HƯỚNG TỚI CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN 2015: NHỮNG VẤN<br />
ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM<br />
<br />
<br />
TS. Ngô Tuấn Anh1<br />
Trường Đại học Kinh tế quốc dân<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một trong 3 trụ cột quan trọng của Cộng<br />
đồng ASEAN (Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã hội), được kỳ vọng hình thành<br />
vào năm 2015, mở ra cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong mở rộng thị<br />
trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực..., tận dụng<br />
được cơ hội do quá trình hội nhập quốc tế mang lại.<br />
Nghiên cứu này nhận diện những cơ hội và thách thức mà cộng đồng doanh<br />
nghiệp Việt Nam phải đối mặt khi tham gia AEC.Tuy nhiên, cơ hội và thách thức luôn<br />
chuyển hóa cho nhau, nếu không tận dụng được cơ hội có thể lại trở thành thách thức vô<br />
cùng lớn. Do đó, nghiên cứu cũng đưa ra các khuyến nghị đối với cộng đồng doanh<br />
nghiệp Việt Nam nhằm tận dụng cơ hội, chuyển hóa thách thức nhằm xây dựng được<br />
cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam vững mạnh thời gian tới.<br />
Từ khóa: AEC, Cộng đồng kinh tế ASEAN, Doanh nghiệp, Việt Nam<br />
<br />
<br />
Abstract<br />
ASEAN Economic Community (AEC) which is one of three important pillars of ASEAN<br />
Community (Political-Security, Economic and Socio-Cultural) is expected to be<br />
established in 2015, providing many great opportunities for Vietnamese enterprises in<br />
expanding export markets, improving competitiveness and quality of human resources ...,<br />
as well as taking advantage of international integration process.<br />
This study identifies opportunities and challenges that the Vietnamese enterprises<br />
will encounter when joining AEC. However, opportunities and challenges always<br />
transform to the other, by which the opportunity can become a tremendous challenge.<br />
Therefore, the study makes some recommendations for the Vietnamese enterprises to take<br />
advantage of opportunities, and transform challenges in order to build strong<br />
Vietnamese enterprises community in the future.<br />
Keywords: AEC, ASEANE conomic Community, Enterprises, Vietnam<br />
<br />
1. Giới thiệu<br />
Cộng đồng kinh tế ASEAN - ASEAN Economic Community (AEC) là một trong<br />
3 trụ cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN (Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã<br />
hội) và đã được các nhà lãnh đạo ASEAN khẳng định lại cam kết hội nhập khu vực, nhất<br />
trí đẩy nhanh việc thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Đây là khối hợp tác kinh<br />
<br />
1<br />
Ngô Tuấn Anh, Điện thoại: 0926992989; Email: ngotuananh@neu.edu.vn<br />
<br />
<br />
1<br />
tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN nhằm mục tiêu hội nhập khu vực trên cơ<br />
sở Hiến chương ASEAN, và trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, cần thúc đẩy quá trình<br />
xây dựng cộng đồng kinh tế ASEAN càng sớm càng tốt.<br />
Hiện lộ trình thực hiện xây dựng AEC đang tiến triển thuận lợi, đạt mục tiêu đề ra,<br />
như đã tiến hành xóa bỏ thuế quan và triển khai các thoả thuận thương mại tự do với các đối<br />
tác thương mại lớn từ 1/1/2010.Đồng thời, ASEAN cũng nhất trí xác định 12 lĩnh vực ưu<br />
tiên đẩy nhanh liên kết, đó là: Hàng nông sản; Ô tô; Điện tử; Nghề cá; Các sản phẩm từ cao<br />
su; Dệt may; Các sản phẩm từ gỗ; Vận tải hàng không; Thương mại điện tử ASEAN; Chăm<br />
sóc sức khoẻ; Du lịch; và Logistics. Tuy nhiên, để hoàn thành lộ trình AEC vào 2015 đòi hỏi<br />
các quốc gia ASEAN, các doanh nghiệp phải có những điều chỉnh chiến lược phù hợp, cũng<br />
như giải quyết được những vấn đề không đồng thuận của các quốc gia trong khối ASEAN.<br />
Hsu (2003) cho rằng cần hỗ trợ nhiều hơn nữa về mặt pháp lý đối với các nước chậm phát<br />
triển trong khối (các nước CLMV: gồm Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam) để đáp ứng<br />
được về mặt kỹ thuật và hưởng lợi đầy đủ do cộng đồng AEC mang lại. Schwartz và<br />
Villinger (2004) cho rằng quyết tâm chính trị của các quốc gia ASEAN có vai trò quyết định<br />
đến sự thành công của cộng đồng kinh tế ASEAN, và cần thiết phải chấp nhận hy sinh các<br />
lợi ích trước mắt để đạt được các lợi ích kỳ vọng đối với các quốc gia ASEAN trong tương<br />
lai. Nikomborirak và Stephenson (2002) chỉ ra rằng các bất đồng về mặt chính trị của các<br />
quốc gia trong khối ASEAN và trong bản thân từng quốc gia, lợi ích của các nhóm lợi ích tại<br />
các quốc gia có thể bị ảnh hưởng là các nhân tố cản trở tới quá trình xây dựng cộng đồng<br />
kinh tế ASEAN, và tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các nền kinh tế ASEAN sẽ là thách<br />
thức lớn nhất, sẽ ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia của mỗi nước thành viên một cách khác<br />
nhau, đây là một thách thức lớn cần vượt qua.<br />
Xây dựng cộng đồng doanh nghiệp ASEAN luôn được coi là ưu tiên hàng đầu trong<br />
quá trình xây dựng một ASEAN năng động, trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) là yếu<br />
tố cốt lõi của các nền kinh tế ASEAN thời gian tới. Sự phát triển của hệ thống SME sẽ góp<br />
phần quan trọng nhằm đạt những mục tiêu tăng trưởng bền vững của ASEAN và các quốc<br />
gia trong khối. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển hệ thống doanh nghiệp, đặc<br />
biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với Việt Nam ở hiện tại và thời gian tới phải có những<br />
bước ngoặt căn bản, trong cả tư duy và hành động, có sự thống nhất và đồng thuận từ chính<br />
phủ, doanh nghiệp và người dân.<br />
Trong bối cảnh hiện tại, các quốc gia ASEAN đồng thuận cao là cần đẩy nhanh tiến<br />
trình hoàn thành xây dựng AEC. Tuy nhiên, mỗi quốc gia với những điều kiện, hoàn cảnh cụ<br />
thể, sẽ đối mặt với những khó khăn thách thức khác nhau. Việt Nam là quốc gia với xuất<br />
phát điểm là nền kinh tế phát triển thấp so với các nước trong khu vực, đồng nghĩa sẽ đương<br />
đầu với nhiều thách thức hơn so với các quốc gia khác. Do đó,cộng đồng doanh nghiệp Việt<br />
Nam cần có sự nhìn nhận đúng mức tầm quan trọng khi tham gia AEC, đây vừa là cơ hội<br />
nhưng cũng đầy thách thức, cơ hội và thách thức luôn chuyển hóa nhau, nếu không tận dụng<br />
được cơ hội có thể phải đối đầu với những thách thức mới.Đặc biệt giai đoạn vừa qua, kinh<br />
tế Việt Nam và các nước ASEAN chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ khủng hoảng kinh tế toàn<br />
cầu, Việt Nam cũng không thành công khi đặt niềm tin vào thành phần kinh tế nhà nước,<br />
nhiều tập đoàn thua lỗ, phá sản, gây nhiều tổn hại trong nỗ lực phát triển kinh tế. Trong khi<br />
đó, thành phần kinh tế tư nhân vẫn chưa nhận được sự hỗ trợ tương xứng từ phía Nhà nước,<br />
tình trạng phá sản, làm ăn thua lỗ, khả năng cạnh tranh thấp của các doanh nghiệp ngày càng<br />
bộc lộ. Do đó, muốn hội nhập thành công, tận dụng được những cơ hội do AEC mang lại thì<br />
hệ thống doanh nghiệp cần nhận diện đúng tầm quan trọng quá trình hội nhập AEC, những<br />
khó khăn, thách thức phải đối mặt, tận dụng triệt để những cơ hội do AEC mang lại.<br />
2<br />
2. Những cơ hội và thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam<br />
2.1 Những cơ hội<br />
Thứ nhất, Việt Nam có cơ hội xây dựng được hệ thống doanh nghiệp vững<br />
mạnh.Dưới sức ép cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay cũng như tiến<br />
trình xây dựng AEC, các quốc gia ASEAN cũng như Việt Nam cần thiết phải có lộ trình<br />
và chiến lược phát triển hệ thống doanh nghiệp của mình, đủ sức cạnh tranh tại thị trường<br />
trong và ngoài nước.<br />
Một trong các đặc trưng của AEC là xây dựng một khu vực có sự phát triển kinh<br />
tế cân bằng với hai yếu tố: Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và Sáng kiến<br />
hội nhập ASEAN nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển ở cấp độ SME cũng như thúc đẩy<br />
quá trình hội nhập kinh tế của các nước CLMV (Campuchia, Lào, Myanma và Việt<br />
Nam), để cho phép tất cả các quốc gia thành viên phát triển theo một định hướng thống<br />
nhất và tăng cường khả năng cạnh tranh của cả khu vực, giúp các nước tận dụng được cơ<br />
hội do quá trình hội nhập AEC mang lại.AEC khuyến khích các thành phần kinh tế tư<br />
nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) phát triển, và dành nhiều ưu đãi, hỗ trợ cho<br />
khu vực này.AEC xác định vai trò của khu vực tư nhân là một bên liên quan trong tiến<br />
trình hội nhập ASEAN; coi phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) là trọng tâm, là<br />
xương sống của các nền kinh tế ASEAN, đã và đang thiết kế một chương trình trước và<br />
sau 2015 nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp các SME hưởng lợi nhiều hơn từ hội<br />
nhập ASEAN, trong đó tập trung vào thiết lập môi trường chính sách năng động, khả<br />
năng tiếp cận nguồn lực từ tài chính, dịch vụ hỗ trợ...được cải thiện; giúp các SME tham<br />
gia vào các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu; nâng cao năng lực lãnh đạo doanh<br />
nghiệp.<br />
Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội lớn trong việc mở rộng thị trường bởi<br />
môi trường thương mại hiệu quả, minh bạch và dễ dự đoán, cùng với việc đơn giản hóa thủ<br />
tục hải quan, loại bỏ các rào cản thương mại và dịch vụ. Quy tắc xuất xứ linh hoạt, hiện đại,<br />
tính minh bạch hóa cao là một số trong nhiều yếu tố thuận lợi hóa. Ví dụ như, trong ASEAN<br />
có chứng nhận xuất xứ hàng hóa, với 60% sản phẩm được sản xuất từ ASEAN thì được<br />
chứng nhận là sản phẩm trong ASEAN, do đó sẽ được hưởng lợi thế trong các hiệp định<br />
thương mại tự do trong ASEAN, nhất là trong ASEAN với bên ngoài.Đối với Việt Nam,<br />
ASEAN là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu về thương mại và đầu tư. ASEAN<br />
hiện là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ 3 của các doanh nghiệp Việt Nam và là đối tác<br />
thương mại cung cấp nguồn hàng hoá lớn thứ 2 cho các doanh nghiệp Việt Nam. Kim ngạch<br />
xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN năm 2013 đạt 40,1 tỷ USD(Tổng cục<br />
thống kê, 2014).<br />
Không những thế, các doanh nghiệp Việt Nam còn có cơ hội tiếp cận với thị<br />
trường rộng lớn hơn là những đối tác của ASEAN, vì ASEAN có một số hiệp định<br />
thương mại tự do với các đối tác như Úc - New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung<br />
Quốc và một số nước khác thông qua các thỏa thuận Thương mại tự do (FTAs) riêng rẽ.<br />
Từ đó, doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng<br />
khu vực và toàn cầu.<br />
Thứ ba, cắt giảm thuế quan là một thuận lợi giúp nâng cao khả năng cạnh tranh<br />
đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong hiệp định ASEAN, các nước cùng xây dựng<br />
hải quan một cửa đồng nghĩa với việc sản phẩm của một công ty sản xuất của Việt Nam<br />
có thể bán tại Singapore, Thái Lan mà không phải chịu thuế. Cắt giảm thuế quan là một<br />
<br />
3<br />
thuận lợi giúp nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam.Thuế<br />
suất trong các hiệp định như các hiệp định ASEAN, thuế suất sẽ về từ 0% - 5% đến năm<br />
2018; nếu sản xuất để xuất khẩu thì sẽ không phải chịu thuế suất hoặc thuế suất thấp. Ví<br />
dụ thuế suất trong ASEAN sẽ về 0% -5% vào 2015, nếu sản xuất để xuất khẩu thì sẽ<br />
không phải chịu thuế suất. Đồng thời, nhập khẩu máy móc cũng không phải chịu thuế<br />
suất, điều này sẽ tạo điều kiện cho việc hạ giá thành và tăng chất lượng của sản phẩm<br />
cũng như tăng tính cạnh tranh của hàng hóa. Theo Bộ Công Thương (2014), tính đến<br />
tháng 8-2014, AEC đã ghi nhận kết quả tích cực về tự do hóa thuế quan mà các nước<br />
ASEAN đạt được, quan trọng nhất là việc xóa bỏ thuế nhập khẩu với mức bình quân 89%<br />
biểu thuế về mức 0%.<br />
Thứ tư, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tạo ra nhiều việc làm hơn, thông qua<br />
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ, phân bổ nguồn lực tốt hơn, tăng<br />
cường năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh,là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt<br />
Nam nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC nhằm thúc<br />
đẩy ASEAN thành một khu vực thu hút đầu tư toàn diện và hướng tới tự do hơn trong<br />
môi trường đầu tư. Có thể thấy trong những năm qua, vốn FDI vẫn tăng mạnh vào<br />
ASEAN, năm 2013 đạt 122,4 tỷ USD trong đó EU và Nhật Bản dẫn đầu, đầu tư nội khối<br />
chiếm 17,4% và Trung Quốc chiếm vị trí thứ 4 khoảng 7,02% với giá trị là 8,6 tỷ USD và<br />
rõ ràng đối với các nước CLMV có những dấu hiệu tích cực đối với tăng trưởng của các<br />
ngành dịch vụ (theo UBQG về hợp tác kinh tế quốc tế, 2014).<br />
Thứ năm, doanh nghiệp Việt với sức ép hội nhập với cộng động doanh nghiệp<br />
ASEAN năng động, hiện đại, phải thích ứng và đẩy mạnh ứng dụng các phương thức<br />
quản lý và kinh doanh hiện đại, như thương mại điện tử và Hải quan điện tử (một trong<br />
các ưu tiên của AEC) sẽ ngày một năng động hơn, năng lực cạnh tranh và năng suất sẽ<br />
được nâng lên. Từ thực tiễn phát triển cho thấy ứng dụng công nghệ thông tin và truyền<br />
thông (ICT) giúp các doanh nghiệp chuyển từ cạnh tranh về chi phí nhân công thấp và tài<br />
nguyên thiên nhiên sang cạnh tranh về lợi thế so sánh của hàng hoá và dịch vụ dựa trên<br />
giá trị tri thức, có giá trị gia tăng cao. Tham gia AEC cũng sẽ là cơ hội cho các doanh<br />
nghiệp tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại, tiếp cận với phương thức kinh doanh<br />
mới, giúp mở rộng thị trường, quảng bá thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm.<br />
2.2. Những thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam<br />
2.2.1. Năng lực cạnh tranh và hội nhập của doanh nghiệp còn yếu<br />
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam yếu. Các doanh nghiệp nhà nước<br />
làm ăn kém hiệu quả, không phát huy được vai trò đầu tàu cho hệ thống doanh nghiệp cả<br />
nước, khu vực kinh tế tư nhân còn bị phân biệt đối xử, chưa đủ sức cạnh tranh với các<br />
doanh nghiệp các nước trong khu vực.<br />
Doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tham gia thị trường thương mại có quy mô lớn,<br />
được hưởng nhiều ưu đãi, nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, nếu không khai thác tốt, các<br />
doanh nghiệp Việt Nam không chỉ mất cơ hội chiếm lĩnh thị trường khu vực, mà ngay thị<br />
trường nội địa cũng khó có thể giữ vững. Ví dụ,từ nhiều năm nay, hàng hoá của các nước<br />
trong khối ASEAN đã tràn ngập thị trường Việt Nam, như sản phẩm dao gọt trái cây, hay<br />
nước tăng lực của Thái Lan…., và sẽ còn tràn vào thị trường Việt Nam nhiều hơn nữa<br />
trong thời gian tới. Các doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử Việt Nam đối mặt với nguy<br />
cơ bị đẩy ra khỏi ngành do hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan và Singapore.Tập đoàn Berli<br />
Jucker (BJC) của Thái Lan vừa đạt được thỏa thuận mua lại lĩnh vực kinh doanh sỉ của<br />
<br />
4<br />
METRO tại Việt Nam là điển hình của các doanh nghiệp ASEAN chuẩn bị làm ăn lâu dài<br />
tại Việt Nam khi AEC chính thức vào 2015.<br />
Việt Nam chưa có nhiều các doanh nghiệp mang tầm quốc tế và khu vực. Năng<br />
lực hội nhập và mở rộng thị trường nước ngoài còn yếu, còn nhiều thụ động trong hoạt<br />
động sản xuất kinh doanh, chưa thực sự chủ động chuyển mình theo yêu cầu đòi hỏi của<br />
hội nhập kinh tế, đây sẽ là bất lợi rất lớn trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi các<br />
nhiều các tập đoàn lớn trên thế giới đầu tư vào Việt Nam. Nếu không có chiến lược phát<br />
triển hệ thống doanh nghiệp từ cả phía chính phủ và doanh nghiệp, chiến lược tìm hiểu và<br />
mở rộng thị trường nước ngoài bài bản thì các doanh nghiệp Việt Nam vẫn sẽ chỉ là<br />
doanh nghiệp đi gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài, phụ thuộc nhiều vào biến<br />
động của kinh tế thế giới và trong nước.<br />
2.2.2. Các doanh nghiệp nhỏ và nhiều ngành của nền kinh tế sẽ chịu tác động<br />
xấu<br />
Tham gia AEC sẽ tạo ra cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam hưởng lợi ích từ<br />
việc áp dụng các thuận lợi hóa thương mại tự do. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh về hàng<br />
tiêu dùng, dịch vụ, thu hút đầu tư sẽ ngày càng tăng cao, lợi thế cạnh tranh về sản xuất<br />
giá rẻ cũng sẽ giảm đi.AEC tạo ra một thị trường có sự tương đồng ở mức cao của các<br />
nền kinh tế ASEAN. Tuy nhiên, hiện đang có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển<br />
của các nước Campuchia - Lào - Myanmar - Việt Nam (CLMV) so với các nước<br />
ASEAN-6 (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan), thể hiện ở<br />
cả quy mô vốn của nền kinh tế, quy mô hoạt động của các doanh nghiệp, trình độ khoa<br />
học kỹ thuật, tay nghề lao động… Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chịu sức ép cạnh<br />
tranh từ hàng hóa nhập khẩu, sản phẩm, dịch vụ, đầu tư của các doanh nghiệp có tiềm lực<br />
lớn, có kinh nghiệm lâu năm và có ưu thế về dịch vụ trên phạm vi thế giới tại các nước<br />
ASEAN khác, như Singapore, Malaysia, Indonesia…<br />
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chưa có nhiều mặt hàng<br />
có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn. Các mặt hàng nông, lâm, thủy sản là thế<br />
mạnh của Việt Nam nhưng đang gặp phải những khó khăn về diện tích canh tác ngày<br />
càng thu hẹp do xu hướng đô thị hóa, khả năng khai thác, đánh bắt, tiếp thu công nghệ<br />
tiên tiến, hiện đại đáp ứng yêu cầu chất lượng của thế giới còn rất hạn chế. Những lợi thế<br />
cạnh tranh của các mặt hàng chế biến như tỷ lệ sử dụng lao động cao, giá lao động rẻ<br />
đang phải đối mặt sự cạnh tranh gay gắt từ các nước trong khu vực. Việc phát triển các<br />
mặt hàng mới còn gặp nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ. Nếu không<br />
nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh có thể khiến cho doanh nghiệp Việt Nam<br />
nhanh chóng bị đào thải dưới áp lực cạnh tranh thế giới, các hiệp định Việt Nam ký kết<br />
có thể đem lại lợi ích chủ yếu cho doanh nghiệp nước ngoài thay vì doanh nghiệp trong<br />
nước. Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn bộc lộ rất nhiều hạn chế. Các mặt<br />
hàng thế mạnh của Việt Nam như da giày, may mặc dường như được lợi thế về giá nhưng<br />
thực chất các sản phẩm đầu vào như sợi, cúc áo... lại nhập từ các quốc gia khác như<br />
Trung Quốc, Hàn Quốc. Nguyên nhân docác sản phẩm hỗ trợ của Việt Nam nhìn chung<br />
còn nghèo nàn về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã đơn điệu, giá lại cao hơn nhiều sản<br />
phẩm cùng loại nhập khẩu. Trong khi đó, các sản phẩm hỗ trợ của Thái Lan, Malaixia...<br />
tuy chất lượng cũng không phải là cao hơn sản phẩm cùng loại của Việt Nam, nhưng<br />
hàng của họ giá rất rẻ, nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng; thêm vào đó, các quốc gia này<br />
chiến lược mở rộng thị trường bài bản, chuyên nghiệp hơn rất nhiều so với Việt Nam, đây<br />
sẽ là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam thời gian tới.<br />
<br />
<br />
5<br />
Các doanh nghiệp cũng sẽ phải đối mặt với thách thức không nhỏ khi AEC có hiệu<br />
lực. Trong đó đáng chú ý là sức ép từ hàng hóa nhập khẩu, cạnh tranh về dịch vụ đầu tư<br />
của các nước ASEAN,một số ngành sau có thể chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực trong thời<br />
gian tới, như:<br />
Ngành công nghiệp ô- tô<br />
Các doanh nghiệp ngành này chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước<br />
ngoài khi Việt Nam mở cửa thị trường. Hơn nữa, công nghiệp phụ trợ đối với ngành công<br />
nghiệp ô tô hiện nay ở Việt Nam rất kém, qui mô thị trường nhỏ là những điểm bất lợi<br />
trong thu hút đầu tư vào ngành này. Thời gian tới khi thuế suất nhập khẩu ô tô có xuất xứ<br />
từ ASEAN ngày càng giảm, ngành ô tô trong nước sẽ còn khó khăn hơn nữa nếu ngành<br />
sản xuất ô tô của Việt Nam không tạo được sự khác biệt.<br />
Các sản phẩm nông nghiệp,chăn nuôi<br />
Giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nướcvào Việt Nam gia<br />
tăng, với giá cả cạnh tranh hơn, hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên quan tại Việt<br />
Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Hiện tại, thức ăn chăn nuôi và sản<br />
phẩm đầu ra chủ yếu bị khống chế bởi các doanh nghiệp nươc ngoài, trong đó có doanh<br />
nghiệp các nước ASEAN; thời gian tới sẽ báo động là giai đoạn hết sức khó khăn đối với<br />
doanh nghiệp Việt Nam trong ngành này.<br />
Theo (Rau quả Thái Lan đánh bật Trung Quốc, 2014)cho biết với mặt hàng rau<br />
quả, kim ngạch nhập khẩu rau quả từ Thái Lan trong 7 tháng đầu năm 2014 đạt gần 106<br />
triệu USD, chiếm 34,2% thị phần. Trong khi đó, Trung Quốc chỉ chiếm được 23,1%. Như<br />
vậy, kim ngạch nhập khẩu rau quả từ Thái Lan lần đầu tiên đã vượt Trung Quốc và trở<br />
thành nước dẫn đầu trong việc xuất khẩu rau quả vào Việt Nam ….cho thấy đây sẽ là lĩnh<br />
vực rất khó khăn đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai, không chỉ từ Thái Lan<br />
mà còn từ các nước ASEAN khác.<br />
Ngành dịch vụ tài chính - ngân hàng<br />
Sẽ có thách thức rất lớn đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng của Việt<br />
Nam. Các nước có hệ thống tài chính - ngân hàng phát triển như ASEAN-6 (Brunei,<br />
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan)đều mạnh hơn Việt Nam về mọi<br />
mặt. Hơn nữa, thời gian qua, các ngân hàng của Singapore và Malaysia đang đầu tư rất<br />
lớn để có thể đi trước các đối thủ cạnh tranh khác và chuẩn bị tốt hơn cho AEC. Việt<br />
Nam không những chịu sức ép của AEC trong ngành tài chính- ngân hàng mà còn chịu<br />
nhiều sức ép hơn nữa từ TPP và các FTA đã ký kết và đang đàm phán. Các doanh nghiệp<br />
Việt Nam sẽ rất khó khăn nếu không tái cấu trúc, nâng cao khả năng cạnh tranh càng sớm<br />
càng tốt.<br />
Logistic<br />
Chất lượng của các dịch vụ vận tải như là môi giới hải quan, giao nhận vận<br />
chuyển, và giao hàng nhanh, hạ tầng giao thông…. của Việt Nam vị trí thấp trong khu<br />
vực. Từ khi trở thành thành viên của WTO, ngành Logistics đã chịu sức ép từ sự cạnh<br />
tranh của các công ty của nước ngoài, điều này đã làm cho các công ty Logistics của Việt<br />
Nam có sự phát triển nhất định. Tuy nhiên, hiện các công ty nước ngoài với bề dày kinh<br />
nghiệm, công nghệ hiện đại vẫn chiếm ưu thế tại thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp<br />
Logistics của Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên việc tổ chức kinh<br />
doanh thể hiện sự manh mún, chưa chuyên nghiệp, các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực<br />
6<br />
này chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước như Vietnam Airline, Vinalines….gặp nhiều<br />
khó khăn trong suốt thời gian qua, các doanh nghiệp tư nhân chưa đủ sức cạnh tranh tại<br />
thị trường khu vực; Các yếu tố hải quan, cơ sở hạ tầng, vận tải đường biển quốc tế, chất<br />
lượng và khả năng cạnh tranh Logistics, khả năng theo dõi hàng hóa và quản lý nhà nước<br />
trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế, chưa tạo được môi trường thuận lợi cho doanh<br />
nghiệp và ngành nghề này phát triển, sẽ là bất lợi của Việt Nam khi AEC có hiệu lực vào<br />
2015.<br />
2.2.3. Thể chế thị trường còn nhiều khiếm khuyết là nguyên nhân cản trở sự<br />
lớn mạnh của các doanh nghiệp trong nước<br />
Việt Nam là nước hội nhập muộn, vẫn là một nền kinh tế chuyển đổi, trình độ phát<br />
triển thấp, năng lực thực tế của Việt Nam còn ở mức thấp, khả năng hoạch định và thực<br />
thi pháp luật còn nhiều hạn chế, nhiều chính sách được ban hành chưa tuân thủ theo cơ<br />
chế thị trường, hiện tượng đầu cơ trục lợi phổ biến dẫn đến sự méo mó của thị trường,<br />
khó khăn trong hoạt động quản lý nhà nước và phát triển của doanh nghiệp. Tư duy quản<br />
lý và năng lực quản lý còn nhiều hạn chế, tư duy về kinh tế thị trường còn nhiều khiếm<br />
khuyết...là cản trở lớn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp.<br />
Các cơ hội và thách thức luôn chuyển hoá cho nhau, do đó nếu Việt Nam không<br />
cải cách mạnh mẽ bên trong cả về Nhà nước, doanh nghiệp và người dân thì khi hội nhập<br />
có thể phải gánh chịu những rủi ro rất lớn. Điều này thể hiện rõ sau hơn 7 năm gia nhập<br />
WTO, nhập siêu tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các doanh<br />
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và các doanh nghiệp trong nước ngày càng yếu<br />
thế ngay tại thị trường nội địa.<br />
2.2.4. Chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp trong nướccòn thấp<br />
Khi AEC trở thành hiện thực vào 2015, sẽ cho phép tự do di chuyển lao động có<br />
tay nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia và lao động có tay nghề của ASEAN<br />
tham gia vào hoạt động liên quan đến thương mại và đầu tư qua biên giới. Tám ngành<br />
nghề lao động dự kiến trong AEC được tự do di chuyển qua các thỏa thuận công nhận tay<br />
nghề tương đương, gồm: kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, điều dưỡng, kỹ sư, vận<br />
chuyển và nhân viên ngành du lịch. Điều này cho thấy yêu cầu về chất lượng nhân lực<br />
cao, nhân lực phải được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông<br />
thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh.<br />
Sự chênh lệch về thu nhập lớn giữa các quốc gia ASEAN sẽ là nguyên nhân tạo<br />
nên sự di chuyển lao động giữa các quốc gia giàu, nghèo khi AEC trở thành hiện thực<br />
vào 2015. Do đó đây sẽ là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam nếu không có<br />
chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lựctrong bối cảnh các nước ASEAN đầu tư<br />
trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam càng tăng. Đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam<br />
cũng đầu tư vào các nước ASEAN trong thời gian tới sẽ là áp lực đối với lực lượng lao<br />
động của các doanh nghiệp Việt Nam, với thực trạng hiện tại là thiếu hụt nghiêm trọng<br />
lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng, năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm<br />
thấp ở Châu Á - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, khi tham gia AEC, sẽ có hiện tượng chảy<br />
máu chất xám, tự do di chuyển lao động. Do đó, ngoài việc nâng cao chất lượng nguồn<br />
nhân lực phải đi kèm các giải pháp tránh chảy máu chất xám, chính sách lao động - việc<br />
làm và đãi ngộ hợp lý là nội dung trọng tâm các doanh nghiệp Việt Nam cần tính đến thời<br />
gian tới.<br />
2.2.5. Các doanh nghiệp chưa chủ động phối hợp với Chính phủ hoạch định<br />
7<br />
chính sách thương mại quốc tế, nắm bắt lộ trình gia nhập AEC còn thấp<br />
Hoạch định chính sách thương mại quốc tế nói chung và gia nhập AEC nói riêng<br />
gắn liền với quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước và tiên quyết các doanh nghiệp<br />
cần phối kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạch định chính sách, phù hợp<br />
với thực trạng, mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai nhằm<br />
thu được kết quả tốt đẹp do hội nhập kinh tế mang lại. Tuy nhiên, thời gian qua đóng góp<br />
của cộng đồng doanh nghiệp trong hoạt động này còn hạn chế,Các doanh nghiệp còn thụ<br />
động trong việc tìm hiểu, tiếp cận các thông tin mở cửa thị trường, các cam kết của Việt<br />
Nam với đối tác thương mại. Cụ thể như các doanh nghiệp chưa hiểu hoặc chưa quan tâm<br />
đến các ưu đãi thuế quan, dẫn đến tự đánh mất lợi thế cạnh tranh về thuế và làm giảm khả<br />
năng cạnh tranh hàng hóa trên thị trường quốc tế; một số doanh nghiệp dù có hiểu biết về<br />
quy tắc xuất xứ nhưng khi áp dụng vào thực tế còn yếu, doanh nghiệp cũng chưa cập nhật<br />
đầy đủ về cam kết cắt giảm thuế hàng năm của WTO, của các hiệp định thương mại tự do<br />
(FTA) và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).<br />
3. Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp<br />
3.1. Chủ động đổi mới, nâng cao khả năng cạnh tranh<br />
Các doanh nghiệp sẽ phải chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn, nếu không đổi mới hoạt động<br />
quản trị doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường quảng bá thương hiệu thì<br />
những doanh nghiệp yếu kém sẽ thất bại.Các doanh nghiệp cần phải phát huy hơn nữa ứng<br />
dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong tái cấu trúc, đổi mới phương thức quản trị<br />
doanh nghiệp và đưa các ứng dụng chuyên ngành vào hoạt động sản xuất kinh doanh của<br />
doanh nghiệp để giúp tăng cường minh bạch và nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập quốc<br />
tế.Đối với doanh nghiệp, ICT giúp các doanh nghiệp chuyển từ cạnh tranh về chi phí nhân<br />
công thấp và tài nguyên thiên nhiên sang cạnh tranh về lợi thế so sánh của hàng hoá và dịch vụ<br />
dựa trên giá trị tri thức, có giá trị gia tăng cao. Công nghệ thông tin và truyền thông là nền tảng<br />
cho sự hình thành và phát triển của Internet và thương mại điện tử. Hải quan điện tử, và<br />
thương mại điện tử là một trong các ưu tiên phát triển của AEC, và Việt Nam còn đứng ở vị trí<br />
khiêm tốn trong việc triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong khu<br />
vực, đòi hỏi phải đặt ở mức quan tâm cần thiết đúng với tầm quan trọng trong thời gian tới.<br />
Lợi thế cạnh tranh bằng giá sẽ không còn là lợi thế đối với các doanh nghiệp Việt Nam<br />
khi ký kết các FTA mà là các hình thức cạnh tranh phi giá, các quy định kỹ thuật thuộc nội<br />
khối như bao gói, nhãn mác, dư lượng hóa chất tối đa trong sản phẩm xuất khẩu cũng là một<br />
rào cản cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Do vậy các doanh nghiệp trong lĩnh vực này cần phải<br />
chuẩn bị thực thi và đảm bảo điều kiện tiếp cận thị trường xuất khẩu.Tuy nhiên, đây chính là<br />
cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam điều chỉnh chiến lực kinh doanh, nâng cao<br />
năng lực cạnh tranh của mình trong bối cảnh mới.<br />
Các doanh nghiệp nên có tiếng nói yêu cầu các cơ quan quản lý có các chính sách<br />
khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư cho nghiên cứu phát triển hơn, bởi điều đó<br />
sẽ mang lại chuyển giao công nghệ tốt hơn từ đó cạnh tranh cao hơn. Các doanh nghiệp cần<br />
chủ động xây dựng các chiến lược kinh doanh, phát triển sản xuất để có thể cạnh tranh với<br />
hàng hóa từ các nước trong khu vực ngay cả trong thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu,<br />
nghiên cứu đáp ứng các tiêu chí về quy tắc xuất xứ để được hưởng các ưu đãi về thuế quan.<br />
Đồng thời, cần khai thác tốt những thế mạnh của mình để tận dụng những lợi thế về thuế<br />
quan cũng như chủ động đón đầu sức ép cạnh tranh.<br />
3.2. Thực thi quyền sở hữu trí tuệ<br />
8<br />
Cộng đồng kinh tế ASEAN quyết tâm thực hiện Kế hoạch hành động ASEAN về<br />
quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo ra một hệ thống đăng ký ASEAN, tạo điều kiện cho đăng<br />
ký thiết kế của người sử dụng và thúc đẩy phối hợp giữa các Văn phòng sởhữu trí tuệ<br />
trong khu vực, tham gia đầy đủ các điều ước quốc tế phổ biến như Nghị định thư Mardrid<br />
về đăng ký nhãn hiệu và các công ước quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên<br />
việc thực thi và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đã và đang là điểm yếu của Việt Nam và các<br />
doanh nghiệp thời gian qua.<br />
Việc bảo hộ chặt chẽ quyền sở hữu trí tuệ cũng sẽ dẫn tới những khó khăn trước<br />
mắt cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam (khi phải bỏ vốn nhiều hơn cho những sản phẩm<br />
thuộc loại này) và người tiêu dùng (khi phải trả giá đắt hơn cho sản phẩm). Tuy nhiên,<br />
việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ thúc đẩy sự sáng tạo của các doanh nghiệp và cá<br />
nhân trong nước, đây sẽ là cái lợi dài hạn đối với Việt Nam.<br />
3.3. Tập trung đẩy mạnh xuất khẩu và phát triển những ngành có lợi thế<br />
Doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu ở những lĩnh vực lợi thế như:<br />
sản phẩm điện tử và linh kiện; phương tiện vận tải và phụ tùng; thiết bị máy móc, sắt thép<br />
các loại, gạo, cao su.<br />
Chủ động xây dựng năng lực sản xuất, kinh doanh, cải thiện chất lượng, mẫu mã<br />
sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh và xây dựng thương hiệu. Cùng với việc tăng<br />
nhanh tỉ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu của ngành và giảm thiểu phụ thuộc và các nhà<br />
cung cấp nước ngoài cần tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, đầu tư vào các<br />
vùng trồng nguyên liệu.<br />
3.4. Chủ động nắm bắt thông tin và lộ trình xây dựng AEC<br />
Cần chủ động nắm bắt thông tin, nâng cao năng lực, xây dựng chính sách mới để<br />
tạo ra các lợi thế cạnh tranh. Chủ động hơn nữa trong việc tìm hiểu các thông tin và lộ<br />
trình xây dựng AECđể có các điều chỉnh hợp lý trong chiến lược sản xuất kinh doanh của<br />
doanh nghiệp, đặc biệt về thị trường, sản phẩm và mức độ cạnh tranh trong những năm<br />
tiếp theo.<br />
3.5. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao<br />
Với thực trạng lao động của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và các điều<br />
kiện, yêu cầu của thị trường di chuyển lao động có tay nghề và đào tạo trong khu vực<br />
ASEAN, các áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam sau khi AEC hoàn<br />
thành vào 2015 thì tiên quyết các doanh nghiệp phải có lực lượng lao động ngang tầm<br />
khu vực. Do đó các doanh nghiệp cần tích cực hơn trong phát triển thị trường lao động<br />
trong nước, phối kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nước tập trung vào hoàn thiện cơ<br />
chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động khu vực cả về quy<br />
mô, chất lượng và cơ cấu ngành nghề. Cần phát triển lực lượng lao động có tay nghề và<br />
trình độ chuyên môn cao, giỏi về ngoại ngữ, thông thạo môi trường khu vực. Bên cạnh<br />
đó, các doanh nghiệp cần đổi mới cơ chế quản lý tiền lương gắn với năng suất lao động<br />
và hiệu quả kinh doanh, khuyến khích người lao động tự động nâng cao kỹ năng nghề<br />
nghiệp của mình.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />
Tài liệu tham khảo<br />
<br />
1. Ban Thư ký ASEAN (2012), “Cộng đồng kinh tế ASEAN: Sổ tay thông tin<br />
cho doanh nghiệp”, Hà Nội.<br />
2. Bộ Công Thương (2014), Báo cáo kết quả Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế<br />
ASEAN lần thứ 46, Hà Nội.<br />
3. Bộ Công Thương (2013), Phổ biến các Hiệp định thương mại tự do FTA<br />
Việt Nam tham gia, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội ngày 4/9/2013.<br />
4. Findlay C. (2004), "Service Trade Liberalization in ASEAN". In "Roadmap<br />
to an ASEAN Economic Community" edited by Denis Hew, Singapore: Institute of<br />
Southeast Asian Studies, forthcoming.<br />
5. Hew, D. và H. Soesastro (2003), "Nhận thức Cộng đồng Kinh tế ASEAN<br />
vào năm 2020: ISEAS và ASEAN-ISIS Phương pháp tiếp cận", Bản tin Kinh tế ASEAN,<br />
Vol. 20, số 3, tháng Mười Hai.<br />
6. Nikomborirak, D. and Stephenson, S. (2002), "Liberalization of Trade in<br />
Services : East Asia and the Western Hemisphere", Paper prepared for the Pacific<br />
Economic Cooperation Council (PECC) Trade Policy Forum on Regional Trading<br />
Agreements, Bangkok, Thailand, 12-13 June.<br />
7. Schwartz, A. and Villinger, R. (2004), "Integrating Southeast Asian<br />
Economies", The McKinsey Quarterly, Number 1.<br />
8. Tổng cục thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Hà Nội.<br />
9. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2010), Lộ trình xây dựng cộng<br />
đồng kinh tế ASEAN 2009-2015, Hà Nội.<br />
10. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2014), Tạp chí hội nhập, số<br />
tháng 7+8, Hà Nội.<br />
Rau quả Thái Lan đánh bật Trung Quốc (2014), truy cập ngày 2/9/2014 từ<br />
http://cafef.vn/nong-thuy-san/rau-qua-thai-lan-danh-bat-trung-quoc-<br />
201408310942389104ca52.chn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
10<br />