Hoàn thiện pháp luật về thương lượng tập thể
lượt xem 5
download
Thương lượng tập thể là một trong những cách thức hiệu quả nhằm xây dựng mối quan hệ lao động ổn định và bền vững. Về cơ bản, các quy định của pháp luật Việt Nam về thương lượng tập thể được đánh giá là thống nhất và tương đối đầy đủ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hoàn thiện pháp luật về thương lượng tập thể
- BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG LƯỢNG TẬP THỂ Lê Thị Hoài Thu* * PGS. TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khóa: thương lượng tập thể, quan hệ Thương lượng tập thể là một trong những cách thức hiệu quả nhằm lao động, thoả ước lao động tập thể. xây dựng mối quan hệ lao động ổn định và bền vững. Về cơ bản, các quy định của pháp luật Việt Nam về thương lượng tập thể được Lịch sử bài viết: đánh giá là thống nhất và tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, các quy Nhận bài : 11/10/2018 định này vẫn còn bỏ sót một số nội dung quan trọng, khó áp dụng Biên tập : 20/10/2018 hoặc mới chỉ được áp dụng trong phạm vi hẹp. Duyệt bài : 25/10/2018 Article Infomation: Abstract Keywords: Collective bargaining; Collective bargaining is one of the most effective methods to labour relationship; collective labour establish a stable and sustainable labour relationship. Basically, agreement the provisions under the Vietnam laws on collective bargaining are considered as relatively consistent and comprehensive. Article History: However, these regulations do not, in some exten, cover a number Received : 11 Oct. 2018 of important contents that are difficult to be applied or have been Edited : 20 Oct. 2018 applied only in the narrow areas. Approved : 25 Oct. 2018 1. Khái niệm thương lượng tập thể trong Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đặc biệt quan hệ lao động quan tâm, khuyến khích thực hiện vì ý nghĩa Trong quan hệ lao động (QHLĐ), và tầm quan trọng của nó trong việc ổn định thương lượng được hiểu là một quá trình QHLĐ. Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, thỏa thuận nhằm đạt tới sự thống nhất ý chí nhất là các quốc gia phát triển, “thương giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) và lượng tập thể” là một khái niệm quen thuộc. người lao động (NLĐ) về việc mua bán, sử Nhưng ở Việt Nam, nó lại là một khái niệm dụng hàng hóa sức lao động và giải quyết khá mới mẻ, nhất là ở phương diện pháp lý. những vấn đề phát sinh trong QHLĐ. Trong Điều 2 Công ước số 154 (năm 1981) đó, thương lượng tập thể là cách thức được của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về xúc Số 21(373) T11/2018 21
- BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT tiến thương lượng tập thể được coi là khái thể như một quá trình trao đổi, thảo luận và niệm chính thức về thương lượng tập thể: thống nhất ý chí giữa các bên về một hoặc “Trong Công ước này, thuật ngữ "thương một số vấn đề chung liên quan đến lợi ích lượng tập thể" áp dụng cho mọi cuộc thương của tập thể NLĐ và NSDLĐ trong QHLĐ ở lượng giữa một bên là một NSDLĐ, một các cấp độ khác nhau. nhóm NSDLĐ hoặc một hay nhiều tổ chức Thương lượng tập thể có thể giúp của NSDLĐ, với một bên là một hay nhiều cân bằng vị thế của NLĐ và NSDLĐ trong tổ chức của NLĐ, để: QHLĐ. Điều này càng có ý nghĩa khi vốn dĩ a) Quy định những điều kiện lao động trong QHLĐ, NLĐ thường ở vào vị trí thế và sử dụng lao động; yếu so với NSDLĐ vì nhiều nguyên nhân b) Giải quyết những mối quan hệ giữa khác nhau. Thương lượng tập thể có thể những NSDLĐ với những NLĐ; phòng ngừa, giảm thiểu hoặc loại bỏ những c) Giải quyết những mối quan hệ giữa mâu thuẫn, tranh chấp về quyền và lợi ích những NSDLĐ hoặc các tổ chức của họ với giữa các bên trong QHLĐ. một hoặc nhiều tổ chức của NLĐ”1. 2. Thực trạng pháp luật về thương lượng Có thể thấy, chủ thể trong thương tập thể ở Việt Nam hiện nay lượng tập thể sẽ bao gồm đại diện của các Nhìn chung, các quy định về thương bên trong QHLĐ tập thể; đồng thời, mục lượng tập thể trong Bộ luật Lao động năm đích của thương lượng tập thể nhằm giải 2012 (BLLĐ năm 2012) và các văn bản quy quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích tập định chi tiết, hướng dẫn thi hành cơ bản là thể của NLĐ và NSDLĐ trong QHLĐ chủ thống nhất, áp ứng được yêu cầu thể chế hóa yếu là xác lập các điều kiện lao động, điều chủ trương, đường lối của Đảng trong lĩnh kiện sử dụng lao động và vấn đề việc làm vực lao động, QHLĐ cũng như yêu cầu của hoặc điều tiết các QHLĐ. Thương lượng tập cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN thể có thể xem là hình thức đối thoại xã hội và hội nhập quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi ở mức cao nhất. Điều này có nghĩa là, nếu cho QHLĐ, thị trường lao động phát triển, sử dụng nó một cách hiệu quả sẽ đạt được góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển những kết quả rất tích cực. Nếu thương và ổn định chính trị của đất nước. Các quy lượng tập thể được sử dụng như một biện định này cũng được đánh giá là tương đối pháp để xác lập những thỏa thuận chung phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế về giữa các bên về điều kiện lao động, việc làm, thương lượng tập thể, phù hợp với xu thế tiền lương… thì kết quả cao nhất của thương chung của thời đại, phục vụ đắc lực cho công lượng tập thể chính là sự ra đời của thỏa ước cuộc hội nhập quốc tế của Việt Nam. Phương tập thể. Hoặc nếu thương lượng tập thể được pháp thỏa thuận - phương pháp chủ đạo của sử dụng như một phương thức để giải quyết luật lao động, đã được sử dụng khá triệt để các tranh chấp lao động tập thể thì kết quả trong chế định pháp luật này. Đây là phương của việc thương lượng thành công sẽ dẫn tới pháp phù hợp với QHLĐ do BLLĐ điều thỏa thuận chung giữa các bên tranh chấp để chỉnh và phù hợp với yêu cầu của chế định giải quyết nội dung tranh chấp đó. Chính vì thương lượng tập thể. Vì vậy, cơ bản các quy vậy, ILO cũng khuyến cáo các nước thành định về thương lượng tập thể là khả thi. viên về việc nên nhìn nhận thương lượng tập Tuy nhiên, nếu chiếu theo những yêu 1 Tổ chức Lao động quốc tế (2004), Một số công ước và khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế, Nxb. Lao động và Xã hội. 22 Số 21(373) T11/2018
- BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT cầu của tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, Bên cạnh đó, các quy định về thương phù hợp, khả thi của hệ thống pháp luật nêu lượng tập thể doanh nghiệp và thỏa ước trên thì vẫn còn những hạn chế sau đây: tập thể ngành hiện nay cũng còn có khiếm Một là, các quy định về thương lượng khuyết sau: chưa có quy định về nguyên tắc, tập thể ở nước ta hiện nay chưa đầy đủ, đồng tiêu chí, điều kiện để xác định đại diện tham bộ, thống nhất với quy định trong các chế gia thương lượng tập thể, nhất là thương định pháp luật khác có liên quan. lượng tập thể cấp ngành; một số quy định chưa thực sự rõ ràng nên dẫn đến những Với cách đặt vị trí trong kết cấu của cách hiểu và áp dụng khác nhau (quy định BLLĐ và với nội dung của các quy định về về mục đích, nội dung, trách nhiệm của các thương lượng tập thể tại Mục 2 Chương V thủ thể liên quan trong thương lượng tập của BLLĐ, dường như các quy định này thể…). mới hướng tới mục tiêu xây dựng QHLĐ hài Hai là, quy định về chủ thể thương hòa, ổn định, tiến bộ, phòng ngừa tranh chấp lượng tập thể hiện nay khó triển khai thực lao động, đình công, mà chưa hướng tới mục hiện trên thực tế. tiêu giải quyết tranh chấp lao động tập thể, Về phía NLĐ, theo quy định, ban đình công. Vì vậy, nhiều người đã cho rằng chấp hành công đoàn cơ sở hoặc ban chấp đây là một thiếu sót của BLLĐ năm 2012 hành công đoàn cấp trên trực tiếp của công khi quy định về thương lượng tập thể. đoàn cơ sở (đối với doanh nghiệp không có BLLĐ quy định thương lượng tập tổ chức công đoàn cơ sở) là người đại diện thể trong hai phạm vi: phạm vi doanh nghiệp cho tập thể lao động tham gia thương lượng và phạm vi ngành. BLLĐ năm 2012 cũng tập thể cấp doanh nghiệp. Quy định này nảy quy định thỏa ước lao động tập thể là kết sinh các vấn đề trong thực tiễn chưa giải quả cao nhất của thương lượng tập thể. Điều quyết được là: đáng lưu ý ở đây là ngoài thỏa ước tập thể - Doanh nghiệp có tổ chức công đoàn doanh nghiệp và thỏa ước tập thể ngành, cơ sở nhưng ban chấp hành công đoàn không BLLĐ năm 2012 có quy định về các loại đứng ra đại diện cho tập thể lao động thương thỏa ước khác (tức là ở những phạm vi khác, lượng tập thể thì ai sẽ là người đại diện cho như: thỏa ước tập thể nhóm doanh nghiệp, tập thể lao động trong trường hợp này? thỏa ước tập thể địa phương, thỏa ước tập - Doanh nghiệp có tổ chức công đoàn thể vùng, thỏa ước tập thể khu công nghiệp, cơ sở nhưng ban chấp hành công đoàn khu chế xuất…). Vậy, nếu không quy định không đủ uy tín, tập thể lao động (hoặc phần về thương lượng tập thể ở những phạm vi lớn NLĐ) không muốn ban chấp hành công này, sẽ không có cơ sở pháp lý để xây dựng đoàn cơ sở đứng ra đại diện cho tập thể lao thỏa ước nhóm doanh nghiệp, thỏa ước tập động thương lượng tập thể thì ai sẽ là người thể địa phương, thỏa ước tập thể vùng, thỏa đại diện cho tập thể lao động trong trường ước khu công nghiệp, khu chế xuất… Điều hợp này? này sẽ tương tự với các quy định về tranh - Số lượng cán bộ công đoàn làm việc chấp và giải quyết tranh chấp lao động tập tại các tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp thể, quy định về đình công và giải quyết đình của công đoàn cơ sở (công đoàn quận, huyện, công. Thực tế ở Việt Nam hiện nay cũng đã thị xã, công đoàn khu công nghiệp, khu chế có thỏa ước tập thể nhóm doanh nghiệp, có xuất…) hiện nay rất hạn chế và không tiếp những vụ tranh chấp lao động tập thể, đình xúc hàng ngày với đơn vị sử dụng lao động. công vượt ra ngoài phạm vi doanh nghiệp và Liệu ban chấp hành công đoàn cấp trên trực phạm vi ngành. tiếp có đủ thời gian và nhân lực, đủ sự am Số 21(373) T11/2018 23
- BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT hiểu về nội bộ của đơn vị sử dụng lao động thậm chí không thể xác định được. để đứng ra đại diện cho tập thể lao động Ba là, các quy định về thương lượng tham gia quá trình thương lượng tập thể và tập thể của BLLĐ năm 2012 chưa đáp ứng thương lượng một cách hiệu quả hay không? hết nhu cầu của cuộc sống hiện tại và cũng Về vấn đề này có quan điểm cho rằng: “Việc chưa dự liệu được những nhu cầu mới phát cho phép công đoàn cấp trên cơ sở là chủ thể sinh trong tương lai. Điều này thể hiện: nghiễm nhiên có quyền đại diện cho NLĐ - Nhu cầu thương lượng tập thể và ký tại các doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ thỏa ước lao động tập thể trong phạm vi bộ sở thương lượng tập thể và ký kết thỏa ước phận doanh nghiệp hiện nay là có thật. Tuy lao động tập thể là không phù hợp với tiêu nhiên, việc được hay không được phép tổ chuẩn lao động quốc tế (Điều 4 của Công ước số 98 của ILO: Quyền được tự nguyện chức thương lượng tập thể và ký kết thỏa và độc lập của tập thể NLĐ trong tham gia ước lao động tập thể bộ phận doanh nghiệp thương lượng chưa được đảm bảo), không đang là câu hỏi để ngỏ trong quy định của nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của NLĐ BLLĐ. Mặc dù trong một số tài liệu giảng tại đơn vị, gây ra sự chậm trễ, khó khăn cho dạy chuyên ngành luật3 có viết là thương hoạt động đối thoại, tham vấn…”2. lượng tập thể và ký thỏa ước tập thể có thể diễn ra trong phạm vi bộ phận doanh nghiệp; Về phía NSDLĐ, BLLĐ năm 2012 chỉ trong khi đó cũng có quan điểm cho rằng, quy định chung NSDLĐ hoặc đại diện của pháp luật không cấm thì được làm, nhưng NSDLĐ là chủ thể thương lượng tập thể trong xét ở phương diện pháp lý thì ai sẽ là chủ thể QHLĐ. Đối với trường hợp thương lượng được công nhận “chính danh” đại diện cho tập thể trong phạm vi một doanh nghiệp mỗi bên tham gia thương lượng tập thể và thì việc xác định chủ thể thương lượng tập ký thỏa ước tập thể bộ phận doanh nghiệp? thể của phía doanh nghiệp không khó khăn. Tuy nhiên, đối với thương lượng tập thể cấp Nếu một thỏa ước bộ phận doanh nghiệp ngành, việc xác định đại diện của NSDLĐ được ký kết nhưng NSDLĐ (doanh nghiệp) lại không đơn giản. Các tổ chức đại diện cho không chấp nhận thì hậu quả pháp lý của nó NSDLĐ chủ yếu hiện nay là Phòng Thương như thế nào? Khi làm thủ tục gửi hồ sơ thỏa mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh ước bộ phận doanh nghiệp liệu Sở Lao động các Hợp tác xã Việt Nam hầu như chưa được - Thương binh và Xã hội có quyền từ chối hình thành và duy trì theo ngành. Hơn nữa, tiếp nhận hay không?... Đây chính là nguyên hiện nay, việc phân chia các doanh nghiệp nhân dẫn đến những cách hiểu và áp dụng hoạt động theo ngành cũng chỉ có tính chất pháp luật khác nhau trên thực tế, gây nhiều tương đối, thậm chí không phân chia được khó khăn, phiền hà cho các bên liên quan. bởi với quyền tự do kinh doanh ngày càng - Nhu cầu ký thỏa ước lao động tập thể được mở rộng, một doanh nghiệp có thể có nhóm doanh nghiệp, thỏa ước tập thể khu ngành nghề kinh doanh thuộc nhiều ngành, công nghiệp, khu chế xuất, thỏa ước vùng nhóm ngành kinh tế kỹ thuật khác nhau. Từ cũng là có thật4, thậm chí với những phân đó làm cho việc xác định tổ chức đại diện tích nêu trên về sự khó khăn trong việc triển của NSDLĐ theo ngành là rất khó khăn, khai thỏa ước tập thể ngành thì xu hướng nổi 2 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo tổng kết thi hành BLLĐ năm 2012. 3 Xem thêm Giáo trình Luật lao động của Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học quốc gia, Khoa Luật Viện Đại học Mở Hà Nội. 4 Xem: Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (năm 2016) về tình hình thực hiện thí điểm thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành, nhóm doanh nghiệp. 24 Số 21(373) T11/2018
- BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT lên lại là ký thỏa ước lao động tập thể nhóm giảm ý nghĩa và tầm quan trọng của thương doanh nghiệp, thỏa ước tập thể khu chế xuất, lượng tập thể. Thực tiễn đời sống lao động khu công nghiệp… Tuy nhiên, toàn bộ quy đã chứng minh, ký kết thỏa ước lao động định của BLLĐ năm 2012 và các văn bản tập thể chỉ là một dạng kết quả, có thể là kết quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành hiện quả quan trọng bậc nhất của thương lượng nay chưa có quy định nào về vấn đề này, tập thể. Ngoài ra, thương lượng tập thể còn ngoài một quy định chung về loại thỏa ước có thể mang đến nhiều kết quả khác, như: lao động tại khoản 1 Điều 73 BLLĐ năm sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động; ban 2012 (Thỏa ước lao động tập thể gồm thỏa hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản nội bộ ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước của NSDLĐ quy định quyền lợi, nghĩa vụ lao động tập thể ngành và hình thức thỏa của NLĐ mà không phải thỏa ước lao động ước lao động tập thể khác do Chính phủ quy tập thể (nội quy lao động, các loại quy chế, định). bộ quy tắc ứng xử…); giải quyết nội dung Bốn là, các quy định về thương lượng của tranh chấp lao động tập thể các loại, giải tập thể mặc dù được coi là một sự tiến bộ quyết đình công… Vì vậy, chúng ta cần nhìn vượt bậc của BLLĐ năm 2012, nhưng so với nhận một cách khách quan hơn ý nghĩa của yêu cầu của cơ chế kinh tế thị trường thì quy thương lượng tập thể trong quá trình tổ chức định này lại là khá chậm. QHLĐ hình thành thực hiện pháp luật. trên cơ sở thỏa thuận được chính thức thừa 3. Một số khuyến nghị nhận rộng rãi ở nước ta kể từ khi Pháp lệnh Một là, cần đào tạo, bồi dưỡng nâng Hợp đồng lao động năm 1990 có hiệu lực thi cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công hành, đặc biệt là từ khi BLLĐ được thông tác xây dựng pháp luật; khẩn trương thực qua ngày 23/6/1994. Tuy nhiên, phải đến hiện chủ trương xây dựng pháp luật thực BLLĐ năm 2012, thương lượng tập thể mới sự là hoạt động chuyên nghiệp, có bộ máy được chính thức quy định. Các văn bản quy chuyên trách xây dựng pháp luật. định chi tiết, hướng dẫn thi hành BLLĐ năm 2012 về thương lượng tập thể còn chậm hơn: Hai là, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung ngày 12/01/2015 Chính phủ mới ban hành một số quy định của BLLĐ năm 2012 nhằm Nghị định số 05/2015/NĐ-CP (chậm gần 2 bảo đảm tốt hơn sự toàn diện, đồng bộ, thống năm so với yêu cầu), ngày 31/7/2015 Bộ nhất, phù hợp và khả thi của các quy định Lao động - Thương binh và Xã hội mới ban pháp luật về thương lượng tập thể ở nước ta. hành Thông tư số 29/2015/TT-BLĐTBXH Cụ thể là: (chậm hơn 2 năm so với thời điểm BLLĐ - Bổ sung quy định về thương lượng năm 2012 có hiệu lực thi hành). tập thể ở những phạm vi khác phạm vi Việc chậm trễ quy định về thương doanh nghiệp và ngành (thương lượng tập lượng tập thể và chậm trễ trong việc ban thể nhóm doanh nghiệp, khu công nghiệp, hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn khu chế xuất, khu vực…). thi hành đã làm hạn chế tính đồng bộ của - Sửa đổi quy định về mục đích thương pháp luật về thương lượng tập thể, gây khó lượng tập thể (Điều 66 BLLĐ năm 2012). khăn, lúng túng và thiếu thống nhất trong Cần sửa đổi Điều 66 BLLĐ năm 2012 quá trình tổ chức thực hiện, làm hạn chế theo hướng quy định đầy đủ hơn về mục đích hiệu quả điều chỉnh pháp luật. của thương lượng tập thể (thương lượng tập Năm là, nếu cho rằng, mục đích của thể là quyền của các bên để giải quyết bất kỳ thương lượng tập thể chỉ là ký kết thỏa ước vấn đề gì phát sinh trong QHLĐ, bao gồm lao động tập thể, vô hình chung đã làm cả việc ký kết, sửa đổi, bổ sung thỏa ước lao Số 21(373) T11/2018 25
- BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT động tập thể, giải quyết tranh chấp lao động, định rõ quyền của các bên trong việc lựa giải quyết đình công…). Trên cơ sở đó sửa chọn các nội dung thương lượng tập thể. đổi, bổ sung các quy định khác có liên quan. - Sửa đổi quy định về đại diện các bên - Sửa đổi quy định về nguyên tắc tham gia thương lượng tập thể (Điều 69 thương lượng tập thể (Điều 67 BLLĐ năm BLLĐ năm 2012). 2012). Sửa đổi Điều 69 BLLĐ năm 2012 Hiện tại, nguyên tắc thương lượng tập theo hướng quy định rõ nguyên tắc, điều thể được quy định tại Điều 67 BLLĐ năm kiện, tiêu chí... để lựa chọn người đại diện 2012. Trong đó nội dung quy định tại khoản của mỗi bên tham gia thương lượng tập thể, 2, khoản 3 Điều này không phải là những nhất là trong trường hợp có nhiều tổ chức vấn đề mang tính nguyên tắc (khoản 2 quy đại diện của các bên trong phạm vi thương định về hình thức hoặc ký thương lượng tập lượng tập thể. Ngoài ra, quy định về đại diện thể; khoản 3 quy định về địa điểm thương của tập thể lao động cần được sửa đổi cho lượng tập thể). Vì vậy, nên đưa khoản 2, phù hợp với cam kết của Việt Nam tại Hiệp khoản 3 ra khỏi Điều 67 và nên quy định định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái thành một điều riêng hoặc đưa về các điều Bình Dương - CPTPP (đa tổ chức đại diện khác cho phù hợp hơn. NLĐ). - Sửa đổi quy định về nội dung thương - Sửa đổi quy định về trách nhiệm của lượng tập thể (Điều 70 BLLĐ năm 2012). tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện NSDLĐ Do Điều 70 BLLĐ năm 2012 quy định và cơ quan quản lý nhà nước về lao động chưa rõ quyền của các bên trong lựa chọn trong thương lượng tập thể (Điều 72 BLLĐ nội dung thương lượng tập thể, vì vậy, khi năm 2012). áp dụng Điều 70 BLLĐ năm 2012 trên thực Hiện tại Điều 72 BLLĐ năm 2012 quy tế có hai cách hiểu khác nhau: cách hiểu định chung về trách nhiệm của tổ chức công thứ nhất cho rằng, với quy định tại Điều 70 đoàn, tổ chức đại diện NSDLĐ và cơ quan BLLĐ năm 2012 thì phải hiểu là trong bất quản lý nhà nước về lao động trong thương kỳ cuộc thương lượng tập thể nào, hai bên lượng tập thể. Theo chúng tôi, quy định như phải thương lượng đủ các nội dung đã quy vậy chưa hợp lý, vì mỗi cơ quan, tổ chức định từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 70 BLLĐ; có chức năng, nhiệm vụ riêng, phù hợp với cách hiểu thứ hai cho rằng, mặc dù khoản 1, chức năng, nhiệm vụ của mình thì mỗi cơ 2, 3, 4 Điều 70 BLLĐ năm 2012 quy định quan, tổ chức sẽ có trách nhiệm chung và như vậy nhưng trên thực tế các bên có thể những trách nhiệm riêng đối với thương thương lượng đủ các nội dung này hoặc chỉ lượng tập thể. Do vậy, cần sửa đổi Điều 72 thương lượng về một hoặc một số nội dung BLLĐ năm 2012 theo hướng có khoản quy mà các bên đang có vướng mắc, đang thực định về trách nhiệm chung của các cơ quan, sự quan tâm, thậm chí chỉ thương lượng các tổ chức trên, có một số khoản quy định trách nội dung khác thuộc quy định tại khoản 5 nhiệm riêng của từng cơ quan, tổ chức. Điều 70 BLLĐ. Ba là, cần sửa đổi, bổ sung các quy Chúng tôi cho rằng, ý kiến thứ hai hợp định có liên quan trực tiếp đến thương lượng lý hơn, nó phù hợp với bản chất của thương tập thể. lượng, với yêu cầu thực tiễn của QHLĐ, nhu Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất cầu thực sự của các bên và mang lại ý nghĩa của pháp luật, việc sửa đổi, bổ sung các quy đích thực của thương lượng tập thể. Vì vậy, định về thương lượng tập thể phải đi đôi với Điều 70 cần được sửa đổi theo hướng quy việc sửa đổi, bổ sung các quy định khác có 26 Số 21(373) T11/2018
- BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT liên quan trong BLLĐ và các văn bản quy thực hiện. Bởi vì, nếu khâu tổ chức thực hiện phạm pháp luật khác, cụ thể như sau: không tốt thì dù bản thân văn bản quy phạm - Quy định về tổ chức đại diện của pháp luật có tốt đến đâu thì nó cũng không NLĐ. đi vào cuộc sống hoặc đi vào cuộc sống một Hiện nay, tổ chức đại diện duy nhất cách không hiệu quả, từ đó làm giảm hiệu của NLĐ trong QHLĐ là công đoàn thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt quả của toàn hệ thống pháp luật nói chung. Nam. Quy định này không còn phù hợp Vì vậy, cần chú trọng khâu tổ chức với Hiệp định CPTPP mà Việt Nam đã phê thực hiện khi pháp luật về thương lượng tập chuẩn. Để đảm bảo thực hiện cam kết của thể có hiệu lực thi hành, từ khâu phổ biến, mình trong Hiệp định này, các quy định về đại diện NLĐ cần phải sửa đổi theo hướng, tuyên truyền, hướng dẫn triển khai thực hiện bổ sung quy định về đại diện khác của NLĐ đến khâu kiểm tra, giám sát và xử lý các không thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn lao hành vi vi phạm pháp luật về thương lượng động Việt Nam. tập thể và xử lý trách nhiệm của các chủ thể - Khẩn trương ban hành Luật về Hội liên quan. để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thành lập và hoạt động của tổ chức đại diện NLĐ Sáu là, về kỹ thuật lập pháp. không thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn lao - Nghiên cứu sắp xếp lại vị trí các quy động Việt Nam và tổ chức đại diện của định về thương lượng tập thể trong BLLĐ NSDLĐ. để đảm bảo thể hiện đúng và đủ mục đích - Bổ sung các quy định về đại diện của NSDLĐ trong BLLĐ. của thương lượng tập thể, đồng thời giải - Sửa đổi các quy định về thỏa ước lao quyết được mối quan hệ của thương lượng động tập thể, giải quyết tranh chấp lao động tập thể với đối thoại tại nơi làm việc, thỏa tập thể, đình công, nhất là những quy định ước lao động tập thể, giải quyết tranh chấp về phạm vi ký kết thỏa ước lao động tập thể, lao động, đình công, tổ chức đại diện của phạm vi tranh chấp lao động tập thể và phạm vi đình công nhằm đảm bảo thống nhất với NLĐ, tổ chức đại diện của NSDLĐ và các phạm vi thương lượng tập thể sau khi sửa đổi. nội dung có liên quan khác. Bốn là, sớm phê chuẩn các công ước - Các quy định về thương lượng tập của ILO về thương lượng tập thể (Công ước thể trong BLLĐ cần cụ thể, tránh ban hành số 87 và Công ước số 98); chuẩn bị triển khai nhiều văn bản quy định chi tiết. Trường hợp thực hiện CPTTP; tham khảo kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về thương lượng tập nhất thiết phải quy định chi tiết thì cần tuân thể của các nước khác trong quá trình hoàn thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy thiện pháp luật về thương lượng tập thể. phạm pháp luật năm 2015, đảm bảo văn bản Năm là, cần chú trọng khâu tổ chức quy định chi tiết có hiệu lực cùng ngày với thực hiện pháp luật để pháp luật về thương BLLĐ sửa đổi. lượng tập thể có tính khả thi. - Rà soát, sửa lại tất cả các quy định Hoàn thiện pháp luật, nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ, không chỉ là khâu xây dựng sử dụng thuật ngữ chưa rõ ràng, thiếu chặt pháp luật, mà còn bao gồm cả khâu tổ chức chẽ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau■ Số 21(373) T11/2018 27
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và Hoàn thiện pháp luật: Phần 1
190 p | 133 | 18
-
Hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và Hoàn thiện pháp luật: Phần 2
128 p | 135 | 15
-
Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại và mối quan hệ giữa hai chế tài
6 p | 246 | 11
-
Hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam trong bối cảnh thực thi Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
16 p | 66 | 9
-
Thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại điện tử
5 p | 19 | 7
-
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo pháp luật hàng hải Việt Nam
5 p | 104 | 7
-
Hoàn thiện pháp luật thương mại điện tử Việt Nam trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại điện tử ASEAN 2019
15 p | 47 | 7
-
Vấn đề hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện hợp đồng theo quy định của Công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và gợi mở hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam
4 p | 78 | 5
-
Hoàn thiện pháp luật về ngân hàng thương mại ở Việt Nam: Phần 1
190 p | 27 | 5
-
Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hoạt động thương mại điện tử
10 p | 8 | 5
-
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài dưới tác động của Hiệp định thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA)
12 p | 11 | 4
-
Pháp luật về thương mại hóa tài sản trí tuệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: Thực trạng và giải pháp
27 p | 47 | 4
-
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng
10 p | 51 | 4
-
Hoàn thiện pháp luật về ngân hàng thương mại ở Việt Nam: Phần 2
128 p | 27 | 4
-
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư theo luật luật sư
8 p | 35 | 3
-
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân phù hợp với các cam kết trong một số hiệp định thương mại tự do
13 p | 27 | 3
-
Hoàn thiện pháp luật về quỹ bảo vệ người được bảo hiểm
5 p | 55 | 3
-
Pháp luật về quyền thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay - bất cập, hạn chế và giải pháp, kiến nghị
10 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn