ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------
PHẠM NGUYÊN PHƯƠNG HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC 1945 - 1954 CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 56 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. LÊ MẬU HÃN
HÀ NỘI, 2007
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1 4
Chương 1. HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC DÂN TỘC, DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA (1945-1946)
4
9
1.1. Chính sách ngu dân của thực dân Pháp 1.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng nền giáo dục dân tộc, dân chủ những năm 1945-1946 1.2.1. Quan điểm về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh 1.2.2. Chỉ đạo xây dựng nền giáo dục mới
9 11 21
Chương 2. HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC (1946-1954)
21
2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng nền giáo dục kháng chiến
kiến quốc những năm 1946-1950
2.1.1. Chủ trương chuyển hướng giáo dục phù hợp với hoàn cảnh kháng 21
chiến
2.1.2. Chỉ đạo xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc
23 44
2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo củng cố và phát triển nền giáo dục kháng chiến kiến quốc những năm 1951-1954 2.2.1. Nhiệm vụ mới của kháng chiến và kiến quốc 2.2.2. Chỉ đạo củng cố và phát triển nền giáo dục kháng chiến kiến quốc
44 45 59
Chương 3. Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN TỪ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC CỦA HỒ CHÍ MINH
3.1. Ý nghĩa thực tiễn 3.2. Ý nghĩa lý luận 3.3. Bài học kinh nghiệm và kiến nghị
69 61 63 67
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
70 74
MỞ ĐẦU
1. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến
kiến quốc (1945-1954)” để thấy được quan điểm và sự chỉ đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền giáo dục dân tộc, dân chủ phục vụ
sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp như thế nào.
Trên cơ sở nghiên cứu như vậy, tìm hiểu giá trị thực tiễn và lý luận
từ sự nghiệp xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là sự nghiệp xây
dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc 1945-1954 của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, hoặc nói cách khác là, sự ra đời, phát triển và thành tựu đạt được của
nền giáo dục Việt Nam từ 1945 đến 1954 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên 50 năm qua, nhiều tác giả, phần lớn là cán bộ cao cấp ngành giáo
dục đã nghiên cứu về hoạt động giáo dục ở nước ta từ năm 1945 trở lại đây.
Điểm tên một số công trình theo thời gian: Năm 1946, Vũ Đình Hòe có bài
"Chính sách giáo dục mới và sự tổ chức các bậc học” (in trong quyển “Khoa
cử và giáo dục”, Nxb.Văn hoá, Hà Nội, 1993, do Nguyễn Q Thắng soạn); Năm
1947, Nguyễn Khánh Toàn viết cuốn "Giáo dục dân chủ mới" do Bộ Quốc
gia Giáo dục xuất bản; năm 1968, Hoàng Ngọc Dy có tập "Giới thiệu mấy
nét về đường lối giáo dục của Đảng" NXB Giáo dục phát hành; năm 1990,
NXB Giáo dục cho in cuốn "Những bài nói và viết về giáo dục" của
Nguyễn Văn Huyên, và cuốn "45 năm phát triển giáo dục Việt Nam" của
Phạm Minh Hạc; năm 1992, Phạm Minh Hạc (chủ biên) viết "Sơ thảo lịch
sử giáo dục Việt Nam", NXB Giáo dục phát hành.
Viết về giáo dục thời kỳ kháng chiến 1945-1954, có bài "10 năm xây
dựng nền giáo dục phục vụ nhân dân" của Nguyễn Văn Huyên in trong tin
Thông tấn xã Việt Nam tháng 12/1955 và chuyên đề "Quá trình xây dựng
và phát triển nền giáo dục Việt Nam mới từ tháng 9/1945 đến tháng
7/1954" của Đỗ Thị Nguyệt Quang (làm luận án tiến sỹ) năm 1996.
Những tác phẩm trên nghiên cứu về sự phát triển của nền giáo dục
mới của nước ta ở những phương diện tương đối rộng theo phương pháp
chung là mô tả và phân tích lịch sử.
Đề tài "Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc
1945-1954", với góc độ của Bộ môn Lịch sử Đảng, sẽ nghiên cứu sự lãnh
đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với một nhiệm vụ cách mạng quan trọng
của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là nhiệm vụ xây dựng nền
giáo dục kháng chiến kiến quốc.
Như vậy, đề tài lấy sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng
đối với giáo dục kháng chiến kiến quốc làm chủ thể.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Tài liệu: Gồm các văn bản viết và nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
giáo dục và có liên quan đến giáo dục, các báo cáo, thống kê, ghi chép về giáo
dục thời kỳ 1945-1954, các giáo trình và tác phẩm nghiên cứu về giáo dục…
Phương pháp: Theo phương pháp lịch sử, mô tả, phân tích các sự kiện
về giáo dục theo trình tự thời gian, theo một hệ thống biện chứng, có sự đối
chiếu, so sánh để làm rõ logic của mối quan hệ giữa Lãnh tụ và hoạt động giáo
dục.
5. Những đóng góp khi nghiên cứu
Luận văn mong muốn đóng góp:
- Làm rõ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp giáo dục kháng chiến kiến quốc 1945-1954.
- Nêu những bài học có giá trị lý luận về giáo dục trên cơ sở tìm hiểu
quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2
- Nêu những kiến nghị khả dĩ là giải pháp cho những hạn chế của
hoạt động giáo dục hiện nay.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần trung tâm của Luận văn có 3
chương:
Chương 1. Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền giáo dục dân tộc,
dân chủ ở nƣớc ta (1945-1946)
Chương 2. Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền giáo dục kháng
chiến kiến quốc (1946-1954)
Chương 3. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận từ sự nghiệp xây dựng
nền giáo dục kháng chiến kiến quốc của Hồ Chí Minh.
3
Chƣơng 1
HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC DÂN TỘC, DÂN CHỦ Ở NƢỚC TA (1945-1946)
1.1. Chính sách ngu dân của thực dân Pháp
Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp đã đưa hạm đội nổ súng tấn công
vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Quân đội
của chúng lần lượt chiếm Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung kỳ. Triều đình Nhà
Nguyễn bạc nhược không thể tổ chức được cuộc kháng chiến bảo vệ
Tổ quốc. Trái lại, họ phản bội dân tộc, từng bước thoả hiệp, đầu hàng
kẻ xâm lược bằng những hiệp ước bán nước.
Nhân dân Việt Nam với truyền thống bất khuất, đã đứng lên chiến
đấu dưới ngọn cờ nghĩa của các sỹ phu yêu nước ở cả ba miền Nam,
Trung, Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa đó chưa có một đường lối
chính trị đúng đắn để phát huy sức mạnh của dân tộc, nên chưa giành
được thắng lợi. Việt Nam đã trở thành một thuộc địa của Pháp. Nhân
dân Việt Nam mất hết quyền độc lập, tự do, và phải chịu những chính
sách thống trị của thực dân Pháp vô cùng xảo quyệt và tàn bạo.
Trong đó, ngu dân là một chính sách thống trị độc ác, nham hiểm
của thực dân Pháp đối với dân tộc ta.
Chính sách này, chúng thực hiện chủ yếu bằng việc kìm hãm và
nô dịch nền giáo dục ở Việt Nam.
* Dưới thời phong kiến tự chủ, nhân dân ta đã cố gắng tự thu xếp việc
học hành của con em mình bằng những trường tư trong dân gian và đã
đóng góp nhiều trí thức tài năng cho đất nước. Nhưng “Người Pháp đến đã
làm thay đổi tất cả. Đời sống càng ngày càng khó khăn. Thuế má nặng nề,
phu dịch thường xuyên. Các gia đình khá giả nay bị sa sút, không còn có
thể nuôi thầy đồ dạy học cho con cái mình và con cái những người láng
4
giềng như xưa nữa. Những kẻ nghèo đói thì bị bần cùng, nên họ phải chống
đói đã rồi mới có thể nghĩ đến chuyện học hành ” [34,398].
Năm 1906, Toàn quyền Đông Dương Pôn Bô đã ban hành một Nghị
định về cải cách giáo dục. Mục đích của cuộc cải cách này là tìm cách xây
dựng một nền giáo dục thực dân, dần dần thay thế nền giáo dục bản địa là
nền giáo dục mà người Pháp khó kiểm soát.
Ở Nam kỳ (theo chế độ thuộc địa của Pháp), đa số các tổng, xã đều có
trường tiểu học Pháp-Việt dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ. Chữ Hán hầu
như bị bãi bỏ.
Ở Trung kỳ và Bắc kỳ là hai xứ thuộc chế độ chính trị bảo hộ và nửa
bảo hộ của Pháp, số trường dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ còn thưa thớt,
trong khi đó, trường dạy chữ Hán còn khá nhiều, nhất là ở Trung kỳ.
Để lợi dụng phong kiến trong hệ thống cai trị và bóc lột, thực dân
Pháp để tồn tại chế độ khoa cử của nhà Nguyễn đến gần hết thập kỷ thứ hai
của thế kỷ XX.
Năm 1906, Pháp đã mở Đại học Đông Dương, song chỉ đào tạo được
một năm, sau ngừng đào tạo.
Năm 1917, Toàn quyền Đông Dương Anbesarô mở đầu cho cuộc cải
cách giáo dục tiếp theo bằng việc ban hành Nghị định “Học chính tổng
quy” (gồm 7 chương với 538 điều). Bộ tổng quy về học chính này can
thiệp sâu hơn vào hoạt động giáo dục, thâu tóm quyền lực và biểu đạt ý chí
nô dịch giáo dục của thực dân Pháp: xoá bỏ nền giáo dục phong kiến, xác
lập mô hình giáo dục phổ thông và thực nghiệp ở Việt Nam do thực dân
quản lý. Chúng lập ra trường Pháp để dạy học sinh người Pháp theo
chương trình của “Chính quốc”, lập ra trường Pháp - Việt dạy cho học sinh
người Việt theo chương trình dành cho “bản xứ ” .
Năm 1919, nhà cầm quyền Pháp ra lệnh bãi bỏ thi hương, thi hội và
cấm các trường tư hành nghề (trừ trường tư Thiên chúa giáo của các cố đạo
phương Tây). Chúng cho một số xã đông dân được mở trường sơ học với
một vài lớp đầu cấp, một số huyện lỵ, thị trấn, thị xã được mở trường tiểu
học 6 năm, một số thành phố lớn mở trường cao đẳng tiểu học 4 năm (như
5
phổ thông cơ sở ngày nay), Hà Nội, Huế, Sài gòn mỗi thành phố được mở
một trường cao trung (như trường trung học phổ thông ngày nay). Việc quy
định mở trường như vậy là rất độc đoán, ngặt nghèo.
Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương Méclanh lại thực hiện một cuộc cải
cách giáo dục nữa. Cuộc cải cách này thắt chặt hơn, bộc lộ đầu óc thực dân
thâm hiểm hơn về chính sách giáo dục. Chúng nói rằng người Việt Nam rất
hạn chế về sức học, nên chỉ cần mở trường sơ học là đủ (!). Ở Bắc kỳ cho mở
trường “hương học”, ở trung kỳ cho mở trường “dự bị”, ở Nam kỳ cho mở
trường “phù trợ dự bị”, ở thị trấn, thị xã được mở lớp “kiêm bị”. Tất cả các hệ
thống trường lớp này, về chương trình đều không quá trình độ lớp 4 hiện nay.
Còn các trường cao đẳng tiểu học, trường trung học chỉ có ở những
thành phố lớn, nhưng số lượng trường hết sức ít ỏi. Ví dụ, ở thành phố Huế
có trường Cao đẳng tiểu học Quốc học Huế, ở thành phố Hà Nội có trường
Trung học Anbe sarô.
Rõ ràng, thực dân Pháp cố tình kìm hãm giáo dục ở nước ta bằng cách
hạn chế tối đa việc mở trường. Năm 1921, theo một thống kê được đưa ra
công luận là ở xứ An Nam cứ trung bình 1000 làng thì có 10 trường học
(trong khi đó lại có 1500 đại lý rượu và thuốc phiện cũng cho bấy nhiêu làng
ấy) [34,25].
Năm 1923, nạn thiếu trường học vẫn diễn ra “một cách tệ hại”, “mỗi
năm, cứ đến ngày khai trường, các bậc cha mẹ dù có đi gõ cửa khắp nơi,
cầu xin mọi sự giúp đỡ, thậm chí xin nộp gấp đôi tiền ăn học mà họ vẫn
không gửi được con cái đến trường... Người ta nói rằng ngân sách không
đủ cho chính phủ xây thêm trường mới. Không hẳn thế đâu.” [34,154]
Năm 1939, được coi là năm đỉnh cao của sự phát triển kinh tế và xã hội ở
Đông Dương, mà ở nước ta cũng chỉ có hơn 400.000 học sinh tiểu học, 3000 học
sinh trung học, 582 học sinh đại học trên tổng số 23 triệu dân lúc đó [52,160].
Năm học 1941-1942, tức là vào thời điểm sau hơn 80 năm được “khai
hoá” về giáo dục, theo Niên giám thống kê Đông Dương, tập 7, năm 1942,
người Pháp mới đầu tư mở được 8.775 trường sơ học với 486.362 học sinh,
6
503 trường tiểu học với 58.629 học sinh, 16 trường cao đẳng tiểu học với
5.521 học sinh, 3 trường trung học với 652 học sinh.
Năm 1942, bậc sơ học gồm cả trường công và trường tư có 535.037
học sinh, trong khi đó, bậc trung học (không có trường tư vì trường tư
không được mở) chỉ có 652 học sinh. Nghĩa là cứ 100 người đi học thì 99
người phải bỏ dở giữa chừng!
Việc mở trường cao đẳng và đại học có tính chuyên nghiệp thì nhà
cầm quyền lại càng tính toán và hạn chế. Đến cuối năm học 1943-1944, cả
Đông Dương chỉ có 1259 sinh viên cao đẳng và đại học ở các trường Y
dược, Thú y, Sư phạm, Nông lâm, Công chính, Thương mại, Khoa học,
Luật khoa. Trong số 1259 sinh viên, thì sinh viên Luật khoa là 394, Cao
đẳng khoa học là 175, Cao đẳng công chính 84, Nông lâm 63, Thú y 39…
[14,137]. Rõ ràng người Pháp có dụng ý về mục tiêu đào tạo. Họ cần nhiều
sinh viên Luật để bổ sung vào đội ngũ công chức hành chính của bộ máy
cai trị.
Việc đi du học lại càng ngặt nghèo và thu hẹp. Toàn quyền Đông
Dương trực tiếp phê học bạ, xét hồ sơ và quyết định từng trường hợp học
sinh An Nam sang học tại Pháp.
“Điều 500 (Bis) của nghị định ngày 20 tháng 6 năm 1921 về học chính
ở Đông Dương nói như sau:
Mọi người bản xứ, vô luận là dân thuộc địa Pháp hay dân do Pháp bảo
hộ, muốn sang chính quốc tiếp tục học tập, đều phải được phép của quan
toàn quyền. Quan toàn quyền sẽ quyết định sau khi hỏi ý kiến quan thủ
hiến và quan giám đốc Nha học chính.
Trước khi đi, đương sự phải có một học bạ đại học do Nha học chính
cấp, có dán ảnh và ghi rõ lý lịch, địa chỉ cha mẹ, những trường đã học, các
học bổng hoặc trợ cấp đã được hưởng, các bằng cấp đã có và địa chỉ người
bảo lãnh ở Pháp. Học bạ đó phải được quan toàn quyền phê chuẩn...”
[34,155 ].
7
* Thực dân Pháp chẳng những đã hạn chế việc học hành của dân
chúng bằng cách chỉ phổ cập nền giáo dục sơ đẳng “một cách quá bủn xỉn
và nhỏ giọt” mà còn chú trọng đưa nội dung nhồi sọ vào chương trình và
hoạt động giáo dục “làm cho u mê để thống trị” . Đó là thực trạng và bản
chất của nền giáo dục ở Việt Nam thời Pháp thống trị.
Nhà cầm quyền Pháp đã cố tâm hủy bỏ Hán học vì chúng thấy Hán
học có thể đưa vào Việt Nam những tư tưởng tiến bộ phương Tây qua
Trung Quốc và Nhật Bản, Hán học đã đào tạo một lớp sỹ phu lãnh đạo
phong trào chống Pháp đầy dũng khí. Do đó, chúng đẩy mạnh việc chiếm
độc quyền về giáo dục, để gạt bỏ cái gì là bản lĩnh dân tộc và nhào nặn tinh
thần vong bản cho người dân thuộc địa.
Nhồi sọ là nội dung căn bản nhất của nền giáo dục nô lệ, của chính
sách ngu dân. “Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên
An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát
triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài
mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ cần
thiết phục vụ cho bọn xâm lược, người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi
bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như
vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một
lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ sùng bái những kẻ mạnh hơn
mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của
mình và đang áp bức mình. Nó làm cho thanh niên trở nên ngu ngốc. Điều
gì có thể rèn luyện được cho học sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người
ta không dạy ở nhà trường. Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã hội và
có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi ” [34,399].
Những thủ đoạn độc ác của thực dân Pháp làm cho nhân dân ta bần
cùng, khốn khổ không thể đi học được, và cố tình thu hẹp trường lớp để gạt
ra hàng loạt những học sinh có năng lực học tập mà không có chỗ học đã
dẫn đến một hậu quả hết sức đen tối. “Nạn mù chữ và thất học trầm trọng
khắp trong nước: 95% dân chúng không biết đọc, biết viết, số học sinh tiểu
học chỉ bằng 0,80% dân số, số học sinh trung học chưa đầy 0,30% dân số”
8
[29,1117]. “Còn đối với trí thức thì tuy rằng thực dân và phong kiến cũng
trực tiếp bóc lột về vật chất, song chúng dành một tí ti cái chúng bóc lột
được để mua chuộc trí thức. Nhưng chúng áp bức bóc lột trí thức tàn tệ về
mặt tinh thần. Chúng đã làm cho trí thức xa rời thực tế, xa rời nhân dân.
Chúng đã làm cho một số trí thức mơ màng đến nỗi quên nước mình bị nô
lệ, quên tự mình là nô lệ, không phân biệt được ai là bạn, ai là thù, không
phân biệt được thế nào là sai, là đúng. Đó là một thủ đoạn vô cùng thâm
độc của thực dân và phong kiến” [40,146].
Tuy nhiên, nền giáo dục ở nước ta trong thời Pháp thống trị cũng làm
nảy sinh những hệ quả ngoài mong muốn của kẻ thù. Đó là sự xuất hiện
một bộ phận trí thức tân học có tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc, trong
đó có những người rất tiên tiến, đã biết chớp thời cơ học tập, rèn luyện văn
hoá, để khi có điều kiện thì đem tài năng và nhiệt tâm đấu tranh cho quyền
lợi của dân tộc. Họ tự nguyện tham gia các phong trào yêu nước như phong
trào đòi ân xá chính trị phạm, phong trào để tang nhà ái quốc Phan Châu
Trinh. Họ theo tiếng gọi của Hồ Chí Minh làm cách mạng tháng Tám,
*
* *
kháng chiến chống Pháp và kiến thiết nước nhà.
Tóm lại, nền giáo dục ở Việt Nam dưới thời Pháp thống trị là nền
giáo dục nô dịch do thực dân Pháp chủ trương và kiểm soát. Chúng kiềm
chế việc mở mang trường lớp, và nhồi sọ về nội dung giảng dạy với mục
đích làm cho nhân dân ta u mê, cam chịu, mất ý thức tự chủ, giảm sút tinh
thần đấu tranh tự giải phóng.
Nền giáo dục nô dịch ấy đã được xoá bỏ từ Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, và được thay bằng một nền giáo dục mới, nền giáo dục dân tộc,
dân chủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng và lãnh đạo, đã đem lại các
giá trị tinh thần tốt đẹp, mới mẻ cho nhân dân Việt Nam.
1.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo việc xây dựng nền giáo
dục dân tộc, dân chủ ở nƣớc ta những năm 1945-1946
9
1.2.1. Quan điểm về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thấu hiểu nỗi đau khổ của người dân mất nước, thấu hiểu tầm quan
trọng của trình độ văn hóa đối với một dân tộc nhược tiểu. Người quan
niệm: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Vì thế, sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính
quyền thuộc về nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một
nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập, tự do.
Đó là một nền giáo dục mới, gồm nhiều ngành học, xuất phát từ hoàn
cảnh và yêu cầu của dân tộc, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài phục
vụ sự nghiệp kháng chiến cứu nước và xây dựng Tổ quốc.
Quan điểm về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở để xác
định tính chất, hướng đi và cách thức tổ chức nền giáo dục mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi
hành chính sách ngu dân. Chúng hạn chế mở trường học, chúng không muốn
cho dân ta biết chữ để lừa dối dân ta và bóc lột dân ta”, “muốn giữ vững nền
độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người dân Việt Nam phải
hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để
có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết
đọc, biết viết chữ quốc ngữ”[37,36]. Người lại nói: “Đồng bào bây giờ phải
biết chữ hết để trả lời cho thế giới biết nước ta là nước văn minh” [38,60].
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nền giáo dục mới của dân
tộc Việt Nam dưới chính thể dân chủ cộng hoà là nền giáo dục phải mở
mang dân trí, phải làm cho đồng bào bị áp bức, bị nô lệ thoát khỏi nạn dốt,
nạn thất học do hậu quả của chính sách ngu dân của bọn thực dân Pháp
thống trị, đem lại hiểu biết và năng lực cho quần chúng nhân dân, để quần
chúng nhân dân xây dựng đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại chủ trương nền giáo dục mới phải đào tạo
được nhiều nhân tài cho kiến quốc. Vì rằng “sau 80 năm bị bọn Pháp thực dân
dày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của dân là
10
rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta phải đem hết lòng hăng
hái đó vào con đường kiến quốc. Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kiến
quốc có thắng lợi thì kháng chiến mới thành công. Kiến quốc có chắc thành
công, kháng chiến mới thắng lợi. Kiến thiết cần có nhân tài” [37,99].
Cho nên, Đảng và Chính phủ ta cần phải xây dựng trên đất nước Việt
Nam độc lập, tự do, dân chủ “một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam”, “một
nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có” của con người
Việt Nam, nền giáo dục ấy sẽ góp phần xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên để lại
cho chúng ta, làm cho nước ta theo kịp các nước phát triển trên hoàn cầu, làm
cho nước ta bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra: “trước học một đường, hành một
nẻo. Nay phải sửa chương trình làm sao để học thì hành được ngay”[38,59]
và “làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với đời sống của nhân dân, với
công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc” [39,266].
Các quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh
về mục đích và phương châm giáo dục, nhưng ở những giai đoạn lịch sử
khác nhau, bao giờ Người cũng chỉ ra cho giáo dục những mục đích cụ thể,
và theo đó phương châm cũng cụ thể.
1.2.2. Chỉ đạo xây dựng nền giáo dục mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người lãnh đạo và quản lý điều
hành cao nhất của đất nước từ khi nhân dân ta giành được chính quyền đã giải
quyết gánh nặng “nội ưu ngoại hoạn, đủ sự gay go” [38,200] và xây đắp nên
những thành tựu vẻ vang cho đất nước dân chủ cộng hoà non trẻ, trong đó có
việc kiến thiết nền giáo dục mới, nền giáo dục dân tộc, dân chủ của Việt Nam.
* Chống nạn mù chữ
Ngày 3/9/1945, chủ tọa phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ tại
Thủ đô Hà Nội, một hội nghị do tình hình khẩn cấp, được tiến hành rất đơn
giản, không có nghi thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
11
“Sau tám mươi năm bị áp bức, bị bóc lột, và dưới chính sách ngu dân của
thực dân Pháp, các bạn và tôi, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật hành chính.
Nhưng điều đó không làm cho chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm
vừa học, vừa học vừa làm. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm,
nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sữa chữa khuyết điểm.
Với lòng yêu nước và yêu nhân dân sâu sắc, tôi chắc chúng ta sẽ
thành công” [37,7].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tất cả có 6 vấn đề.
Về giáo dục, Người nói: “Vấn đề thứ hai là nạn dốt”. Là một trong
những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn
chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ.
Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo
vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở
một chiến dịch để chống nạn mù chữ ” [37,8].
Để thực hiện nhiệm vụ “chống nạn mù chữ” do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề ra, ngày 8-9-1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 20/SL quy định việc bắt buộc học chữ
quốc ngữ trong toàn quốc, như sau:
“1. Trong khi đợi lập được nền tiểu học cưỡng bách, việc học chính
quốc gia từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người.
2. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải
biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ. Quá hạn đó, một người dân Việt Nam
nào trên 8 tuổi mà không biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ sẽ bị phạt tiền.
3. Các khâu chi phí sẽ chia cho quỹ hàng tỉnh và hàng xã phải chịu” [57] .
Ngày 8-9-1945, Chính phủ đã ra sắc lệnh số 19/SL quy định tổ chức
các lớp học buổi tối cho công nhân và nông dân. Sắc lệnh 19/SL ghi rõ:
“1. Trong toàn cõi nước Việt Nam, sẽ thiết lập cho công nhân và
nông dân những lớp học bình dân buổi tối.
2. Trong hạn sáu tháng, làng nào và đô thị nào cũng đã phải có một
lớp học dạy được ít nhất là 30 người.” [57]
12
Để thống nhất nhiệm vụ chống nạn mù chữ, ngày 8-9-1945 Chính
phủ đã ra Sắc lệnh số 17/SL thành lập Ban Bình dân học vụ thuộc Bộ Quốc
gia Giáo dục. Sắc lệnh 17/SL ghi rõ:
“1. Đặt ra một Bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam.
2. Cử ông Nguyễn Công Mỹ làm giám đốc Bình dân học vụ”. [57]
Ngày 4-10-1945, nhân danh người đứng đầu Chính phủ lâm thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân Việt Nam tham gia “chống nạn thất học”
Người nói: “Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước
là 95 phần trăm, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến
bộ làm sao được?
Nay chúng ta giành được quyền độc lập. Một trong những công việc
phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí.
Chính phủ đã ra hạn trong một năm, tất cả mọi người Việt Nam đều
phải biết chữ quốc ngữ. Chính phủ đã lập một Nha Bình dân học vụ để
trông nom việc học của dân chúng…
Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ,
hãy góp sức vào bình dân học vụ ...” [37,36] .
Chủ trương “mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ ” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh được Hội đồng Chính phủ thông qua ngày 3-9-1945, lời
kêu gọi “Chống nạn thất học” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 4-10-1945
cùng những sắc lệnh do Chính phủ ban hành nói trên đã tạo nên một sức
mạnh tinh thần và tổ chức cho giáo dục Bình dân học vụ.
Phong trào Bình dân học vụ do vị Lãnh tụ tối cao của dân tộc phát
động và nhân dân toàn quốc tham gia đã trở thành một phong trào quần
chúng sôi nổi, rộng khắp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin vào anh chị em giáo viên Bình
dân học vụ. Họ là hội viên Hội truyền bá chữ quốc ngữ trước đây, là nam
nữ thanh niên, là tất cả những người đã biết chữ, dù là vợ hay là chồng, là
anh hay là em, là cha mẹ hay con cái, là chủ nhà, chủ ấp ..., những người
“đã chịu cực khổ khó nhọc, hy sinh phấn đấu, để mở mang tri thức phổ
thông cho đồng bào, để xây đắp nền văn hoá sơ bộ cho dân tộc” [37,220].
13
Đối với những người đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất mực qúy trọng,
ca ngợi. Người nói: “Anh em làm việc mà không có lương bổng, thành
công mà không có tiếng tăm. Anh chị em là những người “vô danh anh
hùng”. Tuy vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần tương lai của dân tộc
nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em. Tôi mong rằng trong một
thời kỳ rất ngắn, lòng hăng hái và sự nỗ lực của anh chị em sẽ có kết quả
rất vẻ vang, đồng bào ta ai cũng biết đọc, biết viết. Cái vinh dự đó thì tượng
đồng, bia đá nào cũng không bằng ” [37,220].
Người đã viết vào đầu cuốn sách “Phương pháp và cách thức dạy vỡ
lòng chữ quốc ngữ” do Nha Bình dân học vụ xuất bản năm 1946 những lời
căn dạn cụ thể:
“Anh chị em giáo viên Bình dân học vụ cố gắng đọc kỹ sách này, rồi
tận tâm dạy bảo đồng bào thất học, làm cho nạn mù chữ chóng hết.
Thế là làm tròn một nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với Tổ quốc”
[37,234]
Đồng thời, Người khuyên bảo học viên Bình dân học vụ một cách
ân cần. Người nói: “Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học
cho biết đi... Phụ nữ lại càng phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là
lúc chị em phải cố gắng” [37,37].
Kết quả của chiến dịch diệt dốt từ mùa đông năm 1945 và trong năm
1946 mới là kết quả bước đầu nhưng hết sức vang dội.
Ở Trung ương, Nha Bình dân học vụ đã mở các khoá huấn luyện để
thống nhất quán triệt đường lối, phương châm, phương pháp, biện pháp giáo
dục Bình dân học vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn:
Khoá “Hồ Chí Minh”, tháng 11 năm 1945, học viên từ Thanh Hoá trở
ra, 79 đại biểu, huấn luyện 17 ngày;
Khóa “Phan Thanh”, tháng 11 năm 1945, học viên Trung bộ, 67 đại
biểu, huấn luyện 7 ngày;
Khoá “Đoàn kết”, tháng 7 năm 1946, học viên của 14 dân tộc thiểu số,
75 đại biểu, huấn luyện 30 ngày.
14
Ở địa phương, các Ty Bình dân học vụ tỉnh, Ban Bình dân học vụ
huyện và Uỷ ban hành chính kiêm kháng chiến xã, phường tổ chức các lớp
Bình dân học vụ ở các làng xóm, khu phố. Mọi địa bàn đều có lớp sơ cấp
dành cho người bắt đầu học (còn gọi là lớp i tờ) học từ a b c .
Chỉ sau hơn một năm thực hiện giáo dục Bình dân học vụ, chúng ta đã
mở được 75.805 lớp học, có 97.604 người tham gia dạy học và hơn 2,5 triệu
học viên đã biết đọc, biết viết [26,32].
* Xây dựng nền giáo dục Phổ thông
Ngay trong tháng 9-1945, Chính phủ đã cho khai giảng các trường học
trong hệ phổ thông, đồng thời chuẩn bị chương trình cải cách hệ thống giáo
dục cũ, từng bước phát triển giáo dục phổ thông thành một nền giáo dục đại
chúng, đặt cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện của thế
hệ trẻ Việt Nam, những người công dân hữu ích của đất nước.
Tháng 9-1945, nhân ngày khai trường đầu tiên của Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh cả nước. Người đã
dành tình cảm nồng hậu của “một người anh lớn” đối với “các em” là những
người chủ tương lai của nước nhà. Và, quan trọng hơn, Người đã chỉ ra cho
học sinh các giá trị đích thực của một nền giáo dục có được “nhờ sự hy sinh
của biết bao nhiêu đồng bào”. Người nói: “từ giờ phút này giở đi các em được
nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam. Trước đây cha anh các em, và
mới năm ngoái cả các em nữa, đã phải chịu nhận một nền học vấn nô lệ, nghĩa
là nó chỉ đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân
người Pháp. Ngày nay các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ
một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các
em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục
làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” [37,32].
Người lại chỉ ra cho học sinh thấy rõ mục đích và ý nghĩa của nền giáo
dục của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là: “Sau 80 năm giời nô lệ làm cho
nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên
đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn
15
cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong, chờ đợi ở các em rất
nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [37,33].
Bức thư đã chứa đựng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
nền giáo dục mới, một nền giáo dục “hoàn toàn Việt Nam”. Nền giáo dục ấy
phải là một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của
học sinh, phải nhằm mục đích xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho
toàn dân tộc, phải làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn
cầu, phải hỗ trợ trong công cuộc phòng thủ đất nước.
Từ năm học 1945-1946 trở đi, học sinh các trường phổ thông được
tiếp tục học theo chương trình giáo dục cải cách của ông Hoàng Xuân Hãn
đã vạch ra trong thời kỳ Chính phủ Trần Trọng Kim, với một số điều chỉnh
cần thiết do tình hình và yêu cầu mới (theo kế hoạch đến năm học 1951-
1952, sẽ có chương trình cải cách giáo dục phổ thông thay thế chương trình
này).
Ngày 10-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 44/SL về
việc thành lập “Hội đồng Cố vấn học chính”. Hội đồng Cố vấn học chính do
Luật sư Vũ Đình Hoè, Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục làm Chủ tịch gồm
khoảng 30 thành viên là những vị có kiến thức và lịch duyệt về vấn đề giáo
dục đã giúp Bộ Giáo dục lĩnh hội và cụ thể hoá những tư tưởng chỉ đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về nền giáo dục kháng chiến kiến quốc trong việc
hoạch định công việc và tổ chức trường lớp, chương trình cho giáo dục.
Hội đồng cố vấn học chính đã thảo luận về những dự án của Bộ trưởng
Bộ Quốc gia Giáo dục hoặc dự án của các tiểu ban (nghiên cứu về đại học,
trung học, tiểu học, giáo dục chuyên nghiệp, bình dân học vụ, v..v..), và khẩn
trương nghiên cứu chương trình cải cách giáo dục. Song, vì hoàn cảnh của đất
nước, phải tiến hành chống thực dân Pháp ở miền Nam, phải giải quyết nhiều
nhiệm vụ cấp bách có ý nghĩa sống còn của chế độ mới, nên đến cuối năm
1950 mới có đề án cải cách giáo dục đệ trình Hội đồng Chính phủ xét duyệt.
16
Theo sự chỉ đạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc
gia Giáo dục đã tích cực thực hiện kế hoạch trong tháng 9-1945 khai giảng
các trường phổ thông trong cả nước. Kết quả, ở Bắc bộ và Trung bộ, trong
năm học 1945-1946 đã mở được 5654 trường tiểu học với 206.784 học sinh,
25 trườn trung học với 7.514 học sinh [26,32]. Trường Trung học phổ thông
ở tỉnh lỵ Hải Dương và Trường Trung học phổ thông ở tỉnh lỵ Thái Nguyên
(thuộc Bắc bộ) là hai trường mới được thành lập ngày 11-11-1946 theo Nghị
định 553/NĐ và 554/NĐ của Bộ Quốc gia Giáo dục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh nhộn
nhịp tưng bừng của ngày tựu trường ở khắp các nơi, các em hết thảy đều vui
vẻ vì sau mấy tháng giời nghỉ học, sau bao cuộc chuyển biến khác thường, các
em lại được gặp thầy gặp bạn. Nhưng sung sướng hơn nữa, từ giờ phút này
giở đi các em bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam.”
[37,32]
* Xây dựng nền giáo dục Đại học và Cao đẳng
Trước yêu cầu đào tạo nhân tài để phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc, Nhà nước ta quyết định tiếp thu các cơ sở của Đại học Đông Dương,
kế thừa và cải tổ các trường đại học và cao đẳng cũ, phát triển thêm một số
trường đại học mới, nhằm xây dựng một nền giáo dục đại học dân tộc, dân
chủ của một nước Việt Nam độc lập, tự do.
Dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các phiên họp ngày 22-9,
ngày 4-10, ngày 8-10 và ngày 8-11 năm 1945 của Hội đồng Chính phủ đã
liên tiếp bàn định chủ trương khai giảng các trường Đại học, Cao đẳng cũ và
thành lập thêm các trường Đại học mới, bàn định việc lựa chọn, bổ nhiệm
giám đốc, giáo sư, giảng viên, và việc dùng tiếng mẹ đẻ để giảng dạy cho
các trường đại học và cao đẳng ngay từ niên khoá 1945-1946.
Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hoè, theo lệnh của Chính
phủ đã công bố bằng một Nghị định của Bộ, từ ngày 15-11-1945 sẽ khai giảng
các trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội: Đại học Y khoa, Dược khoa, Nha
khoa, Cao đẳng Khoa học, Mỹ thuật, Canh nông, Thú y để đón sinh viên trở
17
lại trường học tập, tiếp nhận sự đào tạo, rèn luyện của nhà trường theo những
yêu cầu mới của đất nước, của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Các trường Đại học được lập quỹ tự trị theo Sắc lệnh số 43/SL do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký ngày 10-10-1945. Quỹ này được Chính phủ trợ cấp
hằng năm, và có thể tiếp nhận sự giúp đỡ của các nhà hảo tâm. “Với tầm
nhìn đúng đắn về vai trò quan trọng của khoa học xã hội và nhân văn trong
đời sống xã hội của một quốc gia độc lập, ngày 10-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 45/SL thành lập Trường Đại học Văn khoa ở Hà Nội
do ông Đặng Thai Mai làm giám đốc, Trường Đại học Văn khoa Hà Nội có
nhiệm vụ đào tạo giáo sư văn học cho các trường trung học và nâng cao nền
văn học Việt Nam cho xứng đáng với một nước độc lập, để theo kịp các
nước tiên tiến trên hoàn cầu” [25.84].
Trường Đại học Văn khoa Hà Nội có các khoa Triết lý, Việt học, Hán
học, Sử ký, Địa dư. Chính phủ cũng quyết định mở Lớp Cao đẳng Chính trị-
Xã hội đặt tại Trường Đại học Văn khoa trong khi chưa cải tổ được Trường
Đại học luật khoa cũ. Ngoài các nhà luật học, triết học, sử học, văn học, Bộ
Quốc gia Giáo dục còn mời các nhà hoạt động chính trị đến giảng tại Trường
Đại học Văn khoa và Lớp Cao đẳng Chính trị-Xã hội, trong số đó có Chủ
tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Phạm Văn Đồng giảng về Khoa Hiến pháp,
đồng chí Võ Nguyên Giáp giảng về Khoa kinh tế.
“Quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thành lập Đại học Văn khoa
theo Sắc lệnh số 45/SL, ngày 10-10-1945, là một sự kiện trọng đại đánh dấu
mốc son lịch sử ra đời của các ngành đào tạo khoa học xã hội và nhân văn
Việt Nam.” [25,85].
Thực hiện chủ trương của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đúng
ngày 15-11-1945, lễ khai giảng khoá học đầu tiên của Trường Đại học Việt
Nam dưới chế độ dân chủ cộng hoà đã được tổ chức tại cơ sở Trường Đại
học Đông Dương số 19 Lê Thánh Tông, Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến
chủ toạ buổi lễ. Một số quan khách quốc tế đại diện cho phái bộ cường quốc
đồng minh cũng tham dự.
18
Ông Nguyễn Văn Huyên, Giám đốc Đại học vụ, đã đọc diễn văn khai
mạc nêu lên ý nghĩa của nền đại học Việt Nam: “Buổi lễ hôm nay anh em
giáo sư và sinh viên chúng tôi muốn là một dịp để tỏ cho thế giới biết rằng
trong giờ phút nghiêm trọng của tiền đồ Tổ quốc lúc này, dân tộc Việt Nam,
ngoài công cuộc đấu tranh bằng xương máu trên chiến địa cũng nỗ lực tham
gia vào công cuộc tiến triển văn hoá của nhân loại. Chúng tôi muốn rằng nền
Đại học mới này là một lực lượng mạnh trong những lực lượng chiến đấu của
dân tộc Việt Nam. Chúng tôi muốn nó là một thành lũy để trường kỳ kháng
chiến, phục hồi hoàn toàn lãnh thổ và giải phóng tinh thần cho dân tộc chúng
tôi là một dân tộc văn hiến có ngoài nghìn năm lịch sử độc lập và đã tự gây
nên được một nền văn minh đặc sắc trên ven bể Thái Bình Dương này”
[29,12].
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, sau những cố gắng và sự khẩn trương của của Bộ Quốc gia Giáo dục,
riêng ở bậc đại học, Ban Văn khoa có 253 sinh viên, Ban Chính trị-Xã hội có
529 sinh viên, tất cả các trường đại học có 1149 sinh viên chính thức và 270
sinh viên dự thính, đã bước vào học tập từ sau ngày 15-11-1945.
Sự vận động để hình thành nền giáo dục mới của Việt Nam là sự vận
động cách mạng. Trong suốt quá trình, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người định
hướng và trực tiếp hướng dẫn thực hiện.
Nền giáo dục mới ở nước ta là nền giáo dục dân tộc, dân chủ, nó là
thành quả của Cách mạng Tháng tám -1945, là một mặt trận trong sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc của dân tộc Việt Nam.
Để xây dựng và phát triển nền giáo dục đó xứng tầm với một quốc gia
độc lập, tự do, đi đúng đường lối cách mạng dân tộc dân chủ của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, ngày 10-8-1946, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh 146/SL
đặt những nguyên tắc căn bản, và quy định về các cấp học của nền giáo dục
mới.
Về nguyên tắc, Sắc lệnh nêu rõ: “Nền giáo dục của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà là một nền giáo dục duy nhất đặt trên ba nguyên tắc căn
19
bản: đại chúng hoá, dân tộc hoá, khoa học hoá và theo tôn chỉ phụng sự lý
tưởng quốc gia và dân chủ” [58].
Về tổ chức các cấp học, Sắc lệnh 146/SL quy định: sau bậc học ấu trĩ
(giáo dục trẻ con dưới 7 tuổi), là ba cấp học: đệ nhất cấp, đệ nhị cấp, đệ tam
cấp. Đệ nhất cấp, là bậc học cơ bản, 4 năm, nhận học sinh từ 7 tuổi, năm thứ
4 thi lấy bằng giáo dục cơ bản, bậc học này cưỡng bách từ năm 1950, tuỳ
theo tình hình kinh tế và xã hội trong nước mà tiến hành dần làm nhiều thời
kỳ. Đệ nhị cấp gồm ngành học tổng quát và ngành học chuyên môn, ngành
học tổng quát gồm bậc phổ thông (4 năm) và bậc chuyên khoa (3 năm), học
xong thi lấy bằng tổng quát; ngành học chuyên môn gồm bậc thực nghiệm
và bậc chuyên nghiệp, hạn học ít nhất là 3 năm, chủ yếu đào tạo cán bộ thực
tiễn. Đệ tam cấp, là bậc đại học, hạn học ít nhất là 3 năm, học sinh học xong
thi lấy bằng đại học sỹ hoặc bác sỹ. Ngành sư phạm (được quy định trong
Điều 9 của Sắc lệnh 146/SL) gồm sư phạm sơ cấp, sư phạm trung cấp, sư
phạm cao cấp, đào tạo giáo viên cho các bậc học.
Sắc lệnh 146/SL còn quy định ở tất cả các các bậc học, học sinh không
phải trả học phí, và trong các kỳ thi tốt nghiệp, học sinh cũng không phải nộp
một khoản nào, học sinh xuất sắc mà nghèo sẽ được học bổng của Chính phủ.
Với Sắc lệnh 146/SL về giáo dục của Chính phủ, nền giáo dục của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã có cơ sở pháp lý vững chắc để xây
dựng, củng cố và phát triển.
* *
*
Tóm lại, từ ngày Cách mạng thành công (19-8-1945) đến ngày toàn
quốc kháng chiến (19-12-1946), nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung sức mạnh tinh
thần và vật chất vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ cộng hòa,
sự nghiệp đấu tranh chống lại âm mưu bành trướng và xâm lược của các thế
lực đế quốc thực dân. Trong sự nghiệp đấu tranh và xây dựng đó, một nền
20
giáo dục theo đường lối và sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
được tổ chức hoạt động.
Bình dân học vụ là con đẻ của Cách mạng tháng Tám, nhằm xoá nạn
mù chữ trong nhân dân đã nhanh chóng trở thành một phong trào sôi nổi,
rộng khắp, lôi cuốn hàng triệu người tham gia, tạo nên một dấu ấn đẹp đẽ về
một nền giáo dục dân tộc đại chúng.
Giáo dục Phổ thông được đồng loạt khai giảng vào tháng 9 năm 1945
với chủ trương đem lại “một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam” cho thế hệ
trẻ, những công dân hữu ích của nước nhà trong tương lai.
“Sự ra đời của nền giáo dục đại học Việt Nam ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công đã đem lại cho giáo sư và sinh viên các trường đại
học lúc bấy giờ một niềm tự hào sâu sắc về một nền đại học của một nước
Việt Nam độc lập, tự do và là một động lực lớn để giáo sư và sinh viên nêu
cao quyết tâm xây dựng nền đại học dân tộc và sẵn sàng đi vào cuộc thử
thách vô cùng gian khổ của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc” [25,86]
Từ năm học 1945-1946, năm học đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám,
nền giáo dục đã có sự biến đổi khá toàn diện về tổ chức và tính chất.
“Đánh giá tổ chức và hoạt động của nền giáo dục mới trong năm đầu
dưới chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta đã làm được nhiều việc về giáo dục, làm hơn hẳn người Pháp” ” [ 25,142 ].
21
Chƣơng 2
HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC (1946 -1954)
2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng nền giáo dục
kháng chiến kiến quốc những năm 1946-1950
2.1.1. Chủ trương chuyển hướng giáo dục phù hợp với hoàn
cảnh kháng chiến
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để hoàn thành trọn
vẹn sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đã bùng nổ vào đêm ngày 19
tháng 12 năm 1946.
Thời kỳ kiên trì đấu tranh theo chủ trương “hoà để tiến”, để bảo vệ độc
lập, bảo vệ chính quyền, xây dựng chế độ dân chủ cộng hoà, và chuẩn bị cho
một cuộc chiến tranh khó tránh khỏi đã qua.
Cả nước bước vào thời chiến. Mặt trận quân sự ngày càng lan rộng và
quyết liệt, mọi hoạt động trên các mặt chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh
tế, văn hoá, xã hội đều phải chuyển hướng theo hoàn cảnh thời chiến và
phục vụ thời chiến.
Về giáo dục, thành tựu của chặng đường “gây dựng” những năm 1945-
1946 là rất cơ bản, đặt cơ sở cho chặng đường tiếp theo (1946-1950) tiếp tục
phát triển. Nhưng vấn đề đặt ra hết sức quan trọng là phải chuyển hướng
công tác giáo dục như thế nào cho phù hợp với tình hình của chiến tranh, có
giá trị góp sức mạnh cho cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.
Nếu ở chặng đầu, hoạt động giáo dục đã gặp khó khăn do nạn đói, do
sự căng thẳng trong việc giữ chính quyền, giữ độc lập, hoà bình, thì hoạt
động giáo dục trong giai đoạn này lại gặp khó khăn do tình trạng chiến tranh.
Chiến tranh là biểu hiện của sự đối đầu chính trị đến mức dữ dội, quyết liệt
nhất. Nó chi phối hầu như toàn bộ hoạt động của xã hội các bên tham chiến,
22
nhất là trong hoàn cảnh kinh tế xã hội kém phát triển như nước ta phải chống
lại hai tên đế quốc hung hãn hợp lực với bọn bù nhìn ngoan cố để bảo vệ
từng sinh mạng của người dân, từng tấc đất của Tổ quốc.
Thông thường, những hoạt động cần trạng thái tĩnh như hoạt động giáo
dục, khi gặp chiến tranh sẽ bị đảo lộn, khó duy trì. Song, nền giáo dục mới
của nước ta có một sinh mệnh đặc biệt. Nó là sản phẩm của Cách mạng
Tháng Tám. Nó vừa được giành giật từ tay thực dân về tay nhân dân. Trong
lòng bản thân nó vẫn đang diễn ra cuộc chiến tinh thần giữa nô lệ và tự do,
nên nó còn là một vũ khí mà Cách mạng không thể lơi lỏng.
Cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta thực chất là tiếp tục sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc kháng chiến phải bảo vệ mọi
thành quả của cách mạng, trong đó có nền giáo dục dân chủ non trẻ. Và, nền
giáo dục ấy lại phải phụng sự kháng chiến.
Vì vậy, Nhà nước ta xác định phải tổ chức lại nền giáo dục trong thời kỳ
chiến tranh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra phương châm giáo dục là kết hợp “học với
hành”, tổ chức hoạt động giáo dục chính là “thực hiện kháng chiến bằng văn
hoá, văn hoá của kháng chiến” [38,370]
Nhân dịp Hội nghị giáo dục toàn quốc họp tại Việt Bắc vào giữa tháng
7-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Hội nghị, nêu rõ:
“Chúng ta cần phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc ”
Đây là quan điểm chỉ đạo hoạt động giáo dục của đất nước trong thời
gian nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực
dân Pháp và tay sai cho đến ngày toàn thắng.
Ngày 31-3-1949, tại Việt Bắc, Hội đồng giáo dục đặc biệt do Phó Thủ
tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm chủ tịch đã khai mạc. “Theo Quyết
nghị của Hội đồng Chính phủ thì Hội đồng giáo dục gồm có các vị trong
Chính phủ và các nhà chuyên môn, mục đích định kế hoạch phát triển nền
giáo dục cho xúng đáng với sự phát triển của dân tộc về mọi mặt: quân sự,
23
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Chính phủ nhận định trong năm vừa qua,
mọi khả năng về nhân lực, vật lực, và tài lực đã đặt vào các ngành khác hơn
là cho giáo dục, vì vậy giáo dục đã đi chậm, nên cần phải định cho giáo dục
một kế hoạch phát triển cho kịp thời” [29,175]
Để giúp Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, ngày 4-9-
1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký một Sắc lệnh số 120/SL thành lập Hội
đồng Giáo dục. Hội đồng Giáo dục gồm có Bộ trưởng, Thứ trưởng Bộ
Quốc gia Giáo dục, Tổng Giám đốc Đại học vụ, Trung học vụ, Tiểu học vụ,
Bình dân học vụ, Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật, đại biểu các bộ,
Tổng đoàn trưởng Đoàn Thanh niên Việt Nam và một số thân sỹ (17 vị), do
Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên làm Chủ tịch. Hội
đồng Quốc gia có nhiệm vụ giúp Bộ Quốc gia Giáo dục ấn định chính sách
và kế hoạch giáo dục.
Sự chuyển hướng giáo dục không chỉ tập trung vào việc sửa đổi
chương trình và phương pháp đào tạo theo phương châm “thiết thực là
chính”,
mà còn phải đề cao chất lượng giáo dục phù hợp với yêu cầu đào tạo nhân
tài cho đất nước, phải tổ chức giáo dục toàn diện gồm các loại hình giáo dục
chính quy, bổ túc, và hệ thống trường chính trị, quân sự, dù chiến tranh ngày
càng ác liệt, việc tổ chức lớp học ngày càng khó khăn.
2.1.2. Chỉ đạo xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc
Nền giáo dục dân chủ của nước ta được xây dựng từ Cách mạng tháng
Tám 1945 đến ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946 nằm trong giai đoạn
lịch sử kháng chiến kiến quốc của dân tộc Việt Nam. Nó mang trong mình
bản chất tốt đẹp của một nền giáo dục Việt Nam hoàn toàn mới, khác hẳn
với nền giáo dục của thực dân Pháp vừa bị lật đổ.
Nền giáo dục mới khi bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, lại được
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo, dìu dắt để có những phẩm chất mới, đủ sức
tôi luyện trong lò lửa chiến tranh.
24
Đương nhiên, mỗi ngành học được Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch cho
một hướng đi cụ thể để tự rèn luyện và trưởng thành.
* Với ngành học Bình dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh theo dõi từng ngày từng giờ những bước đi của
ngành học này. Người là vị lãnh tụ rất thiết tha với việc học hành để mở
mang đầu óc của những người bình dân, của những người lao khổ sau bao
năm bị kìm hãm trong cuộc sống nô lệ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng dẫn Bình dân học vụ tổ chức các lớp học
bình dân mang tính cộng đồng, tại chỗ, liên tục, kết hợp chặt chẽ với tăng gia
sản xuất, với chiến đấu, với mọi công việc của kháng chiến.
Ở đâu có nhân dân quần chúng thì ở đó có giáo dục Bình dân học vụ.
Bình dân học vụ được tổ chức trong mọi địa bàn, mọi lĩnh vực, mọi lúc, bộ
phận nằm trong toàn thể, toàn thể là gồm những bộ phận tự giác.
Cho nên, tiếng nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Bình dân học vụ, dù
về một địa phương, một cá nhân đều nằm trong một hệ thống liên hoàn của
sự chỉ đạo.
Một ngành học của hằng chục triệu người đang chuyển động như một
chiến dịch thì Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ kiến thiết nó theo phương pháp vận
động quần chúng, vận động cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra công việc và phương châm hoạt động
cho Bình dân học vụ:
“Chẳng những phải biết chữ mà còn phải học đạo đức công dân, phổ
thông chính trị… Trước học một đường, hành một nẻo. Nay phải sửa chương
trình làm sao để học thì hành được ngay. Đồng bào bây giờ phải biết chữ hết
để trả lời cho thế giới biết nước ta là nước văn minh, ai cũng biết chữ”
[38,59].
