intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hoạt động y tế của Phật giáo góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

9
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nghiên cứu thực trạng hoạt động trong y tế của Phật giáo hiện nay, từ đó đưa ra khuyến nghị một số giải pháp nhằm đẩy mạnh, hiệu quả hơn các hoạt động trong công tác y tế của Phật giáo Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hoạt động y tế của Phật giáo góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế

  1. HOẠT ĐỘNG Y TẾ CỦA PHẬT GIÁO GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI CHO NGƯỜI DÂN TRONG THỜI KỲ PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TS. NGUYỄN VĂN TUÂN1* BÁC SĨ VŨ HỮU DŨNG2** Tóm tắt: Với phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, cùng với triết lý vì con người, mong muốn mang lại cho mọi người một cuộc sống hạnh phúc, an lạc, Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành với đường lối chính sách của đất nước và sự phát triển của dân tộc. Đặc biệt với tinh thần “Hộ quốc, an Dân”, những đóng góp to lớn của Phật giáo trong lĩnh vực Y tế không chỉ là khẳng định những giáo lý sâu sắc của đạo Phật mà còn đồng thời chia sẻ những khó khăn, gánh nặng lớn mà đất nước đang phải giải quyết, qua đó góp phần to lớn vào công tác xây dựng hệ thống an sinh xã hội đảm bảo phục vụ cho nhân dân. Vì thế, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động trong y tế của Phật giáo hiện nay, từ đó đưa ra khuyến nghị một số giải pháp nhằm đẩy mạnh, hiệu quả hơn các hoạt động trong công tác y tế của Phật giáo Việt Nam. Từ khóa: An sinh xã hội; Phật giáo; Y tế. Đặt vấn đề “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc….”31. Câu nói đầu tiên trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là dấu mốc vĩ đại của lịch sử dân tộc, mà nó còn thể hiện trong đó những ước muốn, khát khao của nhân loại đã và đang tồn tại trên thế giới này. Đó là những hy vọng, mong muốn về một cuộc sống an vui, bình yên và * Viện Khoa học Tổ chức cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương. ** Học viện An ninh nhân dân. 1 Trích Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, 2-9-1945.
  2. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 391 hạnh phúc. Một xã hội chung sẽ ngày càng phát triển nếu như mỗi con người đang sống trong đó có thể cảm thấy được hạnh phúc với chính cuộc sống của mình. Vì thế, những chính sách nhằm đảm bảo an sinh xã hội từ lâu đã và đang luôn được Việt Nam coi là mục tiêu quan trọng cần quan tâm, thúc đẩy xây dựng, thực hiện để đảm bảo cuộc sống cho người dân. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏa sáng với tinh thần “từ bi”, “cứu khổ độ sinh” thông qua phương châm “nhập thế hành đạo” để “hộ quốc, an dân”, nhất là luôn đề cao tinh thần “phụng sự chúng sinh tức cúng dường chư Phật” của các thế hệ tăng, ni và phật tử. Chân lý xuyên suốt đó của đạo Phật đã gắn bó và trở thành một phần không thể thiếu tạo nên những nét truyền thống văn hóa đậm bản sắc dân tộc. Vì thế, từ ngày thành lập đến nay, với phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, Phật giáo Việt Nam luôn hành thiện mang lại cho chúng sinh một cuộc sống hạnh phúc và an lạc. Phật giáo đã đồng hành với đường lối chính sách của đất nước, “phát dương quang đại” những giáo lý của nhà Phật hướng thiện cho tất cả chúng sinh. Từ đó đem ánh sáng từ bi giác ngộ của Phật pháp đi vào đời sống của tất cả mọi người dân, góp phần xây dựng và đảm bảo an sinh xã hội, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Triết lý Phật giáo rất tương đồng với lý tưởng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đều vì mục tiêu ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”1. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, nghị quyết của Đảng đã đưa ra chủ trương: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân…đa dạng hoá các loại hình cứu trợ xã hội”2. Kế thừa và lĩnh hội những giáo lý sâu sắc của đạo Phật, đồng hành cùng với những bước tiến đổi mới chung của đất nước, Phật giáo Việt Nam đã tích cực chung tay góp sức tham gia nỗ lực trên mọi phương diện từ văn hóa, kinh tế, đời sống…và đặc biệt trong đó có cả y tế. Trong thời gian qua, các hoạt động từ thiện trong lĩnh vực y tế của Phật giáo Việt Nam đã đạt được những kết quả hết sức to lớn trong công tác phòng chống, chăm sóc, điều trị bệnh cho nhân dân, đã góp phần phục vụ cho mục tiêu chung xây dựng một hệ thống an sinh xã hội ở Việt nam toàn diện, theo hướng hiện đại. 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, trang 161. 2 Trích “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng”.
  3. 392 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu về: “Hoạt động Y tế của Phật giáo góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế”, nhóm tác giả đã sử dụng các phương pháp logic, lịch sử, phương pháp chuyên gia (phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm….), phân tích, tổng hợp nhằm làm rõ hoạt động cũng như những đóng góp ở lĩnh vực Y tế của Phật giáo Việt nam đối với sự phát triển chung của đất nước trọng tâm tại giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu dựa trên các nguồn số liệu lưu trữ tại các thư viện và các báo cáo, tài liệu nghiên cứu, hội thảo khoa học có độ tin cậy cao. Bài viết đi sâu phân tích những số liệu thu hoạch được thực tế nhằm giải quyết vấn đề mà bài viết đặt ra. Để nghiên cứu vấn đề này, nhóm tác giả đã dựa trên điều tra, khảo sát tình hình hoạt động về Y tế của Phật giáo Việt Nam tại một số địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Bình Dương, Tỉnh Thừa Thiên Huế, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,… trong khoảng thời gian gần đây. Đây là những nơi có hoạt động về Y tế của Giáo hội rất phát triển và được triển khai dưới nhiều hình thức và hoạt động phong phú khác nhau. Dữ liệu thu thập dựa trên kết quả khảo sát tại các địa bàn trên sau khi xử lý khách quan giúp tác giả phân tích đánh giá những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong bài viết. Báo cáo kết quả nghiên cứu và thảo luận Theo Liên hợp quốc, an sinh xã hội tiếp cận trên quyền của người dân: “… Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có một mức tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế (bao gồm cả thai sản), dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già…hoặc các trường hợp bất khả kháng khác…”.1 Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau của các tổ chức quốc tế về các yếu tố để xây dựng nên một thế thống “an sinh xã hội”, tuy nhiên, có một điểm chung được nhấn mạnh ở tất cả các quan điểm đó là, lĩnh vực y tế là trụ cột đặc biệt cốt lõi quan trọng được quan tâm không thể thiếu để có thể xây dựng nên một hệ thống an sinh xã hội bền vũng phát triển. 1. Vai trò của Phật giáo trong hoạt động y tế của Việt Nam hiện nay Thứ nhất, kế thừa phát huy truyền thống, tính nhân văn tốt đẹp từ bao đời nay. Ngay khi du nhập vào từ những thế kỷ đầu tiên, Phật giáo đã nhanh chóng thích nghi với lối sống của người dân Việt Nam. Trong quá trình hình thành và 1 Trích Điều 22, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.
  4. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 393 phát triển, Đạo Phật đã không gặp một trở ngại nào trong việc hòa nhập vào mọi giai tầng của xã hội và từ đó đã thấm đượm vào nền văn hóa Việt Nam một cách vô cùng tự nhiên. Đạo lý của Phật giáo cũng đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân Việt và đã trở thành những giá trị tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam. Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa, Thánh sư diệu dược trấn Nam Bang. Tạm dịch: Thi đậu Hoàng giáp tiếng lừng Trung Quốc Chữa bệnh thần diệu tài quán Nam Bang. Đây là những câu thơ được khắc ghi trên bia mộ của Đại Y Thiền sư Tuệ Tĩnh1, nay vẫn còn được lưu giữ tại đền thờ của ông ở chùa Hải Triều làng Yên Trung, xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Đại Y Thiền Sư Tuệ Tĩnh xuất thân là một nhà sư, nhưng cũng là một thầy thuốc tài giỏi được nhân dân ca tụng là ông tổ của nghề thuốc nam. Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm giang2 Y đức, y đạo, y tài của Đại Y Thiền Sư Tuệ Tĩnh đã trở thành tấm gương sáng không chỉ cho những người Phật tử hành y đạo nói riêng mà còn cho cả những người hành y đạo nói chung trên con đường y nghiệp của mình. Noi theo những tấm gương của các bậc tiền nhân đi trước như Tuệ Tĩnh Thiền sư, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác3,…những bài học quý báu trên con đường hành nghề y cứu chữa cho những người bệnh, Phật giáo nói chung và những Phật tử ngành y nói riêng luôn nhận thức được vai trò của mình đó là đóng góp vào công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, đồng thời truyền bá, lan tỏa, chia sẻ những hiểu biết về đạo Phật, giúp cho mọi người dân có được những nhận thức đúng đắn về những giáo lý, giáo luật của đạo Phật, những lời răn dạy tốt đẹp mà Phật giáo mang tới. Từ đó, đã góp phần thúc đẩy Phật giáo được lan tỏa xa hơn, rộng và nhanh hơn. 1 Tuệ Tĩnh Thiền sư (1330 - 1400) là một lang y sống ở giai đoạn cuối thời Trần. Ông được hậu thế suy tôn là tiên thánh của ngành thuốc Nam. 2 Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia, xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, ở chùa Hải Triều làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng. 3 Lê Hữu Trác (1724 - 1791) tên hiệu Hải Thượng Lãn Ông (ông lười ở Hải Thượng), là nhà y học lỗi lạc nổi tiếng nhất của Việt Nam thời trung đại, là nhà văn, nhà thơ tài hoa, có đóng góp đáng kể đối với văn học dân tộc ở thế kỉ XVIII, đặc biệt là ở thể văn xuôi tự sự.
  5. 394 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Thứ hai, chia sẻ khó khăn, trọng trách đang đè nặng lên bộ máy y tế quốc gia. Theo thống kê chung về nhân lực của ngành y tế, hiện cả nước có khoảng 345.000 nhân viên y tế, trong đó số lượng bác sĩ là trên 55.000 người, tương ứng với tỷ lệ 7,2 bác sĩ/ 1 vạn dân, còn số y tá và hộ lý là 105.000 người, tương ứng 13 y tá, hộ lý/1 vạn dân. Nhìn chung tỷ lệ này cũng được xếp vào nhóm có tỷ lệ cao trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn thấp hơn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Phillippines và tương đương với Indonesia1. Thực trạng thiếu hụt nguồn nhân lực tại tuyến y tế cơ sở đã và đang trở thành một trong những gánh nặng rất lớn lên bộ máy Y tế của Việt Nam. Hiện nay, ngành Y tế còn nhiều những vấn đề khó khăn khác đang tồn tại đòi hỏi các cơ quan quản lý phải nhanh chóng tìm ra những giải pháp, định hướng giải quyết kịp thời và đồng bộ. Sự tham gia tích cực của Phật giáo Việt Nam không chỉ là hành động tỏa sáng tấm lòng từ bi, “cứu khổ độ sinh” của giáo lý Nhà Phật, mà còn là việc làm thiết thực chia sẻ nỗi lo, gánh nặng mà các cơ quan ban ngành chứ năng phải xử lý. Sự góp mặt tham gia vào công tác y tế của các chư Tăng, Ni, Phật tử đã giúp bổ sung một số lượng đáng kể các thầy thuốc, qua đó giúp tăng cường sự quan tâm, chăm sóc dành cho người bệnh ở các tuyến cơ sở, vùng sâu vùng xa; giảm tải lượng bệnh nhân tập trung về các tuyến trung ương, nhờ đó nâng cao được toàn diện chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Thứ ba, chăm sóc sức khỏe tinh thần cho người bệnh bằng giáo lý của Phật pháp. “Sinh-lão-bệnh-tử”- bốn giai đoạn thông thường của một đời người nói riêng và vạn vật trên thế gian này nói chung. Trong bốn mắt xích này, “bệnh” là một mắt xích quan trọng. Bởi suy cho cùng thì giải thoát an lạc hay sinh tử trói buộc của mỗi con người cũng đều do bệnh:“tâm bệnh” và “thân bệnh”. Bên cạnh việc chữa “thân bệnh”, Phật pháp là phương thuốc hữu nghiệm để giúp chữa lành “tâm bệnh” mà theo giáo lý nhà Phật là cái gốc khổ đau của tất cả chúng sinh. Cũng chính Phật pháp có những lời giải đáp, cách thức giúp chúng sinh tìm ra con đường đúng đắn giúp giải thoát khỏi bể khổ tâm can của bản thân mình. Những lời răn dạy, giáo lý của Đức Phật đã giúp chúng sinh biết tìm về con đường chính đạo, rời xa u mê, từ đó xua tan, diệt trừ đi “tâm bệnh” trong mỗi con người. Hiện nay, tại các ngôi chùa và các cơ sở khám chữa bệnh của Phật giáo ở khắp mọi nơi, hoạt động thường niên được ban trì sự tổ chức đó là các khóa tu để thuyết pháp, giảng kinh do các chư Tăng Hòa thượng, Ni trưởng, của Giáo hội Phật giáo đảm nhiệm, nhờ đó giúp chúng sinh sáng tỏ cái nhìn về nhân sinh quan trong cuộc đời của mỗi người. Định hướng cho mọi người biết con đường tu tập đúng đắn của 1 Trích nguồn Caodangykhoatphcm.edu.vn.
  6. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 395 đạo Phật, để có thể buông bỏ, rũ xã đi những “tham-sân-si”1 của bản thân mình, để tìm được về với con đường chánh pháp, từ bi, và cũng là cách thức để diệt trừ đi “tâm bệnh”. Hiện nay, theo số liệu tổng kết có 2.255 đạo tràng Bát Quan trai, Tu thiền, Niệm Phật, Pháp Hoa, Dược Sư, Đại Bi,...;195 đơn vị tổ chức khóa tu, 107 lớp giáo lý, 1.452.112 phật tử tham gia sinh hoạt tu học định kỳ tại các đạo tràng, khóa tu, lớp giáo lý và thính pháp tại các giảng đường2. Thứ tư, tích cực đẩy mạnh các hoạt động phục vụ công tác y tế. Mục tiêu tổng quát chung của ngành Y tế “là giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ. Mục tiêu đến năm 2020 là bảo đảm công bằng, nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khoẻ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mọi tầng lớp nhân dân, đưa sức khoẻ nhân dân ta đạt mức trung bình của các nước trong khu vực”3. Để đáp ứng được mục tiêu đã đề ra, công tác Y tế không thể chỉ gói gọn trong khám, chữa bệnh mà còn phải thực hiện đồng bộ rất nhiều các công tác liên quan khác. Các hoạt động thường niên được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức không chỉ giúp truyền bá thông điệp từ bi, nhân ái của đạo Phật mà còn chia sẻ những gánh nặng, nhiệm vụ đang đè nặng lên các các ban ngành, cơ quan quản lý. Các hoạt động đa dạng như quyên góp, giúp đỡ bằng cả tinh thần và vật chất; chăm sóc, cưu mang cho những người bệnh có hoàn cảnh khó khăn; tuyên truyền nâng cao sức khỏe, đẩy lùi bệnh dịch...đều phục vụ mục đích chung duy nhất đó là đem lại niềm vui, hạnh phúc, an lạc cho mỗi con người. Những hoạt động quý báu đó của Giáo hội đã đóng góp rất lớn trong công tác xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe, y tế nói riêng mà còn nâng cao hiệu quả an sinh xã hội cho người dân hiện nay. 2. Các hoạt động cụ thể của Giáo hội đóng góp vào công tác xây dựng an sinh xã hội của Việt Nam hiện nay Phòng khám Tuệ Tĩnh đường: là hoạt động khám chữa bệnh do Giáo hội đứng ra thành lập và tổ chức, hệ thống phòng khám Tuệ Tĩnh đường đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của Đại y Thiền sư Tuệ Tĩnh; vị Y tổ của thuốc nam với danh ngôn nổi tiếng được lưu truyền đến ngày nay:“Nam dược trị Nam nhân”4; hệ thống Tuệ Tĩnh Đường được thành lập dưới sự chủ trì của Giáo hội Phật giáo Việt Nam với tôn chỉ “phục vụ chúng sinh là cúng dường chư Phật”, đã tổ chức thực hiện hiệu quả điều trị và cấp phát thuốc miễn phí cho người dân đến khám và điều trị. 1 Trích kinh Pháp Cú: “Tham-Sân-Si” là tam độc, là sự ham muốn thái quá, là một cơn giận, nóng nảy, thù hận, không vừa lòng, không như ý muốn, là sự u tối không suy xét theo lẽ phải, hay dở, tốt xấu. 2 Trích Báo cáo tổng kết công tác Phật sự 6 tháng đầu năm 2019 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 3 Nguồn Bộ Y tế- Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật. 4 Tạm dịch: “ Thuốc Nam trị bệnh cho người Nam”.
  7. 396 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Hình thành và xuất hiện đầu tiên tại chùa Pháp Hoa (thuộc Quận Phú Nhuận Thành phố Hồ Chí Minh) đến nay hệ thống phòng mạch Tuệ Tĩnh Đường đang ngày càng lớn mạnh và được nhân rộng ở nhiều các tỉnh thành khác nhau. Không chỉ bởi nêu cao tôn chỉ trong hành động, đó là “cứu một mạng người hơn xây bảy tháp phù đồ”, Tuệ Tĩnh Đường còn đang ngày càng nhận được sự tín nhiệm, tin yêu không chỉ của chúng Phật tử nói riêng mà còn có cả người bệnh nói chung bởi sự tận tâm, nhiệt tình cũng như tài năng y thuật của các tăng ni sư thầy của phòng khám. Các hoạt động y tế từ thiện được tổ chức và diễn ra ở nhiều tỉnh thành: Không có quy mô và bề dày lịch sử phát triển như Tuệ Tĩnh Đường, nhưng hoạt động y tế từ thiện cho người dân đều được các Tăng, Ni, Phật tử ở nhiều nơi nhân rộng và phát triển. Bên cạnh Thành phố Hồ Chí Minh, Phật giáo Tỉnh Bình Dương là một trong những điểm sáng về việc xây dựng và tổ chức dịch vụ y tế miễn phí cho người dân. Trong nhiều năm qua, Phật giáo Tỉnh Bình Dương đã có nhiều hoạt động tích cực, nổi bật trong lĩnh vực y tế để hỗ trợ cộng đồng. Ngày càng có nhiều phòng khám chữa bệnh được mở ra và bước đầu đã hình thành một hệ thống khám chữa bệnh miễn phí của Phật giáo cho người dân trong và ngoài Tỉnh Bình Dương. Theo khảo sát sơ bộ thì thấy hầu hết các huyện, thị, thành phố trong tỉnh đều có các cơ sở hoạt động y tế của Phật giáo: Thành phố Thủ Dầu Một (chùa Hội Khánh, chùa Thuận Thiên, chùa Hưng Đức, chùa Tây Tạng, chùa Bửu Nghiêm, chùa Long Minh), huyện Thuận An (chùa Thiên Phước, chùa Thiên Chơn, chùa Phổ Minh, chùa Long Bửu, chùa Phật Ân), huyện Tân Uyên (chùa Hưng Khánh, chùa Quan Âm), huyện Bến Cát (chùa Hưng Mỹ), huyện Dĩ An (chùa Núi Châu Thới), huyện Dầu Tiếng (chùa Pháp Hoa, chùa Thai Sơn)… Những cơ sở y tế này đã hoạt động rất tích cực và hiệu quả trong công tác chữa bệnh, bốc phát thuốc miễn phí cho người bệnh và những người có hoàn cảnh khó khăn. Bên cạnh đó, Giáo hội Phật giáo Tỉnh Bình Dương còn khuyến khích tạo điều kiện cho các vị Tăng, Ni được học tập, trau dồi thêm kiến thức chuyên môn y học như: Hòa thượng Thích Thường Quang, Ni sư - bác sĩ Thích Nữ Liên Thanh, Sư cô Thích Nữ Hiếu Ngọc, Đại đức Thích Thiện Chức, Đại đức Thích Thiện Đạo,... để các Tăng, Ni có thể nâng cao trình độ chuyên môn y học, phục vụ tốt cho nhân dân và người bệnh. Tham gia tích cực công tác phòng, chống đẩy lùi các đại dịch cùng cộng đồng: Ngay khi xuất hiện ca mắc HIV-AIDS đầu tiên, Phật giáo đã hưởng ứng mạnh mẽ phong trào phòng, chống HIV-AIDS. Trong số 17 mục tiêu phát triển bền vững của thế giới đến năm 2030 do Liên Hợp quốc đặt ra ngày 27-9-2015, có một mục tiêu Sức khỏe tốt và cuộc sống hạnh phúc (SDG 3- Good health and Well-being). Một trong các
  8. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 397 điểm đích mà SDG 3 cần đạt được đến năm 2030 là chấm dứt dịch bệnh AIDS. Vì thế, Phật tử Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống dịch bệnh thế kỷ, đến nay đã đạt được nhiều thành quả, góp một phần không nhỏ vào công cuộc chung đẩy lùi HIV-AIDS của Nhà nước và toàn xã hội. Ví dụ như dự án “Sáng kiến lãnh đạo Phật giáo” được tổ chức thiết lập tại Việt Nam vào năm 2002 với mục đích giúp làm giảm sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người sống chung với HIV, đặc biệt là trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; tăng cường chăm sóc và hỗ trợ tại cộng đồng cho trẻ em và các gia đình có người bị nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV; giảm khả năng bị tổn thương do HIV cho thanh thiếu niên, gia đình và cộng đồng,... Đây là một dự án quốc tế lớn, được phát triển bởi chính phủ và các tổ chức Phật giáo thuộc các nước Buhtan, Campuchia, Trung Quốc, Lào, Mongolia, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam phối hợp cùng UNICEF. Tại Việt Nam, dự án này đã giúp xây dựng kĩ năng cho Tăng, Ni, Phật tử chăm sóc cảm thông với người bị nhiễm HIV/AIDS trên toàn đất nước gồm Thành phố Hà Nội, Tỉnh Thừa Thiên Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Trà Vinh, trong đó Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh tiên phong đi đầu. Những hoạt động chính của dự án gồm: Tăng, Ni, Phật tử giáo dục cho cộng đồng, nhất là thanh niên, về căn bệnh HIV/AIDS và chăm sóc bệnh nhân tại nhà hoặc bệnh viện khi họ ốm đau. Đặc biệt, các vị Tăng, Ni và Phật tử còn hướng dẫn cho người bệnh các phương pháp thiền trị liệu, thực hiện các nghi lễ của tôn giáo, tổ chức các khóa tu để giúp họ vượt qua khủng hoảng, bất an mà sống vui, sống khỏe. Đối với những thành kiến, sự phân biệt đối xử của cộng đồng, thông qua phương pháp thuyết pháp và các cuộc trò chuyện, tổ chức thăm viếng và ăn uống cùng nhau, tụng kinh cầu nguyện đã giúp người bệnh xóa bỏ mặc cảm và cộng đồng để giảm thiểu sự xa lánh, kì thị. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Phật giáo mở 4 cơ sở hỗ trợ và tư vấn cho bệnh nhân HIV/AIDS tại chùa Diệu Giác (Quận 2), chùa Kỳ Quang II (quận Gò Vấp), chùa Linh Sơn (quận Bình Thạnh) và chùa Phổ Quang (quận Tân Bình). Tổng kết của Giáo hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh báo cáo trong 6 tháng đầu năm 2009, các cơ sở này đã thực hiện tổ chức 12 lớp tập huấn ngắn hạn cho tình nguyện viên và cộng tác viên, 20 đợt truyền thông phổ biến kiến thức cơ bản về HIV/AIDS cho cộng đồng, tư vấn trực và gián tiếp cho 300 lượt trẻ nhiễm và người thân, theo dõi 298 trẻ nhiễm và giúp đỡ, tổ chức 48 lượt kĩ năng phòng tránh HIV/AIDS. Còn tại Tỉnh Thừa Thiên Huế, Ban trị sự Tỉnh thường xuyên tổ chức các lớp dạy châm cứu, dưỡng sinh cho nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân HIV tại chùa Hải Đức.1 1 Trích Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11 (125)/2013.
  9. 398 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 3. Kết quả đạt được Vượt qua những khó khăn về mọi mặt từ nguồn lực đến cơ sở vật chất, nhưng với tâm huyết cùng tấm lòng từ bi, thiện nguyện, các cơ sở khám chữa bệnh trực tiếp dưới bàn tay của các chư tăng, vi, phật tử đã có được sự tín nhiệm, tin yêu của những người bệnh. Điều đó được thể hiện rõ qua các số liệu tổng kết và thống kê. Với hệ thống phòng khám Tuệ Tĩnh Đường, theo số liệu của Ban Từ thiện Xã hội Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhiệm kỳ III của Giáo hội, toàn quốc có 25 Tuệ Tĩnh Đường, 655 phòng thuốc chẩn trị y học dân tộc hoạt động có hiệu quả; đã khám và phát thuốc trị giá trên 9 tỷ đồng. Nổi bật nhất là lớp học y học cổ truyền của Thành hội Phật giáo Thành phố Hà Nội, các Tuệ Tĩnh Đường chùa Pháp Hoa, tịnh xá Trung Tâm ở Thành phố Hồ Chí Minh, chùa Diệu Đế - Tỉnh Thừa Thiên Huế, Tỉnh Kiên Giang, Tỉnh Sóc Trăng, Tỉnh Cần Thơ, Tỉnh Cà Mau, Pháp Hoa - Đồng Nai, Bình Dương, Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang, Ninh Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu, Quảng Nam, Đà Nẵng…Sang đến nhiệm kỳ IV,con số này đã tăng vọt với 126 Tuệ Tĩnh Đường, 115 phòng thuốc chẩn trị y học. Số liệu thống kê khám, chữa bệnh và phát thuốc với tổng trị giá trên 9 tỷ đồng. Nhiệm kỳ V, trên toàn quốc, số lượng Tuệ Tĩnh Đường và các phòng thuốc không thay đổi nhưng tổng trị giá khám, chữa bệnh và phát thuốc lên tới 35 tỷ đồng1 Biểu đồ 1. Sự tăng trưởng về số lượng phòng khám và ngân quỹ khám từ thiện theo các quý của Tuệ Tĩnh đường 140 126 126 120 100 Số lượng phòng khám 80 Tổng chi phí khám từ 60 40 25 9 9 35 Quý III Quý IV Quý V Nguồn theo số liệu của Ban từ thiện Xã hội Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ III, IV, V) 1 Theo số liệu của Ban Từ thiện Xã hội Trung ương GHPGVN nhiệm kỳ III, IV, V.
  10. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 399 Cụ thể hơn, Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh có hai Tuệ Tĩnh đường ở chùa Pháp Hoa (Quận Phú Nhuận) và Tịnh xá Trung Tâm (Quận Bình Thạnh). Hai cơ sở này được xem là có nhiều nhân lực tham gia và giàu kinh nghiệm ở lĩnh vực đông - tây y, được đầu tư cơ sở hạ tầng tốt. Trong năm 2006, Tuệ Tĩnh đường chùa Pháp Hoa đã khám 14.657 lượt bệnh nhân, châm cứu 4.565 lượt người, bốc 123.200 thang thuốc nam với tổng trị giá là 563.345.000 đồng và khám bệnh Tây y cho 4.700 lượt người, tiền thuốc 20.675.000 đồng. Còn Tuệ Tĩnh Đường Tịnh xá Trung tâm khám 33.120 lượt bệnh nhân, bốc 57.600 thang thuốc, tổng trị giá 192.000.000 triệu đồng. Trong 30 năm, chùa Vạn Thọ ở Quận 1 là nơi được người dân thành phố cũng như các tỉnh lân cận biết đến như là nơi chuyên chữa trị các chứng bông gân, trật khớp, bó gãy xương,… với phương thuốc gia truyền hiệu nghiệm. Còn Linh Quang Tịnh xá tại Quận 4 chuyên chữa các bệnh thần kinh tọa, viêm xoang, bại liệt, viêm xương khớp… miễn phí cho bà con nghèo trên địa bàn. Một số ngôi chùa khác như chùa Kỳ Quang II ở Quận Gò Vấp, chùa Đinh Hương ở Quận 12, chùa Tập Thành ở Quận Bình Thạnh, Tịnh Xá Lộc Uyển ở Quận 6, chùa Phước Hòa ở quận Gò Vấp…có phòng khám và điều trị bệnh bằng y học cổ truyền kết hợp y học hiện đại. Điều này đã cho thấy vai trò rất lớn của Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh trong việc chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, có tính hiệu quả và chuyên sâu, không chỉ cho người dân nghèo, người nhập cư ở tại thành phố mà còn phục vụ các tỉnh lân cận. Hiện nay, hệ thống y tế ở đồng bằng sông Cửu Long mặc dù đã có sự phát triển hơn trước, nhưng thực sự vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu khám chữa bệnh ngày một nhiều của người dân. Chính vì thế, với tấm lòng từ bi và thực hiện phương châm cứu khổ độ sinh, nhiều ngôi chùa đã tổ chức phòng thuốc để khám, chữa bệnh cho người dân nghèo và có hoàn cảnh khó khăn. Có thể kể đến một số chùa tiêu biểu: chùa Phước Thiện (xã Lương Quới, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre), chùa Tân Khánh (xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre), chùa Khải Tường (xã Mỹ Đức Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang), chùa Phước Long (xã Hội Xuân, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), chùa Hương Sơn (phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng), chùa Phật Học (phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng), chùa Tâm Thành (xã Phú Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp), chùa Phong Lợi (xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu), Sắc Tứ Quan Âm Cổ Tự (phường 4, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau),… Hoạt động mở phòng khám chữa bệnh cho người dân tại các ngôi chùa chính là góp phần rất lớn trong công tác xã hội hóa hoạt động y tế, giúp giảm tải những gánh nặng, chia sẻ khó khăn với các cơ quan quản lý, đồng thời giúp tăng cường hỗ trợ khám chữa bệnh trị kịp thời của người dân.
  11. 400 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 4. Những khó khăn, tồn tại Các chư tăng, ni, phật tử cùng với Giáo hội đã không ngừng nỗ lực bằng mọi hành động chung tay góp sức phục vụ cho nhân dân. Là đạo của từ bi, của lòng nhân ái, với truyền thống đồng hành cùng dân tộc, Phật giáo Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế trong lòng chúng sinh với tinh thần nhập thế, hành thiện cứu đời, không ngần ngại của giới tăng, ni, phật tử. Tuy nhiên, trong các công tác hoạt động, Giáo hội và các tăng, ni, phật tử cũng đã và đang phải đối mặt với những khó khăn chưa thể tự giải quyết. 4.1. Thiếu hụt nguồn lực Nguồn lực kinh tế: với tôn chỉ “cứu khổ độ sinh” của giáo lý Nhà Phật, nêu cao hành động từ thiện lá lành đùm lá rách, cứu giúp chữa bệnh cho mọi người, các hệ thống phòng khám của Giáo hội đã và đang ngày càng được sự tín nhiệm, yêu mến của đông đảo người bệnh ở khắp nơi. Hiện nay, các cơ sở vẫn đang thực hiện chăm sóc và điều trị hoàn toàn miễn phí cho người bệnh, tuy nhiên, vấn đề thực tế tồn tại đó là số lượng thống kê lượt điều trị ở các cơ sở đều đang ngày một tăng lên. Đó là một tín hiệu vui, đáng mừng bởi đó là minh chứng tốt nhất cho sự tin tưởng, tín nhiệm của người bệnh dành cho các cơ sở khám bệnh của Giáo hội. Dù vậy, số lượng bệnh nhân hàng ngày đến khám và điều trị tăng lên đòi hỏi nguồn lực cung cấp thuốc men, vật tư y tế cũng như các chi phí thăm khám chăm sóc cho người bệnh cũng theo đó tăng lên, dẫn đến vượt quá khả năng đáp ứng của các cơ sở. Một phần chính vì lý do đó mà số lượng các phòng khám đạt chuẩn, đủ điều kiện cơ sở vật chất được cấp phép hoạt động của Bộ Y tế rất ít, công suất hoạt động cũng chưa cao. Điều này được thể hiện rõ bởi thống kê số lượng phòng khám, thầy thuốc ở các tỉnh dưới đây: Bảng 1: Số Phòng khám Đông y do Giáo hội tổ chức Số lượng phòng Số lượng người Số lượng STT Tỉnh, thành khám khám (1 tháng) thầy thuốc 1 Khánh Hòa 1 600 3 2 Đắc Lắc 1 1500 10 3 Bến Tre 6 6290 8 4 Bạc Liêu 2 1050 2 5 Đà Nẵng 1 295 42
  12. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 401 6 Cần Thơ 2 6219 6 7 Quảng Trị 1 30 3 8 Tiền Giang 1 13204 31 9 Tây Ninh 2 600 5 10 Đồng Nai 9 15800 30 11 Bình Dương 3 2400 5 12 Thừa Thiên Huế 1 795 40 13 Gia Lai 1 1000 1 14 Quảng Ngãi 2 1515 20 Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác phật sự năm 2018, Ban Từ thiện Xã hội Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nguồn lực đội ngũ y tế chưa đồng bộ và chuyên sâu: Hiện tại, hầu như các cơ sở khám chữa bệnh của Giáo hội đều chủ yếu do các tăng, ni, phật tử đảm nhiệm vai trò thăm khám và chữa bệnh chính cho người dân. Đó là một điều vô cùng đáng quý, bởi đó là những hành động cụ thể hóa cho giáo lý “phụng sự chúng sinh tức cúng dường chư Phật”, lan tỏa thiện nghiệp đến với chúng sinh. Tuy nhiên, qua các con số thống kê của Trung ương Giáo hội, có thể thấy số lượng thầy thuốc điều trị tại các cơ sở vẫn đang thiếu rất nhiều so với nhu cầu của người bệnh, đặc biệt là đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên sâu và đa dạng. Một vấn đề khác, các cơ sở y tế của Giáo hội đều đang chủ yếu sử dụng các phương pháp điều trị bằng y học dân tộc mà rất hạn chế hoặc gần như không có sự kết hợp các phương pháp y học hiện đại. Mặc dù sử dụng y học cổ truyền dân tộc có lợi thế nhất định như chi phí không cao, có thể tự chủ động được trong cung cấp thuốc bằng cách tự trồng, tự chế biến,… và còn giúp lưu giữ, phát triển nền y học cổ truyền với hàng nghìn năm kinh nghiệm quý báu của dân tộc. Tuy nhiên, việc sử dụng phần lớn các thuốc bằng y học cổ truyền cũng đang tồn tại một số vấn đề như chất lượng an toàn của nguồn dược liệu, các quy trình kiểm định vệ sinh trong chế biến, bảo quản sử dụng thuốc theo quy định của Bộ Y tế vẫn chưa thật sự đạt yêu cầu. Việc vận dụng và kết hợp linh hoạt giữa y học hiện đại và y học cổ truyền dân tộc trong công tác khám, chẩn đoán và điều trị còn rất hạn chế, rất ít các phòng khám có thể thực hiện khám và điều trị được các bệnh lý đa khoa hoặc các bệnh lý phức tạp đòi hỏi trình độ cao.
  13. 402 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Bảng 2. Số phòng khám Tây y do Giáo hội tổ chức Số lượng Số lượng người STT Tỉnh, thành Số lượng bác sĩ phòng khám khám (1 tháng) 1 Bạc Liêu 2 800 6 2 Bình Dương 7 2760 13 3 Thừa Thiên Huế 1 1129 21 Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác phật sự năm 2018, Ban Từ thiện Xã hội Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Có thể thấy, số các phòng khám tây y do Giáo hội tổ chức cũng như số lượng chung các thầy thuốc khám bệnh vẫn đang ở con số rất khiêm tốn. Tiếp tục với đà tăng lên của lượng bệnh nhân đến khám và điều trị như hiện nay thì Giáo hội sẽ cần có những hướng giải pháp để giải quyết vấn đề này. 4.2. Thiếu sự đồng bộ trên tất cả các cơ sở khám chữa bệnh của Giáo hội trong cả nước Các cơ sở khám chữa bệnh tuy đang ngày càng phát triển và lớn mạnh ở nhiều nơi, nhưng các hoạt động vẫn chưa có tính đồng bộ ở tất cả các tỉnh thành của cả nước. Theo khảo sát sơ bộ cũng như qua các báo cáo thường kỳ của Giáo hội, mặc dù hiện nay các cơ sở khám chữa bệnh từ thiện của Giáo hội đang liên tục được mở rộng cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, sự tiến bộ đó chủ yếu vẫn chỉ tập trung ở những nơi Phật giáo đã và đang phát triển về cả chiều sâu và chiều rộng như Thành phố Hồ Chí Minh, đồng bằng sông Cửu Long, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhưng đối với các vùng xa xôi hẻo lánh khác như các tỉnh miền núi Tây Bắc, trung du, đồng bằng bắc bộ hoặc hải đảo xa xôi,… những nơi mà Phật giáo chưa có bề dày phát triển thì cũng gần như hoạt động này cũng rất ít xuất hiện hoặc gần như là không có. Đây là một sự thiệt thòi rất lớn cho nhân dân đang sinh sống ở những nơi đây, bởi lẽ, Phật giáo từ lâu đã như ánh sáng, rọi tỏa khắp muôn nơi tới mọi miền lãnh thổ của đất nước, đã đến với tất cả mọi người, không phân biệt giai tầng địa vị. Việc phát triển đồng đều của các mô hình hoạt động từ thiện này không chỉ là đem lại niềm vui, an lạc cho người dân, mà bên cạnh đó còn giúp lan tỏa để Phật Pháp rọi sáng hơn đến với người dân sinh sống ở khắp mọi nơi. 5. Một số giải pháp, khuyến nghị Các hoạt động của Phật giáo Việt Nam trong lĩnh vực y tế có ý nghĩa và vai trò đóng góp rất lớn trong công tác an sinh xã hội. Tuy nhiên, để khắc phục những hạn
  14. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 403 chế đang còn tồn tại và phát huy hơn nữa vai trò của Giáo hội Phật giáo trong lĩnh vực y tế, góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế, theo nhóm tác giả cần tập trung vào một số giải pháp, khuyến nghị sau. Thứ nhất, tăng cường nguồn lực từ các tổ chức xã hội, kêu gọi các tổ chức, mạnh thường quân xây dựng gây quỹ từ thiện Để có thể duy trì các hoạt động khám bệnh từ thiện miễn phí trong thời gian qua đó là nhờ sự nỗ lực vô cùng to lớn của Giáo hội nói chung và các chư Tăng, Ni, Phật tử, những người trực tiếp hàng ngày chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân nói riêng. Mặc dù hiện tại việc điều trị chủ yếu dùng thuốc y học cổ truyền và các phương pháp ít tốn kém, nhưng với nhu cầu tăng nhanh của người bệnh, đòi hỏi các cơ sở cần phải có nguồn lực ổn định và đảm bảo để giúp duy trì và phát huy hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, sự thiếu thốn của cơ sở vật chất, các trang thiết bị máy móc hiện đại cũng là một vấn đề cần phải được quan tâm. Bởi lẽ, nếu như có sự kết hợp từ nhiều hướng, bằng nhiều phương pháp thì công tác thăm khám, chẩn bệnh và điều trị sẽ càng chính xác hơn, tốt hơn cho người bệnh. Vì thế, sự tham gia vào cuộc để hỗ trợ xây dựng nguồn lực tài chính để duy trì ổn định và nâng cao hiệu quả cho các cơ khám bệnh là điều vô cùng cần thiết và quan trọng. Sự quan tâm, tạo điều kiện của các ban ngành cùng các tổ chức xã hội, các mạnh thường quân không chỉ là những hành động chia sẻ thiết thực vì một xã hội chung, mà còn là hành động làm đẹp lên bản sắc văn hóa dân tộc “lá lành đùm lá rách” của người Việt Nam từ bao đời nay. Thứ hai, đào tạo, mở rộng học hỏi cọ xát chuyên môn y khoa cho các tăng, ni, phật tử, từ đó nâng cao chất lượng của các phòng khám chữa bệnh Để công tác y tế tại các cơ sở được đảm bảo và đáp ứng đúng với những quy định của Bộ Y tế đã đưa ra, Giáo hội cần phải có sự đầu tư kỹ lưỡng cho các tăng, ni, phật tử được học tập cơ bản tiến tới chuyên sâu về kiến thức chuyên môn cũng như công tác quản lý y tế. Hiện nay, đối mặt với tình trạng chung thiếu hụt nhân lực y tế của Việt Nam, Bộ Y tế đã có những giải pháp, bước đi rất cụ thể hiệu quả và tích cực như phối hợp với Liên minh châu Âu và Ngân hàng Thế giới mở rộng việc đào tạo nhân lực cho tuyến y tế cho các tỉnh khó khăn thông qua Dự án “Giáo dục và đào tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y tế” (Dự án HPET).1 Tại đây, cán bộ y tế sẽ được đào tạo chăm sóc sức khỏe ban đầu theo nguyên lý y học gia đình 1 Trích nguồn http://www.moh.gov.vn/
  15. 404 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... để quản lý các bệnh không lây nhiễm tại cộng đồng như huyết áp, tiểu đường… và thực hiện lập hồ sơ quản lý sức khỏe cho người dân. Việc tạo điều kiện hỗ trợ, khuyến khích các tăng, ni, phật tử tham gia các chương trình, mô hình đào tạo cơ bản của Bộ Y tế hay các trình độ y khoa cao hơn như cao học, nghiên cứu sinh tại các trường đại học y có uy tín và chất lượng,… là những cách làm hiệu quả giúp nâng cao trình độ chuyên môn cũng như công tác quản lý y tế, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động cho các cơ sở. Thứ ba, mở rộng các cơ sở khám bệnh từ thiện ra các cơ sở thờ tự của Phật giáo trong cả nước Để người dân đang sinh sống đều có được sự chăm sóc về y tế miễn phí và đầy đủ, việc nhân rộng, phát triển mô hình của Giáo hội đang làm là điều vô cùng cần thiết. Vì thế, rất cần sự cố gắng trước hết là từ Giáo hội, sau đến là sự chung tay vào cuộc hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội khác. Bởi trên thực tế, thực hiện xuyên suốt giáo lý của nhà Phật, đó là “Hộ quốc an dân”, các tăng, ni, phật tử đều không quản ngại bản thân mình để giúp đời giúp người dù cho có ở những nơi hẻo lánh, xa xôi, khó khăn nhất trên mọi miền Tổ quốc, nhưng không phải ở nơi đâu cũng có các tăng, ni, phật tử am hiểu về y học hay biết về dùng thuốc điều trị bệnh. Đó là một hạn chế rất lớn cho sự phát triển của những mô hình hoạt động như hiện nay, bởi lẽ, ở bất kỳ đâu trên dải đất Việt Nam này, hình ảnh những ngôi chùa, những cơ sở thờ tự của Phật giáo cùng những giáo lý của nhà Phật đã tồn tại ở trong tiềm thức của mọi người dân, đã trở thành một phần gắn liền với bản sắc văn hóa, với linh hồn của dân tộc Việt Nam. Việc chung tay xây dựng và mở rộng thêm các cơ sở khám bệnh từ thiện là một hướng đi rất cần sự quan tâm, chung tay đóng góp của cả Giáo hội và cộng đồng. 6. Kết luận Bảo đảm an sinh xã hội cho người dân là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ phát triển và hội nhập hiện nay. Chính phủ Việt Nam đặt quyết tâm phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với một quốc gia có thu nhập trung bình và với các chuẩn mực quốc tế, đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” khẳng định: Đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm để người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội, bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu nhập thấp, người khuyết
  16. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 405 tật nặng, người nghèo…); bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân”.1 Có rất nhiều lĩnh vực khác nhau cần được đồng bộ xây dựng cải thiện và nâng cao để có thể đáp ứng được một xã hội an sinh đầy đủ. Để làm được điều đó, những công tác trong lĩnh vực y tế là một trong những hoạt động thiết yếu vô cùng quan trọng, không thể thiếu. Từ khi thành lập đến nay, bằng sự thấu ngộ chân lý của giáo lý nhà Phật “cứu khổ cứu nạn”, cùng tinh thần “phụng đạo, yêu nước”, “hộ quốc, an dân”, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tích cực tham gia trong nhiều lĩnh vực bằng các hoạt động thiết thực, nhằm góp phần nâng cao toàn diện đời sống cho nhân dân. Các hoạt động trong lĩnh vực y tế của Giáo hội không chỉ góp phần giảm tải gánh nặng cho bộ máy quản lý y tế, mà quan trọng hơn đó là những hành động từ bi hạnh nguyện giúp đỡ những người bệnh khó khăn, là minh chứng cho những giáo lý tốt đẹp của đạo Phật, đó là “cứu một mạng người hơn xây bảy tháp phù đồ”. Những đóng góp to lớn đó không chỉ mang lại lợi ích cho y tế nói riêng mà còn là nguồn lực thúc đẩy hình thành nên một hệ thống an sinh xã hội đảm bảo, chất lượng và phát triển cho người dân. Những hoạt động của Giáo hội nói chung và của các tăng, ni, phật tử nói riêng là những việc làm vô cùng trân quý và cần được ghi nhận và phát triển rộng rãi hơn nữa. Giống như lời của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định trong Hội nghị “Thủ tướng với các Tôn giáo”: “Tôn giáo ở Việt Nam không chỉ là một thành tố của văn hóa mà còn thực sự là một nguồn lực quan trọng, góp phần phát triển đất nước”.2 T ÀI L I ỆU T H A M K H ẢO 1. Ban Thông tin Truyền thông của Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Báo cáo tổng kết công tác phật sự từ năm 2013 đến năm 2016 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 2. Ban Thông tin Truyền thông của Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Báo cáo tóm tắt công tác phật sự quý I năm 2017 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 3. Ban Thông tin Truyền thông của Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Báo cáo của Ban Từ thiện Xã hội Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ III, IV,V. 1 Trích Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng. 2 Trích lời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Hội nghị “Thủ tướng với các tôn giáo” ở Đà Nẵng, 8/2019.
  17. 406 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 4. Ban Trị sự Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh, 2006, Báo cáo tổng kết công tác phật sự năm 2006 và chương trình hoạt động phật sự năm 2007 của Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh, Văn phòng Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh phát hành. 5. Ban Trị sự Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng kết công tác phật sự năm 2009 và chương trình hoạt động phật sự năm 2010 của Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh. 6. Dương Hoàng Lộc (2013), Hoạt động y tế của Phật giáo Bình Dương - dưới góc nhìn dịch vụ xã hội, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11 (125)/2013. 7. Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Hội đồng Trị sự (2012), Kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981 - 2011), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Tuân (/2019): “Phật tử với hoạt động phòng, chống HIV/ AIDS”, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 7(155), tháng 7/2019. 9. Mai Thị Thơm (2018), “Vài ghi nhận về công tác khám chữa bệnh từ thiện của Phật giáo hiện nay”. 10. Tài liệu về Hệ thống khám bệnh chữa bệnh bằng y học cổ truyền của Tuệ Tĩnh đường tại thành phố Đà Nẵng (số liệu do Hội Đông y thành phố Đà Nẵng cung cấp). 11. Thông tư số 41/2015/TT-BYT ngày 16/11/2015 của Bộ Y tế về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 41/2011/TTBYT ngày 14/11/2011 hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. 12. Trần Hồng Liên (2010), Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 13. Thích Thường Quang và Dương Hoàng Lộc, “Hoạt động cung cấp dịch vụ y tế cho cộng đồng của Phật giáo Việt Nam - Những thành tựu tiêu biểu”. 14. Trần Hậu, Đoàn Minh Huấn (2012), Phát triển dịch vụ xã hội ở nước ta đến năm 2020, một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Trường A hàm, bản dịch chú của Tuệ Sĩ, Nxb. Phương Đông, 2008. 16. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (tháng 11/2013), “Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020”.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0