Hoàn Thiện Chiến Lược Phát Triển Công Nghiệp Việt Nam - Chương 6
lượt xem 85
download
Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các nước ASEAN và các bài học rút ra cho Việt nam. Tháng 08 năm 2005 Hisami Mitarai Vụ tư vấn kinh doanh châu Á Viện Nghiên Cứu Nomura Bài nghiên cứu này xem xét, phân tích chi tiết những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển gần đây của ngành công nghiệp điện và điện tử của Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philipines. Đối với mỗi quốc gia chúng tôi sẽ tiến hành phân tích chính sách công nghiệp, quá trình phát triển công nghiệp...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hoàn Thiện Chiến Lược Phát Triển Công Nghiệp Việt Nam - Chương 6
- Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các nước ASEAN và các bài học rút ra cho Việt nam Tháng 08 năm 2005 Hisami Mitarai Vụ tư vấn kinh doanh châu Á Viện Nghiên Cứu Nomura Bài nghiên cứu này xem xét, phân tích chi tiết những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển gần đây của ngành công nghiệp điện và điện tử của Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philipines. Đối với mỗi quốc gia chúng tôi sẽ tiến hành phân tích chính sách công nghiệp, quá trình phát triển công nghiệp và và các ưu tiên từ chính phủ từ quan điểm của các doanh nghiệp Nhật bản .Bài nghiên cứu này cũng cung cấp các bài học kinh nghiệm tham khảo cho Việt nam trong tình hình ngành công nghiệp điện và điện tử của Việt nam còn trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Những thông tin trong bài nghiên cứu này được đưa ra dựa vào quá trình nghiên cứu lâu dài và quá trình làm việc tư vấn trong ngành điện và điện tử của các nước khu vực Đông Á của tác giả. Những thông tin trong bài viết cũng được cập nhật nhiều hơn từ những nghiên cứu chuyên sâu cho tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) trong các năm 2003 và 2004. I .Thái Lan 1.Chính sách công nghiệp. Trong suốt thập kỷ 70 Thái Lan đã thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu cho ngành điện và điện tử thông qua những khuyến khích về thuế cho xuất khẩu. Theo sau Thoả Thuận Plaza năm 1985, Thái Lan phát triển nguồn điện, các khu công nghiệp và các cơ sở hạ tầng khác đồng thời thực hiện những cải cách luật pháp bao gồm luật liên quan đến tỷ lệ góp vốn để đảm bảo môi trường sản xuất kinh doanh tự do cho các công ty nước ngoài. Điều này đã đưa đến kết quả là một số lượng lớn các nhà đầu tư với định hướng xuất khẩu đầu tư vào Thái Lan từ Nhật Bản và nhiều quốc gia khác. Kể từ đó, đầu tư nước ngoài vào Thái lan tăng lên liên tục cho đến giữa thập kỷ 90 khi mà nền kinh tế Thái Lan lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng với sự tụt giá của đồng Bạt vào năm 1997. Từ đó Bộ Công Nghiệp Thái Lan đã tiến hành thực hiện cải cách triệt để cơ cấu ngành công nghiệp và sự phát triển của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Từ nửa cuối thập kỷ 90 trở đi một thực tế nổi lên là đầu tư nước ngoài vào Thái Lan đã bị giảm xuống nghiêm trọng do cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra, sự nổi lên và cạnh tranh quyết liệt từ Trung Quốc. Tuy nhiên dịch bệnh SARS đã làm cho các nhà đầu tư thấy sự
- cần thiết phải phân tán rủi do kinh doanh về mặt địa lí hơn là chỉ tập trung tất cả các dự án vào đầu tư vào Trung Quốc. Kết quả là đã có sự phục hồi đầu tư vào Thái Lan, một đất nước có môi trường đầu tư thuận lợi và tiềm năng phát triển cao đặc biệt là ngành sản xuất ô tô. Mặc dù môi trường đầu tư trong khu vực đang thay đổi nhanh tróng do sự cạnh tranh đang nổi lên của Trung Quốc và sự tháo dỡ những rào cản thương mại theo hiệp định tự do thương mại Đông Nam Á (AFTA), ngành điện và điện tử ở Thái Lan đã dần hồi phục và phát triển mạnh trong những năm gần đây một phần là nhờ vào những tiến bộ trong các nỗ lực của chính phủ trong việc cải cách cơ cấu kinh tế. Ở Thái Lan những chính sách khuyến khích dành cho các nhà đầu tư nước ngoài đã được Ủy Ban Đầu Tư ( BOI ) thực hiện theo một phương thức nhằm đạt được một sự cân bằng giữa các công ty nước ngoài và các công ty trong nước. Trước đây, chính phủ có nhiều chính sách hạn chế về tỷ lệ góp vốn nước ngoài dựa trên sự tham gia của thị trường trong nước và việc đóng góp vào xuất khẩu. Một đặc điểm nổi bật của hệ thống chính sách này là chính phủ Thái Lan điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo ưu đãi từng vùng ( từ vùng một đến vùng ba ) theo đó mỗi vùng sẽ có những sự khuyến khích khác nhau cho các nhà đầu tư bao gồm mức giảm hoặc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trao cho các công ty đóng ở các vùng khác nhau. Điều này nhằm hạn chế việc tập trung quá mức các công ty nước ngoài đóng ở thủ đô Băng Cốc. Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng kinh tế thì hầu hết những hạn chế này đã được dỡ bỏ. Từ khi chính phủ do thủ tướng Thaksin lên lãnh đạo, chính phủ chuyển những ưu đãi khuyến khích cho những dự án phát triển khoa học và công nghệ, các dự án nghiên cứu và phát triển ( R&D) nhằm khuyến khích thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Thái Lan. Sự ra đời và vai trò của Viện Điện và Điện Tử (EEI) đối với sự phát triển công nghiệp điện và điện tử ở Thái Lan. Viện Điện và Điện Tử ( VĐ&ĐT ) được thành lập vào năm 1998 bởi Bộ Công Nghiệp như là một cơ quan độc lập với mục đích phục vụ lợi ích chung cho ngành điện và điện tử như là một trong những kế hoạch hành động cụ thể nhằm thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp. Một số chức năng như việc thiết lập các chính sách cho các ngành khác, dự thảo ngân sách và các dịch vụ dành cho các doanh nghiệp tư nhân đã được chuyển từ Bộ Công Nghiệp sang VĐ&ĐT. Bảy Viện với chức năng vai trò tương tự như viện điện và điện tử , bao gồm một viện phụ trách về ngành công nghiệp ô tô cũng, cũng được thành lập. VĐ&ĐT bắt đầu hoạt động vào đầu năm 1999, đóng vai trò là cơ quan chính phủ thúc đẩy ngành điện và điện tử của Thái Lan phát triển. Nó cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo ra cầu nối giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước cũng như phối kết hợp lợi ích từ việc hợp tác giữa các công ty tư nhân với nhau.
- Nguồn kinh phí cho hoạt động chính của Viện Điện&Điện Tử là từ các khoản phí từ việc kiểm tra và cấp giấy xác nhận chất lượng cho sản phẩm điện , điện tử của các doanh nghiệp; các khóa đào tạo và tập huấn kỹ thuật; các dịch vụ tư vấn. Từ năm 2004 khi Viện này trở thành một cơ quan độc lập thì nó bắt đầu gặp phải hàng loạt các vấn đề khó khăn như việc việc đảm bảo kinh phí cho hoạt động của Viện cũng như cho việc duy trì trình độ, thiết bị công nghệ cao cho việc kiểm tra các tiêu chuẩn về an toàn. Tổng công ty phát triển Hải Ngoại của Nhật Bản (JODC) đã tiến hành một nghiên cứu liên tục về vai trò chức năng của Viện Điện&Điện Tử và đã đưa ra một số nhận xét trong các lĩnh vực được chỉ ra dưới đây, tuy nhiên những vai trò đó vẫn chưa được thực hiện: Chất lượng sản phẩm, những kiểm tra về môi trường và độ an toàn liên quan đến ngành điện và điện tử ( ví dụ : như việc chuyển giao các cơ sở, thí nghiệm từ TISI ) Cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất, công nghệ và hỗ trợ bán hàng. Tạo một khung hợp tác giữa các ngành do nhà nước quản lí và các ngành do tư nhân quản lí với các ban ngành liên quan ở Thái Lan và các nước khác. Nghiên cứu về việc ban hành thiết lập các chính sách và chiến lược cho ngành điện và điện tử dựa trên dự thảo của các kế hoạch phát triển dành cho ngành này. Nghiên cứu và chương trình phát triển của Cơ quan Chiến lược Khoa học và Công nghệ Quốc gia ( CQCLKH&CNQG ) Chính phủ Thái Lan đang thực hiện Kế hoạch Chiến lược Khoa học và Công nghệ Quốc gia ( 2004 -2013 ) Trọng tâm nhắm vào việc hình thành mạng lưới khoa học và công nghệ và xúc tiến việc hợp tác giữa các cơ quan tư nhân và nhà nước bao gồm các công ty sản xuất, các nhà cung cấp dịch vụ, các cơ quan tài chính, cơ quan giáo dục vv… . ở Thái Lan các trường đại học trước tiên là nhằm đào tạo nguồn nhân lực tuy nhiên vẫn chưa có được vị thế giống như các trung tâm Nghiên cứu và Phát triển (R&D). Trong bối cảnh đó CQCLKH&CNQG đã được thành lập dưới sự ủng hộ của bộ Khoa học và Công nghệ đã phát triển và quản lí một khu trung tâm khoa học công nghệ từ năm 1996. Người ta đặt nhiều hy vọng vào trung tâm nghiên cứu khoa học này như là một trung tâm nghiên cứu và phát triển trong việc hỗ trợ chính sách khoa học và công nghệ của quốc gia. Trong gần 1800 người đang làm việc ở trung tâm khoa học công nghệ này có tới gần 800 người là các nhà khoa học và nhà nghiên cứu. Họ đang thực hiện việc nghiên cứu và phát triển trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu, công nghệ Nano, vv… Tại khu trung tâm nghiên cứu khoa học này, tập đoàn sản xuất ô tô Toyota và tập đoàn Honda đã cùng nhau thực hiện một dự án nghiên cứu chung trong lĩnh vực phát triển vật liệu cũng như nhiều nghiên cứu khác. Mặc dù còn hạn chế nhưng có thể nói việc hợp tác
- giữa các công ty của Nhật Bản và đội ngũ nghiên cứu và phát triển của Thái Lan đã được tiến hành trong ngành sản xuất ô tô. Mặc dù các nghiên cứu chung được thực hiện trong số các doanh nghiệp tư nhân thì chưa sôi động lắm nhưng người ta hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều nghiên cứu chung hơn trong các lĩnh vực như ô tô, công nghệ sinh học và các lĩnh vực khác có liên quan. Đặc biệt là đã có những nghiên cứu chung về việc nuôi trồng tôm với tập đoàn CP, một doanh nghiệp có vốn đầu tư của Thái Lan cũng như một nghiên cứu về sản xuất phanh ô tô với một công ty sản xuất linh kiện ô tô cho tập đoàn Honda Hình 1. Cơ cấu tổ chức của công viên khoa học công nghệ của Thái Lan. Ủy ban khoa học công nghệ quốc gia Tiểu ban kiểm toán Tiểu ban quản lý quỹ phát triển khoa học công nghệ Tiểu ban quản lý nhân sự Trung tâm Trung tâm công Trung tâm nghiên Văn Trung tâm di truyền công nghệ vật nghệ nano quốc cứu điện tử và máy phòng và công nghệ sinh liệu quốc gia gia tính quốc gia trung tâm học quốc gia Nguồn: Trang chủ của CQCLKH&CNQG. 2. Khái quát về ngành công nghiệp điện và điện tử của Thái Lan Ở Malaisia ngành công nghiệp điện tử phát triển mạnh mẽ và gặt hái nhiều thành công nhờ vào vào mối liên hệ, liên kết hợp tác giữa các nhà sản xuất linh kiện và các nhà lắp ráp các sản phẩm điện tử của Nhật Bản. Ngược lại, hầu như các công ty đang hoạt động ở Thái Lan không phụ thuộc nhiều vào nhau. Trong nước, có nhiều công ty nước ngoài sản xuất đồ điện gia dụng như tủ lạnh, điều hòa, tivi, máy quay phim và các thiết bị thông tin và cũng có nhiều nhà sản xuất linh kiện cho các sản phẩm điện tử nghe nhìn và, các sản phẩm cho ngành công nghệ thông tin và viễn thông. Tuy nhiên, đặc điểm của ngành điện và điện tử ở Thái Lan là các doanh nghiệp này hoạt động một cách độc lập với nhau. Đồng thời số lượng các công ty tập trung vào sản xuất các sản phẩm điện và cơ khí như máy in và các phụ kiện của nó có số lượng nhiều hơn các công ty sản xuất các sản phẩm điện tử. Thái Lan, nước có dân số đông hơn Malaisia, có nhu cầu lớn về các sản phẩm và
- linh kiện cho máy móc chính vì vậy mà Thái Lan có trình độ công nghệ về máy móc gia công tương đối cao. Với sự nổi lên của Trung Quốc và việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á ( AFTA), Thái Lan đang điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất của ngành điện và điện tử mặc dù Thái Lan bị ảnh hưởng bởi chính sách khuyến khích đầu tư phát triển có lựa chọn theo quốc gia của các công ty Nhật Bản trong khu vực ASEAN, điều này không có nghĩa là Thái Lan kém năng lực cạn tranh so với Trung Quốc trong lĩnh vực nhân công và chi phí hậu cần cho sản xuất kinh doanh. Trên thực tế quá trình tái cơ cấu đang cho thấy rõ Thái Lan là trung tâm xuất khẩu hàng gia dụng như tủ lạnh , điều hòa nhiệt độ, máy giặt và thiết bị thông tin. Đáng chú ý ý là công ty Seagate có trụ sở ở Mỹ gần đây đã tuyên bố những kế hoạch xây dựng một nhà máy sản xuất đĩa cứng máy tính ở Thái Lan. Ngoài ra 20. 0 400 còn có 0sự dịch chuyển đầu tư tương tự ví dụ như trường hợp củaParts công ty trách nhiệm các 18. 350 16. 0 hữu hạn Fujitsu và Hitachi. Thái Lan đang dần thay 300ế Sinhgapo đce trở thành một trung th ể Devi 14. 0 tâm chính sản xuất đĩa cứng máy tính. ar ar 250 12. 0 l l Bii Dol Bii Dol Com m uni i caton 10. 0 200 lon lon l l Com puter 8. 0 150 Hình 2. Xu hướng sản xuất của ngành điện-điện tử Thái Lan 6. 0 100 AV 4. 0 50 2. 0 Japanese i nvest ent m f Thaiand or l 0. 0 0 Tỷ đô-la 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tỷ đô-la 40 20.0 18.0 Linh phụ kiện 35 16.0 30 Thiết bị 14.0 25 12.0 Viễn thông 10.0 20 Máy tính 8.0 15 6.0 Thiết bị nghe nhìn 10 4.0 5 Đtư của Nhật Bản 2.0 vào Thái Lan 0.0 0 199 199 199 199 199 200 200 200 200 Nguồn : Niên giám thống kê ngành điện tử thế giới ( Year Book of World Electronics Data trên thế giới hàng năm ( Viện nghiên cứu điện tử READ) và từ các số của tạp chí thống kê tài chính
- Hình 3 : Thị phần của Thái Lan sản xuất điện và điện tử ở khu vực ASEAN Tỷ đô-la 140.0 18.0 16.0 120.0 14.0 100.0 12.0 80.0 10.0 8.0 60.0 6.0 40.0 4.0 20.0 2.0 0.0 0.0 199 199 199 199 199 200 200 200 200 Thái Lan Các nước ASEAN khác Tỷ trọng Nguồn : Xem bảng 2 3. Những ưu đãi dành cho các công ty Nhật Bản. Trong khi các công ty Nhật Bản đang góp phần to lớn vào sự phát triển công nghiệp điện và điện tử của Thái Lan thì họ cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề khác nhau từ khung luật pháp, chính sách đến sự thiếu phát triển của của công nghiệp phụ trợ cũng như sự thiếu hụt nguồn nhân lực. Những giải pháp cơ bản cho vấn đề này vẫn chưa được đưa ra mặc dù đã đã có những cố gắng từ phía chính phủ Thái Lan và nguồn vốn ODA của Nhật Bản. Khung chính sách và thể chế pháp lí Đề cập đến khung chính sách luật thì Thái lan đã có nhiều luật điều chỉnh hoạt động đầu tư cũng như các cơ quan chính phủ tham gia việc việc thực thi các luật trên. Tuy nhiên mức độ phạm vi tham gia của cơ quan chính phủ và các quan chức tham gia vào việc thực thi những luật này có những sai khác đáng kể. Điều này đã gây ra những phiền toái nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh của nhiều công ty Nhật Bản. Ví dụ như các công ty nước ngoài được Ủy Ban Đầu Tư (BĐT ) thừa nhận thì trên lí thuyết được phép nhập khẩu vật liệu mà không phải nộp thuế. Tuy nhiên trên thực tế chính sách này chỉ hoàn lại thuế nhập khẩu cho doanh nghiệp tại thời điểm các doanh nghiệp đưa ra chứng cứ có hàng xuất khẩu. Thủ tục này gây ra phiền hà cho các doanh nghiệp và nhiều công
- ty đã chỉ ra rằng việc hoàn lại thuế nhập như vậy đôi khi bị trì hoãn một cách tuỳ tiện. Ngoài ra chính phủ thay đổi mức thuế suất nhập khẩu, các công ty bị yêu cầu phải trả khoản chênh lệch giữa mức thuế cũ và mới trước đây và điều này xảy ra rất thường xuyên. Vì thế tính bền vững của chính sách luôn được quan tâm. Phần lớn các công ty đang hoạt động ở Thái Lan gồm cả những công ty hoạt động trong ngành điện và điện tử đang phải đối mặt với những phiền toái này và đang kêu gọi sự điều chỉnh phù hợp. Mặc dù nhiệm vụ chính của Ủy Ban Đầu Tư (BĐT) là thu hút các công ty nước ngoài đến Thái Lan nhưng giờ đây chính là lúc mà Ủy Ban Đầu Tư nên dành nhiều quan tâm hơn tới việc cung cấp các dịch vụ theo dõi hỗ trợ thường xuyên cho các công ty nước ngoài mà đã có mặt tại Thái Lan. Sự kém phát triển của công nghiệp phụ trợ Đối với các công ty Nhật Bản đang hoạt động ở Thái Lan và mong muốn khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp Thái Lan thì việc cung cấp những nguyên tắc kinh doanh cho các doanh nhân Thái Lan là cần thiết để nhận ra nguyên tắc QCĐS ( chất lượng, giá cả, phân phối, dịch vụ ). Điều này có lẽ còn quan trọng hơn cả công nghệ sản xuất, nâng cấp thiết bị và máy móc sản xuất. Việc nâng cấp có thể đạt được bằng việc tăng nguồn nhân lực và tăng thêm vốn đầu tư. Ngược lại đầu óc kinh doanh thì ăn sâu vào và trở thành đặc điểm của người dân Thái Lan. Để thay đổi được điều này thì cần phải có một số biện pháp cơ bản nhất định như là cải cách toàn diện hệ thống giáo dục là điều hết sức cần thiết. Ở Thái Lan từ lâu người ta đã nhận cần phải khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ tuy nhiên nhu cầu cấp bách này đang trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết khi đất nước này theo đuổi chiến lược đang hướng ra xuất khẩu. Một số việc chuyển giao công nghệ và đào tạo tay nghề đã được thực hiện trong các lĩnh vực nhựa và thiết bị kim loại , những ngành đó cần sự chính xác tương đối thấp. Tuy nhiên các trình độ về sản xuất linh kiện và nguyên vật liệu, công nghệ xử lí bề mặt như phun sơn và mạ cho các linh kiên dùng trong các sản phẩm điện tử xuất khẩu vẫn còn rất. Lĩnh vực này cần phải được hỗ trợ nhiều hơn nữa thông qua việc chuyển giao công nghệ, kỹ thuật từ các chuyên gia Nhật Bản và các biện pháp khác.Trong những năm gần đây khi các công ty ô tô phương Tây và Nhật Bản bắt đầu xem Thái Lan như một trung tâm sản xuất ở khu vực ASEAN thì sự tập trung và phát triển của các nhà sản xuất linh kiện cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Điều này cũng dẫn tới việc cần thiết phải nâng cấp các ngành công nghiệp phụ trợ mạnh mẽ hơn nữa. Nếu như đạt được mục tiêu này, Thái Lan bắt đầu có khả năng phát triển các công nghệ phức tạp trong các ngành sản xuất công nghiệp. Phòng Thương mại và Công nhiệp Nhật Bản và Liên Đoàn Công nghiệp Thái Lan đã đồng tổ chức một cuộc “Hội nghị chuyên đề về năng suất” với sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Đoàn các tổ chức kinh tế của Nhật Bản. Sự
- kiện diễn ra hàng năm này đã được tổ chức 4 lần kể từ năm 2000. Chương trình này nhắm vào các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ của Thái Lan, đào tạo 40 người của 20 công ty cho mỗi khoá (mỗi công ty có 2 người đó là chủ tịch và giám đốc ). Hội nghị kéo dài 4 ngày trọng tâm nhằm vào đào tạo hướng nghiệp; bao gồm các bài giảng tập trung vào các nghiên cứu tình huống, thăm quan nhà máy và đào tạo thực tế trong xưởng của các công ty mẫu.Chương trình này được đánh giá cao bởi tính thực hành của nó. Nhiều người cho rằng hội nghị này nên được tổ chức thường xuyên hơn và số lượng công ty cũng nên mở rộng thêm. Nhưng vấn đề nằm ở quá trình tiếp theo sau khi hội nghị kết thúc do không có công ty nào tham gia vào chương trình một cách liên tục nên khó có thể đánh giá được lợi ích của khoá này đào tạo đến đâu. Chương trình hành động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNV&N ) và một quy hoạch tổng thể đang được tiến hành để phát triển các doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ. Ngoài ra Viện Phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ( VPTDNV&N ) đã được thiết lập vào tháng 4 năm 1999 với tư cách là cơ quan nòng cốt phục cho mục đích này. Nó hợp tác với các trường đại học lớn và các phòng thương mại và công nghiệp ở các vùng khác nhau để mở ra các chương trình đào tạo và cung cấp các dịch vụ tư vấn. Tuy nhiên những đối tượng tham gia và nội dung của đa phần các chương trình hiện nay được thiết kế cho các doanh nghiệp quy mô rất nhỏ chỉ có một số ít chương trình phù hợp với công ty lớn hơn một chút để phục vụ cho các ngành phụ trợ của ngành điện và điện tử. Đảm bảo nguồn nhân lực Nguồn nhân lực mà các công ty Nhật Bản trong ngành điện và điện tử cần nhất là kỹ sư thiết kế, sản xuất và hệ thống thông tin cũng như cán bộ quản lí gồm có các kế toán. Chẳng hạn như trong khi họ muốn tuyển các kỹ sư thiết kế và kế toán có tài, thì rất ít trường đại học ở Thái Lan có khoa khoa học cơ bản, kỹ sư hoặc kế toán. Khi có nhu cầu lớn về một loại lao động nào đó thì số lượng lại rất hạn chế vì thế rất khó cho các công ty có thể đảm bảo tuyển được các cán bộ có tài. Để giải quyết vấn đề này các công ty phải đưa ra một cơ chế khuyến khích như trả thêm lương cho những người làm việc tốt hơn, tuy nhiên do lề lối quản lí lao động cũ nên hầu như không thể làm cho liên đoàn lao động chấp thuận sự chênh lệch lớn về lương ( trả cho lao động ) trong một công ty. Ở Thái Lan có khoảng 70 trường đại học gồm Chulalongkorn, Thamasat và Viện Công Nghệ Hoàng Gia Mongkut đào tạo các sinh viên ngành khoa học cơ bản và xây dựng. Mặc dù nếu chỉ tính các trường đại học quốc gia và đại học công khác thì số lượng các sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học và xây dựng ước tính hàng năm chỉ vào khoảng hơn 20000 sinh viên, trong đó có khoảng 10000 học chuyên ngành hoá hoặc khoa học và chỉ khoảng 10 000 theo lĩnh vực xây dựng như kỹ sư điện, kỹ sư cơ khí. Ngược lại, ở Trung Quốc có 1225 trường đại học với số lượng sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành khoa học và xây
- dựng hành năm là trên 450 000 sinh viên ( số liệu năm 2001 ) . Trong khi việc tuyển dụng các kỹ sư có tài với lương thấp tương đối dễ dàng ở Trung Quốc , thì các công ty hoạt động ở Thái Lan hầu như không biết liệu họ có thể thuê được các kỹ sư có năng lực cao hay không thậm chí nếu có tìm thấy các ứng viên đó thì các công ty cũng phải trả lương rất cao. Hiện nay có một kế hoạch đang được tiến hành với sự giúp đỡ của Bộ Kinh Tế Thương Mại và Công Nghiệp Nhật Bản (METI) để thiết lập một tổ chức trong tương lai gần nhằm đào tạo công nhân cho các công ty Nhật Bản đang hoạt động ở Thái Lan. Chương trình giảng dạy theo như đã thảo luận sẽ kéo dài từ 3 đến 6 tháng vừa lí thuyết và thực hành trong các lĩnh vực quản lý ( kế toán, quản lý lao động, các công việc liên quan đến luật pháp vv …) , các lĩnh vực liên quan đến thiết kế và các lĩnh vực kỹ thuật liên quan đến sản xuất ( khoa lắp riáp và khoa công nghệ ). Dự tính mỗi một buổi có xấp xỉ 10 giáo viên hướng dẫn và 80 học viên (lên lớp). Một câu hỏi vẫn tồn tại đó là làm thế nào có thể lồng việc đào tạo hướng nghiệp vào chương trình này ngoài các bài giảng trên lớp. Bảng 1. Các hệ thống giáo dục cung cấp nguồn nhân lực ở Thái Lan Hệ thống giáo dục của Bộ Có hai định hướng giáo dục. Định hướng thứ nhất gồm có Giáo Dục giáo dục bắt buộc kéo dài trong 6 năm, 3 năm cho trung học cơ sở, 3 năm trung học phổ thông và 4-5 năm học đại học. Định hướng thứ hai học sinh nhận được một chứng chỉ đào tạo nghề, sau hai năm học nữa sẽ nhận được bằng trung cấp và sau 2-3 năm học nữa sẽ nhận được bằng cử nhân Hệ thống giáo dục của Bộ Theo hệ thống này thì theo sau giáo dục bắt buộc kéo dài 6 Lao Động và Phúc Lợi Xã năm là đào tạo nghề (tương đương 3 năm trung học cơ sở ) Hội và học sinh phải học thêm về đào tạo nghề để lấy chứng chỉ bậc 1 ( tương đương với 1 chứng chỉ đào tạo nghề ), để lấy chứng chỉ bậc 2 ( tương đương với một khoá học trung cấp kéo dài 2 năm ) và bậc 3 ( tương đương với bằng cấp của một cử nhân ). Tuy nhiên, hiện nay giáo dục dành cho bậc 2 và bậc 3 vẫn chưa được thực hiện. Các trung tâm đào tạo và Phòng phát triển kỹ năng ( PPTKN ) của Bộ Lao động và phát triển kỹ năng Phúc Lợi Xã Hội Xấp xỉ 50 trung tâm đào tạo nghề trên khắp cả nước ( trung
- tâm RISD được thành lập năm 1994, PCSD năm 1999 ) Trong ngành điện và điện tử, đào tạo để vận hành máy tính, các công việc liên quan đến điện, sửa chữa tivi và máy điều hoà.. 2.Cục phát triển công nghiệp phụ trợ -Tiền thân là trung tâm đào tạo vận hành cơ khí máy móc thành lập năm 1998 -Với sự giúp đỡ của JICA (1999-2004), tập trung vào thúc đẩy ngành chế biến nhựa và khuôn đúc 3.Viện hợp tác công nghệ Đức-Thái Lan(TGI) -Được thành lập dưới một dự án chung giữa chính phủ Thái Lan và Đức vào năm 1995 -Đào tạo kỹ năng trong 3 lĩnh vực: tự động hóa, CAD/CAM, và thiết kế khuôn kim loại cho dập và gia công nhựa 4. Trung tâm đào tạo kỹ thuật Ayutya -Một liên doanh giữa công ty Canon và Viện Công nghệ King MongKuk, thành lập năm 1992 tại Công viên công nghệ Ayuatta, bắc Bangkok -Đào tạo tự động hóa,điện, điện tử, và gia công nhựa, CNC 5. Hiệp hội xúc tiến công nghệ ( Thái Lan – Nhật Bản) (TPA) -Một tổ chức thành lập với sự giúp đỡ của Bộ Công Nghiệp Thương Mại Nhật (METI) và hội phát triển kinh tế Thái Nhật -Tổ chức các hội nghị chuyên đề về quản lý sản xuất, công nghệ thông tin, tiêu chuẩn chất lượng và các lĩnh vực quản trị kinh doanh 6. Trung tâm công nghệ điện tử máy tính quốc gia (NECTEC) -Thành lập vào năm 1994 trực thuộc Bộ Khoa Học Môi Trường -Tổ chức hội nghị chuyên đề cho phát triển nguồn nhân lực, như là công nghệ thông tin phục vụ doanh nghiệp, thiết kế IC, và các hoạt động nghiên cứu phát triển 7. Viện Điện và Điện Tử
- -Thành lập như là một tổ chức độc lập vào năm 1998 dưới sự quản lý của Bộ Công Nghiệp -Tổ chức hội nghị chuyên đề về công nghệ và quản trị kinh doanh. II. Malaysia 1. Chính sách công nghiệp Dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Mahathir, Bộ Phát triển Công Nghiệp ( MIDA) đã thự hiện nhiều chính sách phát triển công nghiệp bao gồm chính sách phát triển nguồn tài nguyên tự nhiên, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực điện và điện tử và các ngành công nghiệp liên quan cũng như chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất ô tô nội địa. Đặc biệt dưới chính sách “ Nhìn về Đông Á” với mục đích cố gắng đạt sự tăng trưởng kinh tế như Nhật Bản, Chính phủ đã tập trung phát triển chính sách nhằm thúc đẩy các ngành hướng xuất khẩu thông qua các chính sách hấp dẫn đầu tư nước ngoài đến những năm của thập kỷ 90 và đã thành công tạo ra một hệ thống rộng lớn các nhà sản xuất trong ngành điện và điện tử.Công việc quản lý kinh tế rất khó khăn trong suốt thời kỳ khủng hoảng tài chính khu vực trong năm 1997, và đã buộc Chính phủ phải cải cách cấu trúc công nghiệp. Tuy nhiên, Malaysia đã trải qua thời kỳ khó khăn do biết chấp nhận một chính sách tỷ giá hối đoái độc lập ( một tỷ giá hối đoái cố định) không chịu ảnh hưởng với các thúc ép tử quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF) và bây giờ đang phát huy tác dụng, tạo tiền đề cho con đường phát triển khi Malaysia tiến vào thế kỷ 21. Chính sách kinh tế dựa vào sự hấp thụ của vốn nước ngoài và đã chứng minh đã thành công, và Malaysia đang trở thành người dẫn đầu về phát triển kinh tế trong khu vực ASEAN.Tuy nhiên , với đặc thù là một quốc gia đa chủng tộc với người Mã Lai chiếm tới 60% dân số, người Trung Quốc chiếm 20% còn lại là người Ấn và các dân tộc khác 20% . Chính sách kinh tế hướng về cộng đồng thiểu số Bumiputra với mục đích tăng vai trò và địa vị của người Mã lai, đã có những tác động cả thuận lợi và không thuận đối với đất nước. Đối lập với những dự định hồi đó của thủ tướng Mahathir, xã hội Malaysia đã đối xử ưu đãi thiên vị người Mã Lai trong kinh tế , chính trị . Trong bối cảnh đó, vô hình chung nền kinh tế và các doanh nghiệp đã không phổ biến triết lý sản xuất ( monodukuri) mà các công ty Nhật bản tìm kiếm. Kết quả là không có nhiều các kỹ thuật công nghệ cao đuợc chuyển giao cho những doanh nghiệp của người bản địa.
- Với nguồn lực lao động có hạn và sự yếu kém dần năng lực cạnh tranh, chính phủ đã công bố một chính sách chuyển dịch nền kinh tế dựa vào sản xuất ( P-Economy) sang nền kinh tế dựa trên tri thức(K-economy) trong khoảng thời gian giữa thập niên 90 với mục tiêu thoát khỏi nền kinh tế phụ thuộc vào các ngành công nghiệp lắp ráp phụ thuộc vào vốn đầu tư từ nước ngoài. Mặc dù các doanh nghiêp của Malaysia dường như có vị trí tương đối tốt khi cạnh tranh với các doanh nghiệp Trung Quốc do nhờ vào một hệ thống rộng lớn của các công ty Nhật bản và các công ty nước ngoài, nó vẫn thay đổi mạnh mẽ chính sách đầu tư nước ngoài sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Những dự định của Malaysia giờ đây là chuyển dịch sang phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao thông qua đầu tư vào nghiên cứu và phát triển và đầu tư vào công nghệ thông tin. Malaysia đang nỗ lực rất lớn để tạo ra Hành lang siêu xa lộ thông tin được đưa ra từ giữa năm 1990. Chính sách “ Hướng Đông Á” Trong quá trình thiết kế phát triển chiến luợc xây dựng quốc gia, thủ tướng Mahathir đã chọn lựa chính sách “ Hướng Đông Á” vào năm 1981 với mục đích học tập kinh nghiệp phát triển của Nhật và Hàn Quốc. Cùng với chính sách ưu đãi người thiểu số Malai ( Bumiputra), Thủ tướng Mahathir đã xây dựng một hệ thống cử người Malay tới các nước trên thế giới để học hỏi. Khi thủ tướng Mahathir lưu ý đặc biệt với đặc điểm về tinh thần công việc, đạo đức kinh doanh và kỹ năng quản lý của người Nhật, xấp xỉ 14000 sinh viên Mã Lai đã được học tập tại Nhật Bản dưới chính sách này đến năm 2003. Những sinh viên muốn tham gia vào chương trình này được học tập khóa dự bị trong các trung tâm của Nhật trong khuôn viên các trường đại học của Malaysia trước khi tới các trường đại học Nhật để học tập. Tính tới hôm nay, 1580 sinh viên Mã lai đã hoàn thành chương trình học tập của mình trong các trường đại học quốc gia Nhật Bản thuê nhân công địa phương thường nhìn nhận các sinh viên du học tự túc tốt nghiệp các trường nước ngoài tài năng hơn các sinh viên tốt nghiệp các trường đại học ưu đãi cho người Mã lai. Tuy nhiên, chính sách Nhìn về hướng Đông đã tồn tại 20 năm, một số cựu sinh viên ở Nhật bản đã tận dụng ưu thế kinh nghiệm làm việc với các công ty Nhật Bản để thành lập các doanh nghiệp riêng. Gần đay, 25 các doanh nghiệp thành công đã tập hợp lại để thành lập một liên doanh” Hướng Đông Á” ,và bằng cách phát triển và thành lập văn phòng công nghiệp và thương mại, đang triển khai công việc cầu nối giữa doanh nghiệp Nhật Bản( đặc biệt là phòng thương mại công nghiệp Nhật Bản) và các doanh nghiệp nội đia của người bản xứ.
- Hình 04. Số sinh viên du học dưới chính sách Hướng Đông Á AEP( 2078) 15% TEP( ) 1121 8% Hel Ⅰ&Hel Ⅱ p p 522 () 4% Postgraduate 71 () O thers(10514) 0% 73% Nguồn : Ngân hàng phát triển hải ngoại Nhật Bản (JBIC). Ghi chú: Chính sách Hướng Đông của Malaysia bao gồm các chương trình (i) Chương trình đào tạo học thuật (AEP); (ii) Chương trình đào tạo kỹ thuật (TEP); (iii) Chương trình học tiếng Nhật cho các giáo viên Malaysia (JLPMT); (iv) Chương trình đào tạo kỹ thuật-công nghiệp trong nhà máy (công nghệ thông tinTP); (v) Chương trinh đào tạo ngắn ngày cho các doanh nhân quản lý (STME); (vi) Chương trình đào tạo quản trị kinh doanh và chương trình kèm với các công ty Nhật Bản; (vii) Học bổng do tổ chức, chính phủ Nhật tài trợ. Sáng kiến hành lang siêu xa lộ thông tin Mặc dù Malaisia tiếp tục là một trung tâm sản xuất chính của công nghiệp điện và điện tử trong khu vực ASEAN, nhưng nó đang bị cản trở bởi hai vấn đề chính (i) mạng lưới các ngành công nghiệp phụ trợ gây ra sự phụ thuộc vào các sản phẩm nhập khẩu nguyên vật liệu và phụ tùng; (ii) tình trạng khan hiếm lực lượng lao động gây nên chi phí lao động cao. Như là một phần trong chương trình Siêu xa lộ thông tin, chính phủ đã công bố chính sách thúc đẩy lĩnh vực điện và thiêt bị viễn thông-phần mềm. Điều này có nghĩa là sự chuyển dịch sản xuất thiết bị điện và thiết bị hàng điện dân dụng tiêu dùng sang các linh vực khác . Trong bất cứ trường hợp nào, bởi vì khu vực tự do mậu dich ASEAN( AFTA) sẽ buộc các quốc gia tập trung vào những lĩnh vực mà có lợi thế cạnh tranh do vậy không sớm thì muộn, tốc độ sản xuất các hàng hóa thiết bị điện tiêu dùng thông dụng sẽ có xu hướng giảm xuống.
- Chương trình Siêu xa lộ thông tin đã tạo ra một trung tâm nghiên cứu và phát triển cho các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ thông tin.Trung tâm này có diện tích khoảng 15 km2 trải dài từ trung tâm thủ đô Kuala Lumpur (KL) ở phía bắc tới sân bay quốc tế Kuala Lumpur ở Sepang ở phía nam. Trung tâm này tổng cộng có 8 dự án đặc biệt bao gồm một trung tâm y tế từ xa, một trường học chất lượng cao, các cơ sở nghiên cứu R&D, trung tâm đa chức năng và chính phủ điện tử. Các công ty liên quan đến bất kỳ một trong những dự án trên được những ưu đãi như được lựa chọn miễn 100% thuế đầu tư hoặc là ưu đãi cho các nhà đầu tư tiên phong trong vòng 10 năm. Các công ty này cũng được phép tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài khi cần thiết. Bảng 02. Hành lang siêu xa lộ thông tin: Các doanh nghiệp tham gia 1997 1998 1999 2000 2001 2002/11 Malaysian capita i0%< j 5 47 84 181 276 410 522 Foreign capita i0%< j 5 44 84 112 144 198 239 JV i0%-50% j 5 12 31 34 38 50 53 G ilobal big company j 3 6 7 9 13 18 Total 94 197 300 429 621 779 Nguồn: MSC Hình 5. Hành lang siêu xa lộ thông tin: Tham gia phân theo ngành (tháng 11. 2002) Các ngành khác Viễn thông Hệ điều hành Phát triển phần mềm Ứng dụng kỹ thuật Phát triển phầm mềm kinh doanh Kinh doanh bằng Internet, Dịch vụ/ Cung ứng thương mại điện tử Kinh doanh bằng Internet, Dịch vụ ứng dụng Phần cứng – Điện tử Linh phụ kiện, thiết bị 0 20 40 60 80 100 120 140 160 Số lượng
- Ban đầu, những nghi ngờ chung quanh việc xây dựng hành lang siêu xa lộ thông tin như là biểu tượng của sự chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức sau hậu quả của khủng hoảng kinh tế. Nhưng trong thực tế, hành lang siêu xa lộ thông tin đã mở rộng một cách vững chắc. Xấp xỉ khoảng 800 công ty trong và ngoài nước đã tham gia vào siêu xa lộ thông tin và tham gia vào dự án chính phủ điện tử được xúc tiến bởi chính phủ Malaysia hoặc là sử dụng chúng như là một trung tâm nghiên cứu phát triển riêng của công ty mình. Có rất ít sự tham gia của các công ty Nhật Bản tại hành lang siêu xa lộ thông tin, tuy nhiên hoạt động của các công ty Nhật tham gia dự án, như các công ty NTT và Matsushita cũng rất nhỏ và chỉ có một số ít các chuyên gia và các nhân viên phát triển tham gia. Bên cạnh đó, công ty IBM và các công ty phương Tây khác đang bắt tay xây dựng các nhóm chuyên nghiên cứu phát triển ở đó với hàng trăm các chuyên viên nghiên cứu liên quan. 2. Khái quát vể sự phát triển ngành công nghiệp điện và điện tử Công nghiệp điện và điện tử là ngành công nghiệp quan trọng trong nền kinh tế Malaysia chiếm 3.5 % tổng số nhân công trong cả nước, 56 % kim ngạch xuất khẩu và 49 % kim ngạch nhập khẩu của nền kinh tế. Giai đoạn đầu, các công ty sản xuất nước ngoài đầu tư vào Malaysia với mục đích tận dụng chi phí sản xuất rẻ nhờ vào các chính sách cơ chế khuyến khích đầu tư , nguồn nhân lực rẻ, các khu chế xuất và hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sá, hải cảng, sân bay và thông tin liên lạc. Hơn nữa, hoạt động đầu tư phát triển không ngừng trong suốt hơn 30 năm dưới nền tảng một nền chính trị ổn định, minh bạch, nhất quán và khả năng giao tiếp tiếng Anh và các điều kiện môi trường thuận lợi đã chuyển hóa Malaysia thành một trung tâm sản xuất công nghiệp điện và điện tử. Ở góc độ các chính phủ địa phương, các chính phủ địa phương liên tục điều chỉnh các chính sách nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho các công ty nước ngoài và cung cấp những dịch vụ phù hợp cho các công ty đã đầu tư trước kia.Điều này đã dẫn tới vòng đầu tư tuần hoàn thuận lợi cho việc mời gọi các dự án mới theo sau. Hiện tại, Malaysia có 14 khu chế xuất và 200 khu công nghiệp mà hầu hết được xây dựng do sự quản lý và khuyến khích của chính phủ địa phương.
- Hình 6. Xu hướng sản xuất của ngành công nghiệp điện và điện tử Malaysia % Tỷ 40 đô-la 50.0 Linh phụ kiện 45.0 35 40.0 Thiết bị 30 35.0 25 Viễn thông 30.0 25.0 20 Máy tính 20.0 15 Thiết bị nghe nhìn 15.0 10 Đầu tư của Nhật Bản 10.0 vào Malaysia 5 5.0 0.0 0 199 199 199 199 199 200 200 200 200 Nguồn: Niên giám số liệu thống kê ngành điện tử thế giới; các số của Tạp chí thống kê tài chính Hình 7. Thị phần của ngành điện và điện tử của Malaysia’ trong khu vực ASEAN 140. 0 40. 0 35. 0 120. 0 30. 0 100. 0 25. 0 ar l 80. 0 Bii Dol % 20. 0 lon 60. 0 l 15. 0 40. 0 10. 0 20. 0 5. 0 0. 0 0. 0 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 M al ysi aa Ot Asean Count i her res Rato i Nguồn: Từ hình 6. Các công ty sản xuất các sản phẩm và linh kiện điện và điện tử ở Malaysia , hầu hết la các công ty của Nhật , đã thành lập các cụm sản xuất sản phẩm linh kiện và đóng góp vào
- kim ngạch xuất khẩu. Các công ty mà hình thành các cụm sản xuất này thường phụ thuộc lẫn nhau và thu được lợi thế nhờ tập trung và chuyên môn hóa. Tuy nhiên các cơ sở sản xuất này phần lớn thuộc các doanh nghiệp của họ ( các doanh nghiệp Nhật) và các cơ sở này rất ít liên hệ hợp tác với các công ty bản địa. Chính vì vậy, điều này tạo ra rất ít sự chuyển giao công nghệ giữa các công ty nước ngoài và các công ty bản địa. Điều này không phải do các công ty của Nhật bản mong muốn hạn chế chuyển giao công nghệ mà là do ảnh hưởng của chính sách ưu đãi các doanh nghiệp bản địa(Bumiputra) của chính phủ Malaysia. Cái lý do lớn nhất cho sự thiếu phối kết hợp sản xuất kinh doanh với khu vực các doanh nghiệp nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước là sự thiếu vắng những doanh nhân có tham vọng trong số người Mã lai bản địa, những người mà muốn tham gia hoạt động sản xuất trong những ngành dựa trên công nghệ cao. 3. Những ưu đãi dành cho các công ty Nhật Công nghiệp điệ và điện tử của Malaysia phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động của các công ty Nhật. Mặc dầu dưới thời của thủ tướng Mahathir, chính phủ đã có rất nhiều cải cách về khung chính sách, pháp luật, công nghiệp phụ trợ, nguồn nhân lực và các cải cách khác, nhưng môi trường đầu tư vẫn còn chưa đủ điều kiện thuận lợi. Các vấn đề của sự yếu kém thiếu phát triển của các doanh nghiệp trong nước của người bản xứ và tình trạng thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là các vấn đề này dường như chưa được giải quyết sớm. Chúng đang trở thành vật chướng ngại cho sự phát triển trong tương lai của lĩnh vực sản xuất của Malaysia. Khung chính sách pháp luật Một mặt, luật đầu tư sửa đổi vào năm 2003 đã tháo dỡ các quy định về hạn chế sự tham gia góp vốn của các công ty nước ngoài trong các ngành công nghiệp sản xuất mà trước đây tạm thời được gỡ bỏ trong cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Cơ chế khuyến khích cũng có nhiều cải thiện hơn thông qua các ưu đãi cho các nhà đầu tư tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển và tham gia vào phân phối buôn bán toàn cầu và các ưu đãi khác. Mặt khác, người ta cũng nghi ngờ về sự liên tục và nhất quán của chính sách của chính phủ khi mà nhiều quan chức chính phủ không có khả năng bắt kịp với sự thay đổi đến chóng mặt của công nghệ. Ví dụ, biểu thuế cho các linh kiện và vật tư sử dụng trong ngành điện và điện tử thường được áp đặt tùy tiện bởi các quan chức quản lý liên quan. Một số các quy trình hợp pháp như đăng ký đất đai, quan hệ với công đoàn và tố tụng thường tốn rất nhiều thời gian. Rất nhiều các vấn đề cũng được báo cáo như vấn đề về quan liêu cửa quyền của các quan chức chính phủ , nhũng nhiễu và tình trạng mập mờ không rõ ràng của các quy trình nộp đơn xét duyệt. Thiếu sự phát triển của công nghiệp phụ trợ
- Mặc dầu chính phủ nỗ lực phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua Tổng Công Ty phát triển công nghiệp vừa và nhỏ(SMIDEC), Malaysia hiện vẫn chỉ có một số ít các công ty trong nước mà có thể cung cấp phụ tùng linh kiện cho các công ty nước ngoài cũng như xuất khẩu thông qua các nỗ lực marketing độc lập. Chương trình phát triển Vendor (Vendor Development Program ) tập trung vào phát triển ngành công nghiệp phụ trợ bằng cách hỗ trợ các công ty trong nước hợp tác với tập đoàn Matshushita và các công ty nước ngoài khác là một trong những chính sách quan trọng phục vụ cho mục đích kể trên, nhưng mục tiêu ban đầu đặt ra vẫn chưa đạt được như mong muốn. Chương trình phát triển Vendor là một chương trình được thiết lập bởi chính phủ Malaysia vào giữa thập kỷ 90 để thúc đẩy các công ty có vốn đầu tư của người Mã lai quan hệ hợp tác với các công ty của Nhật. Trong chương trình này, các công ty lớn của nước ngoài liên kết với một ngân hàng thương mại và các công ty cung cấp linh kiện phụ tùng. Các công ty nước ngoài này được yêu cầu tạo ra một hoặc hai đối tác là các công ty địa phương hàng năm. Chương trinh này tìm kiếm các nhà cung cấp trong nước mà có khả năng cạnh tranh để liên kết với các công ty nước ngoài trong số các công ty chế tạo các sản phẩm nhựa plastics trong vùng Shah Alam và trong số các công ty cung cấp phụ tùng HDD và các nhà sản xuất sản phẩm liên quan trong khu vực Penang. Các nhà cung cấp trong trong nước được chọn lựa này là những công ty đang nhận các kỹ sư ,kỹ thuật viên Nhật làm việc vào khoảng thời gian cố định và là những doanh nghiệp đang thành công trong việc mở rộng hệ thống khách hàng. Các nhà cung cấp mà chỉ phụ thuộc vào sự giúp đỡ của các công ty nước ngoài noi chung không được chọn trong dự án này. Tương phản ngược lại với tình hình trên là các công ty có vốn của người Hoa không được sợ hỗ trợ của dự án này thì đã phát triển hệ thống khách hàng một cách mạnh mẽ và liên kết hợp tác rất gần gũi với các doanh nghiệp nước ngoài hơn nhiều. Phát triển công nghiệp phụ trợ là thật sự quan trọng, nó là một nhân tố chính trong việc thúc đẩy tính cạnh tranh và để hạn chế các công ty điện và điện tử Nhật bản chuyển nhà máy sang nước khác. Bản thân các công ty nước ngoài cũng đang nỗ lực rất lớn để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, Tuy nhiên, đối mặt với cạnh tranh toàn cầu, các công ty này không có đủ thời gian và nguồn nhân lực để hỗ trợ trên cơ sở từng doanh nghiệp trong nước một. Mặc dù chính phủ Malaysia, chính phủ Nhật và các công ty Nhật đã có hàng loạt những nỗ lực chung để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, bao gồm cả chương trình phát triển Vendor như đã đề cập ở trên, họ cũng không thành công một phần do ảnh hưởng của chính sách ưu đãi các doanh nghiệp nội địa ( Bumaputra ) Vào cuối năm 2003, phòng thương mại và công nghiệp Nhật tại Malaysia (JACTIM) đã có một bản đề xuất mới gửi tới thủ tướng Mahathir đề cập đến tầm quan trọng của sự
- phát triển ngành công nghiệp phụ trợ.Vào tháng 07 năm 2003, phòng thương mại đã tổ chức buổi hội nghị chung với sự tham gia của MIDA, SUMIDEC và các quan chức chính phủ cũng như các doanh nghiệp lớn của Nhật . Hội nghị cũng đưa ra kết luận tới chính phủ Malaysia rằng phát triển công nghiệp phụ trợ là hết sức quan trọng đối với Malaysia nếu muốn tồn tại trong môi trường biến động và cạnh tranh toàn cầu, đặc biệt là từ Trung Quốc và sự thực thi AFTA, và cũng để duy trì sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp sản xuất của Malaysia.Hội nghị này cũng đề xuất một chương trình với mục đích thúc đẩy hơn nữa sự lớn mạnh của công nghiệp phụ trợ, như là tăng cương trình độ chuyên môn cho công nhân trong tạo khuôn, chế tạo nhựa, dập.. bằng sự hỗ trợ từ hệ thống bảo trợ của SUMIDEC. Bảo đảm nguồn nhân lực Trong quá trình lắp ráp các linh kiện thiết bị điện và điện tử , các công ty Nhật luôn cần và kỳ vọng vào nguồn cung cấp nhân lực chất lượng ổn định và dồi dào. Tuy nhiên, dân số của Malaysia chỉ có khoảng 24 triệu người và lực lượng lao động khoảng 11 triệu. Chính vì vậy , Malaysia phải nhờ cậy vào khoảng khoảng 3 triệu nhân công nước ngoài . Khi Malaysia hồi phục sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, tình trạng thiếu lao động lại một lần nữa là một vấn đề đối với nền kinh tế Malaysia. Các nhà sản xuất Nhật Bản tại Malaysia đã tuyển dụng các công nhân nữ nước ngoài với hợp đồng 2 năm. Có khoảng 3 triệu lao động như vậy được tuyển dụng, trong số đó hầu hết là lao động từ Indonexia. Đối với nguồn nhân công có tay nghề cao, các công ty rất khó tìm kiếm ví dụ các kỹ sư chuyên ngành chế biến khuôn đúc. Các công ty Nhật thường ký hợp đồng thuê các kỹ sư tay nghề cao trong các ngành nghề như vậy từ các nước Ấn Độ, Bangladesh. Như là một phần của Chương trình Hành lang siêu xa lộ thông tin, trường đại học Truyền thông đa phương tiện ( Multi Media) được thành lập với mục đích đào tạo công nghệ thông tin và đa phương tiện cho các sinh viên , kể cả các sinh viên không gốc Mã lai.Nhiều doanh nghiệp hy vọng đại học này sẽ đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành công nghệ thông tin. Trường đại học này không những đào tạo các chuyên gia công nghệ thông tin,. mà còn đào tạo các kỹ sư kỹ thuật tay nghề cao cho ngành điện và điện tử. Đại học truyền thông đa phương tiện có hai khu học xá tại hai nơi khác nhau là Cyberjaya và Meraka. Trường cũng dự định mở chi nhánh tại Thái Lan trong một tương lai không xa. Với mục tiêu như vậy, trường đại học này sẽ đóng góp quan trọng vào hoạt động của các doanh nghiệp bằng cách cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện tại, trường đại học truyền thông đa phương tiện tuyển sinh khoảng hơn 7000 sinh viên cho mỗi khu học xá. Bởi vì quy chế tuyển sinh của trường đại học này không phải tuân theo chính sách ưu tiên người Mã Lai( Bumiputra ), nên chất lượng sinh
- viên ra trường tương đối cao. Tuy nhiên, rất nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp đã làm cho các công ty phương Tây như Motorola, Intel và rất ít làm việc cho các công ty Nhật. Tại cuộc gặp thượng đỉnh giưa Malaysia và Nhật, hai nước đã đồng ý thành lập Đại học kỹ thuật quốc tế Nhật Malaysia. Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Ngân Hàng đầu tư hải ngoại ( JBIC) đang chuẩn bị cho giai đoạn nghiên cứu tiền dự án cho dự án này. Mặc dầu chưa có kế hoạch chính thức nào được soạn thảo cho việc chọn vị trí khu học xá và nguồn tài trợ,nhưng hai nước hy vọng trường đại học này sẽ được chính thức khai trương vào tháng 06 năm 2004.Những công việc cần thiết cho việc hoàn thành dự án này sẽ được triển khai trong vòng 3 năm liên tục. Các công ty Nhật thì mong muón trường đại học này sẽ có khung chương trình học mà truyền tải, khắc sâu tinh thần monozukuri ( các sản phẩm chế tạo) cho sinh viên, đây chính là nguồn cạnh tranh cho các công ty này. Dự án này cũng kêu gọi thành lập một consortium bao gồm 17 các trường đại học Nhật để hỗ trợ cho trường đại học mới này. Dự án này cũng mong muốn các giáo sư, giảng viên của các trường đại học Nhật sẽ giảng dậy bằng tiếng Nhật. Một số người lo ngại rằng, việc giảng dậy bằng tiếng Nhật sẽ là một trở ngại cho việc tuyển sinh được các sinh viên giỏi ở trong nước và quốc tế. Nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển và nguồn nhân lực cho ngành điện và điện tử Với một lượng lớn các linh kiện nhập từ các nước khác trong khu vực ASEAN ( các linh kiện nhập k hẩu chiếm hơn 90%) và sự thiếu hụt nguồn nhân lực tay nghề kỹ thuật cao trong lĩnh vực công nghệ Analog ở Nhật khi chuyển nền kinh tế chuyển nhanh sang công nghệ số. Các nhà lắp ráp Nhật tại Malaisia,bao gồm Matshushita và Sony đã thúc đẩy năng lực tự thiết kế của các kỹ sư Malaysia cho các thiết bị sử dụng công nghệ Analog như Tivi sử dụng đèn Catod để cạnh tranh với Trung Quốc. Các công ty lớn đã thiết lập các trung tâm nghiên cứu triển khai với hàng trăm nhân viên địa phương đã làm cho Malaysia trở thành trung tâm toàn cầu cho việc phát triển công nghệ Analog. Họ cũng không ngần ngại cử các chuyên gia Nhật sang Malaysia sang công tác trong thời gian ngắn để tăng hiệu quả nghiên cứu và phát triển cho các trung tâm này.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm mới(2)
75 p | 905 | 404
-
Hoàn Thiện Chiến Lược Phát Triển Công Nghiệp Việt Nam - Chương 1
27 p | 291 | 101
-
Hoàn Thiện Chiến Lược Phát Triển Công Nghiệp Việt Nam - Chương 4
13 p | 247 | 88
-
Hoàn Thiện Chiến Lược Phát Triển Công Nghiệp Việt Nam - Chương 9
20 p | 242 | 77
-
Hoàn Thiện Chiến Lược Phát Triển Công Nghiệp Việt Nam - Chương 8
22 p | 185 | 70
-
Hoàn Thiện Chiến Lược Phát Triển Công Nghiệp Việt Nam - Chương 3
29 p | 173 | 66
-
Hoàn Thiện Chiến Lược Phát Triển Công Nghiệp Việt Nam - Chương 5
0 p | 175 | 65
-
LLuận văn tham khảo: “Hoàn thiện quản trị kênh phân phối thức ăn gia súc tại công ty TNHH xuất nhập khẩu Phương Đông”
53 p | 158 | 39
-
Vận dụng thẻ điểm cân bằng đề xuất giải pháp hoàn thiện quản trị chiến lược tại Công ty cổ phần vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ)
15 p | 230 | 36
-
Luận văn tham khảo 'Hoàn thiện tổ chức hoạt động marketing của Công ty lắp máy và xây dựng số 10'.
45 p | 113 | 26
-
Vượt lên thất bại
3 p | 72 | 6
-
Nghiên cứu phát triển hoạt động xúc tiến hỗn hợp cho các dự án khách sạn tại thành phố Đà Nẵng nhằm tăng lợi thế cạnh tranh
4 p | 114 | 6
-
Chiến lược kinh doanh và hướng phát triển cho các doanh nghiệp ngành may Việt Nam: Phần 2
112 p | 22 | 6
-
Đào tạo nhân lực tại Bưu điện thành phố Hà Nội – một số khuyến nghị
15 p | 8 | 5
-
Giải pháp hoàn thiện marketing online tại Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển VNO
5 p | 8 | 2
-
Marketing xanh - Từ lý thuyết đến thực tiễn: Thế giới và Việt Nam
10 p | 6 | 2
-
Định hướng hoàn thiện hoạch định thị trường chiến lược của doanh nghiệp thương mại nội địa
17 p | 15 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn