T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2017<br />
<br />
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TRẦM CẢM SAU SINH BẰNG<br />
THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM PHỐI HỢP THUỐC AN THẦN<br />
Tô Thanh Phương*<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả phối hợp thuốc an thần kinh với thuốc chống trầm cảm điều trị<br />
người bệnh trầm cảm sau sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tiến cứu can thiệp trên<br />
30 người bệnh trầm cảm sau sinh được điều trị tại Bệnh viện Tâm thần TW I trong năm 2015 và<br />
2016. Kết quả: 100% người bệnh hết biểu hiện căng thẳng hoảng sợ và bồn chồn đứng ngồi<br />
không yên. 73,33% hết cảm giác buồn rầu, 100% hết hoang tưởng và ảo giác, 100% hết ý định<br />
giết con. Kết luận: việc phối hợp thuốc an thần kinh với thuốc chống trầm cảm đem lại hiệu quả<br />
cao trong điều trị trầm cảm sau sinh.<br />
* Từ khóa: Trầm cảm sau sinh; An thần kinh; Chống trầm cảm.<br />
<br />
Treatment Outcomes of Postpartum Depression by Antidepressants<br />
Combined with Neuroleptics<br />
Summary<br />
Objectives: To assess the effectiveness of using simultaneously neuroleptics and<br />
antidepressants in treatment of postpartum depression. Subjects and methods: A prospective<br />
intervention was conducted on 30 postpartum depression who were treated at Central Mental<br />
Hospital I in 2015 and 2016. Results: No manifestations of stress, anxiety, panic and<br />
restlessness were observed in 100% of the patients. Feeling sorrow disappeared in 73.33%.<br />
Delusions and hallucinations vanished in 100%. 100% had no longer intention of killing their<br />
babies. Conclusion: Simultanous combination of neuroleptics and antidepressants in treatment<br />
of depression postpartum has brought good effectiveness.<br />
* Key words: Postpartum depression; Neuroleptics; Antidepressant.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Theo các tác giả A.Gérard, F.Raffaitin,<br />
H.Cuche (1995) [3], rối loạn tâm thần và<br />
hành vi kết hợp với thời kỳ sinh là loại<br />
bệnh ít gặp, do hiện tượng biến đổi<br />
hormon steroid, đặc biệt giảm đột ngột<br />
estrogen và các chất dưỡng thai. Theo<br />
Lempérière, dạng rối loạn này chiếm 0,15%<br />
<br />
số thai phụ và chỉ gặp trong thực hành<br />
tâm thần, trong các bệnh viện phụ sản.<br />
Sau sinh, đa số phụ nữ có biểu hiện mất<br />
ngủ, lo âu, dễ tủi thân, căng thẳng, mệt mỏi,<br />
ăn uống kém, nếu được chồng hoặc gia<br />
đình động viên giúp đỡ thì các triệu chứng<br />
này qua đi. Nếu sau 2 tuần triệu chứng<br />
không hết, có xu hướng tăng lên và trở<br />
thành bệnh lý hoặc loạn thần sau sinh,<br />
<br />
* Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1<br />
Người phản hồi (Corresponding): Tô Thanh Phương (tothanhphuong@gmail.com)<br />
Ngày nhận bài: 28/02/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 27/04/2017<br />
Ngày bài báo được đăng: 16/05/2017<br />
<br />
126<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2017<br />
hưng cảm sau sinh hoặc trầm cảm sau<br />
sinh. Trầm cảm sau sinh là loại trầm cảm<br />
xuất hiện trong vòng 1 tháng sau sinh.<br />
