intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP CẢI THIỆN HỆ RỄ CÂY TRÁM TRẮNG TRONG GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM

Chia sẻ: Sunny_1 Sunny_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

71
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trám trắng (Canarium album Raeusch) là một loài cây đa tác dụng, nên được chú ý gây trồng nhiều, kể cả trồng phân tán và trồng rừng tập trung để cung cấp gỗ nguyên liệu và thực phẩm. Một trong những đặc tính sinh học của loài Trám trắng mọc tự nhiên từ hạt là có rễ cọc đơn trục, đâm thẳng, phát triển rất sâu, rễ bàng phát triển rất muộn và số lượng ít.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP CẢI THIỆN HỆ RỄ CÂY TRÁM TRẮNG TRONG GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM

  1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP CẢI THIỆN HỆ RỄ CÂY TRÁM TRẮNG TRONG GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM Phạm Đức Tuấn Cục Lâm nghiệp Nguyễn Quốc Tuấn Trường Đại học Lâm nghiệp ĐẶT VẤN ĐỀ Trám trắng (Canarium album Raeusch) là một loài cây đa tác dụng, nên được chú ý gây trồng nhiều, kể cả trồng phân tán và trồng rừng tập trung để cung cấp gỗ nguyên liệu và thực phẩm. Một trong những đặc tính sinh học của loài Trám trắng mọc tự nhiên từ hạt là có rễ cọc đơn trục, đâm thẳng, phát triển rất sâu, rễ bàng phát triển rất muộn và số lượng ít. Bộ rễ như vậy thường tạo ra thân cây cao to, thẳng đứng và tán lá gọn. Trong vườn ươm, gieo hạt Trám trắng nếu không có tác động gì sẽ được cây con chỉ có một rễ cọc dài, rất ít rễ bàng (hình 1) nên không thể trồng bằng cây con rễ trần, thậm chí trong thực tế sản xuất dùng cây có bầu cũng khó vận chuyển dài ngày và cây trồng dễ chết. Đây là một trong những cản trở cho phát triển diện tích Trám trắng và là một trong những nguyên nhân trồng rừng thường đạt tỷ lệ sống thấp. Điều này đòi hỏi phải có giải pháp để cải thiện hệ rễ cây Trám con, góp phần nâng cao chất lượng cây con cho trồng rừng. Mặt khác, trong thực tế có hiện tượng ở một số loài cây gỗ là: Nếu rễ cọc bị đứt khi còn non sẽ hình thành bộ rễ cọc chùm và hệ rễ bàng mọc nhiều, rễ cọc đứt càng sớm thì xu thế này càng mạnh. Trường hợp này sẽ tạo ra cây phân cành sớm, tán xòe rộng, rễ bàng mở rộng tới giới hạn gấp 1,5 - 2 lần bóng chiếu thẳng đứng của tán lá nên rất thuận lợi cho xới xáo, bón phân. Đây là đặc điểm của một số loài cây thân gỗ mà cây Trám trắng là một trường hợp điển hình. Lợi dụng đặc điểm này có thể tác động vào phần rễ khi còn non để tạo ra một hệ rễ phát triển theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Bài viết, nêu kết quả nghiên cứu biện pháp tác động cải thiện hệ rễ cây Trám trắng thời kỳ rễ mầm của hạt Trám trắng gieo ươm và ảnh hưởng của nó đến việc hình thành hệ rễ, sinh trưởng của cây con ở vườn ươm và tỷ lệ sống của cây con sau khi trồng rừng. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Vật liệu Hạt Trám trắng được thu hái có cùng xuất xứ, trong cùng một lô hạt giống và đồng nhất về các biện pháp bảo quản, xử lý hạt. Phương pháp