Chủ tịch Hồ Chí Minh bồi dưỡng, uốn nắn, đôn đốc công tác Bình
dân học vụ qua các tổ chức, cơ quan chuyên ngành của ngành học này, qua
các đơn vị bộ đội, qua các cơ quan hành chính, qua những cán bộ được
25
phân công đảm nhận công việc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan
đến Bình dân học vụ.
Ngày 6-8-1947, Người có “Điện văn gửi Hội nghị Bình dân học vụ khu
XII”. Điện văn viết: “Tôi rất mong khu XII cố gắng, lấy kinh nghiệm của các
khu khác, nhập với sự sốt sắng của khu mình, sao cho trong một kỳ hạn mấy
tháng, sẽ có nhiều nơi toàn dân biết chữ, để tranh lấy cái danh dự khu kiểu mẫu.
Tôi trân trọng gửi lời khen ông giám đốc và tất cả anh chị em Bình dân
học vụ về thành tích đã đạt được, và khuyên tất cả mọi người gắng sức thêm.
Đồng thời tôi mong các ủy ban, các đoàn thể, các vị phụ lão, thân hào và toàn
thể đồng bào khu XII phải giúp sức để phát triển Bình dân học vụ ” [38,182].
Người biểu dương thành tích công tác giáo dục Bình dân học vụ của
khu XII, nhưng Người cũng ân cần nhắc nhở và nâng đỡ bằng cả tấm lòng
nhân hậu của một lãnh tụ. Công tác Bình dân học vụ ở một địa phương
không thể tách biệt, phải nhìn ra bên ngoài, biết học hỏi, tiếp thu kinh
nghiệm, và nhất là phải phối hợp hoạt động, phải có nhiều lực lượng, phải có
vai trò của chính quyền, của đoàn thể, của các tầng lớp nhân dân, các lực
lượng ấy không thể bàng quan, ít nhiệt tình, ít trách nhiệm.
Ngày 10-11-1947, Người có “Thư gửi ông Giám đốc và toàn thể nam
nữ giáo viên Bình dân học vụ khu III”. Người rất vui lòng nhận được báo
cáo trong tháng 9 năm 1947, toàn thể khu III đã có 2030 làng mở được 7.768
lớp học với 8.153 giáo viên và 328.308 học trò, lại có 42 lớp huấn luyện cho
giáo viên và 1.182 giáo viên dự bị, có 6 làng ở tỉnh Hải Dương “mà tất cả
nhân dân đều biết chữ ”.
Người khen khu III: “Được thành tích đó, là nhờ sự chỉ đạo khôn khéo của
ông giám đốc và sự hăng hái cố gắng của toàn thể anh chị em giáo viên” [38,307].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của cá nhân trong
công tác chỉ đạo và vai trò của tập thể giáo viên trong công tác giảng dạy của
ngành Bình dân học vụ. Chung quy, là đánh giá cao tính tổ chức và trình độ
tổ chức của công tác này.
Đồng thời, Người cũng “mong rằng các lớp Bình dân học vụ chẳng
những dạy cho đồng bào học chữ, làm tính mà dạy thêm về công cuộc kháng
26
chiến, cứu nước, tăng gia sản xuất, giúp mùa đông binh sỹ, giúp đồng bào
tản cư, khoa học thường thức” [38,307].
Đây là điểm quan trọng đang đặt ra cho hoạt động Bình dân học vụ của
cả nước. Căn cứ vào hoàn cảnh và yêu cầu của kháng chiến, vào sự phát
triển tất yếu của Bình dân học vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo cho
ngành Bình dân học vụ trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến (1946-
1950) là phải cải tiến và nâng cao nội dung giảng dạy. Chỉ có như thế, giáo
dục mới thật sự thực hiện được phương châm “kháng chiến bằng văn hoá,
văn hoá của kháng chiến” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng. Chỉ có như
thế giáo dục Bình dân học vụ mới trở thành một bộ phận hữu cơ, có khả
năng đi tiên phong trong “nền giáo dục kháng chiến kiến quốc”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành riêng sự quan tâm hết sức đặc biệt của
Người cho công tác “diệt dốt” trong lực lượng vũ trang. Trong “Thư gửi toàn
thể bộ đội khu II và khu III ” ngày 24-2-1948, Người viết:
“Tôi rất vui lòng được Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy báo cáo
rằng: tất cả binh sỹ trong các bộ đội ở khu III và khu II nay đều biết đọc và
biết viết chữ quốc ngữ.
Thế là tốt lắm. Đó là một thắng lợi to cho quân đội ta, cho Chính phủ
ta, cho nhân dân ta.
Dốt nát cũng là kẻ địch. Địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm. Địch
dốt nát tấn công ta về tinh thần, cũng như địch thực dân tấn công ta bằng vũ
lực. Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch
dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa ta vào nơi mù quáng.
Bộ đội ta tiêu diệt được giặc dốt, tức là tiêu diệt được một lực lượng
hậu thuẫn của thực dân.
Có sự thắng lợi đó, là do các cấp trên khéo cổ động, các chính trị viên
khéo tổ chức, các bình sỹ đều hăng hái học hành” [38,379].
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhắc nhở bộ đội: “Sự học là vô cùng. Nay đã
biết đọc biết viết, anh em phải cố gắng học thêm. Học làm tính, học chính
trị, học lịch sử, học khoa học thường thức. Rồi gắng học cao hơn nữa... Một
quân đội văn hay võ giỏi, là một quân đội vô địch” [38,380] .
27
Nhân dịp Hội nghị giáo dục toàn quốc họp tại Việt Bắc từ 10 đến 15-7-
1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư quan trọng cho Hội nghị.
Riêng về Bình dân học vụ, Người chỉ rõ: “Về Bình dân học vụ, nhờ sự
hy sinh cố gắng của nam nữ giáo viên, đã có kết quả rất tốt đẹp. Bây giờ, số
đông đồng bào đã biết đọc, biết viết thì chúng ta phải có một chương trình để
nâng cao thêm trình độ văn hoá phổ thông của đồng bào” [38,462] .
Ý kiến gắn giáo dục với kháng chiến, với kiến quốc, đổi mới chương trình
Bình dân học vụ để nâng cao trình độ cho nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ dẫn đến từng làng, từng xã đang vừa sản xuất vừa chiến đấu, hoặc
đang góp người, góp của cho kháng chiến khi chưa phải giáp mặt với quân thù.
Ngày 26-9-1947, khi viết thư gửi đồng bào xã Nhâm Lang (huyện
Hưng Hà, tinh Thái Bình) là xã hoàn thành sớm nhất nước việc xoá nạn mù
chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tôi mong xã N.L nay đã thành một xã
kiểu mẫu trong cuộc đấu tranh chống giặc dốt, thì trong mọi công việc kháng
chiến, kiến quốc, xã N.L cũng sẽ cố gắng làm kiểu mẫu” [38,216].
Ngày 13-11-1947, trong thư gửi đồng bào xã Duyên Trang (huyện
Đông Hưng, tỉnh Thái Bình), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Nhưng học
hành là vô cùng. Học càng nhiều, biết càng nhiều càng tốt, vậy tôi khuyên
đồng bào trong xã gắng học thêm thường thức như làm tính, lịch sử, địa dư,
chính trị, vệ sinh. Đồng bào cố gắng tăng gia sản xuất để ủng hộ kháng
chiến” [38,309].
Ngày 21-6-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh điện vào Nam Bộ: “gửi lời thân ái khen đồng bào xã Giới Xuân đã thanh toán nạn mù chữ và tôi mong các xã khác sẽ cố gắng bắt chước xã Giới Xuân. Chúng ta cần đánh tan giặc dốt, cũng như đánh tan giặc ngoại xâm” [38,453].
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi giáo dục Bình dân học vụ là một mặt trận.
Mặt trận này cần sức mạnh tổng hợp. Ngoài nam nữ thanh niên là những
người khoẻ mạnh, tiên phong, Người đặc biệt chú ý các thân hào, thân sỹ,
các cụ phụ lão. Bộ phận này thường giúp Bình dân học vụ rất thiết thực từ
uy tín tập hợp đến cơ sở trường lớp, phương tiện, thì giờ, kinh phí, lòng hảo
tâm, là những thứ cần thiết đôi khi vô giá, để duy trì lớp học, giữ vững
28
không khí thi đua. Những nơi phong trào Bình dân học vụ chưa phát triển
mạnh, chưa đồng đều thì trước hết Uỷ ban kháng chiến hành chính ở địa
phương đó phải chăm lo, phải chịu trách nhiệm.
Đường lối giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đường lối nhân dân,
đường lối thuyết phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Bình dân học vụ vừa
có cái sốt sắng lo toan của người đứng đầu Chính phủ về trình độ văn hoá
của nhân dân, vừa có cái ân cần vị tha của một ông thầy đức cao vọng trọng
vì sự học hành tiến bộ của học trò.
Đi đôi với việc biểu dương, đôn đốc tập thể làm công tác Bình dân học vụ
từ Trung ương đến địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn động viên khen
ngợi đến từng cá nhân có thành tích nổi bật trong các kỳ thi của Bình dân học
vụ. Lời khen ngợi và khuyên nhủ các học viên đủ mọi lứa tuổi, mọi vùng, mọi
đối tượng, nhất là các cụ già và phụ nữ, đều thể hiện quan điểm của Người về
việc xây dựng một nền giáo dục kháng chiến kiến quốc là phải nhất quán, đồng
bộ trong việc giáo dục quốc dân. Học phải đi đôi với hành, mỗi cá nhân học tập
tốt đều phải có ý thức tốt, hành động tốt tham gia công việc kháng chiến. Có
như vậy, giáo dục mới thiết thực, mới hữu ích cho đoàn thể, cho đất nước đang
kháng chiến và kiến quốc.
Trong thư gửi cụ Nguyên Ban, xã An Tường, huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam (tháng 2-1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cụ gửi thư cho tôi
biết rằng cụ đã học xong chữ quốc ngữ. Đọc bức thư cụ, tôi rất lấy làm vui
sướng, cụ đã 77 tuổi mà còn gắng học trong ba tháng đã được thành công
như vậy là cụ chẳng những làm kiểu mẫu siêng năng cho con cháu mà lại
còn tỏ cái ý chí hùng mạnh của dân tộc Việt Nam. Noi gương cụ, con cháu
cụ, đồng bào Việt Nam từ 7 tuổi đến 70 tuổi ai mà nỡ lòng làm biếng, ai mà
chẳng cố gắng học hành. Đời xưa bên Trung Quốc có ông Tô Lão Truyền 72
tuổi mới bắt đầu học, tiếng thơm còn để đến ngày nay.
Bây giờ nước Việt Nam ta cụ 77 tuổi mới đi học, chắc tiếng thơm sẽ
truyền khắp cả nước... Cụ là một tượng trưng phúc đức của nước nhà. Đó là
một thành công to lớn và ý nghĩa sâu xa ” [38,674].
29
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò chủ đạo của ông thầy
trong giáo dục. Ông thầy của Bình dân học vụ được Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quý trọng. Người gọi họ là “anh chị em”, là “các bạn”, là “chiến sỹ
bình dân học vụ”, là “chiến sỹ diệt dốt”, là những “vô danh anh hùng”.
Nhân ngày Quốc khánh (2-9-1948), Người gửi thư cho nam nữ chiến
sỹ Bình dân học vụ trong cả nước. Sau khi đã khen ngợi công trạng to lớn
là làm cho gần 8 triệu đồng bào thoát nạn mù chữ trong vòng 3 năm, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã giao những nhiệm vụ hết sức cụ thể trên chặng đường
tiếp theo của các chiến sỹ Bình dân học vụ.
Người viết: “Vùng nào còn sót nạn mù chữ, thì các bạn cố gắng thi đua
diệt cho hết giặc dốt trong một thời gian mau chóng. Vùng nào đã hết nạn
mù chữ, thì các bạn thi đua để tiến lên một bước nữa, bằng cách dạy cho
đồng bào:
1. Thường thức vệ sinh, để dân bớt đau ốm.
2. Thường thức khoa học, để bớt mê tín nhảm.
3. Bốn phép tính, để làm ăn có ngăn nắp.
4. Lịch sử và địa dư nước ta (vắn tắt bằng thơ hoặc ca), để nâng cao
lòng yêu nước.
5. Đạo đức của công dân, để thành người công dân đứng đắn.
Các bạn hãy làm cho được chừng ấy đã, sau chúng ta sẽ tiến lên bước
cao hơn” [38,489].
Với giáo dục Bình dân học vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà
hoạch định chính sách, mà còn là một nhà khoa học giáo dục, một nhà sư
phạm. Người đã “cống hiến” một kế hoạch là phải thay đổi chương trình và
Người lại vạch ra một chương trình tổng hợp gồm nhiều bộ môn khoa học có
giá trị trực tiếp, thiết thực trong công việc giáo dục nhận thức và xây dựng
nhân cách công dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho đất nước một đội ngũ giáo viên
Bình dân học vụ vững về chuyên môn nghiệp vụ, giàu lòng yêu nước, hăng
hái thi đua, một đội ngũ trí thức đặc biệt, ngoài biên chế, chỉ xuất hiện trong
30
một giai đoạn lịch sử nhất định, làm một nhiệm vụ chống nạn mù chữ, “xây
dựng nền văn hoá sơ bộ cho dân tộc”.
Đội ngũ giáo viên chiến sỹ này, không quản gian lao, đi tìm người học,
hoặc không có lương, hoặc có chút thù lao bé nhỏ, nhưng dồi dào niềm tin
đối với sự nghiệp giáo dục.
Dưới ánh sáng tư tưởng và sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phong trào Bình dân học vụ xoá nạn mù chữ trong cả nước giai đoạn
1946-1950 được tiếp tục xây dựng và phát triển mạnh hơn trước. Các Ty
Bình dân học vụ tỉnh, các Ban Bình dân học vụ huyện đã tích cực hoạt động
và hoạt động có hiệu quả. Ở các tỉnh và các huyện, Ban Tuyên huấn của
Đảng đều chỉ đạo ngành Thông tin và Bình dân học vụ hoạt động phối hợp.
Các khu, liên khu đều mở lớp huấn luyện cấp tốc đào tạo các kiểm soát viên
cao cấp, và sơ cấp Bình dân học vụ để làm nhiệm vụ chuyên trách đôn đốc
công tác Bình dân học vụ cho các tỉnh, các huyện. Đội ngũ giáo viên Bình
dân học vụ được bổ sung từ nhiều nguồn đã tăng nhanh về số lượng. Bộ Nội
vụ yêu cầu các địa phương không điều cán bộ Bình dân học vụ đi làm công
tác khác, số cán bộ đã điều khỏi công việc Bình dân học vụ thì phải trả lại
cho ngành. Trong thời gian này, Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ tư (miền
Bắc Đông Dương) cũng đề nghị một chương trình mang tính chính sách đối với
Bình dân học vụ như không công chức hoá giáo viên Bình dân học vụ, nhưng
tùy địa phương mà trả thù lao cho giáo viên, khuyến khích chế độ học phẩm,
các xã tự túc quỹ Bình dân học vụ, Chính phủ giúp Bình dân học vụ Trung
ương thêm tiền để in sách... Nha Bình dân học vụ đã cho biên soạn lại cuốn
sách “vần” và cuốn sách “tập đọc sơ cấp” thành hai cuốn tương ứng có tên là
“Vần kháng chiến” và “Tập đọc kháng chiến” chứa đựng nhiều khái niệm, chủ
đề về kháng chiến để học viên vừa tập viết, tập đọc, vừa liên hệ đến những
công việc của kháng chiến kiến quốc.
Theo báo cáo của ông Tổng Giám đốc Bình dân học vụ tại Hội nghị giáo
dục tháng 7 năm 1948 thì, ba ngày sau khi chiến tranh bùng nổ ở Thủ đô, Nha
Bình dân học vụ đã lo tổ chức ngay lại cơ quan, điều kiện cùng công việc học
tập hướng vào công cuộc kháng chiến. Các liên khu Bình dân học vụ đã tổ chức
31
theo như tổ chức cấp kỳ. Vì liên lạc khó khăn, mãi đến tháng 4-1947 mới đặt
được ở miền Nam Trung bộ một khu đặc biệt Bình dân học vụ do một đặc phái
viên phụ trách. Ở Nam bộ, công việc Bình dân học vụ vẫn tiến hành như
thường, có một ban Bình dân học vụ phụ trách. Mục đích của Bình dân học vụ
là phải làm cho việc học chữ quốc ngữ hết sức phát triển để chóng đi đến chỗ
thanh toán nạn mù chữ cho toàn dân. Trong thời kỳ kháng chiến, mỗi lớp học là
một ổ tuyên truyền kháng chiến, mội giáo viên là một nhân viên tuyên truyền
kháng chiến. Sau 1000 ngày kháng chiến, ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ đã dạy
thêm được 4 triệu 10 vạn người biết đọc, biết viết, 910 làng đã thanh toán xong
nạn mù chữ. Ở Nam bộ, phong trào Bình dân học vụ cũng rất cao, hiện đã có
8000 lớp Bình dân học vụ, hơn 8000 giáo viên, hàng vạn người theo học.
Phong trào Bình dân học vụ ở vùng an toàn phát triển mạnh gấp hai, ba lần thời
bình, ở vùng giặc càn quét khi lên, khi xuống, phải tổ chức tại gia đình, theo
đơn vị du kích, luôn thay đổi địa điểm học, ở vùng rừng núi, rất khó khăn, thiếu
giáo viên tại chỗ, phải cổ động nhiều dân chúng mới chịu đi học, ở vùng hội tề,
có khi lớp học bị tan rã, cố gắng tổ chức, phong trào lại tiến bộ lên.
Sách giáo khoa cho Bình dân học vụ đã in tới 500.000 bản.
Bình dân học vụ cũng đã nêu một vài “yêu sách”: xin thêm nhân viên
kiểm soát, nhân viên chuyên môn và tuỳ phái cho Bình dân học vụ các tỉnh,
huyện, xin thêm tiền chi cho hoạt động Bình dân học vụ [29,66]
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm sự học là không cùng. Dân chúng
biết đọc, biết viết rồi, vẫn cần phải học thêm các kiến thức phổ thông thường
thức có giá trị thiết thực đối với sự nâng cao dân trí. Hai công đoạn này đều
do Nha Bình dân học vụ trông nom, đều là nhiệm vụ của giáo viên Bình dân
học vụ, đều thuộc về quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân yêu nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có phê bình một vài địa phương về công tác
giáo dục bình dân học vụ, như “Tỉnh Thanh Hoá có tiếng là văn vật, nhưng nay
xét số người biết chữ còn ít hơn số người chưa biết chữ ”, như ba tỉnh Bắc
Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn “cách dạy học vẫn cũ kỹ, sự học không thiết thực với sự
hành”.
32
Song, sự chỉ đạo, hướng dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc nâng
cao trình độ của nhân dân được Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân
quyết tâm thực hiện có tổ chức, có tiến độ chắc chắn.
Năm 1948, Nha Bình dân học vụ đã có bộ phận chuyên trách nghiên
cứu chương trình cho phù hợp với trình độ của quảng đại dân chúng theo
các mức độ khác nhau, và 6 tháng cuối năm 1948 đã dạy thử chương trình
Bổ túc văn hoá, thực hiện kịp thời Nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung
ương của Đảng tháng 5-1948 là : “Đi đến Bình dân học vụ bổ túc, dạy kiến
thức phổ thông” [55,105].
Chương trình Giáo dục bình dân có hệ thống cấu tạo như sau:
Sơ cấp
Dự bị bình dân (ngang với lớp 2 phổ thông)
Dự bị bình dân cấp 1 (ngang lớp 4 phổ thông)
Bổ túc bình dân cấp 2 (như cấp 2 phổ thông)
Việc biên soạn chương trình cho các lớp Bình dân học vụ nâng cao
theo tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hướng dẫn trong thư Người gửi các
nam nữ chiến sỹ Bình dân học vụ ngày 2-9-1948 chưa phải đã đầy đủ, bảo
đảm tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng như mong muốn, nhưng đã thu
được những thành tựu nhất định, góp phần nâng cao dân trí, mở rộng tư duy
cho người lao động, cho binh sỹ đang đồng tâm sát cánh trong công cuộc
kháng chiến kiến quốc của dân tộc.
Các lớp bổ túc cấp 1,2, nhìn chung thấy xuất hiện nhiều ở các ngành,
các cơ quan, công xưởng, đơn vị bộ đội, đặc biệt là ở các trường phổ thông
lao động. Một số địa phương lại đi tiên phong mở trường Bổ túc văn hoá
mang tính chất đào tạo tập trung cung cấp nhân lực cho kháng chiến, như
Trường Hoàng Hữu Nam ở khu IV, Trường “Trung học Bình dân” ở khu V,
Trường Nguyễn Văn Tố ở U Minh.
Bổ túc văn hoá là sự tiếp nối tự nhiên của Bình dân học vụ sau khi đã
xoá nạn mù chữ một cách chắc chắn theo yêu cầu và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, đã được Bộ Giáo dục quan tâm xây dựng và phát triển. Nó là sự
đòi hỏi tất yếu của công cuộc kháng chiến kiến quốc, nhưng gặp không ít khó
33
khăn trong việc phát triển theo mục tiêu nâng cao chất lượng và mở rộng quy
mô vì hoàn cảnh thiếu giáo viên và thiếu điều kiện vật chất để tổ chức lớp
học.
Nhờ sự chuẩn bị tích cực về tổ chức lớp học và đội ngũ giáo viên, nhờ
sự khắc phục khó khăn gian khổ do chiến sự, do cách trở địa lý, do trình độ
nhận thức của đồng bào miền núi, do một số vùng bị địch chiếm đóng, v.v...
Bình dân học vụ vẫn được duy trì, phát triển, và phát triển mạnh hơn trước.
Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là noi có phong trào Bình dân học vụ phát
triển. Cuối năm 1948, Liên khu I có 48% dân số thoát nạn mù chữ, Liên khu
III có 65%, Liên khu X có 35%, và Liên khu IV có 80% thoát nạn mù chữ.
Đến tháng 9-1948, Liên khu III có 23.110 lớp học Bình dân học vụ với 27.110
giáo viên và 420.800 học viên, lại tổ chức được 46 lớp huấn luyện giáo viên
với 1.824 người dự. Khu IV là nơi có các lớp Dự bị Bổ túc phát triển mạnh
nhất, đến tháng 9-1948, có 2.257 lớp dự bị với 48.263 học viên [29,139].
Đến tháng 9-1948, cả nước có gần 8 triệu người thoát nạn mù chữ. Đến
cuối năm 1950, có 7.500 thôn thuộc 150 xã trong 84 huyện của 19 tỉnh đã
hoàn toàn xoá nạn mù chữ. [25,187]
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư khen, và có phần thưởng cho đồng
bào tỉnh Hà Tĩnh, đồng bào huyện Quỳnh Côi (Thái Bình), huyện Cẩm
Xuyên (Hà Tĩnh), đồng bào xã Nhâm Lang, xã Duyên Trang (Thái Bình), xã
Giới Xuân (Gia Định) và xã Thanh Nông (Hoà Bình)... là những đơn vị có
thành tích xuất sắc về mặt thời gian trong phong trào xoá nạn mù chữ.
* Với bậc học Phổ thông
Giáo dục phổ thông bao gồm giai đoạn tiểu học và giai đoạn trung học.
Trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh có một vấn đề Người
luôn nhắc tới đó là mục đích “phụng sự Tổ quốc” của nền giáo dục dân tộc.
Vì thế, bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng yêu cầu xác định rõ đối tượng
của từng cấp học của giáo dục, và theo đó là việc giáo dục mục đích học tập
cho đối tượng đó.
34
Đối tượng của Giáo dục phổ thông là thế hệ trẻ, là thanh thiếu niên và
nhi đồng.
Mục đích của Giáo dục phổ thông là giáo dục ý thức “thật thà phụng sự
Tổ quốc” cho thanh thiếu niên, làm sao cho các em học sinh đều biết chăm
học để có kiến thức văn hoá vững vàng, biết tu dưỡng bản thân để có hạnh
kiểm tốt mong trở thành con người hữu ích cho Tổ quốc.
Học sinh phổ thông trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc, trong tuổi vị
thành niên, là con em của nhân dân, đại bộ phận chưa phải trực tiếp cầm vũ
khí ra trận, nhiệm vụ chính là học tập. Đường lối giáo dục của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đối với đối tượng này là phải sớm đem lại cho các em một nền
giáo dục hoàn toàn Việt Nam, làm phát huy hoàn toàn năng lực sẵn có của
các em, để các em nhận lấy một phần lớn trách nhiệm với dân tộc trong tương
lai.
Tuy nhiên, cũng phải thấy giáo dục phổ thông trong giai đoạn 1946-
1950 gặp nhiều khó khăn.
Một mặt, do bối cảnh chiến tranh, việc thu nạp thầy trò, bố trí cơ sở,
phiên chế tổ chức, chuẩn bị kinh phí, sắp xếp tiện nghi.v..v.. không phải lúc
nào và ở đâu cũng có điều kiện thuận lợi để thực hiện…
Mặt khác, do tự thân ngành học, dù sao, thầy trò của các trường Phổ
thông cũng vừa thoát thai từ nền giáo dục của chế độ cũ mới được một năm.
Họ sẵn lòng yêu nước, yêu nhà, có khả năng giác ngộ chính trị. Nhưng biết
bao thay đổi đã đến với họ. Họ phải có thời gian, phải có sự giúp đỡ để thay
đổi cho phù hợp với yêu cầu về quyền lợi dân tộc, cho kịp với hoàn cảnh,
đặc biệt là hoàn cảnh của khói lửa chiến tranh.
Những cố gắng lớn của giáo dục phổ thông trong giai đoạn đầu của
cuộc kháng chiến là bảo đảm duy trì, phát triển số lượng và điều chỉnh, sửa
đổi chương trình nhằm nâng cao chất lượng.
Theo đánh giá ở Hội nghị giáo dục toàn quốc tháng 7-1948, giáo dục phổ
thông ở các Liên khu thuộc Bắc và Bắc Trung Bộ nhìn chung đều phát triển.
Ở Liên khu I, trước tác chiến có 311 giáo viên tiểu học, năm 1948 lên
đến 25.240, trường trung học trước tác chiến có 2, năm 1948 lên 4.
35
Ở Liên khu III, giáo viên tiểu học không tăng nhiều, nhưng học sinh
tiểu học bước vào trong kháng chiến tăng mạnh: năm 1946 có 94.167 học
sinh, năm 1948 lên 109.340 học sinh (tăng gần 2 vạn). Năm 1948 có 386 thí
sinh dự thi tốt nghiệp trung học, đỗ 177 học sinh (đạt 40,5%).
Ở Liên khu IV, học sinh tiểu học tăng nhanh ở các tỉnh Thanh Hoá,
Nghệ An, Hà Tĩnh. Năm 1948, toàn Liên khu có 33 trường trung học kể cả
trường công, bán công và tư thục (tăng gần gấp đôi so với năm 1946).
Ở Liên khu X, bậc tiểu học năm 1946 có 76 trường với 138 giáo viên
và 8.929 học sinh, năm 1948 có 186 trường với 348 giáo viên và 11.534 học
sinh; bậc trung học, năm 1946 có 2 trường với 10 giáo viên và 155 học sinh,
năm 1948 có 5 trường với 25 giáo viên và 463 học sinh. [29;54-55-56,61]
Tổng hợp lại, “nền tiểu học sơ cấp và cơ bản đã phát triển điều hoà và
đi đến một cơ sở vũng vàng”, ở bậc trung học thì “cấp phổ thông tăng còn
cấp chuyên khoa sút, vì học sinh phần nhiều có công tác và sỹ số các trường
tư thục giảm” [29,64-65]
Ngày 10-5-1948, Bộ Quốc gia Giáo dục đã công bố chương trình các
môn học của bậc trung học phổ thông (4 năm) vận dụng từ năm học 1948-
1949, thay thế cho chương trình đã dùng đến năm học 1947-1948. Từ năm
thứ nhất đến năm thứ tư của bậc trung học đều học 9 môn (Quốc văn, Công
dân giáo dục và chính trị thường thức, Toán, Lý hoá, Vạn vật, Sinh ngữ 1,
Sinh ngữ 2, Sử ký và Địa lý, Vẽ), ngoài ra mỗi tuần còn 2 giờ thể dục, 2
giờ hoạt động thanh niên (thủ công, tăng gia sản xuất, nữ công gia chánh,
nuôi trẻ, nhạc .v..v..). Cộng cả là 25 giờ/ 1 tuần.
(Ví dụ: Môn Công dân giáo dục và chính trị thường thức, mỗi tuần 1
giờ, học sinh được học trong 4 năm gồm những nội dung sau:
Năm thứ nhất: Quốc gia. Những nền tảng để xây dựng quốc gia. Sự
xây dựng quốc gia Việt Nam. Những bộ phận chính quyền trong một nước.
Bổn phận công dân: tuân theo pháp luật, tận tâm với việc công ích, đi học,
bầu cử, tòng quân, đóng thuế. Bổn phận học sinh và công dân trong thời kỳ
kháng chiến…
36
Năm thứ hai: Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Quốc
hội. Chính phủ. Các Hội đồng nhân dân. Các cơ quan Hành chính Kháng
chiến. Tổ chức quốc phòng: Quân đội quốc gia Việt Nam, dân quân tự vệ.
Các cơ quan chuyên môn (Tư pháp, Kinh tế, Giáo dục, Tài chính, Y
tế…)…
Năm thứ ba: Chính sách của nước Việt Nam về nội trị và ngoại giao. Sự
tiến triển của nền dân chủ Việt Nam. Địa vị nước Việt Nam ở Á Đông và toàn
cầu…
Năm thứ tư: Chế độ đế quốc thực dân. Nền quốc gia tự do độc lập. Các
chính thể quốc gia trên thế giới. Sự tiến triển nền dân chủ trên thế giới. Đại
cương về tổ chức chính quyền ở các nước như Anh, Mỹ, Nga, Pháp, Trung
Hoa, Ấn Độ. Các tổ chức quốc tế. Các giáo hội. Đệ nhất quốc tế. Đệ nhị
quốc tế. Đệ tam quốc tế. Hội quốc liên và các cơ quan phụ thuộc. Hiến
chương Đại Tây Dương, Liên hợp quốc [29;31,33,37,40].)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “cống hiến” một giải pháp toàn diện nhằm
định hướng và chỉ ra những công việc cụ thể, then chốt cho sự nghiệp giáo
dục kháng chiến kiến quốc, trong đó có giáo dục phổ thông.
Người nói: “Chúng ta cần phải có một nền giáo dục kháng chiến kiến quốc.
Vì vậy, chúng ta:
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với kháng chiến
và kiến quốc.
2. Muốn như thế, chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho
các trường.
3. Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài
kháng chiến và kiến quốc.
4. Chúng ta phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ
kháng chiến và kiến quốc ....” [38,462].
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ muốn xây dựng một nền giáo dục
kháng chiến kiến quốc, thì phải sửa đổi chương trình, phải biên soạn sách,
phải sửa đổi cách dạy và phải đào tạo cán bộ giáo dục cho phù hợp với yêu
cầu và tôn chỉ của kháng chiến và kiến quốc đã tạo ra sự chuyển biến to lớn
37
về nhận thức và hành động cho ngành học giáo dục phổ thông. Vì ngành học
này có địa bàn hoạt động trên phạm vi cả nước, có lực lượng thầy trò đông
đảo, trong đó một bộ phận học trò có gia đình, quê hương còn nằm trong
vùng địch tạm chiếm.
Để đáp ứng những yêu cầu trước mắt đối với Giáo dục Phổ thông, Bộ
Giáo dục đã nghiên cứu, xây dựng một kế hoạch cải tổ cần thiết về tổ chức
để tập hợp đội ngũ giáo viên, xây dựng các đoàn thể chính trị trong trường,
nhằm tạo ra một cái khung cho mỗi đơn vị trường học theo cơ cấu của nhà
trường dân chủ. Một số trường học từ thành phố chuyển về vùng tự do để
bảo đảm an toàn và giữ mối liên hệ thống nhất trong công tác quản lý của
Nhà nước. Nhìn chung, các trường phổ thông các cấp đều có quy mô vừa và
nhỏ, thuận tiện cho việc xây dựng cơ sở vật chất, thuận tiện việc thu nạp học
sinh, gồm học sinh sơ tán, học sinh tại chỗ, và học sinh theo cha mẹ đến nơi
công tác. Các lớp học trong một trường cũng được phân tán trên các địa
điểm xa nhau, để dễ ổn định lực lượng, dễ nhận sự ủng hộ và bảo vệ của
nhân dân.
Chính phủ đã quyết định thành lập một số trường tiểu học, trung học
nội trú tạo điều kiện học tập cho con em các gia đình cán bộ, chiến sỹ, gia
đình tản cư, và con em đồng bào dân tộc ở khu căn cứ của kháng chiến,
như trường THPT Việt Bắc ở Việt Bắc (1948), Trường THPT Bình Trị
Thiên ở khu IV (1948), Trường THPT Nguyễn Chí Diểu ở Thừa Thiên
(1949), Trường THPT "Bình dân" ở khu V, Trường THPT Huỳnh Phan Hộ
ở Nam Bộ và trường cấp I nội trú ở Bạc Liêu.
Một số trường Trung học phổ thông và Trung học chuyên khoa có
truyền thống học tập và quy mô, phương tiện tương đối khá, được Bộ Giáo
dục quan tâm giúp đỡ bằng việc chuyển đến những địa điểm mới an toàn,
có thể gặp khó khăn nhiều vệ sự cung cấp, tiếp tế trong sinh hoạt, nhưng
thầy trò yên tâm giảng dạy và học tập, có điều kiện gần gũi công nông binh
và hoà nhập với cuộc sống kháng chiến kiến quốc của toàn dân tộc. Các
trường đã mau chóng trưởng thành cùng kháng chiến và trở thành những
cái nôi bảo vệ, nuôi dưỡng nhân tài cho kháng chiến. Những trường học có
38
tiếng đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy là Trường Trung học Kháng chiến
Việt Bắc (hợp lại từ Trường Chu Văn An và Trường Nguyễn Trãi ở Hà
Nội), Trường Trung học Nguyễn Khuyến, Trường Trung học Nguyễn
Thượng Hiền ở khu III, Trường Trung học Phan Đình Phùng, Trường
Trung học Lam Sơn và Trường Trung học Huỳnh Thúc Kháng ở khu IV,
Trường Trung học Lê Khiết ở khu V.
Tất cả các trường phổ thông trong kháng chiến đều cố gắng thực hiện
phương châm vừa học vừa làm, vừa học vừa tham gia vào công việc kháng
chiến. Nổi bật về sự kết hợp này là thầy trò các trường phổ thông ở khu X.
Trưởng ty, các hiệu trưởng, các thầy cô và toàn thể học sinh khu X đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi, ngoài việc học tập đã làm được
nhiều việc tốt như trồng được nhiều sắn, nhiều rau, quyên góp giúp bộ đội,
thương binh, vận động nhân dân hùn vốn mở trường trung học cùng với
Chính phủ, in được sách cho đồng bào thiểu số học. Thầy trò khu X là tấm
gương "đã áp dụng Học với Hành, đã thực hiện kháng chiến bằng văn hoá,
văn hóa của kháng chiến". [38,370]
Với nỗ lực của toàn ngành, nhất là từ sau chiến thắng Việt Bắc Thu
Đông năm 1947, trên cơ sở ổn định về tổ chức, về trường sở, về cán bộ
giảng dạy và các điều kiện tối thiểu khác đối với một trường học, ngành
Giáo dục Phổ thông đã dành thời gian, công sức vào nhiệm vụ trọng tâm
của nhà trường là giảng dạy và học tập. Việc thực hiện những hướng dẫn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các khâu then chốt của nền giáo dục mới là
sửa đổi chương trình, biên soạn sách giáo khoa, sửa đổi cách dạy, đào tạo
cán bộ mới, giúp đỡ cán bộ cũ đã có những cơ sở vật chất và tinh thần cụ
thể làm chỗ dựa, đã có cơ hội thực thi, kiểm nghiệm.
Ngày 11-4-1949, Hội đồng tu thư Trung ương thuộc Bộ Quốc gia
Giáo dục do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục làm Chủ tịch đã họp phiên
đầu tiên ở trụ sở của Bộ Quốc gia Giáo dục ở Phú Thọ để định đường lối
soạn sách và duyệt sách. Về đường lối soạn sách: định đường lối duy nhất,
chân chính, cho hợp với nhu cầu thực tế, sự tiến triển và tinh thần của dân
39
tộc đang kháng chiến, kiến quốc, để tài liệu giáo khoa xuất bản tiêu biểu
được cho thời đại trong công cuộc giáo hoá quốc dân. Chỉ khuyến khích
sáng tác “sách mới và tốt”, gây phong trào thành lập nhóm soạn giả.
Lại có phong trào “Mỗi giáo sư, mỗi giáo viên là một nhà soạn sách
giáo khoa”, “Mỗi nha, mỗi sở, mỗi ty, mỗi trường học là một xưởng in sách
giáo khoa”, “Mỗi học sinh là một thợ ấn loát”.
Trong năm 1948, sách giáo khoa các môn tiểu học đã có 14 quyển,
trung học phổ thông 18 quyển, trung học chuyên khoc 12 quyển được in
máy, in thổ cho thầy trò sử dụng.
Về cơ cấu, từ năm học 1946-1947, bậc tiểu học (bậc học cơ bản theo
theo sắc lệnh 146/SL ngày 10-8-1946) đã học 4 năm thay vì cho hạn học 6
năm ở Bắc bộ và hạn học 5 năm ở Trung Bộ trước đây. Về chương trình, từ
năm học 1948-1949, Bộ Giáo dục đã đưa môn công dân giáo dục và chính trị
thường thức vào chương trình Trung học phổ thông và Trung học chuyên
khoa, rút bớt chương trình văn sử nước ngoài chưa thật cần thiết để dạy thêm
lịch sử cách mạng, văn chương cách mạng Việt Nam. Các trường học đều
giành một quỹ thời gian để học sinh tham gia lao động (thường là vào ngày
thứ 5 hằng tuần) để các em làm ra chút ít của cải, vận dụng điều đã học vào
thực tế, và quan trọng hơn là để giáo dục ý thức, thái độ đối với lao động
chân tay và người lao động chân tay. Các bài giảng về khoa học xã hội, về
khoa học tự nhiên của giáo viên đều có ý thức chú ý đến phần liên hệ với đời
sống xã hội, trước hết là đời sống kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
Thành tựu to lớn hơn cả vẫn là sự ổn định, duy trì và phát triển
nhiệm vụ dạy và học ở các trường Phổ thông. Số học sinh và giáo viên
thuộc hệ giáo dục phổ thông đã tăng lên rõ rệt. Năm 1945 có 290.161 học
sinh và 3629 giáo viên, đến năm 1950 đã có 439.130 học sinh và 11.162 giáo viên
[26,66].
Ngày 13-6-1950, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục đã gửi văn bản trích yếu
tình hình học sinh tòng quân số 71 P3/CH lên Văn phòng Chủ tịch Chính phủ, báo
cáo đến ngày gửi báo cáo, ở Liên khu Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV đã có 32
trường trung học phổ thông, chuyên khoa, tư thục có học sinh tòng quân, tổng
40
cộng 1803 người. Những trường có nhiều học sinh tòng quân là: Trường Hương
Khê (Hà Tĩnh) 176, Trường Lương Ngọc Quyến (Thái Nguyên) 155, Trường
chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng (Hà Tĩnh) 150, Trường tư thục Đặng Thúc Hứa
(Nghệ An) 141, Trường Nguyễn Thiện Thuật (Hưng Yên) 105, Trường Nguyễn
Thượng Hiền (Ninh Bình) 105, Trường Hàn Thuyên (Việt Bắc) 95, Trường
Nguyễn Xuân Ôn (Nghệ An) 83, .v..v.. [29,601].
Những con số này nói lên chất lượng của phong trào thi đua ái quốc
trong các nhà trường Phổ thông, nói lên thắng lợi to lớn của đường lối xây
dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ ngày mùng 8 đến ngày 10 tháng 7 năm 1950, Hội đồng Chính
phủ họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đánh giá công tác 6
tháng đầu năm và đề ra nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 1950. Trong
kỳ họp này, về văn hoá giáo dục, Chính phủ đã thông qua Đề án cải cách
giáo dục và quyết định thực hiện cải cách vào niên khóa 1950-1951, bắt
đầu từ liên khu Việt Bắc và Thanh Nghệ Tĩnh.
Đề án Cải cách giáo dục quy định “Bộ Quốc gia Giáo dục có nhiệm
vụ tổ chức tất cả việc giáo dục và phát triển văn hóa cho toàn thể nhân dân
kể cả những thanh thiếu niên và những người lớn tuổi”. Chương trình học
của ngành phổ thông có “mục đích là đào tạo theo ba nguyên tắc Dân tộc,
Khoa học, Đại chúng những công dân lao động tương lai cho xã hội, để
phát triển chế độ dân chủ nhân dân với sự tiến triển của nhân loại. Học là
để hành, để sản xuất cho xã hội. Phải thực tế, các lý thuyết phải được
chứng minh, ứng dụng và nói chung hướng dẫn vào thực tế xã hội mà đặc
biệt là thực tế xã hội Việt Nam một cách rõ ràng…” [29,644]
Ngành học phổ thông gồm 3 cấp học, cấp 1 (học 4 năm: lớp 1, 2, 3,
4), cấp 2 (học 3 năm: lớp 5, 6, 7), cấp 3 (2 năm: lớp 8, 9).
Bắt đầu từ niên học 1950-1951, nền giáo dục sẽ chuyển sang hệ
thống tổ chức mới. Chế độ chuyển tiếp từ hệ thống cũ sang hệ thống 9 năm
được quy định rất cụ thể. Ví dụ: học sinh lớp tư tiểu học lên lớp 2 (cấp 1),
học sinh năm thứ nhất trung học phổ thông lên lên lớp 6 (cấp 2), học sinh
có bằng trung học chuyên khoa vào các trường đại học.
41
Trong thời kỳ chuyển tiếp này, các trường đại học sẽ mở những kỳ
thi tuyển học sinh cho những người có năng lực tương đương với trung học
chuyên khoa không có bằng trung học chuyên khoa để vào học trong kỳ
khai giảng niên khoá 1950-1951.
Hai nhiệm vụ rất khó khăn, then chốt là làm chương trình và đào tạo
cán bộ giảng dạy đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra xây dựng nền giáo
dục kháng chiến kiến quốc, nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, do thời gian,
do nhân lực chưa cho phép đẩy nhanh công việc.
Cuộc Cải cách giáo dục Phổ thông năm 1950 tạo điều kiện để thực
hiện đường lối giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải đem lại cho
thanh thiếu niên Việt Nam một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam, nền giáo
dục ấy sẽ phát huy hoàn toàn những năng lực sẵn có của học sinh, nền giáo
dục ấy chỉ có thể thực hiện được từ một chương trình giảng dạy toàn tâm
toàn ý phục vụ lợi ích của dân tộc Việt Nam, do một đội ngũ giáo viên
trung thành với chế độ dân chủ cộng hoà chuyển tải.
Cuộc Cải cách giáo dục năm 1950 là cái mốc quan trọng của nền
giáo dục kháng chiến kiến quốc.
* Với bậc học Đại học, và Trung cấp, Sơ cấp chuyên nghiệp
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt đến Giáo dục đại học và Giáo
dục chuyên nghiệp, vì đây là bậc học sẽ hoàn thành công việc đào tạo, bổ
sung nhân tài cho các lĩnh vực hoạt động của công cuộc kháng chiến và kiến
quốc.
Bước vào giai đoạn kháng chiến kiến quốc 1946-1950, giáo dục ở
bậc Đại học và Trung học chuyên nghiệp gặp nhiều khó khăn. Chẳng
những việc sửa đổi chương trình, viết lại giáo trình, sửa đổi cách dạy và
đào tạo cán bộ mới, giúp đỡ cán bộ cũ cho thích ứng với sự nghiệp kháng
chiến kiến quốc như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu chưa làm được bao
nhiêu mà ngay cả việc ổn định giảng dạy và học tập cũng khó thực hiện.
42
Khó khăn hơn cả vẫn là điều kiện giảng dạy và học tập bị hạn chế do
địa lý bị phân cắt do chiến tuyến, ảnh hưởng trực tiếp đến tiếp tế, bảo vệ an
toàn, tổ chức học tập, đảm bảo thời gian và yêu cầu đào tạo.
Mặc dù vậy, Chính phủ quyết tâm chỉ đạo xây dựng hệ thống giáo
dục thống nhất. Bộ Quốc gia Giáo dục được phép của Chính phủ đã tích
cực tổ chức xây dựng hệ thống trường sư phạm để đào tạo được nhiều và
nhanh cán bộ giáo dục cho các ngành học phổ thông, là ngành học đang
thiếu rất nhiều giáo viên trực tiếp giảng dạy.
Năm 1950, nhiều trường sư phạm được thành lập ở các vùng giải
phóng.
Ngày 9-10-1950, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên
thay mặt Chính phủ ký các Nghị định về thành lập các trường sư phạm.
Nghị định số 507/NĐ mở các Trường Sư phạm sơ cấp tại các tỉnh
miền núi.
Nghị định số 508/NĐ thiết lập Trường sư phạm trung cấp.
Nghị định số 509/NĐ thiết lập những Trường sư phạm sơ cấp
(chuyên nghiệp).
Nghị định số 510/NĐ, mở Trường Sư phạm sơ cấp Việt Bắc.
Nghị định số 511/NĐ, mở Trường Sơ cấp đặc biệt một năm.
Nghị định số 512/NĐ, mở một Trường Sư phạm sơ cấp đặc biệt một
năm ở Việt Bắc.
Nhờ sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Bộ Quốc gia Giáo dục đã phấn đấu vượt mọi khó khăn do hoàn cảnh khó khăn
do chiến tranh, tập trung công sức vào việc tổ chức và đào tạo ở bậc đại học
và trung học chuyên nghiệp cho giai đoạn 1946-1950 với khả năng cao nhất.
Ở bậc đại học, có Đại học Y-Dược (1947), Cao đẳng Giao thông -
Công chính (1948), Đại học Pháp lý được tái giảng vào năm học 1948-1949,
năm sau chia thành Ban Pháp lý và Ban kinh tế.
Đại học Khoa học, mở lớp toán học đại cương ở Liên khu IV tái
giảng vào năm học 1947-1948, ở Bắc Bộ (1948-1949). Ban Sư phạm đại
43
học mở Trường đại học Văn khoa và Khoa học tự nhiên (1948-1949).
Trường Cao đẳng Mỹ thuật tái giảng (1949-1950).
Ở bậc trung học chuyên nghiệp có Trường Trung học Giao thông
(1948), Trường Trung học Sư phạm (1950).
Đối với Giáo dục Đại học, chuyên nghiệp, hay nói rộng hơn là đối
với sự học tập bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, bộ đội, sinh
viên, của những người chuẩn bị bước vào đời với một công việc được giao
nào đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng đến việc giáo dục nhân
cách văn hoá, bổn phận chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho họ.
Tháng 2 năm 1949, trong “Thư gửi nam nữ học viên trường Y tá liên
khu I”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Y tá chẳng những là một nghề nghiệp, mà lại là một nghĩa vụ.
Người y tá chẳng những giúp chữa bệnh mà còn phải phổ biến vệ sinh.
Việc giữ gìn và bồi dưỡng sức khoẻ của dân tộc, người y tá phải gánh một
phần quan trọng. Vì vậy, y tá là những chiến sỹ đánh giặc ốm, để bảo vệ sự
khang kiện của giống nòi. Những chiến sỹ y tá phải có chí chịu khổ, chịu
khó. Phải giàu lòng bác ái hy sinh [38,567].
Tháng 4/1949, trong “Thư gửi Quân nhân học báo” (tập san chuyên
hướng dẫn bộ đội học văn hoá xuất bản tại Việt Bắc), Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói với bộ đội:
“Quân nhân phải biết võ, biết văn, võ là như tay phải, văn là như tay
trái của quân nhân. Biết võ, biết văn, mới là quân nhân hoàn toàn. Muốn
biết thì phải thi đua học.
Học không bao giờ cùng
Học mãi để tiến bộ mãi
Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm” [38,588].
Còn đối với học viên của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương (nay
là Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn
dặn những điều cao quý để lớp lớp học viên ghi lòng tạc dạ: “Học để làm
44
việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân
dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải: Cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” [38,684].
Những dòng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay ghi vào đầu quyển sổ
vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương vào tháng 9 năm 1949.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo phát triển giáo dục Đại học không chỉ
bằng lý luận, bằng kinh nghiệm thực tiễn mà còn bằng cả uy tín, danh vọng
văn hoá của mình.
*
* *
Tóm lại, kháng chiến muốn đạt được thắng lợi đòi hỏi phải có một
hậu phương vững mạnh. Xây dựng hậu phương kháng chiến thực chất là
xây dựng một chế độ mới ưu việt, đó là chế độ dân chủ cộng hoà trên nền
tảng dân chủ mới.
Nền giáo dục kháng chiến kiến quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương nằm trong phạm vi quy luật và ý chí đó.
Nền giáo dục kháng chiến kiến quốc trong giai đoạn 1946-1950
chính là nền giáo dục mới của dân tộc đã được khai sinh từ Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và chuyển hướng hoạt động cho phù hợp với hoàn
cảnh thời chiến.
Bình dân học vụ ở vùng địch tạm chiếm có sự thu hẹp, còn ở vùng tự
do phát triển mạnh, số người thoát nạn mù chữ tăng lên, chương trình giảng
dạy được nâng lên, nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu và nhiệm vụ học tập văn
hoá của nhân dân có quan hệ thúc đẩy lẫn nhau.
Giáo dục phổ thông không ngừng phát triển. Việc sửa đổi chương
trình theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đẩy mạnh. Cách thức tổ
chức trường lớp theo quy mô vừa, nhỏ, phân tán có giá trị thu hút học sinh.
Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, việc dạy và học của các
trường đi dần vào ổn định.
45
Giáo dục Đại học và chuyên nghiệp gặp nhiều khó khăn về tổ chức
và cơ sở vật chất. Những trường quyết tâm vượt khó khăn và tích cực
chuyển hướng theo thời chiến đều là những trường rất cần kíp bổ sung nhân
tài cho kháng chiến kiến quốc.
Mặc dù chiến tranh diễn ra rất ác liệt, Đảng, Nhà nước đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh vẫn coi trọng vấn đề giáo dục ở tất cả các bậc học, quyết
tâm phát triển nền giáo dục dân tộc để nâng cao trình độ văn hoá, giáo dục
quốc dân, trước mắt là phục vụ kháng chiến và kiến quốc, thực hiện kháng
chiến bằng văn hoá giáo dục.
Nền giáo dục trong những năm 1946-1950 đã làm tốt nhiệm vụ của nó:
vừa tiếp tục tự đổi mới, vừa chuyển hướng cho kịp hoàn cảnh những năm đầu
kháng chiến, vừa chuẩn bị cho sự phát triển ở chặng đường tiếp theo.
2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo củng cố và phát triển nền giáo
dục kháng chiến kiến quốc những năm 1951-1954
2.2.1. Nhiệm vụ mới của kháng chiến và kiến quốc
Sự can thiệp của Mỹ làm cho chiến tranh Đông Dương trở thành một
bộ phận trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. “Hiệp định phòng thủ chung”
do Mỹ, Pháp, cùng các chính phủ “quốc gia” ở Việt Nam, Lào, Campuchia
ký tháng 2-1950, “Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt - Mỹ” do Mỹ và Bảo Đại
ký tháng 9-1951 và “Hiệp nghị an ninh chung” do Mỹ và Bảo Đại ký tháng
12-1951 đã tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương.
Có viện trợ của Mỹ, Pháp tăng cường lực lượng quân sự, ráo riết
thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”.
46
Cuộc chiến đấu của ba dân tộc ở Đông Dương, từ đây không chỉ phải
chống thực dân xâm lược Pháp mà còn phải chống lại can thiệp Mỹ. Đế quốc
Pháp và can thiệp Mỹ trở thành đối tượng chính của cách mạng Việt Nam.
“Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế
quốc Pháp xâm lược, giành độc lập và thống nhất thực sự cho dân tộc, xoá
bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có
ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Cho nên
lúc này phải tập trung lực lượng vào kháng chiến để quyết thắng quân xâm
lược” [25,220].
Những nhiệm vụ mới của kháng chiến và kiến quốc đã đặt ra cho nền
giáo dục những yêu cầu mới, những cố gắng mới để đóng góp công lao vào
sự nghiệp cách mạng của toàn thể dân tộc.
Trong thế chủ động tiến công chiến lược của cuộc kháng chiến,
Chính phủ có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thực hiện phương châm
lớn “Kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến” do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề ra.
Cuối năm 1951, Hội đồng Chính phủ đã xác định nhiệm vụ của giáo
dục là: đẩy mạnh công tác giáo dục, tiếp tục công tác cải cách giáo dục
(soạn xong chương trình và sách giáo khoa cấp phổ thông), đào tạo cán bộ
mới và cải tạo cán bộ cũ. Phát triển ngành bình dân học vụ, bổ túc văn hoá
cho công nông, chủ yếu là cán bộ công nông. Tổ chức ngành giáo dục
chuyên nghiệp, mở thêm trường chuyên nghiệp.
2.2.2. Chỉ đạo củng cố và phát triển nền giáo dục kháng chiến
kiến quốc
Trong thư gửi Đại học giáo dục toàn quốc (7-1951), Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đại hội nên chú ý làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với
đời sống của nhân, với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc.
47
Làm thế nào để phối hợp việc giáo dục của trường học với việc tuyên
truyền giáo dục chính trị chung của nhân dân” [39,266]
Để góp phần đẩy mạnh phát triển lực lượng kháng chiến, nền giáo
dục nước ta đã hoạt động theo tinh thần chỉ thị trên đây của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Quá trình củng cố và phát triển của ngành học bình dân, ngành học
phổ thông và ngành học chuyên nghiệp trong giai đoạn 1951-1954 được
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo, hướng dẫn, dìu dắt một cách cụ thể.
* Với Bình dân học vụ và Bổ túc văn hoá
Chủ tịch Hồ Chí Minh có một tình cảm sâu xa đối với Bình dân học
vụ. Người trông nom, săn sóc việc học Bình dân học vụ như lo miếng cơm
manh áo cho nhân dân. Giáo dục Bình dân là một nhiệm vụ của cách mạng,
của kháng chiến và kiến quốc. Nó bồi đắp tinh thần nhân dân, nó làm sống
dậy nhiều tiềm năng của dân tộc.
Tháng 1-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị và Chính phủ đã
tán thành thưởng Huân chương Kháng chiến cho Nha Bình dân học vụ. Đó
là một khen thưởng chung cho “tất cả nam nữ cán bộ trong nước và ngoài
nước đã có công trên mặt trận diệt dốt”, “tất cả các vị phụ lão và thân sỹ đã
ủng hộ bình dân học vụ”, “tất cả đồng bào trong nước và kiều bào ở nước
ngoài đã cố gắng thi đua thoát nạn mù chữ”.
Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Nha Bình dân học
vụ, Người viết “Tôi rất sung sướng khi nhận được thư của các cụ già 80, 90
tuổi ở các nơi và các cháu nhi đồng 7, 8 tuổi ở các miền ngược, báo cho tôi
biết rằng các cụ, các cháu đã biết đọc, biết viết.
Tôi rất cảm động khi tôi được biết rằng 99 phần trăm những đồng
bào không may bị giắc Pháp giam cầm ở Côn Lôn, cũng thi đua bảo nhau học và cũng đã thoát nạn mù chữ” [39,147].
Cuối thư, Người căn dặn:
“Từ ngày nhân dân ta nắm chính quyền đến nay, 13 triệu nam nữ
đồng bào đã được học, đã biết chữ.
Đó là một thắng lợi vẻ vang, to lớn.
48
Nhưng chúng ta phải cố gắng nữa, phải làm thế nào trong một thời gian
gần đây, tất cả đồng bào Việt Nam từ 8 tuổi trở lên đều biết đọc, biết viết.
Ngày ấy mới là hoàn toàn thắng lợi trên mặt trận diệt giặc dốt.
Đó là nhiệm vụ của các cán bộ Bình dân học vụ
Đó cũng là nhiệm vụ của những đồng bào đã biết chữ, của các đoàn
thể nhân dân, của địa phương mà cũng là nhiệm vụ của đồng bào chưa biết chữ.
Tất cả mọi người, mọi đoàn thể đồng tâm hiệp lực quyết làm cho kỳ
được, thì chúng ta nhất định hoàn toàn thành công” [39,148].
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: Nhân đân đã cố gắng thoát nạn mù
chữ, đã thắng lợi, thì phải cố gắng nữa, phải đồng tâm hiệp lực để thắng lợi
hoàn toàn.
Theo sự chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì sự đồng tâm hiệp lực
của các cán bộ Bình dân học vụ, của những đồng bào đã biết chữ, của các
đoàn thể nhân dân, của chính quyền địa phương và của đồng bào chưa biết
chữ sẽ là sức mạnh to lớn để chiến thắng giặc dốt.
Bộ Quốc gia Giáo dục xác định công tác trọng tâm của ngành Bình dân
học vụ trong năm 1951 là thanh toán nạn mù chữ ở miền núi và vùng mới giải
phóng và phát triển mạnh dự bị bình dân ở các miền trung châu tự do.
Các cấp Bình dân học vụ đã đặt ra nhiều cuộc thi đua “Nhà nhà miền
núi biết chữ”, “Tuần lễ vét dốt”, “Ngày mở lớp”, “Mùa học”, “Mùa thi đua
mãn khoá”, “Chiến dịch hoàn toàn thanh toán nạn mù chữ”.
Tháng 6-1951, các Liên khu III, IV và Việt Bắc đã lập được thành
tích: mở được 20.000 lớp sơ cấp với 26.000 giáo viên và 350.000 học viên;
mở được 9.782 lớp dự bị với 12.688 giáo viên và 230.000 học viên; mở
được 837 lớp Bổ túc bình dân (kể cả các lớp Bổ túc văn hóa và các trường
trung học bình dân của các cơ quan, đoàn thể mở) với 1.200 giáo viên và
9.800 học viên.
Cũng đến thời điểm trên, Trường Phổ thông lao động (đã được
chuyển về Nha Bình dân học vụ, theo Nghị định 547/NĐ ngày 12-11-1950
thì thuộc Nha Trung học) có 5 lớp với 7 giáo viên và 199 học viên.
49
Từ 28 đến 31 tháng 5-1952, Hội nghị giáo dục bổ túc họp, thảo luận
đề án giáo dục bổ túc, chương trình giáo dục bổ túc, cách áp dụng chương
trình cho các lớp sau giờ làm việc, lớp dự bị bổ túc và chủ trương phát triển
giáo dục bổ túc.
Mục đích của giáo dục bổ túc nhằm nâng cao trình độ văn hoá và ý
thức chính trị cho cán bộ và nhân dân, tức là bồi dưỡng cho họ một số kiến
thức phổ thông để có đủ khả năng và ý thức phục vụ kháng chiến, phục vụ
chính sách của Chính phủ và Mặt trận hiệu quả hơn.
Phương châm của Giáo dục bổ túc là liên hệ lý luận với thực tiễn,
tranh thủ thời gian và dựa vào dân.
Về tổ chức: Cán bộ và chiến sỹ thi đua tạm thời thoát ly để học Bổ
túc văn hoá thì vào Trường Phổ thông Lao động. Còn lại học sau giờ làm
việc thì vào các lớp Bổ túc văn hoá.
Chương trình Bổ túc văn hoá tương đương chương trình từ lớp 2 đến
lớp 7 phổ thông, chia làm hai cấp. Môn học có Quốc văn, Chính trị thường
thức, Toán, Vạn vật, Lý, Hoá. Cấp 1, trọng tâm là Quốc văn, Toán. Cấp 2,
trọng tâm là Quốc văn, Toán, Lý, Hoá.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc nâng cao dân trí là một nghĩa vụ
của Chính phủ. Chính phủ phải làm sao để cho nhân dân thoát nạn mù chữ,
như thế vẫn chưa đủ, nhân dân còn phải được học thêm để nhận thức rõ
bổn phận công dân của mình. Quân đội cũng vậy, quân đội phải văn hay võ
giỏi thì mới là quân đội hoàn toàn, mới là quân đội vô địch.
Giáo dục bổ túc là một chủ trương đúng đắn, kịp thời, phản ánh sự
phát triển và đòi hỏi tất yếu của kháng chiến kiến quốc, được Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn luôn động viên, hướng dẫn đã đem lại lợi ích thiết thực là
nâng cao trình độ văn hoá của một bộ phận công dân có nhiều đóng góp
cho cuộc kháng chiến và sự nghiệp xây dựng đất nước.
Một số trường Phổ thông lao động ở Trung ương và địa phương
được thành lập. Ở Trung ương đã học được ba khoá, khoá 3 khai giảng
giữa năm 1959, có 14 lớp với 428 học sinh, ở địa phương thì Liên khu Việt
50
Bắc có 6 trường, Liên khu IV có 2 trường, Liên khu II có 1 trường, Liên
khu V có 1 trường. Đây là mô hình trường bổ túc văn hoá có quy mô vừa
và tổ chức học tập trung cho cán bộ, chiến sỹ có thành tích và do nhu cầu
của đoàn thể, của cơ quan, đơn vị. Chương trình của loại trường này cơ bản
như trường phổ thông, nhưng được sử dụng cho phù hợp với lứa tuổi và
điều kiện thời gian của người học. Trường phổ thông lao động trong giai
đoạn 1951-1954 đã cung cấp cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc nhiều
cán bộ nòng cốt được phiên chế vào cơ quan Nhà nước, đơn vị bộ đội,
chính quyền địa phương. Kiến thức văn hoá phổ thông cơ bản của học viên
bổ túc văn hoá có thể chưa được hệ thống, chưa đạt được một mức độ
mong muốn, nhưng các học viên đều được trang bị một vốn liếng văn hoá
và một phương pháp tư duy nhất định, để có khả năng am hiểu công việc,
nhất là có điều kiện về tri thức để nhận rõ bổn phận công dân, nhiệm vụ
chính trị, vị thế trách nhiệm của mình đối với công cuộc kháng chiến kiến
quốc.
Các lớp bổ túc sau giờ làm việc, đại bộ phận là lớp Dự bị, đã bắt đầu
phát triển ở nông thôn. Theo báo cáo chưa đầy đủ, thì 6 tháng đầu năm
1953, ở khu Tả ngạn có 1.337 lớp với 26.455 học viên, Liên khu IV có
3.841 lớp với 82.003 học viên, Liên khu III có 627 lớp với 11.941 học viên,
Liên khu Việt Bắc có 556 lớp với 14.777 học viên.
Đến tháng 9 năm 1953 đã có 10.450 lớp bổ túc văn hoá với 335.946
học viên [26,102]. Năm 1954, đã có 3 triệu người học hết chương trình bổ
túc văn hoá [25,263]. Đây là con số nói lên một sự cố gắng vượt bậc của
Bình dân học vụ, nói lên tinh thần yêu nước của cán bộ và nhân dân ta.
Trong lúc kẻ thù bằng mọi hành động tàn bạo để lấn đất, lấn dân “dùng
người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” thì việc bổ
túc văn hoá cấp tốc tập trung hoặc tranh thủ sau giờ làm việc, sau giờ xung
trận cho nhân dân để nhân dân có thêm năng lực gánh vác công việc cứu
nước cứu nhà là một việc rất thiết thực và khoa học.
51
Ngành giáo dục Bình dân học vụ giai đoạn 1951-1954 đã tiếp tục xoá
nạn mù chữ, trong đó có cả việc chống mù chữ trở lại và bổ túc văn hoá cho
nhân dân.
Đến năm 1952, có khoảng 14 triệu người thoát nạn mù chữ. Con số
này thống kê chủ yếu ở vùng tự do, cho nên có thể nói trong giai đoạn
1951-1954, nhiệm vụ chống nạn mù chữ cơ bản đã hoàn thành. Nhiệm vụ
bổ túc văn hoá cho nhân dân được đẩy mạnh.
Bình dân học vụ đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang nâng cao
dân trí phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của dân tộc.
* Với ngành giáo dục Phổ thông
Cuộc cải cách giáo dục phổ thông được Chính phủ cho tiến hành từ
năm học 1950-1951đã mở ra cho giáo dục phổ thông một giai đoạn mới.
Cuộc cải cách đặt cơ sở pháp lý, khoa học để tổ chức một nền giáo dục phổ
thông Việt Nam, “một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng
lực sẵn có” của học sinh như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương ngay sau
khi giành được chính quyền.
Trong Báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ II của Đảng họp tại Việt Bắc tháng 2 năm 1951, về văn hoá, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người
mới, cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ
mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc. Đồng thời
phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những
cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hoá Việt
Nam có tính chất khoa học, dân tộc, đại chúng” [56,36].
Là một ngành học có đối tượng giáo dục là thanh thiếu niên, giáo
dục phổ thông phải thực hiện nhiệm vụ “đào tạo con người mới, cán bộ
mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”, “phải triệt để tẩy trừ di tích
thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc”.
52
Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày
30-10-1951, Bộ Quốc gia Giáo dục ra Thông tư số 49/TT-TKV quy định tổ
chức trường phổ thông 9 năm.
Về tổ chức quản lý ở trung ương có Nha Giáo dục phổ thông (hợp
nhất từ Nha tiểu học và Nha Trung học), ở Liên khu có Khu Giáo dục phổ
thông, ở tỉnh có Ty Giáo dục phổ thông, ở trường có Ban giám hiệu, Hội
đồng quản trị (giúp Ban giám hiệu về cơ sở vật chất, công tác thi đua), Hội
đồng chuyên môn (giúp Hiệu trưởng về công tác giảng dạy).
Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành những văn bản nhằm từng bước
củng cố và thực hiện hệ thống giáo dục như các Nghị định về tổ chức và
chế độ trường tư thục, các trường chuyên nghiệp, trường phổ thông lao
động, trường sư phạm trung cấp, trường sư phạm sơ cấp.
Bộ Quốc gia Giáo dục còn ra Nghị định số 209/NĐ (25-7-1951) quy
định tổ chức các trường Chuyên nghiệp, Nghị định số 233/NĐ (1-10-1951)
sáp nhập Trường Sư phạm Sơ cấp Việt Bắc và Trường Sư phạm Sơ cấp
Trung ương, Nghị định số 234/NĐ (1-10-1951) thành lập Khu học xá
Trung ương gồm Trường Khoa học cơ bản, Trường Sư phạm cao cấp,
Trường Sư phạm Trung cấp Trung ương, Nghị định số 276/NĐ (11-10-
1951) thành lập Trường Sư phạm cao cấp đào tạo giáo viên cấp ba…
Những văn bản kể trên đặt cơ sở pháp lý cho việc tổ chức hệ thống,
đào tạo cán bộ, giáo viên phục vụ công cuộc cải cách giáo dục.
Cuộc Cải cách giáo dục Phổ thông được tiến hành vào giai đoạn mọi
nhiệm vụ của đất nước đều nhằm “đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn
toàn” [56, ]. Cho nên, nó chịu sự ảnh hưởng và có quan hệ mật thiết với
công cuộc kháng chiến của dân tộc.
Các chiến dịch quân sự nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giành thế chủ
động chiến lược và giải phóng lãnh thổ, giải phóng nhân dân liên tiếp thắng
lợi. Giải phóng lãnh thổ đến đâu, trường sở cấp 1, 2, 3 được gấp rút tổ chức
với quy mô thích hợp đến đó. Cuộc cải cách giáo dục phổ thông gắn liền
với thắng lợi quân sự, với vùng tự do.
53
Tháng 7 năm 1951, nhân dịp Đại hội Giáo dục toàn quốc họp tại Việt
Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Đại hội.
Trong thư, Người viết “Đại hội nên kiểm thảo kỹ công tác “cải cách”
về chương trình, chủ trương và cách thi hành, để tìm thấy những khuyết
điểm mà sửa đổi, những ưu điểm mà phát triển thêm.
Đại hội nên chú ý làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với đời sống
của nhân dân, với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc. Làm
thế nào để phối hợp việc giáo dục của trường học với việc tuyên truyền và
giáo dục chính trị chung của nhân dân” [39,266].
Cũng như đối với Hội nghị giáo dục toàn quốc tháng 7-1948, với Đại
hội giáo dục toàn quốc lần này (tháng 7 năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh
lại nhắc nhở các nhà giáo dục về vấn đề chương trình. Tháng 7-1948, Người
nói “Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự nghiệp kháng
chiến và kiến quốc”. Ba năm sau, tháng 7-1951, Người lại nói “Nên kiểm
thảo kỹ công tác “cải cách” về chương trình, chủ trương và cách thi hành”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà giáo dục vĩ đại. Người hiểu tường tận
và sâu sắc về khoa học giáo dục. Chương trình học là vấn đề quan trọng
nhất của mọi nền giáo dục. Nền giáo dục của Việt Nam giai đoạn 1945-
1954 là nền giáo dục kháng chiến kiến quốc. Chương trình giảng dạy của
nó phải là chương trình phục vụ đắc lực cho sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc, phải bám sát từng chặng đường, từng nhiệm vụ cụ thể để nâng cao
hiệu quả đào tạo.
Ở nước ta, vừa trải qua 80 năm chịu đựng một chương trình giáo dục
nô dịch của đế quốc. Nền giáo dục mới của Việt Nam xây dựng được 5
năm, lại là 5 năm vật lộn với thù trong giặc ngoài, với bom đạn, thì việc
“sửa đổi triệt để chương trình” và “cải cách về chương trình” là một nhiệm
vụ khoa học hết sức khó khăn. Bản thân những người làm chương trình
cũng chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với những chương trình giáo dục tiến
bộ, dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng cho chương trình giáo dục
là phải làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với đời sống của nhân dân,
54
với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc đã đặt ra cho các nhà
giáo dục làm chương trình một đường lối sáng tỏ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hướng dẫn cho Đại hội Giáo dục toàn
quốc năm 1951 là khi cải cách chương trình thì phải tập trung vào 2 khâu là
“chủ trương” và “cách thi hành”, tức là Người lưu ý đến cả quy trình và kỹ
thuật làm chương trình cho giáo dục. Trên thực tế, làm chương trình cho
Bình dân học vụ để xoá nạn mù chữ, để cung cấp một số kiến thức phổ
thông cho nhân dân có những thuận lợi nhất định. Và ở bậc đại học, những
chương trình thuần tuý về kỹ thuật, về kỹ năng thao tác ở các chuyên khoa
kỹ thuật hoặc chương trình khoa học tự nhiên có thể tạm thời tận dụng để
giảng dạy. Nhưng chương trình cho giáo dục Phổ thông từ lớp 1 đến lớp 9,
tức là cho học sinh từ 8 đến 17 tuổi, là lứa tuổi vị thành niên, lứa tuổi đang
hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, lứa tuổi sẽ là “con người mới”
phải là chương trình được chuẩn bị công phu theo những tiêu chí mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra. Nếu không thật tuân thủ những ý kiến do Chủ
tịch Hồ Chí Minh “cống hiến” (chữ dùng của Người) cho Hội nghị giáo
dục, không kiểm thảo kỹ “để tìm thấy những khuyết điểm mà sửa đổi,
những ưu điểm mà phát triển thêm” thì việc làm chương trình sẽ không bảo
đảm được yêu cầu dân tộc, khoa học, đại chúng, lại có thể sa vào tình trạng
sơ lược, máy móc, giáo điều. Chương trình dạy trong nhà trường Phổ thông
phải tuân theo những quy luật của giáo dục, phải bảo đảm quy tắc sư phạm,
phải phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi thanh thiếu niên. Lấy một ví dụ, nhà
trường của thực dân Pháp đã dạy cho học sinh nước ta lịch sử nước Pháp,
địa lý nước Pháp; đương nhiên, khi ta dành được chính quyền, nhân dân
được độc lập, tự do thì nhà trường của ta phải dạy cho học sinh của ta lịch
sử Việt Nam, địa lý Việt Nam. Nhưng chỉ có thế chưa đủ. Trước hết phải
đoạn tuyệt hẳn với cách nhìn của sách vở cũ. Với bộ môn Lịch sử và Địa
lý, phải dạy cho học sinh tẩy trừ mọi ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế
quốc, phải xoá bỏ mọi thái độ kỳ thị dân tộc đôi khi đã tiêm nhiễm vào đầu
óc thế hệ trẻ từ lúc nào. Và cao hơn, quan trọng hơn, với 2 môn ấy phải dạy
cho học sinh niềm tự hào dân tộc và tình yêu Tổ quốc, phải dạy cho học
55
sinh mang trong mình dòng máu anh hùng của dân tộc, sẵn sàng cầm vũ
khí chiến đấu bảo vệ giang sơn, bảo vệ lịch sử, nhưng đó lại phải là những
bài lịch sử, địa lý đích thực, có tính đặc thù, quyết không phải là những bài
chính trị, thời sự giản đơn, khiên cưỡng.
Cuối năm 1951, Bộ Quốc gia Giáo dục đã kiểm điểm, đánh giá bước
đầu về thực hiện nhiệm vụ cải cách giáo dục. Việc tuyên truyền cho cải
cách giáo dục, việc tổ chức hệ thống trường 9 năm và việc chuẩn bị chương
trình, tài liệu giáo khoa đều có những thành tích đáng kể.
So với năm 1950, năm 1951, số trường và số học sinh phổ thông
tăng nhanh. Cấp I có 3.482 trường (tăng 803 trường), 373.803 học sinh
(tăng 94.138 học sinh; cấp II có 102 trường (tăng 72 trường), 36.689 học
sinh (tăng 23.748 học sinh); cấp III có 7 trường (tăng 4 trường), 546 học
sinh (giảm 146 học sinh).
Riêng Nam Bộ chưa thực hiện được hệ thống mới, hiện có 3.332 lớp
tiểu học với 111.777 học sinh, và 2 trường trung học.
Phần lớn các trường trong toàn quốc học ban đêm để tránh máy bay
oanh tạc.
Học sinh chăm học, có ý thức lao động và tham gia công tác kháng chiến.
Trường cấp II Lạc Long Quân (Hoà Bình), Trường cấp II Nguyễn
Biểu (Liên khu III) có ký túc xá cho học sinh.
Năm 1951, Nhà nước cấp 380,142 tấn thóc học bổng cho học sinh
phổ thông nghèo, học sinh là con thương binh, tử sỹ [29,772].
Chương trình cải cách thấm nhuần tinh thần dân chủ, liên tục, kết
hợp học với hành, nhưng chưa thật thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến
hiện tại vì nó vẫn còn quá nặng ở nhiều môn.
Sách giáo khoa, Hội đồng tu thư đã soạn đủ 19 quyển cho cấp I, 27
quyển cho cấp II, 20 quyển cho cấp III (gồm tất cả 66 quyển được soạn
theo chương trình đã sửa chữa).
Hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm đã tạo điều kiện phát triển mạnh
mẽ số lượng và chất lượng giáo dục phổ thông. Năm 1953, các trường phổ
56
thông cấp I, cấp II và cấp III ở vùng tự do đã có 769.640 học sinh. Năm 1954
số học sinh cấp I, II, III ở vùng tự do đã lên đến 1.232.196 học sinh [26, 102].
Cùng với sự phát triển trường sở và chất lượng đào tạo học sinh, một
đội ngũ giáo viên phổ thông hàng vạn người từ hai nguồn cũ, mới hợp lại
ngày càng tăng, càng gắn bó với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.
Đội ngũ giáo viên phổ thông được rèn luyện chuyên môn qua cải
cách giáo dục đã đóng góp công lao sư phạm của mình cho giáo dục kháng
chiến kiến quốc, và lưu giữ được nhiều kinh nghiệm quý báu về nghề
nghiệp cho hoạt động giảng dạy của giáo dục phổ thông khi hoà bình được
lập lại trên miền Bắc nước ta.
* Với ngành giáo dục Chuyên nghiệp
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ muốn giữ vững độc lập tự do phải phát
huy mạnh mẽ động lực dân tộc trên nền tảng của chế độ mới, con người mới.
Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Muốn kiến quốc phải có nhân tài.
Người đã từng nói: “nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng
chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày
càng phát triển, càng thêm nhiều” [37,99].
Mùa hè năm 1952, nhân dịp Đại hội các chiến sỹ thi đua và cán bộ
gương mẫu toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh có bài đăng báo “Nhân Dân”
ca ngợi, cảm phục Anh hùng ngành quân giới kỹ sư Trần Đại Nghĩa. Trong
bài báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có đoạn: “Là một đại trí thức, đi học ở
Châu Âu đã nhiều năm, mang một lòng nhiệt tình về phụng sự Tổ quốc,
phục vụ kháng chiến, đó là anh hùng lao động trí óc Trần Đại Nghĩa. Lúc
kỹ sư Nghĩa mới về, Hồ Chủ tịch bảo: “Nước ta thiếu máy móc, thiếu
nguyên liệu, thiếu thợ lành nghề. Song giàu về rừng núi, giàu về quyết tâm.
Vậy chú phải đưa những cái đã học được ở nước ngoài mà áp dụng vào
hoàn cảnh thiết thực ở nước ta để phụng sự Tổ quốc…”. Kỹ sư Nghĩa vui vẻ trả lời "Thưa vâng"" [39,506].
57
Mùa thu năm 1953, hai lần Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm "Lớp
chỉnh huấn cán bộ trí thức". Được Chủ tịch Hồ Chí Minh "chỉnh huấn", ai
cũng mở mang nhận thức và hứa cố gắng thêm trong công việc của mình.
Trước Lớp chỉnh huấn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về học giả Bùi Kỷ, vị đại
khoa triều Nguyễn, hiện là Uỷ viên Hội Liên Việt khu III bằng những lời
thẳng thắn, chân thành thể hiện niềm vui được đón nhận các nhân sỹ yêu
nước: "Xin lỗi cụ Bùi, (có tiếng cụ Bùi: "Không giám, xin cụ cứ nói") ví
dụ: thời trước cụ làm thầy giáo thì không có gì là tham ô, lãng phí của nhân
dân, vì dạy bao nhiêu giờ lĩnh bấy nhiêu tiền. Nay xét lại lúc đó dạy thì dạy
gì, đào tạo người thì đào tạo cho ai? vì "tôn sư trọng đạo", cụ ở địa vị ông
thầy, nên được lớp trí thức trọng cụ, dân cũng trọng cụ. Nhưng ông thầy lúc
ấy nói gì? Nói chống Tây thì nó đá đít. Dù muốn hay không, cũng phải nói
đế quốc phong kiến là tốt. Như thế là có thể có tội với nhân dân rồi. Tôi
nghe đây có 4 đời là học trò cụ, như thế là tứ đại nô lệ" [40,108].
Từ sau ngày Cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập
hợp được hàng trăm nhân tài đến với chế độ dân chủ cộng hoà, đến với
công cuộc kháng chiến kiến quốc gồm những trí thức có ý thức phụng sự
Tổ quốc, phụng sự nhân dân, có lòng tin vào sự nghiệp cách mạng của
Đảng, vào tiền đồ của dân tộc.
Với tầm nhìn sâu rộng và tài năng tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh
dành sự quan tâm, chú ý rất đặc biệt đến đội ngũ trí thức trong các trường
Đại học bao gồm các nhà khoa học, đội ngũ cán bộ giảng dạy, thực nghiệm
và các thế hệ sinh viên của nhiều chuyên ngành khác nhau.
Trong "Thư gửi giáo sư và sinh viên trường Đại học dự bị Thanh
Hoá" tháng 4 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Các thầy giáo có
nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục
cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân.
Các cháu thì học tập cần gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện
mục đích cao quý: "Thật thà phụng sự nhân dân" [39,467].
58
Đây là cách đánh giá và yêu cầu hết sức nghiêm túc đối với Giáo dục
Đại học. Nhiệm vụ của giáo dục Đại học là đào tạo cán bộ với mục đích
cao quý là: "thật thà phụng sự nhân dân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Chính phủ và nhân dân ta rất "yêu quý
những trí thức gắn liền lý luận với thực hành, những trí thức thật lòng, thật dạ
phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến. Yêu quý những trí thức đoàn kết
thành một khối với nhân dân, những trí thức của nhân dân" [40,145].
Mục đích giáo dục là phụng sự nhân dân, phụng sự tổ quốc đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ từ trước cho mọi ngành học, mọi cấp học.
Vào thời điểm quyết liệt của cuộc kháng chiến, thời điểm nhiệm vụ cấp
bách của toàn dân tộc là "đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn" thì việc
thực hiện mục đích giáo dục như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra phải được
quán triệt chặt chẽ hơn lúc nào hết. Có như vậy giáo dục mới thực sự góp
phần tích cực thực hiện đường lối đẩy mạnh phát triển lực lượng kháng
chiến của Đảng trong giai đoạn 1951-1954.
Thực hiện đường lối đào tạo nhân tài cho đất nước của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trước mắt là đội ngũ nhân tài phục vụ nhiệm vụ mới của kháng
chiến và kiến quốc, Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho giáo dục
chuyên nghiệp được củng cố và phát triển.
Bộ Quốc gia Giáo dục đã có nhiều cố gắng đối với ngành học này.
Tháng 3-1951, Bộ đã triệu tập một Hội nghị gồm có đại biểu các bộ
có trường chuyên nghiệp và các đoàn thể để thống nhất quy định tổ chức và
chế độ chung cho các trường chuyên nghiệp.
Tất cả học sinh trường Đại học Y khoa đã tập trung từ tháng 8-1950,
một số học sinh năm thứ nhất sang phục vụ bên Quân y cục. Nhà trường
vừa giảng dạy, vừa quản lý bệnh viện thực hành (trước đây thuộc Bộ Y tế)
và sử dụng phòng thí nghiệm nghiên cứu chế tạo chất pênixilin để phục vụ
quân sự.
59
Trường Khoa học cơ bản, khai giảng tháng 6-1951, có 103 học sinh đặt
tại Khu học xá Trung ương, học 1 năm, đào tạo cán bộ cho các ngành kỹ thuật.
Trường Sư phạm Cao cấp, đặt tại Khu học xá Trung ương, khai
giảng đầu năm 1902, đào tạo giáo viên cấp ba.
Các trường Sư phạm trung cấp và sơ cấp (gồm Trường Sư phạm
Trung cấp trung ương, Trường Sư phạm Sơ cấp Việt Bắc, Trường Sư phạm
Liên khu III, Trường Sư phạm Liên khu IV) với tổng số 1.085 học sinh đã
học từ niên khoá 1950-1951.
Ngày 24-4-1952, Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn
Huyên đã gửi thư cho học sinh Trường Dự bị Đại học, có đoạn: “Đời các em
nhờ cuộc Cách mạng Tháng Tám đã tươi sáng, sẽ rực rỡ hơn nữa. Các em sẽ
cảm thấy sâu sắc hơn nữa, mình có ích cho xã hội và thấy mình phải làm gì
cho nhân dân, để xứng đáng với vinh dự quý báu là thế hệ của Bác” [29,967]
Ngày 19-6-1952, Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành Nghị định số
201/NĐ quy định cụ thể về tổ chức các trường chuyên nghiệp (sơ cấp,
trung cấp, cao cấp), về điều kiện vào học, về thời hạn chương trình, về
quyền lợi và nghĩa vụ của học sinh.
Cuối năm 1952, ngành Giáo dục chuyên nghiệp đã được xây dựng một
cách có hệ thống, giải quyết một số vấn đề cơ bản, xây dựng ngành một cách
chắc chắn với sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các ngành hoạt động sản xuất.
Bộ Quốc gia Giáo dục cũng đã nghiên cứu hướng nghiệp cho học sinh
các trường phổ thông để các em chuẩn bị vào các trường chuyên nghiệp
học các ngành nghề phục vụ sản xuất đúng với những yêu cầu của kháng
chiến.
Một thành công nổi bật của nền giáo dục mới là sử dụng tiếng Việt để
giảng dạy và học tập ở các ngành học. Việc dùng tiếng Việt để giảng dạy
và học tập ở ngành học chuyên nghiệp đã làm cho ngành học này ngày
càng sát với thực tiễn kháng chiến và kiến quốc của nhân dân.
60
Từ năm 1951 đến năm 1954 đã hình thành và duy trì ba trung tâm
đại học và cao đẳng ở Việt Bắc (trong đó có Trường Đại học Y Dược), ở
Liên khu IV (trong đó có Trường Đại học dự bị Thanh Hoá, Trường Sư
phạm cao cấp về khoa học xã hội), ở Khu học xá Trung ương (trong đó có
Trường Sư phạm cao cấp về khoa học tự nhiên). Từ năm 1951 đến năm
1954, các cơ sở giáo dục đại học và chuyên nghiệp này đã đào tạo được
7000 cán bộ chuyên môn, kỹ thuật [26,102].
Sau khi biên giới Việt - Trung được khai thông nhờ những thắng lợi
về quân sự, ngoại giao, Chính phủ đã cử hàng nghìn cán bộ và học sinh tốt
nghiệp phổ thông và đại học đi học dài hạn ở nước ngoài (nhiều nhất là ở
Trung Quốc và Liên Xô), nhằm chuẩn bị cho kế hoạch xây dựng đất nước
sau khi chiến tranh kết thúc.
*
* *
Thắng lợi của sự nghiệp giáo dục thời kỳ kháng chiến là thắng lợi
của đường lối xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Điểm nổi bật của giáo dục những năm 1951-1954 là cuộc cải cách
khá toàn diện về tổ chức hệ thống và chương trình giảng dạy trong nhà
trường để tham gia có hiệu quả vào sự nghiệp sản xuất và chiến đấu của
nhân dân.
Nhiệm vụ xoá nạn mù chữ của Bình dân học vụ cơ bản đã hoàn
thành. Tuy nhiên, thành tích đạt được chủ yếu là ở vùng tự do. Vùng địch
chiếm đóng, vùng núi cao còn phải tiếp tục thanh toán nạn mù chữ cho
nhân dân ở giai đoạn sau. Phong trào Bổ túc văn hoá được đẩy mạnh, có
hàng triệu người được nâng cao trình độ văn hoá phổ thông tạo thêm năng
lực sản xuất, chiến đấu và công tác.
61
Ngành giáo dục Phổ thông phát triển nhanh về số lượng và chất
lượng từ sau khi thực hiện cải cách giáo dục theo hệ thống phổ thông 9 năm
và áp dụng chương trình giảng dạy được sửa đổi đồng bộ.
Ngành giáo dục Chuyên nghiệp cung cấp ngày một nhiều học sinh,
sinh viên phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Đội ngũ cán bộ có
trình độ chuyên môn và phẩm chất chính trị do ngành giáo dục Đại học và
Trung học chuyên nghiệp đào tạo đã đảm đương nhiệm vụ lịch sử mà Đảng
và nhân dân giao phó.
62
Chƣơng 3 Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN TỪ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
NỀN GIÁO DỤC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC CỦA HỒ CHÍ MINH
3.1. Ý nghĩa thực tiễn
Chỉ dẫn việc tổ chức hoạt động giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Nên đặt ra câu hỏi: học để làm gì; khi biết được mục đích rồi phải đặt
phương hướng; đặt được phương hướng rồi phải đặt tổ chức; đặt tổ chức
xong phải tìm cán bộ. Phải quan niệm việc học rộng rãi hơn nữa. Không
những chỉ trẻ em học, cả dân cũng phải học: thợ, công chức, dân cày, ví dụ:
đặt các trường học ở công xưởng, các chỗ nghiên cứu phổ thông cho dân.
Nếu bây giờ chưa làm được, sau phải làm” [29,589]
Đường lối giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những chỉ dẫn cụ
thể của Người đối với hoạt động giáo dục trong 9 năm kháng chiến kiến
quốc (1945-1954) đã đem lại thành tựu to lớn. Đó là sự nâng lên về trình độ
văn hoá của nhân dân và sự phát triển nhanh chóng đội ngũ trí thức cung
cấp ngày càng nhiều nhân tài cho đất nước.
Tổ chức một chiến dịch cho hàng chục triệu người học đọc, học viết
chữ quốc ngữ, một thứ chữ thuận tiện để ghi lại tiếng nói của dân tộc, là
công việc lớn lao, chưa từng có và có ý nghĩa sâu xa của giáo dục. Công
việc chống nạn mù chữ, bổ túc văn hoá trang bị kiến thức phổ thông cho
nhân dân, một mặt đã xoá đi di hại của văn hoá ngu dân của để quốc, mặt
khác đã nâng trình độ nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân
đối với đất nước mình.
Cải tổ hệ thống giáo dục phổ thông, sắp xếp hệ thống chuyên nghiệp,
sửa đổi chương trình và dùng tiếng Việt để giảng dạy ở các bậc học với
phương châm học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn đã đào tạo gấp
rút thế hệ trẻ của đất nước trở thành những người có học vấn, một bộ phận
có kiến thức chuyên sâu phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là một
thành tích rất đáng khích lệ của giáo dục.
63
Đào tạo kịp thời con người mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc là ý
nghĩa thực tiễn nổi bật nhất của nền giáo dục do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây
dựng.
Con người mới do nền giáo dục kháng chiến kiến quốc đào tạo là
con người được giải phóng sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, thoát
khỏi cuộc sống nô lệ dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, có phẩm chất
chính trị, được Đảng và nhân dân giao phó sứ mệnh nặng nề trên trận tuyến
chống quân thù và các lĩnh vực sản xuất xây dựng đất nước.
Phẩm chất cao quý của con người mới thời kỳ kháng chiến chống
Pháp là lòng trung thành với Tổ quốc, với sự nghiệp kháng chiến giải
phóng dân tộc và xây dựng nước nhà theo chế độ dân chủ, là sự giác ngộ
cao về bổn phận công dân trong một nước độc lập, tự do, là tinh thần chiến
đấu dũng cảm, là thái độ lao động quên mình, là ý thức đoàn kết, là tình
đồng chí, đồng đội trong sáng…
Tất cả phẩm chất đó quy tụ ở tinh thần hết lòng phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân. Phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân chính là mục
đích cao quý của giáo dục mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra.
Từ tháng 9-1945 đến tháng 7-1954, có khoảng 14 triệu người thoát
nạn mù chữ và phần lớn được học thêm kiến thức lớp dự bị bình dân,
những cán bộ ở cơ sở còn được học bổ túc văn hoá cấp 1, cấp 2 và hàng
chục vạn học sinh cấp 3, học sinh cao đẳng, đại học, trung cấp, sơ cấp đã
tham gia sản xuất, tòng quân hoặc phục vụ chiến đấu đều là sản phẩm của
nền giáo dục kháng chiến kiến quốc.
Hơn 1000 học sinh trường công và trường tư thục bậc Phổ thông
tòng quân vào tháng 6-1950 khi đất nước tăng cường huy động nhân lực
cho chiến trường và hàng trăm sinh viên Đại học Dược khoa, Y khoa vừa
học vừa phục vụ quân đội là những hình ảnh đẹp đẽ về một thời của giáo
dục ghi mãi trong tâm trí dân tộc.
Nền giáo dục Việt Nam 1945-1954 không chỉ đào tạo con người
mới, cán bộ mới cho thời kỳ kháng chiến kiến quốc mà còn tạo nguồn nhân
64
lực sau khi chiến tranh kết thúc và còn giữ lại những hat giống quý cho sự
nghiệp cách mạng của dân tộc đến ngày nay.
3.2. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu sự nghiệp xây dựng nền giáo dục kháng chiến kiến quốc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thấy một vấn đề nổi bật có ý nghĩa lý luận, đó
là phương châm giáo dục kết hợp học với hành, lý luận gắn với thực tiễn,
giáo dục liên kết với đời sống của nhân dân.
Nguyên lý học kết hợp với hành, lý luận gắn với thực tiễn là
nguyên lý kinh điển. Vấn đề ở đây là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo nguyên lý này như thế nào, và từ đó gợi những kinh nghiệm gì cho
sự phát triển giáo dục ở nước ta hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sự nghiệp giáo dục của chế độ dân chủ
cộng hoà ở nước ta là một mục tiêu cách mạng. Mục tiêu đó, Người chính
thức đề cập trong “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Véc xây
(1919), trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” (1930), trong “Chương
trình Việt Minh" (1941) và trong Phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời (3-9-1945). Một điều nhất quán là nền giáo dục mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói tới là nền giáo dục lấy nhân dân lao động, lấy "giống nòi" làm
tiêu điểm, làm chủ thể. Nền giáo dục dân chủ mới do Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương, có chủ thể là dân tộc Việt Nam. Nghĩa là nền giáo dục ấy
do nhân dân thực hiện, thực hiện vì quyền lợi của mình. Nói hẹp hơn, nền
giáo dục ấy lấy người học làm chủ thể. Cũng có nghĩa là đối tượng của hoạt
động giáo dục và lực lượng làm chủ hoạt động đó là một. Đây là một quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục. Giáo dục không phải
là một thứ ân huệ để ban phát, mà giáo dục là một công cụ, một vũ khí phải
được trao lại cho nhân dân lao động. Trình độ dân trí, trình độ học vấn,
năng lực và phẩm chất của nhân dân, những cái đó đều xa gần nảy sinh từ
giáo dục, đều do nhân dân tham gia giáo dục, tự vận động, mà có.
65
Nền giáo dục dân chủ mới là nền giáo dục bình đẳng, nền giáo dục cho
đại chúng và đại chúng là sản phẩm của giáo dục. Do đó mục đích của giáo
dục phải là phục vụ đại chúng, phải phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân,
phụng sự lý tưởng quốc gia, dân chủ. Mục đích giáo dục đó sẽ quy định nội
dung, phương pháp, phương thức… của giáo dục. Nhân dân lao động không
bao giờ duy tâm, siêu hình. Trái lại, họ rất thực tế. Nhân dân lao động tham
gia nền giáo dục dân chủ mới là để mở mang trí tuệ, để đem lại quyền lợi cho
họ, cũng tức là đem lại sự bình đẳng. Như vậy việc học phải rất hữu ích, rất
thiết thực. Muốn hữu ích, muốn thiết thực thì không thể không gắn học với
hành, không thể tách rời lý luận và thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cho nền giáo dục kháng chiến kiến
quốc phải có mục đích cao quý là "thật thà phụng sự nhân dân", và phải
theo phương châm tối ưu là "làm sao học thì hành được ngay".
Song, đối với hoạt động giáo dục kháng chiến kiến quốc, "hành"
không phải là "hành" chung chung, thực tiễn cũng không phải là thực tiễn
bất kỳ. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm "hành" phải là "hành" những cái
thiết thực nhất, và thực tiễn những năm 1945-1954 không ngoài thực tiễn
kháng chiến và kiến quốc. Kỹ sư Trần Đại Nghĩa "học" là học ở Châu Âu,
tức là học ở cái nôi văn minh công nghiệp, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh
yêu cầu ông "hành" ở chiến khu Việt Bắc, tức là hành trong một hoàn cảnh
"thiếu máy móc, thiếu nguyên liệu, thiếu thợ lành nghề, song giàu về rừng
núi, giàu về quyết tâm". Tương tự, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu giáo viên
Bình dân học vụ dạy cho đồng bào "Thường thức vệ sinh, để dân bớt đau
ốm" “Bốn phép tính, để làm ăn có ngăn nắp”.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên lý học kết hợp với hành, lý luận
gắn với thực tiễn hoàn toàn không thể chung chung, giáo điều, mà luôn
phải cụ thể, hữu ích.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trước học một đường, hành một nẻo.
Nay phải sửa chương trình làm sao để học thì hành được ngay".
66
Người quan tâm vấn đề chương trình tức là quan tâm đến phương
hướng và bản chất của nền giáo dục.
Chương trình của nền giáo dục kháng chiến kiến quốc phải "hợp với
sự nghiệp kháng chiến kiến quốc" [38,462]. Chương trình của các nhà giáo
dục làm ra, cũng như hạt gạo của người nông dân. Hạt gạo kháng chiến
kiến quốc không khác hạt gạo thường, nhưng nó mang theo cả mồ hôi, máu
và nước mắt chuyển ra chiến trường. Chương trình giáo dục kháng chiến
kiến quốc vẫn là chương trình cơ bản và chuyên sâu về tự nhiên, xã hội,
nhân văn, nhưng nó phải phục vụ kịp thời cho đất nước trong lúc nước sôi
lửa bỏng, và phục vụ cho đất nước lâu dài. Thực tế cho hay, một số học giả
lão thành, nhà giáo nhân dân, chuyên gia đầu ngành của nước ta hiện nay
đã trưởng thành từ chương trình của nhà trường kháng chiến kiến quốc
cách đây hơn nửa thế kỷ.
Tóm lại, phương châm học kết hợp với hành, lý luận gắn với thực tiễn
là phương châm giáo dục có ý nghĩa phổ biến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ
thể hoá và nâng thành một lý luận để xây dựng nền giáo dục của Việt Nam:
"Làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với đời sống của nhân dân" [39,266].
3.3. Bài học kinh nghiệm và kiến nghị
3.3.1. Bài học kinh nghiệm
Sự thành công trong quá trình xây dựng nền giáo dục kháng chiến
kiến quốc 1945-1954 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những bài học
kinh nghiệm quý báu.
* Để “xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại” và để “theo kịp các
nước khác trên hoàn cầu”, phải xây dựng và phát triển “một nền giáo dục
hoàn toàn Việt Nam”
Nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam là nền giáo dục của dân tộc Việt
Nam độc lập, tự do được khai sinh từ khi Cách mạng Tháng Tám thành
công, là nền giáo dục phủ định, tẩy trừ những nội dung của nền giáo dục cũ
67
là nền giáo dục chỉ đào tạo tay sai, tuỳ phái và gieo rắc chủ nghĩa nô lệ, vong
bản.
Nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam được xây dựng theo đường lối
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lấy đặc điểm và hoàn cảnh của dân tộc làm
điểm xuất phát, lấy việc phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân là mục đích,
lấy cách kết hợp học với hành, lý luận với thực tiễn làm phương châm.
Nền giáo dục ấy đã góp phần thực hiện nhiệm vụ lịch sử trên các
chặng đường phát triển của dân tộc, và ngày nay, xây dựng một nền giáo
dục hoàn toàn Việt Nam là xây dựng một nền giáo dục có khả năng đào tạo
con người Việt Nam đảm đương được yêu cầu đổi mới xây dựng đất nước.
* Muốn có nền giáo dục phát triển, đáp ứng được yêu cầu của đất
nước, phải coi trọng công việc xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo
khoa, cải tiến phương pháp giảng dạy và dào tạo cán bộ giáo dục.
Xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa, cải tiến phương
pháp giảng dạy và đào tạo cán bộ giáo dục tạo thành một hệ điều kiện, một
quy trình khép kín nằm trong các quy luật giáo dục. Dạy cái gì (chương
trình), và cách dạy như thế nào (phương pháp) là câu hỏi cơ bản của giáo
dục. Còn sách giáo khoa là sự cụ thể hoá, sự chuẩn mực, sự định hình của
chương trình, và đội ngũ nhà giáo là lực lượng chủ đạo của việc thực hiện
phương pháp giảng dạy tương ứng.
Những công việc này, đối với nền giáo dục của nước ta từ sau Cách
mạng Tháng Tám 1945 là những công việc bắt buộc, cấp thiết, vì nền giáo
dục của nước ta giai đoạn đó là nền giáo dục mới, nền giáo dục dân tộc dân
chủ của nước Việt Nam độc lập, khác hẳn nền giáo dục trước Cách mạng là
nền giáo dục nô lệ dưới ách cai trị của Pháp-Nhật.
Khi nhân dân ta tiến hành cuộc chiến tranh chống đế quốc Pháp,
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu giáo dục phải sửa đổi triệt để chương trình,
phải có sách, phải sửa đổi cách dạy và phải đào tạo cán bộ mới, giúp đỡ cán
bộ cũ đều nhằm vào mục tiêu “kháng chiến kiến quốc”.
68
Nền giáo dục kháng chiến kiến quốc 1945-1954 đã hoàn thành sứ
mệnh lịch sử mà dân tộc giao phó với chương trình, sách giáo khoa, cách
dạy và đội ngũ nhà giáo của nó.
Ngày nay, nền giáo dục của nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa vẫn
phải sửa đổi chương trình, soạn sách giáo khoa, sửa đổi cách dạy và đào tạo
đội ngũ cán bộ giáo dục sao cho giáo dục liên kết chặt chẽ với cuộc sống
của nhân dân trọng sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước.
* Nền giáo dục nước nhà muốn có hiệu quả thiết thực phải triệt để
thực hiện phương châm học kết hợp với hành, lý luận gắn với thực tiễn,
giáo dục liên kết với đời sống của nhân dân.
Mọi nền giáo dục tiến bộ trên thế giới đều phải áp dụng phương
pháp học kết hợp với hành, lý luận gắn với thực tiễn, nhưng vẫn khác nhau
ở chỗ “hành” như thế nào, cho “thực tiễn” nào, nhằm mục đích gì.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn nền giáo dục kháng chiến kiến
quốc 1945-1954 phải theo phương châm giáo dục kết hợp “Học với Hành”,
“Kháng chiến bằng văn hoá, Văn hoá của kháng chiến”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu phương châm lớn cho giáo dục một cách
sáng tạo và gợi mở sự vận dụng để phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, hoàn
cảnh thời đại.
Với phương châm đó, nền giáo dục kháng chiến kiến quốc đã đào
tạo được một thế hệ những con người mang phẩm chất kiên trung, hăng say
và có năng lực thích ứng với công cuộc kháng chiến và kiến quốc đầy gian
khổ hy sinh và thắng lợi vẻ vang.
Hiện nay, trong sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu, nghĩa là Đảng yêu cầu nền giáo dục xã hội chủ nghĩa của nước ta phải
kết hợp học với hành một cách vững vàng nhất để phục vụ sự nghiệp cách
mạng của dân tộc một cách hiệu quả nhất.
69
3.3.2. Kiến nghị
* Ngành Giáo dục nên có kế hoạch xây dựng chương trình giáo dục
pháp luật cho nhân dân, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội
công dân công bằng, dân chủ, văn minh đều đòi hỏi tính tối cao của pháp luật.
Nội dung giáo dục pháp luật phải được coi là một nội dung quan
trọng, liên tục trong các hệ thống giáo dục. Có như vậy, các thế hệ người
Việt Nam mới quen dần với lối sống theo pháp luật.
* Ngành Giáo dục nên có kế hoạch thật hợp lý về chỉ tiêu đào tạo
để đáp ứng yêu cầu đổi mới xây dựng đất nước. Vì hiện nay có tình trạng
mất cân đối: thiếu thợ lành nghề, thiếu lao động có chuyên môn rất cao
theo kịp sự phát triển kinh tế của đất nước, nhưng lại thừa khá nhiều sinh
viên tốt nghiệp đại học, họ hầu như không kiếm được việc làm.
* Ngành Giáo dục nên chú ý sự hài hoà trong việc phát triển số
lượng và chất lượng, giữ gìn hình ảnh tốt đẹp của ông thầy, giáo dục động
cơ học tập đúng đắn cho học sinh, phát triển cân đối giáo dục giữa các vùng
miền, quan tâm đến điều kiện và quyền lợi học tập của học sinh ở những
nơi kinh tế kém phát triển, đời sống khó khăn…
70
KẾT LUẬN
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước Việt Nam
được độc lập, tự do, có Chính phủ hợp hiến để lãnh đạo nhân dân cả nước
xây dựng chế độ dân chủ cộng hoà.
Nhưng không bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta.
Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến
chống thực dân Pháp, cứu nước.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hoá, giáo dục ngày một vững chắc để đẩy mạnh lực lượng kháng
chiến.
Đối với giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một
nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam, đó là nền giáo dục dân tộc xuất phát từ
điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, phụng sự Tổ quốc và nhân dân Việt
Nam. Và khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thì nền giáo dục ấy trở
thành nền giáo dục kháng chiến kiến quốc với những điều chỉnh cho phù
hợp thời chiến.
Nền giáo dục Việt Nam từ 1945-1954 được xây dựng theo chỉ đạo
trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển toàn diện và phục vụ tích
cực cho sự nhhiệp kháng chiến kiến quốc của dân tộc.
* Ngành học Bình dân là ngành học mới ra đời, do Chủ tịch Hồ Chí
Minh khởi xướng để chống nạn mù chữ trong nhân dân. Ngành học này
phát triển mạnh mẽ, rộng khắp thành một phong trào của quần chúng, với
các tên gọi “Phong trào Bình dân học vụ”, “Phong trào diệt dốt”, “Phong
trào xoá nạn mù chữ”.
Đối tượng của giáo dục bình dân là hàng triệu đồng bào trong cả
nước từ 8 tuổi trở lên chưa biết chữ vì không được đi học. Lực lượng dạy
Bình dân học vụ là hàng vạn “Chiến sỹ diệt dốt” tự nguyện tham gia phong
trào.
71
Về hệ thống tổ chức lớp học: Lớp Sơ cấp bình dân dạy đọc, viết chữ
quốc ngữ, lớp Dự bị bình dân dạy để đọc viết một cách chắc chắn, thông
thạo hơn, lớp Bổ túc bình dân dạy các kiến thức thường thức, lớp Phổ
thông lao động dạy kiến thức phổ thông (như cấp 1, cấp 2 ngày nay).
Ngành Bình dân học vụ làm nhiệm vụ nâng cao dân trí, đẩy mạnh
khả năng lao động sản xuất và chiến đấu của nhân dân, góp phần đưa sự
nghiệp kháng chiến kiến quốc đến thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có sự quan tâm săn sóc thường xuyên đến
ngành học này vì nó là hoa thơm quả ngọt của cách mạng.
* Ngành học Phổ thông được tổ chức lại một cách nhanh chóng để
bảo đảm khai giảng ngay trong tháng 9-1945. Đối tượng giáo dục là học
sinh từ lớp 1 đến lớp 12, học theo chương trình của Hoàng Xuân Hãn thiết
lập thời Chính phủ Trần Trọng Kim. Lực lượng cán bộ giáo dục là giáo
viên cũ được giúp đỡ, sắp xếp và bổ sung thêm.
Ngành học Phổ thông đã chú ý sửa đổi chương trình và nội dung
giáo dục cho phù hợp với yêu cầu mới của đất nước.
Từ năm học 1950-1951, ngành học Phổ thông đã áp dụng đề án cải
cách giáo dục được Chính phủ phê duyệt tháng 7-1950. Hệ thống giáo dục
Phổ thông gồm ba cấp học, cấp 1 học 4 năm, cấp 2 học 3 năm, cấp 3 học 2
năm, tất cả học 9 năm (thay vì cho 12 năm của hệ thống phổ thông cũ).
Chương trình và sách giáo khoa được xây dựng và biên soạn lại cho phù
hợp với tính chất và hệ thống của nền giáo dục mới.
Ngành học Phổ thông thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã đào tạo thế hệ thanh thiếu niên của đất nước thành một thế hệ con người mới, có những phẩm chất mới đáp ứng được những yêu cầu trước mắt và lâu dài trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin to lớn vào thế hệ học sinh phổ
thông vì đó là những công dân hữu ích làm chủ đất nước trong tương lai.
* Ngành học Chuyên nghiệp bao gồm bậc đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp đào tạo cán bộ chuyên môn, kỹ thuật theo yêu cầu quản lý, xây dựng đất nước và phục vụ công cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính phủ
72
đã tiếp thu cơ sở của Đại học Đông Dương, cải tạo, tổ chức lại để tái giảng vào 15-11-1945, đồng thời mở thêm Đại học Văn khoa, lớp Chính trị - Xã hội, tạo thành hệ thống Trường Đại học Việt Nam, mở đầu một kỷ nguyên mới của bậc Giáo dục Đại học và Cao đẳng của nước ta để đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Các Trường Đại học Y, Đại học Dược, Cao đẳng Sư phạm, Cao
đẳng Giao thông Công chính được duy trì sự giảng dạy khá liên tục.
Dần dần, ba trung tâm giáo dục đại học (Việt Bắc, Liên khu IV, Khu
học xá trung ương), và các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp khác đã khắc
phục hoàn cảnh khó khăn do chiến tranh, đào tạo ngày càng nhiều trí thức
có phẩm chất và năng lực cung cấp cho các hoạt động trong công cuộc
kháng chiến và kiến quốc.
Ngành giáo dục Chuyên nghiệp trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp chẳng những đã thực hiện được nhiệm vụ đào tạo cán bộ, nhân tài
trong thời kỳ đó mà còn đặt nền móng cho sự phát triển về sau này của nền
giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt tới giáo dục đại học và
trung học chuyên nghiệp vì ngành giáo dục này trực tiếp đào tạo cán bộ và
nhân tài cho đất nước. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập
Đại học Văn khoa (10-10-1945) là trường đại học chưa có trong hệ thống
giáo dục cũ thể hiện tầm nhìn chiến lược của Người về khoa học xã hội và
Sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc của nhân dân ta được Đảng
nhân văn trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam.
cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, lãnh đạo.
Trong lò lửa của cuộc kháng chiến, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà đã được rèn đúc và thử thách về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá và
xã hội, về cả lực lượng vật chất lẫn tinh thần, chính trị và tư tưởng.
Nền giáo dục trong lịch sử kháng chiến và kiến quốc từ tháng 9-
1945 đến tháng 7-1954 đã đi trọn đoạn đường vinh quang của nó, đã nói
73
lên công đức sáng lập và rèn luyện to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã để
lại những bài học sâu sắc còn nguyên giá trị./.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Anh (1970): Vài nét về tình hình văn hoá ở nước ta thời kỳ
1939 - 1945, Nghiên cứu lịch sử số 134.
2. Bảng thống kê các trường trung học phổ thông 1947-1949, Hồ sơ
tập 27, số 6/TTVH, TTLTQG III.
3. Báo cáo công tác năm 1949 của Bộ giáo dục, Hồ sơ 2426, hộp 1,
TTLTQG III.
4. Báo cáo phong trào lớp dự bị và chuẩn bị giai đoạn sau, Hồ sơ
TH46, tập 2, TTLTQG III.
5. Báo cáo thành tích thanh toán nạn mù chữ ở các Liên khu và Nam
Bộ, Hồ sơ lưu trữ, tập 168, gói 19, TTLTQG II.
6. Báo cáo thành tích về công tác giáo dục trong 8 năm kháng chiến
(1946- 1954) của Bộ Giáo dục, Hồ sơ 244, hộp 1, TTLTQG III.
7. Báo cáo thống kê tình hình giáo dục, Hồ sơ tập 2, gói 24 TH,
TTLTQG II
8. Báo cáo tình hình bình dân học vụ, giáo dục trung tiểu học ở các
Liên khu, Hồ sơ 154, hộp 18, TTLTQG III.
9. Báo cáo tình hình giáo dục 1951 của Bộ Giáo dục, Hồ sơ gói 21,
tập 2, TTLTQG III.
10. Báo cáo tình hình giáo dục 1953 của Bộ Giáo dục, Hồ sơ 24 TH,
tập 2, TTLTQG III.
11. Báo cáo tình hình giáo dục phổ thông, bình dân học vụ ở các Liên
khu, Hồ sơ tập 1450, cặp 139, TTLTQG III.
12. Báo cáo tình hình giáo dục sau 1 năm kháng chiến, Hồ sơ 2422,
hộp 1, TTLTQG III.
13. Báo cáo tình hình giáo dục Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 đến
tháng 6.1954 của Bộ Giáo dục, Hồ sơ lưu trữ của Bộ Giáo dục.
14. Phan Trọng Báu (1994), Nền giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb
KHXH Hà Nội.
15. Biên bản Hội nghị Giáo dục toàn quốc tháng 7.1954, Lưu trữ Bộ
Giáo dục.
75
16. Các văn bản báo cáo về thanh toán nạn mù chữ và bình dân học
vụ, Hồ sơ cặp 11, hộp 3 BDHV, TTLTQG III.
17. Ngô Văn Cát (chủ biên) (1980), Việt Nam chống nạn thất học, Nxb
Giáo dục.
18. Công tác xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá trong các lực lượng
vũ trang, (1979), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
19. Hoàng Ngọc Dy (1968), Giới thiệu mấy nét về đường lối giáo dục
của Đảng, Nxb Giáo dục Hà Nội.
20. Đại hội Giáo dục toàn quốc tháng 7.1951, Hồ sơ tập 3, gói 1,
TTLTQG II.
21. Đặc san Hà Tĩnh diệt dốt, Ty Bình dân học vụ Hà Tĩnh. 22. Lê Văn Giang (chủ biên) (1985), Lịch sử nền đại học và trung học chuyên nghiệp Việt Nam, Viện nghiên cứu đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
23. Phạm Minh Hạc (1990), 45 năm phát triển giáo dục Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1992), Sơ thảo lịch sử Giáo dục Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2006), Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1
(1945-1955), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Lê Mậu Hãn (chủ biên) (1999): Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập
3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Vũ Đình Hoè, Báo cáo về hoạt động của Chính phủ ngày
30.10.1946, Cục lưu trữ Trung ương I, Hồ sơ 3, hộp 1, phông Quốc hội.
28. Vũ Đình Hoè: Chính sách giáo dục mới và sự tổ chức các bậc học (in trong Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1993, Nguyễn Q Thắng).
29. Vũ Đình Hoè (1946), Nền giáo dục Việt Nam xưa và nay, Báo Cứu
quốc.
30. Nguyễn Văn Huyên (12-1955), 10 năm xây dựng nền giáo dục
phục vụ nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam.
31. Nguyễn Văn Huyên (1990), Những bài nói và viết về giáo dục,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76
32. Vũ Ngọc Khánh, Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
33. Lịch sử ngành Bình dân học vụ Việt Nam, Tập 1, Tư liệu của Bộ
Giáo dục.
34. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
36. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
37. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
38. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
39. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
40. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
42. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
43. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
46. Võ Thuần Nho (chủ biên) (1990), 35 năm phát triển sự nghiệp
giáo dục phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Niên giám thống kê Đông Dương 1942, tập 7. 48. Tài liệu về cuộc cải cách giáo dục 1950 của Nha trung tiểu học,
Hồ sơ tập 1, gói FT, TTLTQG II.
77
49. Nguyễn Q Thắng (1993), Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn
hoá, Hà Nội.
50. Thông tư số 30/TT/P3 ngày 31.7.1950 của Bộ Giáo dục về cải
cách giáo dục.
51. Nguyễn Khánh Toàn (1947), Giáo dục dân chủ mới, Bộ Quốc gia
giáo dục xuất bản, Hà Nội.
52. Nguyễn Khánh Toàn (1951), Nền giáo dục Việt Nam lý luận và
thực hành, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Tóm tắt giáo dục Việt Nam (1945-1954) (1958), Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
54. Hồ Trúc (9-1975), 30 năm xây dựng nền giáo dục Việt Nam, Tạp
chí Học tập.
55. Văn kiện Đảng (2000), Toàn tập, Tập 9 (1948), Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội.
56. Văn kiện Đảng (2000), Toàn tập, Tập 12 (1951), Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội.
57. Việt Nam quốc dân công báo (1945), số 1, Tháng 9. 58. Việt Nam quốc dân công báo (1946), tháng 8. 59. Việt Nam diệt giặc dốt (1951), Nha Bình dân học vụ xuất bản.
78
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 20 ngày 8-9-1945 SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI
SỐ 20 NGÀY 8-9-1945
79
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Theo lời đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục,
RA SẮC LỆNH
Khoản I: Trong khi đợi lập được nên Tiểu học cưỡng bách, việc học
chữ Quốc ngữ từ năm nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người.
Khoản II: Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên
tám tuổi phải biết đọc và biết viết chữ Quốc ngữ. Quá hạn đó, một người
dân Việt Nam nào trên tám tuổi chưa biết đọc và biết viết chữ Quốc ngữ sẽ
bị phạt tiền.
Khoản III: Các khoản chi phí sẽ chia cho quỹ hàng tỉnh và hàng xã
phải chịu.
Khoản IV: Ông Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục thi hành Sắc lệnh
này. Các chi tiết thực hành sẽ do ông Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục ấn
định sau.
KT. CHỦ TỊCH NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
BỘ TRƢỞNG BỘ NỘI VỤ
VÕ NGUYÊN GIÁP
(Đã ký)
Nguồn: Phần mềm thư viện Pháp luật (từ năm 1945 đến 30-6-2004), Báo Pháp luật Việt Nam- Cơ quan của Bộ Tư pháp, Công ty Việt Nam review, Bản quyền tác giả số 803/2005/QTG.
Phụ lục 2: Chống nạn thất học
CHỐNG NẠN THẤT HỌC
Quốc dân Việt Nam!
80
Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sách ngu dân. Chúng
hạn chế mở trường học, chúng không muốn cho dân ta biết chữ để lừa dối dân
ta, bóc lột dân ta.
Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước là 95 phần
trăm, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao
được.
Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc lúc này, là nâng cao dân trí.
Chính phủ đã ra hạn trong một năm, tất cả mọi người Việt Nam đều
phải biết chữ Quốc ngữ. Chính phủ đã lập một Nha Bình dân học vụ để
chăm nom việc học của dân chúng.
Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận
của mình, phải có kiến thức mới để góp phần vào công cuộc xây dựng nước
nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Những người đã biết chữ hãy dạy ngay cho người chưa biết chữ, hãy
góp sức vào Bình dân học vụ, như các anh chị em trong sáu, bảy năm nay
đã gây phong trào truyền bá quốc ngữ, giúp đồng bào thất học.
Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa
biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo,
người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, còn người giàu có thì mở lớp
học tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các
chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá
điền, những người làm của mình.
Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc
chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử
trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử.
81
Công việc này, mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức.
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI
HỒ CHÍ MINH
(Đã ký)
Nguồn: [37,36-37]
Phụ lục 3: Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 45 (10-10-1945)
SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI
82
SỐ 45 NGÀY 10-10-1945 CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Xét rằng việc đào tạo giáo sự văn khoa ban trung học rất nên cần thiết;
Xét rằng cần phải nâng cao nền văn học Việt Nam cho xứng danh
với một nước độc lập và để theo kịp bước các nước tiên tiến trên hoàn cầu;
RA SẮC LỆNH
Khoản I: Nay thiết lập một ban Đại học Văn khoa tại Hà Nội.
Khoản II: Những chi tiết thực hành sẽ do ông Bộ trưởng Bộ Quốc
gia Giáo dục ấn định sau. Ông Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục thi hành
Sắc lệnh này.
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI HỒ CHÍ MINH (Đã ký)
Nguồn: Phần mềm thư viện Pháp luật (từ năm 1945 đến 30-6-2004), Báo Pháp luật Việt Nam- Cơ quan của Bộ Tư pháp, Công ty Việt Nam review, Bản quyền tác giả số 803/2005/QTG. Phụ lục 4: Thư gửi Hội nghị Giáo dục toàn quốc
THƢ GỬI HỘI NGHỊ GIÁO DỤC TOÀN QUỐC
(Nhờ ông Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục chuyển)
83
Nhân dịp Hội nghị Giáo dục toàn quốc họp, tôi có lời thân ái chào
thăm các đại biểu.
Về vấn đề giáo dục, tôi có mấy ý kiến sau đây cống hiến với Hội nghị.
Chúng ta cần phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Vì
vậy, chúng ta:
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho phù hợp với sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
2. Muốn như thế chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho
các trường.
3. Chúng ta phải thay đổi cách dạy cho phug hợp với sự đào tạo nhân
tài kháng chiến và kiến quốc.
4. Chúng ta phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn
chỉ kháng chiến và kiến quốc.
5. Về bình dân học vụ, nhờ có sự hy sinh cố gắng của nam nữ giáo
viên, đã có kết quả rất tốt đẹp. Bây giờ, số đông đồng bào đã biết đọc biết
viết thì chúng ta phải có một chương trình để nâng cao thêm trình độ văn hoá
phổ thông của đồng bào,
Với sự lãnh đạo của Bộ trưởng và với sự cố gắng thi đua ái quốc của
toàn thể công nhân viên giáo dục, tôi chắc rằng Hội nghị sẽ có một chương
trình hành động thiết thực để đi đến thành công.
Chào thân ái và quyết thắng Tháng 7 năm 1948
Hồ Chí Minh
Nguồn: [38,462-463]
Phụ lục 5: Thư gửi Đại hội giáo dục toàn quốc
THƢ GỬI ĐẠI HỘI GIÁO DỤC TOÀN QUỐC
84
Tôi thân ái gửi lời chúc các đại biểu mạnh khoẻ và cố gắng làm việc.
Sau đây là vài ý kiến để giúp phần vào việc thảo luận của các vị.
Đại hội nên kiểm thảo kỹ công tác “cải cách” về chương trình, chủ
trương và cách thi hành, để tìm thấy những khuyết điểm mà sửa đổi, những
ưu điểm mà phát triển thêm.
Đại hội nên chú ý làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với đời sống
của nhân dân, với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc. Làm
thế nào để phối hợp việc giáo dục của trường học với việc tuyên truuyền và
giáo dục chính trị chung của nhân dân.
Cán bộ giáo dục của chúng ta nói chung đều rất cố gắng, nhất là nam
nữ cán bộ bình dân học vụ và tiểu học. Tôi rất vui lòng nhờ Đại hội chuyển
lời khen ngợi và khuyến khích các chiến sỹ ấy.
Xin chúc Đại hội có kết quả tốt đẹp.
Chào thân ái và quyết thắng
Tháng 7 năm 1951
Hồ Chí Minh
Nguồn: [39,266]
Phụ lục 6: Chính sách giáo dục mới và sự tổ chức các lớp học
85
CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC MỚI
VÀ SỰ TỔ CHỨC CÁC LỚP HỌC
Luật sư VŨ ĐÌNH HOÈ (Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Chính phủ lâm thời Việt Nam DCCH)
Chính phủ nhân dân mới lên cầm quyền chú trọng đến việc cải cách
căn bản để xây dựng một nền giáo dục mới cho nước Việt Nam. Muốn cho
công cuộc cải cách căn bản ấy được vững chắc và hợp với nguyện vọng và
quyền lợi của quốc dân. Bộ Quốc gia Giáo dục đã cử một Hội đồng cố vấn
học chính thiết lập do Sắc lệnh ngày 10-10-1945. Hội đồng này gồm những
nhà trí thức nam nữ hoặc trong giáo giới, hoặc ngoài giáo giới, nhưng đều
là những vị có nhiều kiến thức và lịch duyệt về vấn đề giáo dục.
Sau khi Hội đồng cố vấn học chính đã thảo luận về dự án cải cách
giáo dục của Bộ đưa trình, Bộ Quốc gia Giáo dục đã định rõ chính sách
giáo dục sẽ thi hành để thay cái chế độ giáo dục thực dân đặt trên những
nguyên tắc bất lợi cho sự phát triển khả năng của thanh niên và làm cản trở
sự tiến hoá của dân tộc mình. Chính sách ấy đã được Hội đồng Chính phủ
chuẩn y cùng Ban Thường trực Quốc hội thoả hiệp, và nền giáo dục mới
của nước nhà sẽ được tổ chức theo Sắc lệnh số 146 ngày 10-8-1946.
Nền giáo dục mới ấy đặt trên ba nguyên tắc căn bản dân chủ, dân
tộc, khoa học và theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia.
Với tinh thần dân chủ, nền giáo dục mới của ta sẽ không phải là một
nền giáo dục dành riêng cho một thiểu số, nhờ ở cảnh sung túc mà có thể
theo đuổi sự học đến nơi đến chốn, còn đại đa số dân chúng, vì thiếu điều
kiện vật chất mà phải chịu ở trong vòng tối tăm của nạn mù chữ như là ở
trong cái cảnh bỡ ngỡ dở dang của người thất học. Trước đây áp dụng
chính sách ngu dân, người ta không những không chịu mở nhiều trường mà
86
lại còn lập ra nhiều luật lệ nghiêm khắc, để hạn chế việc học. Nền giáo dục
mới của ta sẽ là một nền giáo dục chung cho toàn thể quốc dân, không phân
biệt hai nền học khác nhau: nền tiểu học cho dân chúng và nền trung học
đưa lên bực đại học cho giai cấp tư sản. Nền giáo dục mới sẽ là nền giáo
dục duy nhất và bình đẳng; trên con đường học vấn, các trẻ em không vì
cha mẹ giàu sang hay nghèo hèn mà hơn kém nhau vì trí tuệ cao hay thấp,
vì các khả năng về tinh thần có nhiều hay ít mà thôi. Một trẻ nghèo mà
thông minh cũng có thể học đến nơi đến chốn, như một đứa trẻ con nhà
giàu mà thông minh ngang nó: không có sự gì hạn chế, bắt buộc nó phải bỏ
dở con đường học vấn. Với nền giáo dục duy nhất và bình đẳng này, chắc
có nhiều nhân tài sẽ xuất hiện để giúp ích cho quốc gia, mà xưa kia phải
mai một chỉ vì sự giáo dục thiếu tinh thần dân chủ. Nền giáo dục mới của ta
sẽ phát huy tinh thần dân tộc, sẽ khác hẳn nền giáo dục dưới chế độ thực
dân. Trước kia, bọn thống trị thực dân muốn cho dân tộc ta quên cội rễ và
không thể phát triển được những khả năng đặc biệt của nòi giống, đã áp
dụng cái chính sách đồng hoá trong việc giáo dục, mong cho ta thành một
bọn vong bản, quên cả tổ tiên anh dũng, quên cả lịch sử vẻ vang, cam tâm
làm nô lệ. Nền giáo dục mới, xây dựng trên nguyên tắc dân tộc, sẽ một mặt
mở mang những đặc tính, những năng lực của giống nòi, một mặt đào tạo
một tinh thần quốc gia mạnh mẽ sáng suốt, để quốc dân biết đem toàn lực
phụng sự Tổ quốc trong khi phụng sự lý tưởng dân chủ.
Với tinh thần khoa học, nền giáo dục mới sẽ làm phát triển những
năng khiếu của thiếu niên về phương diện sinh lý cũng như phương diện
tâm lý, và không bắt trẻ em làm việc không hợp với tuổi của chúng để
những năng lực về thể chất và về tinh thần không thể mở mang một cách
điều hoà được. Nó sẽ không có tính cách nhồi sọ, với những chương trình
quá nặng, làm cho trẻ vì phải vùi đầu suốt ngày đêm trong đống sách, đến
nỗi sức lực hao mòn, tinh thần kiệt quệ, đang là đứa trẻ thông minh lanh lợi
mà có thể biến thành một đứa trẻ đần độn, lờ đờ. Nó sẽ không quá trọng lý
87
thuyết mà coi rẻ thực hành, để cho học vấn không thể đem ứng dụng vào
đời sống hàng ngày của cá nhân và đoàn thể. Nó sẽ không quá thiên về mặt
giáo huấn mà nhãng bỏ phần dưỡng dục, chỉ chú trọng về trí dục mà mà coi
thường đức dục, để tạo nên những kẻ có học thức nhưng thiếu lương tâm và
ý chí, thành ra những phần tử vô ích và có khi có hại cho quốc gia xã hội.
Xây dựng trên nguyên tắc khoa học, nền giáo dục mới sẽ căn cứ vào những
định luật về sinh lý và tâm lý sẽ áp dụng những phương pháp sư phạm mới
phát sinh để điều hoà sự phát triển năng khiếu của trẻ em về thể chất cũng
như về tinh thần. Chương trình các bậc học, nhất là ở bậc học cơ bản và
phổ thông, đều gồm hai phần: Phần giáo huấn có mục đích ban phát cho
các trẻ em một cái học thức cần thiết và mở mang trí tụệ chúng, Phần
dưỡng dục có mục đích gây cho chúng những tập quán tốt, những đức tính
hay, rèn luyện ý chí và huấn luyện tình cảm chúng, để sau này chúng trở
thành những người có đủ khả năng mà sống mạnh mẽ, một cách có lợi cho
mình và cho quốc gia. Sau hết nền giáo dục mới sẽ có tính cách thực tế,
không vì cái mục đích “học thuật vị học thuật” mà bỏ phần thực nghiệp, và
sẽ chú trọng về phần thực hành cũng như về phần lý thuyết để gây cho
thanh niên một tinh thần khoa học, biết dùng cái học thức vào đời sống của
mình và của đoàn thể. Ngang với nền học phổ thông sẽ có nền học chuyên
môn để huấn luyện thanh niên thành những cán bộ chuyên môn đủ năng lực
tham gia vào các ngành hoạt đồng kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, và
tham dự một phần thiết thực vào công cuộc kiến thiết quốc gia.
Nền giáo dục mới ấy được phân phối sau bậc giáo dục ấu thơ như
trong Sắc lệnh số 146 đã định, trong ba cấp học là:
Đệ nhất cấp: bậc học cơ bản.
Đệ nhị cấp có hai ngành: ngành học tổng quát và ngành học chuyên môn.
Đệ tam cấp: cấp bậc đại học.
Bậc học ấu thơ đảm nhiệm việc giáo dục việc giáo dục các trẻ con dưới
7 tuổi, trong những lớp mẫu giáo hay những ấu trĩ viên do Bộ Quốc gia Giáo
88
dục tổ chức hay kiểm soát, có những nam nữ giáo viên được huấn luyện
riêng sẽ áp dụng những phương pháp thích hợp, luyện cho trẻ những tập
quán tốt trong những cuộc vui chơi có chỉ huy, giúp cho những năng lực về
thể chất cũng như về tinh thần của chúng được phát triển một cách điều hoà
để khi đến tuổi theo bậc học cơ bản chúng có điều kiện để hấp thụ một cách
không khó nhọc cái học thức và cái giáo dục dành cho chúng ở bậc học ấy.
Bậc học cơ bản dạy những điều thường thức cần thiết và luyện những
tập quán tốt cho các trẻ con từ 7 tuổi. Hạn học là 4 năm. Học sinh học hết
năm thứ tư sẽ thi lấy bằng giáo dục cơ bản. Bậc học cơ bản sẽ là bậc học
cưỡng bách bắt đầu từ năm 1950. Sự cưỡng bách sẽ tuỳ theo tình trạng kinh
tế và xã hội trong nước mà thi hành dần làm nhiều thời kỳ.
Sau bậc học cơ bản, có lớp học dự bị hạn học 1 năm, mục đích ngoài
sự dạy cho học sinh một cái học phông đại cương, còn chú trọng đến
khuynh hướng và khả năng trí tuệ của chúng để chọn lọc và đưa chúng vào
ngành học tổng quát hay ngành học chuyên môn ở đệ nhị cấp. Theo chế độ
giáo dục cũ, sau khi đã học hết bậc tiểu học rồi, học sinh hoặc tuỳ theo sở
thích của mình, hoặc chiều theo ý muốn của phụ huynh, tự ý chọn lấy một
đường để tiếp tục sự học của mình. Nhưng khi tìm đường tiếp tục việc học,
phần đông học sinh không được ai chỉ dẫn và không biết căn cứ vào khả
năng trí tuệ mà tạo hoá đã ban cho, chỉ biết theo cái ham thích nhất thời,
nên nhiều khi sai đường lạc lối, mất nhiều công phu mà không đi tới kết
quả mong đợi, đến khi biết là lầm đường thi không thể trở lại được nữa,
thành ra một phần tử không có ích lợi lắm cho quốc gia xã hội, vì không
dùng được hết các ngành học hợp với khả năng trí tuệ của thanh niên mà
đưa họ, sau khi đã tốt nghiệp bậc học cơ bản, hoặc vào ngành tổng quát
(trung học phổ thông và chuyên khoa) để lên bậc đại học, hoặc sang ngành
học chuyên môn (thực nghiệp và chuyên nghiệp) để thành những người thợ
khéo, những nhà buôn giỏi, những nhà nông lành nghề, hay hơn nữa là
thành những kỹ sư vừa giỏi về lý thuyết vừa thạo về thực hành. Việc hướng
89
dẫn tuyển trạch này bắt đầu ở năm dự bị sau bậc học cơ bản để đưa học
sinh vào bậc học phổ thông hay bậc học thực nghiệp. Nhưng một năm
hướng dẫn không thể coi là là đủ để biết rõ khuynh hướng và khả năng của
học sinh được, nên phải tiếp tục ở các lớp phổ thông và thực nghiệp, để có
thể sửa chữa những sự nhầm lẫn, đưa trẻ em ra khỏi con đường mà chọn sai
để dắt chúng vào con đường thích hợp với khả năng của chúng. Tuy rằng
việc lựa chọn và chỉ dẫn các học sinh theo khuynh hướng và trí tuệ là một
việc phải tốn công phu dù ở các nước tiến tiến Âu-Mỹ cũng đang còn ở thời
kỳ thí nghiệm và kết quả chưa được rõ rệt hẳn, nhưng cái nguyên tắc hướng
dẫn tuyển trạch là một nguyên tắc rất hợp lý với việc giáo dục, điều đó ai
cũng phải công nhận. Nếu ta biết đem những phương thức khoa học áp
dụng vào việc hướng dẫn học sinh, đưa học sinh vào một con đường hợp
với khả năng của họ, thì việc giáo dục thanh niên chắc sẽ thu được những
kết quả mỹ mãn.
Năm sau Dự bị học sinh sẽ vào học ngành tổng quát hay ngành học
chuyên môn. Ngành học tổng quát dạy cho các trẻ em một cái học phổ
thông và một cái học chuyên khoa để dự bị chúng lên bậc Đại học. Ngành
học này gồm hai bậc:
1. Bậc phổ thông, hạn 4 năm, hai năm đầu dạy theo một chương trình
duy nhất hoàn toàn phổ thông, hai năm sau theo một chương trình phân hoá
ở những lớp dự bị chuyên nghiệp và dự bị chuyên khoa chia ra làm 4 ban:
ban văn hoá, ban khoa học cho lớp dự bị chuyên khoa, ban vật lý và ban kỹ
thuật cho lớp dự bị chuyên nghiệp.
2. Ban chuyên khoa, hạn học 3 năm, chia ra làm 3 ban: Toán Lý Hoá
Vạn vật và Văn khoa. Học sinh học hết năm thứ ba sẽ thi lấy bằng học thuật
tổng quát để vào các ban đại học hay các trường Cao đẳng chuyên môn.
Ngành học chuyên môn ban phát ngoài cái học phổ thông và lý
thuyết một cái học chuyên môn và thực hành để đào tạo những người làm
90
ruộng, làm thợ, đi buôn lành nghề, và những cán bộ thực tiễn đủ năng lực
để điều khiển các cơ quan xã hội, kinh tế… Ngành này gồm 2 bậc học:
a. Bậc thực nghiệp, dành cho học sinh sau một năm hướng dẫn
tuyển trạch tỏ ra có năng khiếu và khuynh hướng về thực nghiệp, để luyện
chúng thành những nông gia, thương gia và công nhân lành nghề. Có nhiều ban
dạy tuỳ từng nghề và hạn học từ 1 đến 3 năm tuỳ từng ban. Học sinh tốt nghiệp
vào loại hạng ưu ở bậc thực nghiệp có thể xin vào học các trường chuyên
nghiệp.
b. Bậc chuyên nghiệp, dành cho học sinh đã theo các lớp dự bị
chuyên nghiệp, chia ra nhiều ban và mục đích huấn luyện các cán bộ thực
tiễn về phương diện lý thuyết và thực hành để giúp việc kiến thiết quốc gia
về các ngành kinh tế xã hội. Hạn học ít nhất 3 năm, và bằng tốt nghiệp là
bằng kỹ sư, giá trị ngang bằng với các bằng kỹ sư trường công nghệ Pháp.
Những sinh viên đã đỗ kỹ sư vào hạng ưu có thể xin vào học các trường
Cao đẳng chuyên môn bậc đại học mà không cần có bằng học thuật tổng
quát.
Bậc đại học gồm các Ban Văn hoá, Khoa học, Pháp lý theo chế độ
từng môn, và những trường Cao đẳng chuyên môn, học theo chương trình
nhất định và niên hạn ít nhất là 3 năm (Y học, Dược học, Mỹ thuật, Thương
mại, Nông lâm, Kiến trúc, Điện học..v.v…). Sinh viên tốt nghiệp bậc Đại
học sẽ có bằng đại học sỹ hoặc bác sỹ.
Tiếp nối vào bậc đại học sẽ có những Nghiên cứu viện mà ngay ở
bậc Đại học các sinh viên có thể tham gia vào. Những nghiên cứu viện này
là nơi sưu tầm, phát minh, đào tạo những nhà bác học, những nhân tài cho
xứ sở và cho nhân loại. Giá trị của bậc đại học có bật nổi lên được là do nơi
kết quả những của những viện nghiên cứu này, nó đem lại một nền học
thuật dân tộc và khoa học.
91
Đi song hàng với các bậc học phổ thông, chuyên khoa, chuyên
nghiệp và đại học, có ngành sư phạm mục đích đào tạo giáo viên cho các
bậc học và chia ra làm ba cấp:
1. Sư phạm sơ cấp, hạn học 2 năm, đào tạo các giáo viên cơ bản.
2. Sư phạm trung cấp, hạn học 3 năm, đào tạo giáo sư dạy văn
chương hay khoa học ở các lớp phổ thông và thực nghiệp.
3. Sư phạm cao cấp, chuyên luyện cho các người có bằng đại học
chuyên khoa (văn học hay khoa học) để thi lấy bằng sư phạm ở Ban Văn
khoa đại học, có bằng này mới được bổ giáo sư thực thụ các lớp chuyên
khoa và chuyên nghiệp.
Nói tóm lại, nền giáo dục mới của nước Việt Nam thiết lập do Sắc
lệnh 10-8-1946 là một nền giáo dục xây dựng theo quan niệm: “Giáo dục vị
nhân sinh”, chú ý việc rèn luyện đức tính và năng lực của tất cả công dân
một cách bình đẳng, chia ra từng ngành học khác nhau không phải vì học
sinh thuộc những giai cấp khác nhau mà chỉ vì sự khác nhau vì năng khiếu
và chí hướng của học sinh và mục đích không phải là phụng sự học thuật
mà là gây một đời sống mạnh mẽ, dồi dào cho cá nhân và đoàn thể.
Các quan niệm giáo dục này trái hẳn với các quan niệm cũ. Cho nên
chúng ta chắc chắn ai cũng cảm thấy sự lớn lao cùng tất cả nỗi khó khăn
của công cuộc cải cách mới; từ việc sửa soạn chương trình bài dạy, sách
học, đến việc lập trường, mở lớp, sắm sửa dụng cụ. Có lẽ công việc khó
khăn nhất, công phu nhất là việc đào tạo giáo viên mới và huấn luyện lại
giáo viên cũ. Bao nhiêu nếp xưa phải xoá bỏ, bao nhiêu đức tính mới phải
tự rèn lấy, cả một thái độ, tinh thần phải thay đổi! Việc xây dựng về giáo
dục liên quan mật thiết đến công cuộc kiến thiết kinh tế quốc gia. Nền giáo
dục mới cung cấp cán bộ cho ngành hoạt động kinh tế trong nước ta những
thợ giỏi, những nông dân lành nghề cho đến những cán bộ thực tiễn và cán
bộ chỉ huy. Trái lại nền giáo dục mới lại phải nhờ sự phát triển kinh tế mới
được mở mang và cơ sở chắc chắn: những ngành học thực nghiệp, chuyên
92
nghiệp và chuyên môn từ trước đến nay chưa có một tổ chức gì, nay cần
phải xây dựng gấp và muốn xây dựng được nó cần phải được cùng xây
dựng với công cuộc kiến thiết kinh tế trong nước.
Hà Nội, 1946
Nguồn: [28]
Phụ lục 7: Đề án cải tổ giáo dục
BỘ QUỐC GIA GIÁO DỤC
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ Độc lâp – Tự do – Hạnh phúc ---------------
ĐỀ ÁN CẢI TỔ GIÁO DỤC
Hiện thời sự giáo dục gồm có hai phần:
- Một phần là giáo dục phổ thông (thường gọi là giáo dục chính quy)
do Bộ Quốc gia Giáo dục đảm nhận và chia ra làm các ngành Bình dân học
vụ, Tiểu học vụ, Trung học vụ và Đại học vụ;
- Một phần là giáo dục chuyên nghiệp và chuyên môn thì do các Bộ
khác tổ chức sau khi thoả hiệp với Bộ Quốc gia Giáo dục về vấn đề chương
trình và tổ chức. Ngoài ra về phần này, trong Bộ Quốc gia Giáo dục có tổ
chức các Trường Đại học Y dược, Pháp lý, Sư phạm, Văn khoa, Khoa học,
về trung cấp có Trường Sư phạm và Mỹ thuật.
Cách tổ chức ấy không được hợp lý:
- Không phối hợp được chặt chẽ việc việc giáo dục phổ thông và
việc đào tạo cán bộ chuyên nghiệp và chuyên môn;
- Không phối hợp được các ngành học chuyên nghiệp và chuyên môn;
93
- Không sử dụng được một cách thật hợp lý cán bộ huấn luyện, vật
liệu, dụng cụ thực nghiệm và thực tập cùng là tổ chức các thư viện.
Thêm nữa, không có một tổ chức để đặt những quan hệ hợp lý và
chặt chẽ giữa giáo dục và văn hoá.
Để xây dựng được nền Giáo dục dân chủ nhân dân, Hội nghị Giáo
dục - Chuyên môn họp trung tuần tháng 6 vừa qua nhận thấy cần phải đặt
liên hệ chặt chẽ giữa giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp cùng
chuyên môn, giữa giáo dục và văn hoá, để dần dần tiến tới một tổ chức
trung ương có đủ khả năng để lãnh đạo tất cả các công cuộc phát triển nền
giáo dục và văn hoá của toàn quốc sát với nhu cầu và sự tiến hoá về tư
tưởng và nghệ thuật của nhân loại.
Sau khi thảo luận, Hội nghị đã đi tới những quyết nghị về các vấn đề
sau này:
Hệ thống tổ chức các cấp học và các ngành học; 1.
Phạm vi trách nhiệm của Bộ Quốc gia Giáo dục và các Bộ 2.
khác về vấn đề giáo dục và văn hoá;
3. Tổ chức các trường chuyên nghiệp và chương trình học của
các ngành chuyên nghiệp;
4. Chương trình học của ngành phổ thông.
I – HỆ THỐNG TỔ CHỨC CÁC CẤP HỌC VÀ CÁC NGÀNH HỌC
Nền Giáo dục quốc gia sẽ chia ra làm 2 ngành:
- Ngành phổ thông;
- Ngành chuyên nghiệp.
Cả 2 ngành đều tổ chức song song thông suốt tới cấp Đại học.
Cấp Đại học là một tổ chức học chuyên môn, áp dụng khoa học thật
sâu rộng để đào tạo những cán bộ chỉ huy trong mọi ngành hoạt động và
phát triển việc nghiên cứu khoa học.
1. Ngành phổ thông
Ngành này gồm 9 năm học, chia ra làm 3 cấp;
94
- Cấp 1: 4 lớp 1,2,3,4;
- Cấp 2: 3 lớp 5,6,7;
- Cấp 3: 2 lớp 8,9.
Sau 3 cấp ấy, ngành này có một cấp chuyên khoa (chia làm 3 ban:
Văn học, Toán Lý Hoá, Vạn vật) 2 năm học dự bị để hướng vào các trường
chuyên môn (đại học).
Cạnh các trường phổ thông nói trên tổ chức cho những thanh thiếu
niên đủ tuổi đi học, sẽ tổ chức ngay trong ngành học phổ thông này, để thay
vào ngành Bình dân học vụ hiện tại, những lớp và những trường Bổ túc cho
các cán bộ và nói chung cho toàn thể nhân dân, cho những người lớn luống
tuổi vì bận việc không tới trường được. Các trường và các lớp ấy cũng ăn
khớp với các cấp học phổ thông, nhưng theo một chương trình rút ngắn.
Các trường và các lớp bổ túc ấy cũng hướng vào các trường chuyên
nghiệp như các trường phổ thông.
Và tất cả các trường phổ thông, bổ túc và chuyên nghiệp đều gặp nhau
ở cấp học Đại học.
2. Ngành Chuyên nghiệp
Ngành này tổ chức song song với ngành phổ thông và gồm có 3 cấp;
- Sơ cấp: Cho những người học hết cấp I phổ thông và những
người tốt nghiệp ở các “lớp học nghề” (sẽ tổ chức ở cấp này tuỳ theo ngành
những lớp học nghề).
- Trung cấp: Cho những người đã học hết cấp II phổ thông hay đã
tốt nghiệp trường Chuyên nghiệp sơ cấp
- Cao cấp: Cho những người đã học hết cấp III phổ thông hay đã
tốt nghiệp trường Chuyên nghiệp trung cấp.
Những người tốt nghiệp ở cấp cao đẳng (chuyên nghiệp cao cấp
nói trên) cũng được vào các trường Chuyên môn (Đại học) theo những điều
kiện sẽ ấn định trong các quy chế của mỗi ngành học.
Các ngành sẽ mở các cấp học trên tuỳ theo sự nhu cầu và sự phát
triển đặc biệt của khu vực ngành kỹ thuật ấy.
95
Hạn học của mỗi cấp sẽ tuỳ từng ngành mà ấn định.
3. Chế độ chuyển tiếp
a) Về ngành Phổ thông
- Bắt đầu ngay từ niên khoá 1950-1951, nền Giáo dục sẽ chuyển
sang hệ thống tổ chức mới như sau;
+ Học sinh lớp tư Tiểu học lên lớp 2 (cấp I);
Học sinh lớp 3 Tiểu học lên lớp 3 (cấp I);
Học sinh lớp nhì tiểu học lên lớp 4 (Cấp I);
Học sinh lớp nhất Tiểu học không đỗ Tiểu học, vào lớp 4 (cấp I);
+ Học sinh năm thứ 1 Trung học phổ thông (THPT) lên lớp 6 (cấp II);
Học sinh năm thứ 2 Trung học phổ thông lên lớp 7 nếu hỏng thì vào lớp 6;
Học sinh năm thứ 3 Trung học phổ thông vào lớp 7,
Học sinh có bằng Trung học phổ thông vào lớp 8 (cấp III),
Học sinh năm thứ 4 không đỗ THPT thì vào lớp 8 nếu hỏng thì vào lớp 7.
+ Học sinh năm thứ 1 Trung học chuyên khoa (THCK) thì vào năm
thứ 1 Dự bị Đại học, nếu hỏng thì vào lớp 9,
Học sinh năm thứ 2 THCK vào năm thứ 2 Dự bi Đại học,
Học sinh có bằng THCK vào các trường Đại học,
Học sinh năm thứ 3 THCK không có bằng trung học chuyên khoa vào
năm thứ 2 Dự bị Đại học.
- Trong thời kỳ chuyển tiếp này các trường Đại học sẽ mở các những
kỳ thi tuyển học sinh cho những người có năng lực tương đương với Trung
học chuyên khoa mà không có bằng Trung học chuyên khoa để vào học
trong kỳ khai giảng niên khoá 1950-1951.
- Trước những nhu cầu hiện tại của quốc phòng và của giáo dục sẽ chỉ
mở những lớp Dự bị Đại học khi thật cần thiết và nếu có một số khá đông
học sinh, còn thì các học sinh năm thứ 2 Trung học chuyên khoa và năm
thứ 3 Trung học chuyên khoa cũ sẽ chuyển sang Bộ Quốc phòng hay vào
trường Cao đẳng Sư phạm.
b) Về ngành chuyên nghiệp
96
Các Bộ sở quản sẽ nghiên cứu cùng Bộ Quốc gia Giáo dục một chế độ
chuyển tiếp cho các trường Chuyên nghiệp về mỗi ngành và mỗi cấp.
II - PHẠM VI TRÁCH NHIỆM CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ CỦA CÁC BỘ
KHÁC VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC VÀ VĂN HOÁ
1. Bộ Quốc gia Giáo dục có nhiệm vụ tổ chức tất cả việc giáo dục và
phát triển văn hoá cho toàn thể nhân dân kể cả những thanh thiếu niên và
những người luống tuổi.
Vậy Bộ Quốc gia Giáo dục sẽ phải đảm nhiệm ngoài công việc tổ chức
Giáo dục hiện tại:
a) Xây dựng nền văn hoá nhân dân (Văn học, Nghệ thuật, Học tập nói
chung) để luôn có sự thông cảm giữa nhà trường và cuộc tiến hoá của nhân
dân;
b) Tổ chức các trường chuyên nghiệp và các trường đại học với sự
cộng tác của các Bộ khác.
2. Tuy nhiên phải tổ chức một thời kỳ quá độ vì Bộ Quốc gia Giáo dục
chưa đủ điều kiện để đảm nhiệm trực tiếp các trường chuyên nghiệp, nên
trong giai đoạn này:
a) Tất cả các trường chuyên nghiệp (từ sơ cấp đến cao cấp) vẫn do các
Bộ chuyên môn khác tổ chức. Bộ Giáo dục sẽ tổ chức một cơ quan
“Chuyên nghiệp học vụ” để phối hợp và theo dõi.
b) Bộ Quốc gia Giáo dục phải phụ trách các trường Đại học với sự
phối hợp của các Bộ khác. Trừ khi vì điều kiện cán bộ một cấp chuyên môn
nào phải tổ chức với một trường chuyên nghiệp thì Bộ có trường chuyên
nghiệp ấy sẽ tổ chức với sự phối hợp của Bộ Quốc gia Giáo dục. Trái lại,
trong thời kỳ chuyển tiếp này nếu có điều kiện, một trường đại học của Bộ
Quốc gia Giáo dục cũng sẽ tổ chức những trường chuyên nghiệp với sự
phối hợp của Bộ chuyên môn cùng ngành.
III - TỔ CHỨC CÁC TRƢỜNG CHUYÊN NGHIỆP VÀ CHƢƠNG TRÌNH
HỌC CỦA CÁC NGÀNH CHUYÊN NGHIỆP
97
Trường chuyên nghiệp là một tổ chức học có mục đích đào tạo cán
bộ chuyên nghiệp các cấp cho các ngành hoạt động trong nước; hạn học ít
nhất là một niên học (mỗi niên học phải ít nhất là 600 giờ và nhiều nhất là
1000 giờ học lý thuyết và thực hành, không kể thời gian học tập).
Những tổ chức học dưới 1 niên học sẽ chỉ là những lớp huấn luyện
chuyên nghiệp hay bổ túc chuyên nghiệp.
Trường chuyên nghiệp có 3 cấp:
1. Trường Chuyên nghiệp sơ cấp (cấp này có 2 loại: trường kỹ
thuật và trường học nghề);
2. Trường Chuyên nghiệp trung cấp;
3. Trường Chuyên nghiệp cao cấp.
1. Điều kiện nhập học
a) Học sinh phải có trình độ văn hoá tương đương với các cấp học Phổ
thông, hoặc đã tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp cấp dưới:
- Sơ cấp: Cho những người học hết cấp 1 phổ thông và những người
tốt nghiệp ở các “lớp học nghề”;
- Trung cấp: Cho những người đã học hết cấp 2 phổ thông, hay đã tốt
nghiệp Trường Chuyên nghiệp sơ cấp;
- Cao cấp: Cho những người đã học hết cấp 3 phổ thông hay đã tốt
nghiệp Trường Chuyên nghiệp trung cấp.
b) Sẽ mở những kỳ thi tuyển học sinh vào trường chung cho tất cả
những người có thành tích cách mạng, hay kháng chiến, hay văn hoá.
c) Những người ứng thi ít nhất phải đủ 13 tuổi và tuỳ theo ngành, theo
cấp học mà tăng thêm, không có hạn tuổi tối đa.
d) Nếu là công chức, công nhân hay cán bộ đoàn thể, phải có giấy cho
phép hay giấy giới thiệu của cấp liền trên thì mới được dự các kỳ thi tuyển
trạch.
e) Nếu còn chỗ, nhà trường có thể nhận một số học sinh bàng thính. Học
sinh bàng thính không được hưởng những quyền lợi như học sinh chính thức.
2. Thời hạn học
98
a) Tuỳ theo mỗi ngành và mỗi cấp, thời gian học sẽ ấn định từ 1 đến 4
niên học.
b) Mỗi niên học ít nhất là 600 giờ và nhiều nhất là 1000 giờ học (học
lý thuyết và thực hành). Ngoài ra có tổ chức những thời kì thực tập trong
niên học hoặc giữa 2 niên học.
3. Chƣơng trình học
Chương trình học gồm có 2 phần: phần chung và phần chuyên nghiệp.
a) Phần chung gồm có những môn văn hoá, chính trị, xã hội, thể dục
và quân sự.
Về các môn chính trị và xã hội sẽ soạn theo chương trình các cấp
trường phổ thông nhưng đưa lên một trình độ cao hơn. Bộ Quốc gia Giáo
dục sẽ nghiên cứu một chương trình chung cho tất cả các trường Chuyên
nghiệp về mỗi cấp.
Về quân sự và bổ túc văn hoá sẽ ấn định tuỳ theo ngành học.
b) Phần chuyên môn gồm có học lý thuyết và thực hành ở phòng thí
nghiệm hay ở công xưởng, nông trường, vv…
4. Quyền lợi và nhiệm vụ của học sinh
a) Sinh hoạt phí sẽ ấn định theo giá gạo như chế độ của các công chức.
b) Công chức và công nhân được đi học thì theo chế độ riêng đã có ấn định.
c) Học sinh được cấp học phẩm.
d) Học sinh được phụ cấp vãng phản như công chức.
e) Học sinh tốt nghiệp, sẽ bổ dụng theo quy chế công thức.
f) Thời hạn phải làm việc cho Chính phủ ấn định là: 2 năm cho những
trường hay những lớp học một niên học hay dưới một niên học, và cứ mỗi
niên học thêm, thời hạn làm việc cho Chính phủ lại tăng thêm một năm.
5. Bằng tốt nghiệp
Bằng tốt nghiệp sẽ do Bộ chuyên môn và Bộ Quốc gia Giáo dục cấp.
Bộ có thể uỷ quyền cho Nha cấp bằng tuỳ theo cấp học.
6. Tổ chức nhà trƣờng
a) Trường đặt dưới quyền điều khiển của một Hiệu trưởng;
99
b) Trường có một văn phòng gồm có một số nhân viên (giám thị, hội
kế viên, thư ký,…) tuỳ nhu cầu;
c) Trường có những Hội đồng Quản trị, Hội đồng Giáo dục, Hôi đồng
Kỉ luật.
Trong mỗi hội đồng đều có 1 đại biểu của học sinh.
Hội đồng Giáo dục ngoài những giáo sư nhà trường có thể có thêm
những vị chuyên môn hay những thân sĩ khác.
Ở những trường nhỏ, một hội đồng có thể kiêm nhiệm vụ của tất cả 3
hội đồng.
7. Thủ tục mở trƣờng
Các trường và các lớp chuyên nghiệp các cấp sẽ do nghị định Liên bộ
Chuyên môn và Giáo dục mở; có chương trình học kèm theo.
IV - CHƢƠNG TRÌNH HỌC CỦA NGÀNH PHỔ THÔNG
1. Trước những khuyết điểm của chương trình cũ (thiếu kiến
thức chính trị, các môn học nặng nề, có tính chất nhồi sọ, không liên tục)
nên chương trình học khoá mới phải:
- Phối hợp kiến thức phổ thông với kiến thức chính trị,
- Có tính chất liên tục,
- Thiết thực.
Ở cấp 1 chương trình sẽ nặng về quan sát thực tế;
Ở cấp 2 vẫn chú trọng về thực tế và bắt đầu thiên về lý luận;
Ở cấp 3, thiên hẳn về lý luận;
Ở cấp Dự bị Đại học thiên hẳn về lý luận, đồng thời hướng lý luận về
các chuyên khoa để học sinh hấp thụ được những phương pháp khoa học
khi bước vào các ngành chuyên môn Đại học.
2. Chương trình học khoá sẽ có một “Nhập đề” vạch rõ mục đích,
phương hướng và phương pháp dựa theo những nguyên tắc sau đây;
a) Mục đích là đào tạo theo ba nguyên tắc Dân tộc, Khoa học, Đại
chúng những công dân lao động tương lai cho xã hội, để phát triển chế độ
dân chủ nhân dân với sự tiến triển của nhân loại.
100
b) Học là để hành, để sản xuất cho xã hội.
c) Phải thực tế, các lý thuyết phải được chứng minh, ứng dụng và nói
chung hướng dẫn vào thực tế xã hội mà đặc biệt là thực tế xã hội Việt Nam
một cách rõ ràng.
d) Không phân chia nam và nữ.
e) Không qúa nặng về gia đình, phải thiên về sinh hoạt xã hội.
f) Không thiên về nông, đặt công nghiệp và nông nghiệp quan trọng
đều nhau.
3. Các môn học trong dự án chương trình cần phải sửa đổi lại cho thật
thích hợp với những nguyên tắc trên.
Ngày 5 tháng 7 năm 1950
Nguồn: Nguyễn Văn Huyên (2005), toàn tập, Văn hoá và giáo dục
Việt Nam, Tập 3, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 637-644.
101