Bệnh thường để lại hậu quả nặng cho<br />
bản thân người bệnh cũng như tính mạng<br />
của đứa trẻ, vì người mẹ thường ghét<br />
con, không thể chăm sóc con. Khi bệnh<br />
nặng, có thể xuất hiện hoang tưởng, ảo<br />
giác, các loại hoang tưởng thường xoay<br />
quanh đứa con, con của mình sinh ra đã<br />
bị chuyển giới tính, con sinh ra ngoài ý<br />
muốn, tương lai của con sau này không<br />
ra gì, sinh ra nó mà phải khổ thế này…<br />
Do vậy, có thể dẫn đến hành vi giết con,<br />
rồi tự sát. Ở Việt Nam, chưa có nhiều<br />
nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, việc<br />
nghiên cứu điều trị trầm cảm sau sinh có<br />
ý nghĩa thiết thực trong thực hành lâm<br />
sàng tâm thần học, qua đó có thể giúp<br />
thầy thuốc điều trị phù hợp nhằm ngăn<br />
chặn các hành vi nguy hiểm của người<br />
bệnh. Chúng tôi tiến hành đề tài này<br />
nhằm: Đánh giá kết quả điều trị trầm cảm<br />
<br />
sau sinh bằng thuốc chống trầm cảm phối<br />
hợp với thuốc an thần.<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tượng nghiên cứu.<br />
30 bệnh nhân (BN) trầm cảm sau sinh<br />
được điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm<br />
thần TW I trong năm 2015 và 2016, đáp<br />
ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD 10 mục F53.0 [2].<br />
Những BN này được điều trị bằng<br />
thuốc an thần kinh olanzapin 20 mg/ngày<br />
hoặc amisulprid 800 mg/ngày, phối hợp<br />
với thuốc chống trầm cảm escitalopram<br />
(eslo 20 mg) trong thời gian 40 ngày.<br />
BN được đánh giá bằng khám lâm<br />
sàng tại 2 thời điểm ngày N1 và N40.<br />
2. Phương pháp nghiên cứu.<br />
Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, mô tả<br />
từng trường hợp.<br />
Xử lý số liệu theo chương trình<br />
Epi.info 6.0.<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN<br />
Bảng 1: Tỷ lệ trầm cảm và lo âu.<br />
Nhóm bệnh<br />
<br />
Trước điều trị<br />
<br />
Sau điều trị<br />
<br />
(n = 30)<br />
<br />
(n = 30)<br />
<br />
p<br />
<br />
Triệu chứng<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
Trầm cảm<br />
<br />
30<br />
<br />
100,0<br />
<br />
8<br />
<br />
26,67<br />
<br />
< 0,001<br />
<br />
Lo âu<br />
<br />
20<br />
<br />
66,67<br />
<br />
1<br />
<br />
3,33<br />
<br />
< 0,001<br />
<br />
Trầm cảm sau sinh luôn có lo âu đi kèm. Điều này phù hợp với nhận xét của Gerard<br />
A (1995) [3]. Các biểu hiện trầm cảm ngày N1 là 100%, đến ngày N40 còn 26,67%. Tỷ<br />
lệ lo âu thuyên giảm từ 66,67% ở ngày N1 xuống còn 3,33% ở ngày N40. So sánh trước<br />
và sau điều trị, khác biệt có ý nghĩa (p < 0,001). Như vậy, cả trầm cảm và lo âu đều<br />
thuyên giảm rõ ràng sau điều trị.<br />
127<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2017<br />
Bảng 2: Các triệu chứng rối loạn cảm xúc.<br />
Nhóm bệnh<br />
<br />
Trước điều trị (n = 30)<br />
<br />
Sau điều trị (n = 30)<br />
<br />
Triệu chứng<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
p<br />
<br />
Buồn rầu<br />
<br />
30<br />
<br />
100,0<br />
<br />
8<br />
<br />
26,67<br />
<br />
< 0,001<br />
<br />
Bi quan, chán nản<br />
<br />
20<br />
<br />
66,67<br />
<br />
6<br />
<br />
20,0<br />
<br />
< 0,05<br />
<br />
Đau khổ, thất vọng<br />
<br />
19<br />
<br />
63,33<br />
<br />
1<br />
<br />
3,33<br />
<br />
< 0,001<br />
<br />
Hoảng sợ, căng thẳng<br />
<br />
4<br />
<br />
13,33<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
Hằn học<br />
<br />
2<br />
<br />
6,67<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
Mất các sở thích cũ<br />
<br />
30<br />
<br />
100,0<br />
<br />
10<br />
<br />
33,33<br />
<br />
< 0,01<br />
<br />
Khí sắc giảm, mất hướng thú và sở thích, bi quan chán nản, đau khổ thất vọng<br />
chiếm tỷ lệ rất cao trong nghiên cứu của chúng tôi. Các triệu chứng này đều thuyên<br />
giảm rõ ràng sau 40 ngày điều trị. Kết quả này phù hợp với Trương Thị Kim Dung<br />
(1996) [1] cho rằng hầu hết BN đều có những rối loạn trên.<br />
Bảng 3: Các triệu chứng rối loạn tư duy, tri giác.<br />
Nhóm bệnh<br />
<br />
Trước điều trị (n = 30)<br />
<br />
Sau điều trị (n = 30)<br />
<br />
Triệu chứng<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
p<br />
<br />
Nói chậm chạp<br />
<br />
25<br />
<br />
83,33<br />
<br />
8<br />
<br />
26,67<br />
<br />
< 0,01<br />
<br />
Không nói<br />
<br />
4<br />
<br />
13,33<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
Than vãn, kể lể<br />
<br />
5<br />
<br />
16,67<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
Ý định tự sát<br />
<br />
10<br />
<br />
33,33<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
Hoang tưởng tự buộc tội<br />
<br />
16<br />
<br />
53,33<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
Ảo thanh xui khiến<br />
<br />
10<br />
<br />
33,33<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
Sau điều trị, triệu chứng nói chậm còn gặp ở 26,67% BN. Theo Gerard A và Guedj F<br />
(2003) [4], nói chậm và hoang tưởng tự buộc tội là những triệu chứng phổ biến nhất.<br />
Bảng 4: Các triệu chứng rối loạn hành vi.<br />
Nhóm bệnh<br />
<br />
Trước điều trị (n = 30)<br />
<br />
Triệu chứng<br />
<br />
n<br />
<br />
Giảm vận động<br />
<br />
30<br />
<br />
Bồn chồn<br />
<br />
8<br />
<br />
Kích động<br />
<br />
4<br />
<br />
Không chăm sóc con<br />
<br />
Sau điều trị (n = 30)<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
p<br />
<br />
100,0<br />
<br />
8<br />
<br />
26,67<br />
<br />
< 0,01<br />
<br />
26,67<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
13,33<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
25<br />
<br />
83,33<br />
<br />
5<br />
<br />
16,67<br />
<br />
Ý định giết con<br />
<br />
4<br />
<br />
13,33<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
Hành vi tự sát<br />
<br />
8<br />
<br />
26,67<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
%<br />
<br />
< 0,01<br />
<br />
Giảm vận động và không chăm sóc con là hai triệu chứng hay gặp nhất. Sau điều<br />
trị, chỉ còn 26,67% BN vận động chậm chạp, 16,67% không chăm sóc con. Theo<br />
Hardy-Baylé M.C (1986) [5], giảm vận động và không chăm sóc được con là 2 triệu<br />
128<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2017<br />
chứng nổi bật nhất. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, 4 BN có ý định giết con, trong<br />
đó 1 BN cho là vì con mà khổ và có ý định ôm con nhảy từ tầng 2 xuống. Tuy nhiên,<br />
các triệu chứng này thuyên giảm rõ rệt sau điều trị. Ý định tự sát thường khá mạnh và<br />
kéo dài, sau điều trị không BN nào còn ý định tự sát. Không thấy BN nào có hoang<br />
tưởng tập trung vào đứa con do mình mới sinh ra, điều này khác với nghiên cứu của<br />
Gerard A [4], chủ yếu gặp hoang tưởng tự buộc tội.<br />
Bảng 5: Các triệu chứng cơ thể.<br />
Nhóm bệnh<br />
<br />
Trước điều trị (n = 30)<br />
<br />
Sau điều trị (n = 30)<br />
<br />
Triệu chứng<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
p<br />
<br />
Giảm cân<br />
<br />
25<br />
<br />
83,33<br />
<br />
0<br />
<br />
0,00<br />
<br />
< 0,001<br />
<br />
Ăn mất ngon<br />
<br />
30<br />
<br />
100,0<br />
<br />
2<br />
<br />
6,67<br />
<br />
< 0,001<br />
<br />
Rối loạn giấc ngủ<br />
<br />
30<br />
<br />
100,0<br />
<br />
2<br />
<br />
6,67<br />
<br />
< 0,001<br />
<br />
Đau đầu<br />
<br />
15<br />
<br />
50,00<br />
<br />
5<br />
<br />
16,67<br />
<br />
< 0,05<br />
<br />
Rối loạn giấc ngủ, ăn mất ngon và giảm cân là các triệu chứng hay gặp nhất. Đau<br />
đầu chỉ chiếm 50% số BN. Sau điều trị, các triệu chứng trên thuyên giảm rõ ràng, trừ<br />
triệu chứng đau đầu còn 16,67%. Kết quả này phù hợp với Trương Thị Kim Dung<br />
(1996) [1] cho rằng hầu hết BN sau sinh đều có các triệu chứng trên.<br />
KẾT LUẬN<br />
66,67% BN trầm cảm có lo âu phối<br />
hợp. Các rối loạn trầm cảm và lo âu đều<br />
thuyên giảm rõ rệt sau điều trị.<br />
Khí sắc giảm (100%), mất hứng thú và<br />
sở thích (100%), bi quan (66,67%), đau<br />
khổ (63,33%) là các triệu chứng rất phổ<br />
biến và thuyên giảm tốt, sau điều trị<br />
73,33% hết biểu hiện buồn rầu.<br />
Nói chậm chiếm 83,33% và hoang<br />
tưởng tự buộc tội 53,33%. Sau điều trị,<br />
100% BN hết hoang tưởng và ảo giác.<br />
Giảm vận động (100%) và không chăm<br />
sóc con (83,33) là những triệu chứng rối<br />
loạn vận động hay gặp nhất. Sau điều trị,<br />
16,67% vẫn chưa muốn chăm sóc con.<br />
100% ăn mất ngon và mất ngủ,<br />
83,33% BN giảm cân. Sau điều trị, chỉ<br />
còn 6,67% BN ít ngủ và 16,67% đau đầu<br />
nhưng cường độ giảm hơn nhiều.<br />
<br />
Việc phối hợp thuốc an thần kinh với<br />
thuốc chống trầm cảm đem lại hiệu quả<br />
cao trong điều trị trầm cảm sau sinh.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Trương Thị Kim Dung. Rối loạn tâm<br />
thần thời kỳ sau đẻ. Một số chuyên đề tâm<br />
thần học. Học viện Quân y. 1996, tr.21-22.<br />
2. Tổ chức Y tế Thế giới. Phân loại bệnh<br />
quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và<br />
hành vi kết hợp với thời kỳ sinh đẻ. 1992,<br />
tr.87-100.<br />
3. Gerard A, Raffaitin, Cuche H.<br />
Depression chez la femme, les maladie<br />
depressives. Médecine-Sciences-Flâmmrion.<br />
1995, pp.84-89.<br />
4. Gerard A, Guedj F. Depression chez la<br />
femme, les maladie depressives, MédecineSciences-Flâmmrion. 2003, pp.98-106.<br />
5. Hardy-Baylé M.C. Troubles psychiques<br />
liés à la puerperalité, Enseigenment de la<br />
psychiatrie. Doin éditeur. 1986, pp.161-166.<br />
<br />
129<br />
<br />