  2. Hạt giống Trám trắng được ủ trong cát ẩm theo quy trình gieo ươm cho đến khi nứt nanh được vùi vào cát ẩm sạch để đảm bảo dễ dàng lấy hạt khỏi cát khi theo dõi hệ rễ mà không làm tổn hại đến rễ. Sau khi hạt nẩy mầm, rễ mầm đạt chiều dài từ 2-3 cm, lá mầm chưa xòe ra khỏi hạch quả, tiến hành cắt đỉnh rễ mầm theo 3 công thức: Công thức 1: Cắt đỉnh rễ mầm, phần còn lại dài 0,5 cm Công thức 2: Cắt đỉnh rễ mầm, phần còn lại dài 1,0 cm Công thức 3: Đối chứng, không cắt rễ mầm Bố trí 3 công thức riêng biệt với số lượng hạt đủ lớn để hàng ngày lấy 30 hạt của mỗi công thức lên khỏi cát theo dõi, quan sát về thời gian ra rễ và số lượng rễ của cây mầm cho đến khi lá mầm của cây xòe ra hết thì kết thúc quan sát. Để theo dõi về sinh trưởng của cây con và hệ rễ của nó, tiến hành cấy các hạt Trám trắng đã cắt đỉnh rễ mầm và đối chứng như trên vào bầu Polyetylen có hỗn hợp ruột bầu gồm 90% đất tầng mặt + 9% phân chuồng hoai + 1% supe lân. Bố trí 3 công thức theo khối ngẫu nhiên với 3 lần lặp, mỗi lặp 30 bầu cây. Chăm sóc cây con cùng một chế độ theo quy trình kỹ thuật chung. Thu thập số liệu khi cây con đạt 4 tháng tuổi và 12 tháng tuổi. Để đánh giá ảnh hưởng của việc tạo bộ rễ đến tỷ lệ sống của cây khi trồng rừng, tiến hành bố trí 2 công thức thí nghiệm theo hàng trồng trên đồi, cây con đem đi trồng được lấy từ công thức 1 và công thức 3 của thí nghiệm trên. Cây con mang trồng có cùng tuổi (12 tháng), trên cùng điều kiện lập địa, cùng biện pháp kỹ thuật trồng rừng (cuốc hố 50x50x50, bón lót 1kg phân vi sinh/hố, cự ly trồng 3x3 m). Theo dõi tỷ lệ cây sống định kỳ 7 ngày/lần, sau 4 tháng thì kết thúc quan sát. Việc xử lý số liệu đo đếm được tiến hành theo phương pháp thống kê toán học trong lâm nghiệp về tính giá trị bình quân, sai tiêu chuẩn, kiểm tra thuần nhất các mẫu về chất (tiêu 2 chuẩn ‫ ) ﻼ‬và sử dụng phần mềm SPSS với quy trình Analyze/Nonparametric Tests/K- Indepennt samples. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tình hình ra rễ của cây mầm Kết quả quan sát về thời gian ra rễ và số lượng rễ của cây mầm được thể hiện ở bảng 1, lúc này lá mầm đã xòe hết, màu sắc lá mầm thay đổi từ vàng chanh sang màu xanh nhạt, biểu hiện kết thúc giai đoạn cây mầm. 2
  3. Bảng 1. Tình hình ra rễ của cây mầm Công Thời gian ra rễ Rễ chính Rễ bên sau khi tác động thức (ngày) Số rễ bình quân Chiều dài bình Số rễ bình quân Chiều dài bình quân quân 1 12 3,5 1,5 6 1,2 2 12 3,0 1,4 7 1,3 3 5 1,0 5,0 0 0 Từ số liệu quan sát ở bảng 1 cho thấy đối với công thức 3 (đối chứng) sau khi hạt nứt nanh, rễ chính được sinh ra và tiếp tục mọc dài trong khoảng 5 ngày đạt chiều dài bình quân 5 cm. Như vậy, hết thời kỳ cây mầm nếu không có tác động gì thì cây Trám con vẫn chỉ có 1 rễ cọc duy nhất và chưa mọc rễ bên. Trong khi đó ở công thức 1 và 2 sau khi cắt rễ mầm khoảng 12 ngày, cây mầm hình thành nên bộ rễ cọc chùm có bình quân từ 3 - 3,5 rễ chính dài từ 1,4 - 1,5 cm và đồng thời cũng mọc bình quân 6-7 rễ bên dài từ 1,2 - 1,3 cm. Sinh trưởng của hệ rễ và của cây con Đo đếm hệ rễ cây con sau khi cấy vào bầu ở tháng tuổi thứ 4 cho kết quả tại bảng 2. Có thể nhận thấy số lượng rễ chính ở cả 3 công thức đều không có thay đổi gì so với hết giai đoạn cây mầm, điều này cho thấy sự hình thành rễ chính chủ yếu diễn ra trong giai đoạn cây mầm. Trong khi đó, số lượng rễ bên lại có sự biến đổi rất lớn, ở công thức 3 (đối chứng) đã xuất hiện những rễ bên (7 cái) nhưng so với công thức 1 và 2 thì số lượng này kém xa, đặc biệt sinh trưởng chiều dài rễ bên của công thức 1 và 2 vượt gấp 2 lần ở đối chứng. Ngoài ra, quan sát còn thấy có sự khác biệt về vị trí ra rễ bên của các công thức. