tăng từ 7.602 lên 62.128 học sinh,

112

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

tăng 54.526 học sinh [28, 1123]. Tính đến đầu tháng 7 năm 1954 (trước khi

hòa bình lập lại), số học sinh phổ thông là 737.000 cháu, tăng gấp 3 lần so với

năm 1945 [52, 30]. Ở Nam Bộ, trong 9 năm kháng chiến, dù chưa được thống

kê đầy đủ, số học viên và học sinh là trên 1 vạn, 70 trường tiểu học và trung

học [38, 27]. Những con số phần nào thể hiện sự phát triển của giáo dục phổ

thông qua các năm.

Như vậy, có thể khẳng định những hoạt động xây dựng giáo dục phổ

thông của nhân dân ta những năm 1945 - 1954 thực chất là cuộc đấu tranh

quyết liệt chống nền giáo dục thực dân. Trong cuộc đấu tranh lặng thầm mà

không kém phần cam go đó, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

nhân dân Việt Nam một lần nữa chiến thắng vẻ vang. Chúng ta đã dần quét

sạch những tàn tích của giáo dục thực dân. Giáo dục nước nhà có sự thay đổi

căn bản, từ một nền giáo dục nô dịch, phản động, chúng ta đã xây dựng một

nền giáo dục chân chính, tiến bộ mang tính chất dân tộc rất đậm nét. Đây

chính là “thắng lợi của quan điểm, đường lối giáo dục dân tộc và dân chủ của

Đảng và Nhà nước ta dưới ánh sáng tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh”[16].

Giáo dục là bộ phận của cách mạng văn hóa, đồng thời tạo nên một đội

ngũ tương lai cho văn hóa. Giáo dục phổ thông được đánh giá là “nền tảng

văn hóa của đất nước, là sức mạnh tương lai của dân tộc, đặt cơ sở ban đầu rất

quan trọng cho sự phát triển toàn diện thế hệ trẻ Việt Nam, góp phần đáp ứng

nhu cầu nâng cao dân trí, tạo nguồn cho việc đào tạo nhân lực có kĩ thuật và

đào tạo nhân tài cho đất nước”[15, 57]. Điều này có ý nghĩa chiến lược đối

với sự phát triển của cả một quốc gia. Giáo dục phổ thông 1945 - 1954 không

chỉ có ý nghĩa trực tiếp đối với cuộc kháng chiến chống Pháp mà tạo tiền đề

quan trọng cho việc sự nghiệp xây dựng đất nước lâu dài. Nền tảng văn hóa

của đất nước, sức mạnh tương lai của dân tộc chính là ở việc người dân ý thức

được bổn phận, trách nhiệm và quyền lợi của mình để tham gia vào công cuộc

113

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

xây dựng nước nhà. Người dân nâng cao tinh thần làm chủ và ý thức tự cường

dân tộc, thêm thiết tha với chế độ mới. Họ hiểu được mục đích và tác dụng

của công cuộc kháng chiến và kiến quốc mà quyết tâm chiến đấu hy sinh cho

sự nghiệp vĩ đại đó. Đây chính là tâm niệm của Người, mong mỏi của Người

vì mục đích sâu xa hơn là dựng xây một nước Việt Nam giàu mạnh, có thể

sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Một học giả nước ngoài từng khẳng

định: “…ông Hồ muốn có một xã hội có văn hóa, có khả năng quản lý được

nền “độc lập” mới. Tiếp thu được cái lợi ích của nhà trường mà nhà nước sẽ

mở, và có đầy đủ điều kiện để đạt tới một nền kỹ thuật hiện đại”[33, 360].

Những thành tựu đạt được cũng như những việc chưa làm được của

giáo dục phổ thông 1945 - 1954 xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau,

cho phép tôi được nêu một số nhận xét tổng quát như sau:

Thứ nhất là sự nghiệp giáo dục của Việt Nam nói chung và giáo dục

phổ thông nói riêng có được sự lãnh đạo của Chủ tịch nước Hồ Chí Minh.

Người không chỉ sáng lập ra chế độ mới, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa mà còn là người đặt nền móng cho một nền giáo dục dân tộc, dân

chủ của nước nhà. Bản thân Hồ Chủ tịch cũng là một tấm gương người thầy

giáo mẫu mực nên Người đặc biệt tha thiết với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng không ngừng nghỉ, không năm nào

thiếu vắng sự quan tâm sát sao của Người đối với sự nghiệp giáo dục Việt

Nam. Nắm bắt được đặc điểm thực tế của mỗi thời kỳ, Người có những biện

pháp phù hợp giúp cho nền giáo dục Việt Nam có thể khắc phục tối đa khó

khăn và phát huy thuận lợi đưa đến thành quả giáo dục cao nhất trong khả

năng của dân tộc mình. Thời điểm 1945 - 1946 có thể coi là dấu mốc điển

hình cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt của Người đã giúp cho triệu triệu đồng

bào không phân biệt giàu nghèo đều được học tập - điều mà thực dân Pháp đã

tước đoạt mất của đại bộ phận nhân dân ta trong gần thế kỷ. Đặc biệt đối với

114

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

những người phụ nữ, nền giáo dục dân chủ đã hiện thực hóa ước mơ cắp sách

đến trường của họ. Về khía cạnh này, Hồ Chí Minh không chỉ đem lại cho

nhân dân Việt Nam một nền giáo dục mới mà còn mang đến cho cả dân tộc

quyền được làm người tự do, quyền được tự do học tập như đồng chí Võ

Nguyên Giáp từng nhận định: “sự nghiệp văn hóa quan trọng nhất của Người

là đã lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành

lại cho nhân dân những quyền sống của con người, một cuộc sống có văn hóa.

Hồ Chí Minh đã cùng với nhân dân loại trừ một trở lực to lớn trên con đường

tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc

địa”[14, 66].

Vai trò của Hồ Chí Minh đối với nền giáo dục Việt Nam nói chung và

giáo dục phổ thông nói riêng được thực tế khẳng định là vai trò dẫn đường,

chỉ lối, định hướng cho sự phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.

Công lao của Người được các thế hệ ghi nhận: “Từ Việt Nam đi ra thế giới,

hòa nhập vào đại dương trí tuệ của thời đại, Hồ Chí Minh đã chắt lọc tinh hoa

của nhân loại, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều

kiện cụ thể của nước ta, từng bước xây dựng nền giáo dục mới Việt Nam. Sự

cống hiến của Người về lý luận và thực tiễn giáo dục là vô giá, đem lại thành

tựu và niềm vinh quang cho nền giáo dục mới Việt Nam”[64, 11].

Trong giai đoạn 1945 - 1954, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được

thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo con người và quyết

định sự phát triển bền vững của dân tộc. “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, phần

nhiều do giáo dục mà nên” thể hiện đầy đủ quan niệm của Người về tác dụng

của giáo dục. Bởi vậy, cần phải coi giáo dục là sự nghiệp lâu dài mang tính

chiến lược: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải

trồng người”. Giáo dục thế hệ thanh thiếu niên là tương lai của dân tộc, là

115

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

động lực đưa đất nước đi lên sánh vai với các cường quốc năm châu như lời

Người từng căn dặn.

Trong chiến tranh, giáo dục phải tích cực phục vụ kháng chiến và

kiến quốc. Giáo dục nhằm đào tạo nên những con người mới kế tục sự

nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân và hết lòng phụng sự Tổ quốc,

phụng sự nhân dân.

Từ đó, giáo dục cần thiết thực, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực

tiễn. Kết quả nền giáo dục đem lại phải có tác dụng trực tiếp đối với công

cuộc kháng chiến, kiến quốc của nước nhà.

Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đông đảo, phục vụ cho

quần chúng nhân dân đông đảo. Không tồn tại giáo dục cho một số ít người,

vì vậy, giáo dục phải dân chủ, bình đẳng.

Trong kháng chiến chống Pháp, giáo dục Việt Nam dưới sự lãnh đạo

của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay đổi về chất, là một

nền giáo dục dân tộc, dân chủ, khoa học, đại chúng, dựa trên ba nguyên tắc cơ

bản mà Đảng, Nhà nước đã đề ra.

Thứ hai, phải coi giáo dục là một bộ phận của đời sống xã hội. Không

có nền giáo dục nào đứng trên hoặc đứng ngoài xã hội. Cải cách giáo dục năm

1950 một lần nữa khẳng định không có nền giáo dục trung lập. Vai trò của

giáo dục là vô cùng quan trọng, góp phần quyết định sự tồn vong của dân tộc.

Nhiệm vụ đó là đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện về tài năng, trí tuệ và

đạo đức, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân. Ngày nay, giáo dục còn là

“đòn bẩy” quan trọng cho các nước tiến kịp với sự phát triển chung của nhân

loại. “Phải coi giáo dục là bộ phận trong chiến lược con người, và chiến lược

con người đứng ở vị trí trung tâm của toàn bộ chiến lược kinh tế - xã hội của

đất nước, lấy con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã

hội”[60, 22]. Do đó, cần xác định được giáo dục phải là một bộ phận trong sự

116

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

nghiệp cách mạng chung của quần chúng nhân dân, gắn với nhiệm vụ cách

mạng trong từng giai đoạn cụ thể.

Thứ ba, phải xác định được giáo dục luôn gắn liền với mục đích chính

trị. Quan trọng hơn, giáo dục còn là phương tiện để thực hiện mục đích chính

trị như Hồ Chí Minh từng khẳng định học tập để phụng sự Tổ quốc, phụng sự

nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh.

Điều quan trọng ngành giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói

riêng đã làm được trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp là cải tạo

tư tưởng cho quần chúng nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công không

có nghĩa là quét sạch được mọi tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến trên

dải đất Việt Nam. “Một trong những lĩnh vực mà ảnh hưởng nô dịch của thực

dân Pháp bám chặt và ăn sâu hơn hết, là lĩnh vực tư tưởng ý thức”[48, 3]. Do

đó, giáo dục quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc tiến hành cải tạo tư

tưởng cho nhân dân. Quan điểm “khoa học phải trung lập”, “khoa học phải

đứng trên mọi việc”, “văn hóa không trà trộn với mùi tục lụy”…đều bị nền

giáo dục kháng chiến phủ định. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn,

nhà trường gắn liền với xã hội và giáo dục vì mục tiêu phục vụ kháng chiến,

kiến quốc trở thành tư tưởng xuyên suốt, tôn chỉ mục đích của người học

trong những năm 1945 - 1954. Do đó, giáo dục phổ thông thời kỳ này đã góp

phần vào chiến thắng vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,

dân tộc Việt Nam bước sang một trang sử mới. Trên ý nghĩa này, quan điểm

của học giả W. E. B. Dubois phát biểu từ năm 1903: “Giáo dục và lao động

là những đòn bẩy nâng một dân tộc lên”[1, 228] là hoàn toàn đúng với

trường hợp Việt Nam.

Thứ tư, dưới chế độ thực dân, giáo viên là lớp công chức bị rẻ rúng, bạc

đãi, đời sống vật chất thiếu thốn thì giáo dục dân chủ mới thể hiện địa vị của

người giáo viên được đề cao, được trân trọng. Đây cũng là một bước tiến của

117

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

nền giáo dục Việt Nam trong chế độ mới. Đánh giá cao vai trò của người thầy

thì giá trị của sự nghiệp giáo dục mới được nhìn nhận đúng đắn:“công tác

giáo dục rất phức tạp vì nó là công tác xây dựng con người”[10, 36]. Bởi vậy,

phải coi trọng vấn đề đào tạo đội ngũ giáo viên, cần coi đây là việc được ưu

tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển giáo dục. Công tác bồi dưỡng phải

toàn diện, chú trọng cả chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và tư

tưởng cách mạng. Sinh thời, Hồ Chủ tịch không chỉ là người vạch ra con

đường phát triển cho nền giáo dục nước nhà mà chính Người cũng là tấm

gương sáng về một người thầy giáo mẫu mực. Người quan tâm một cách

thường xuyên, liên tục, cụ thể và hết sức đặc biệt tới đội ngũ những người làm

công tác giáo dục. Người từng nói không có giáo viên thì không có giáo dục.

Bởi vậy, dù công việc của cương vị Chủ tịch rất bộn bề, Người vẫn quan tâm

sâu sắc tới việc giảng dạy, học tập của các thầy giáo, cô giáo. Nhiều lần,

Người viết thư động viên, khen ngợi các giáo viên. Câu chuyện nhỏ của cố Bộ

trưởng Bộ Giáo Dục Nguyễn Văn Huyên cũng phần nào chứng tỏ Hồ Chí

Minh quan tâm, ưu ái nhưng cũng hết sức nghiêm khắc đối với những người

làm công tác giáo dục: “Mình vừa được Ông Cụ “phết” cho một roi điếng

người: “Dạy học như các chú thì chỉ tạo ra những cái hòm sách, những cái bồ

sách”. Giọng Cụ đùa đùa nhưng thật là một đòn đau nhớ đời. Bọn mình tỉnh

ra, đang cố gắng sửa chữa sai lầm”[26, 5].

Theo Giáo sư Nguyễn Lân, cách giáo dục cán bộ thấm thía nhất là Hồ

Chủ tịch đã thực hiện một cách đầy đủ và thường xuyên cái mà trước kia

Khổng Tử gọi là “thân giáo”, tức là Người giáo dục cán bộ bằng gương đạo

đức sáng ngời của bản thân Người [34, 88].

Đầu tư nâng cao chất lượng giáo viên là đầu tư cho tương lai, cho sự

phát triển bền vững của giáo dục. Bởi vậy, dù ở hoàn cảnh nào, thời gian nào,

Nhà nước cũng cần quan tâm đúng mức đến đời sống của cán bộ giáo dục, tạo

118

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

điều kiện cho giáo viên yên tâm công tác. Đặc biệt là những giáo viên giảng

dạy ở địa bàn miền núi còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Chủ trương đưa miền

núi tiến kịp miền xuôi đặt ra thì yêu cầu trên càng trở nên cấp thiết hơn.

Thứ năm, để giáo dục phát triển một cách thuận lợi, phải thực hiện

giảng dạy bằng tiếng Việt. Đây chính là phương tiện quan trọng để phổ cập

kiến thức cho đông đảo quần chúng nhân dân một cách thuận tiện, nhanh

chóng và giúp người học dễ tiếp thu nhất. Đồng thời, góp phần làm cho thế hệ

thanh niên biết trân trọng và có ý thức vun đắp tiếng mẹ đẻ của mình ngày

càng phát triển; qua đó giáo dục cho họ tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc.

Vì vậy, “chỉ có giảng dạy bằng tiếng mẹ đẻ mới xây dựng được một nền giáo

dục thật sự dân tộc, dân chủ” [30, 35].

Từ sau cải cách giáo dục năm 1950, giáo dục phổ thông thực hiện khá

tốt phương châm này. Tiếng Việt trở thành thứ tiếng dùng để giảng dạy chính

thức trong tất cả cấp học từ năm học 1945 - 1946. Ngoài ra, ở những vùng

dân tộc thiểu số, một vài phương ngữ cũng được dùng làm ngôn ngữ giảng

dạy chính thức. Bộ còn tiến hành biên soạn sách bằng tiếng một số thứ tiếng

địa phương như tiếng Thái, tiếng Tày.

Thứ sáu, sách giáo khoa là phương tiện tối thiểu cần phải có trong quá

trình dạy và học. Việc biên soạn và in ấn cần làm đồng bộ với việc thay đổi

đường lối hay chương trình giáo dục. Chính sách giáo dục hoàn thành và đem

áp dụng trước mà sách giáo khoa cũng như chương trình dạy học mới chưa

đổi mới kịp sẽ dẫn đến những lúng túng trong quá trình thực hiện như thời

điểm những năm học đầu tiên sau cải cách 1950. Đồng thời, việc biên soạn và

in ấn cũng cần làm đồng bộ giữa các cơ quan có trách nhiệm mới đem lại hiệu

quả tốt nhất.

Thứ bảy, bài học lớn lấy dân làm gốc, biết dựa vào sức mạnh của quần

chúng nhân dân. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) là

119

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

một trong những minh chứng cho bài học dựa vào sức dân. Trong suốt 9 năm

trường kỳ của cuộc kháng chiến, giáo dục phổ thông không chỉ coi dân là đối

tượng hướng tới mà còn được bao bọc, chở che, lớn lên trong lòng dân. Có

những thời điểm tản cư, thầy và trò sống trong nhà dân, sinh hoạt cùng nhân

dân, dựng lán tạm để dạy và học. Hồ Chủ tịch từng nhắc nhở việc học tập

phải biết học từ dân, “không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”[22, 50].

Như vậy, giáo dục cũng như kháng chiến phải luôn đề cao phương châm dựa

vào dân, học từ dân và cái đích đi tới là để phục vụ cho nhân dân.

Thứ tám, giáo dục phổ thông giai đoạn 1945 - 1954 còn tồn tại nhiều

hạn chế. Giáo dục không đồng đều giữa các cấp học, số lượng học sinh và

giáo viên nhiều ở cấp thấp và giảm dần ở cấp học cao hơn. Khi cuộc kháng

chiến chống Pháp bước vào thời điểm quyết liệt, theo lệnh tổng động viên,

nhiều học sinh cấp III và học sinh cấp II đạt yêu cầu đã nhập ngũ làm cho số

lượng học sinh suy giảm một cách đáng kể. Tuy thực hiện tốt được nhiệm

vụ giáo dục phục vụ kháng chiến nhưng ngay sau đó, ngành giáo dục lại

không có được được những biện pháp thích hợp nhằm nhanh chóng củng

cố cấp học này.

Tính toàn diện của nền giáo dục chưa được thực hiện đầy đủ. Trong

hoàn cảnh cả nước tập trung vào chiến tranh chống Pháp, hạn chế này của

giáo dục phổ thông cũng là điều dễ hiểu. Để đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng

chiến, học sinh có nửa ngày học, nửa ngày tham gia lao động sản xuất hoặc

làm công tác xã hội, công tác kháng chiến. Trong quá trình dạy và học, giáo

viên và học sinh phải tự khắc phục thiếu thốn những phương tiện tối thiểu

như trường lớp, bảng đen, các dụng cụ thí nghiệm…nên có khi giáo dục

không thể cân đối giữa các mặt khoa học tự nhiên với khoa học xã hội. Có khi

nặng về giáo dục chính trị cho học sinh mà coi nhẹ giáo dục khoa học. Tiêu

biểu là năm học 1953 - 1954, giáo dục tích cực tham gia vào cuộc cải cách

120

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

ruộng đất, lấy nhiệm vụ tuyên truyền và rèn rũa tư tưởng học sinh, giáo viên

làm trọng…Vì vậy, nhìn chung ở giai đoạn này, “chúng ta chưa thực hiện đầy

đủ mục đích của giáo dục là đào tạo con người toàn diện, con người lao động

làm chủ nước nhà, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có văn hóa và kỹ thuật, có

sức khỏe…”[12, 53].

Giáo dục miền núi tuy có phát triển nhưng chưa thực sự vững chắc và

chưa đáp ứng được nhu cầu cũng như khả năng của miền núi. Được Nhà nước

ưu đãi nhưng số lượng giáo viên miền xuôi lên miền núi dạy học không nhiều,

chưa thể đáp ứng đủ được yêu cầu của thực tế. Phát triển giáo dục miền núi

chưa gắn liền với phát triển kinh tế, xã hội nên không đem lại hiệu quả như

ý muốn.

Cải cách giáo dục năm 1950 đã làm thay đổi cơ bản giáo dục phổ

thông. Tuy cải cách góp phần quan trọng gắn giáo dục với nhiệm vụ kháng

chiến, kiến quốc, cung cấp được nhân lực cho tiền tuyến nhưng giáo dục phổ

thông sau cải cách nặng về chính trị. Công tác giáo dục, rèn luyện tư tưởng

đạo đức, cách mạng cho giáo viên và học sinh được chú trọng nhiều. Do đó,

việc dạy và học kiến thức khoa học ít nhiều bị ảnh hưởng.

Cải cách giáo dục là chủ trương đúng nhưng trong cách thực hiện

chuyển đổi từ giáo dục cũ sang giáo dục mới còn chậm và nhiều lúng túng. Vì

vậy mới tồn tại một thực tế nội dung giảng dạy không được giảng hết trong

năm học. Năm học 1950 - 1951, giáo viên, học sinh phải dành ra 3 tháng hè

để dạy và học cho đủ chương trình.

Việc sửa đổi phương pháp dạy không có kế hoạch cụ thể, không có

người theo dõi nên giáo viên rất lúng túng.

Cải cách giáo dục gắn liền với việc thay đổi nội dung chương trình học

tập. Tuy nhiên, việc in ấn và phát hành sách giáo khoa còn chậm, phát hành

121

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

thiếu kế hoạch cụ thể nên dẫn đến tình trạng thiếu sách giáo khoa, gây lúng

túng cho việc dạy và học của giáo viên, học sinh.

Cán bộ phụ trách giáo dục còn thiếu và yếu, “không nhìn được khâu

chính, quan liêu, mệnh lệnh, ít sát thực tế, thiếu kế hoạch cụ thể”, lại có phần

phí phạm nhân lực khá nhiều [28, 1072].

Thứ chín, giáo dục là bộ phận quan trọng cấu thành nên văn hóa. Trong

cuộc cách mạng văn hóa xã hội, giáo dục là một trong những yếu tố cần đi

tiên phong và được chú ý hàng đầu bởi hơn hết, giáo dục có tác động trực tiếp

làm cải biến tư tưởng nhận thức của con người. Vì vậy, “nền giáo dục mới là

một bộ phận rất quan trọng trong nền văn hóa mới Việt Nam và là một động

lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng” [40, 116].

Những nhận xét trên về công tác giáo dục phổ thông 1945 - 1954 không

chỉ có ý nghĩa nhìn nhận lại một thời lịch sử đã qua mà còn là những cơ sở

định hướng cho các hoạt động giáo dục trong các giai đoạn kế tiếp.

Trong suốt quãng thời gian 9 năm đó, dù chỉ đạo trực tiếp hay gián tiếp,

dù bằng lời nói, thư từ hay các hành động cụ thể, Hồ Chí Minh vẫn quan tâm

thường xuyên đến giáo dục của đất nước. Về vai trò của Hồ Chủ tịch, trong

“Chống mù chữ vấn đề của thời đại của đất nước”, Vũ Ngọc Bình nhận định:

“Trong lịch sử suốt mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam, chưa có ai quan

tâm đặc biệt, chăm lo thường xuyên đến công cuộc chống mù chữ và nâng cao

trình độ văn hóa phổ thông cho quảng đại quần chúng nhân dân lao động như

Chủ tịch Hồ Chí Minh”[3, 18]. Cả cuộc đời Người đấu tranh không ngừng

nghỉ cho mục đích nhân dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học

hành. Xuất phát từ tâm nguyện thường trực đó, trong suốt thời gian lãnh đạo

đất nước của Người, không khi nào chúng ta thấy thiếu đi sự quan tâm sát sao

tới công tác giáo dục. Gian khổ kháng Pháp vì mục tiêu cuối cùng nhân dân

ta, con cháu chúng ta được hưởng độc lập, tự do, hạnh phúc. Khi kết thúc

122

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

cuộc chiến chống Pháp, một trong những việc Người quan tâm đến là giáo

dục thế hệ trẻ: “8, 9 năm qua, chúng ta kiên quyết kháng chiến; hiện nay

chúng ta kiên quyết đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ

trong cả nước - cũng nhằm mục đích xây dựng cho con cháu chúng ta một đời

sống sung sướng, vui tươi, thái bình, hạnh phúc. Đồng thời chúng ta phải

khéo giáo dục để mai sau nhi đồng ta thành những người công dân có tài, có

đức, xứng đáng là người chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”[23,

564].

Hồ Chí Minh đã vạch ra được mục đích và chức năng của giáo dục, xác

định được vị trí của giáo dục trong sự nghiệp cách mạng. Do đó, nền giáo dục

Việt Nam có được hướng phát triển đúng đắn, thực sự là nền giáo dục dân tộc,

dân chủ, vì con người và sự nghiệp chung của quần chúng nhân dân đông đảo.

Hơn nửa thập kỷ qua, tư tưởng cũng như những chỉ dẫn hành động của Người

trong lĩnh vực giáo dục luôn là định hướng cơ bản cho việc xác định mục tiêu

và các giải pháp nhằm thực hiện chiến lược con người, chiến lược giáo dục

trên đất nước ta. Chúng ta tin tưởng rằng “dưới sự chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, là

người tiêu biểu cho trí tuệ minh mẫn và những đức tính đẹp đẽ của dân tộc,

nhân dân ta nhất định sẽ xây được một nền giáo dục mới hợp với cuộc tiến bộ

của quốc gia và của thế giới”[51, 38].

123

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bài phát biểu tại lễ nhậm chức Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Havard của

bà Drew G. Faust, in trong Những vấn đề giáo dục hiện nay, quan điểm và

giải pháp, (2008), Nxb. Tri Thức, Hà Nội.

2. Phan Trọng Báu (1994), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb. Khoa học xã

hội, Hà Nội.

3. Vũ Ngọc Bình (1990), Chống mù chữ vấn đề của thời đại của đất nước,

Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

4. Trường Chinh (1964), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự Thật, Hà

Nội.

5. Chủ nghĩa Mác và vấn đề giáo dục (1959), Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940 -

1945), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 (1945 -

1947), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 9 (1948),

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12 (1951),

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Hoàng Ngọc Di (1967), Giới thiệu mấy nét chính về đường lối giáo dục

của Đảng, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

11. Hoàng Ngọc Di (1982), Hệ thống giáo dục phổ thông mới, Nxb. Sự Thật, Hà

Nội.

12. Hoàng Minh Giám - Nguyễn Khánh Toàn - Phạm Ngọc Thạch - Hoàng

Văn Thái (1966), Hai mươi năm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Sự

nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

124

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

13. Lê Văn Giang (1985), Lịch sử Đại học và trung học chuyên nghiệp Việt

Nam, tập I (1945 - 1954), Viện nghiên cứu Đại học và Trung học chuyên

nghiệp Hà Nội.

14. Võ Nguyên Giáp (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh - quá trình hình thành và

phát triển, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

15. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1992), Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945 -

1990), Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

16. Lê Mậu Hãn (2003), Hồ Chí Minh với giáo dục trong kỷ nguyên độc lập

tự do của dân tộc, Hội thảo Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục, Hà Nội.

17. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1 (1919 - 1924), (2002), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

18. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2 (1924 - 1930), (2002), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

19. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (1930 - 1945), (2002), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

20. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (1945 - 1946), (2002), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

21. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (1947 - 1949), (2002), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

22. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6 (1950 - 1952), (2002), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

23. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7 (1953 - 1955), (2002), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

24. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8 (1955 - 1957), (2002), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

25. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9 (1958 - 1959), (2002), Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

125

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

26. Vũ Đình Hòe (2003), Vài ký ức về tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác

giáo dục thời gian cuối 1945 - đầu 1946, Hội thảo “Hồ Chí Minh với sự

nghiệp giáo dục”, Hà Nội.

27. Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn) (2000), Tú Xương - Thơ, lời bình và

giai thoại, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

28. Nguyễn Văn Huyên toàn tập, Văn hóa và Giáo dục Việt Nam, tập III,

(2005), Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

29. Nguyễn Văn Huyên (1990), Những bài nói và viết về giáo dục, Nxb. Giáo

Dục, Hà Nội.

30. Nguyễn Văn Huyên (1961), Quá trình xây dựng nền giáo dục Việt Nam

trong 16 năm qua, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

31. John Dewey (2008), Dân chủ giáo dục, Nxb. Tri Thức, Hà Nội.

32. Vũ Ngọc Khánh (1985), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945,

Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

33. L.A.Patty (1995), Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?), Nxb. Đà Nẵng.

34. Nguyễn Lân (1990), Hồ Chủ tịch, Nhà giáo dục vĩ đại, NXb. Khoa học xã

hội, Hà Nội.

35. Lê Văn Giạng (chủ biên) (1995), Từ Bộ Quốc gia Giáo dục đến Bộ Giáo

dục và Đào tạo, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

36. Đỗ Mười (1996), Phát triển mạnh giáo dục - đào tạo phục vụ đắc lực sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

37. Nhiều tác giả (1975), Bác Hồ (Hồi ký), Nxb. Văn học, Hà Nội.

38. Nhiều tác giả (2002), Giáo dục Nam Bộ thời kỳ kháng chiến chống Pháp

(1945 - 1954), Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

39. Võ Thuần Nho (1980), 35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông,

Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

126

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

40. Bùi Đình Phong (1994), Hồ Chí Minh với nền văn hóa mới Việt Nam

trước 1954, Nxb. Lao động, Hà Nội.

41. Trần Hồng Quân (chủ biên) (1995), 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục

và đào tạo (1945-1995), Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

42. Đỗ Thị Nguyệt Quang (1996), Quá trình xây dựng và phát triển nền giáo

dục Việt Nam mới từ tháng 9 - 1945 đến tháng 7 - 1954, Luận án Phó Tiến

sĩ Khoa học Lịch sử, Hà Nội.

43. Huỳnh Châu Sổ (1999), Nhớ về văn hóa kháng chiến bưng biền, in trong

Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau (Hồi ký kháng chiến chống

thực dân Pháp 1945 - 1954), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

44. Văn Tạo - Furata Moto (1995), Nạn đói 1945 ở Việt Nam. Những chứng

tích lịch sử, Viện Sử học Việt Nam, Hà Nội.

45. Văn Tạo - Thành Thế Vỹ - Nguyễn Công Bình (1960), Lịch sử cách mạng

Tháng Tám, Nxb. Sử học, Hà Nội.

46. Nguyễn Q. Thắng (1993), Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb. Văn hoá -

Thông tin, Hà Nội.

47. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên) (1996), Lịch sử giáo dục Việt Nam trước

cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

48. Nguyễn Khánh Toàn (1949), Giáo dục dân chủ mới (Loại sách lý

luận), Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Chiến khu.

49. Nguyễn Khánh Toàn (1959), Giáo dục tư sản và giáo dục xã hội chủ

nghĩa, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

50. Nguyễn Khánh Toàn (1965), Hai mươi năm xây dựng giáo dục, Nxb.

Giáo Dục, Hà Nội.

51. Nguyễn Khánh Toàn (1991), Nền giáo dục Việt Nam lý luận và thực hành,

Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.

127

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

52. Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Ngọc Thạch, Hoàng

Minh Giám, Vũ Quang và một số tác giả (1967), Vì tương lai và hạnh

phúc con em chúng ta!, ủy ban Thiếu niên nhi đồng Việt Nam, Hà Nội.

53. Nguyễn Khánh Toàn (1950), Những vấn đề giáo dục, Bộ Quốc gia Giáo

dục xuất bản.

54. Vương Kiêm Toàn - Vũ Lân (1980), Hội truyền bá quốc ngữ (1938 -

1945). Một tổ chức công khai của Đảng chống nạn mù chữ, Nxb. Giáo

Dục, Hà Nội.

55. Ngô Đăng Tri - Đỗ Thanh Loan (2008), Giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1945 -

1954, Hội thảo Việt Nam học lần thứ III, Hà Nội.

BÁO - TẠP CHÍ

56. Nguyễn Anh (1967), Vài nét về giáo dục Việt Nam từ sau đại chiến thế

giới lần thứ nhất đến trước cách mạng tháng Tám, tạp chí Nghiên cứu lịch

sử (số 102), tr.29 - 46.

57. Công báo nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, số 12, ngày 15 - 11- 1950.

58. Công báo nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, số 9 và 10, ngày 30 - 11-

1951.

59. Giáo dục tập san (1950), số 1, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản.

60. Phạm Minh Hạc (1998), Giáo dục Việt Nam thực trạng và triển vọng, Tạp

chí Lịch sử Đảng (số 9), tr.20 - 24.

61. Lê Mậu Hãn (2008), Hồ Chí Minh khởi đầu việc xây dựng nền giáo dục

quốc dân Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 5), tr.3 - 10.

62. Nguyễn Trọng Hoàng (1967), Chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở

Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 96), tr.13 - 25.

63. Phan Ngọc Liên (2003), Hồ Chí Minh với việc xây dựng một nền giáo dục

mới của Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu lịch sử Đảng (số 11), tr.17 - 20.

128

Hồ Chí Minh với sự phát triển giáo dục phổ thông (1945 - 1954)

Lê Thùy Linh

64. Bùi Đình Phong (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục cách

mạng Việt Nam, Tạp chí Cộng sản (số 11), tr.11 - 14.

65. Việt Nam dân quốc công báo, số 2, ngày 6 - 10 - 1945.

66. Việt Nam dân quốc công báo, số 3, ngày 13 - 10 - 1945.

67. Việt Nam dân quốc công báo, số 4, ngày 20 - 10 - 1945.

68. Việt Nam dân quốc công báo, số 6, ngày 27 - 10 - 1945.

69. Việt Nam dân quốc công báo, số 8, ngày 10 - 11 - 1945.

70. Việt Nam dân quốc công báo, số 9, ngày 17 - 11 - 1945.

71. Việt Nam dân quốc công báo, số 12, ngày 1 - 12 - 1945.

72. Việt Nam dân quốc công báo, số 16, ngày 29 - 12 - 1945.

73. Việt Nam dân quốc công báo, số 4, ngày 26 - 1 - 1946.

74. Việt Nam dân quốc công báo, số 8, ngày 23 - 2 - 1946.

75. Việt Nam dân quốc công báo, số 9, ngày 2 - 3 - 1946.

76. Việt Nam dân quốc công báo, số 12, ngày 23 - 3 - 1946.

77. Việt Nam dân quốc công báo số 34 ngày 24 - 8 - 1946.

78. Việt Nam dân quốc công báo, số 42, ngày 19 - 10 - 1946.

79. Việt Nam dân quốc công báo, số 46, ngày 16 - 11 - 1946.

80. Việt Nam Dân quốc công báo, số 2, ngày 15 - 3 - 1949.

129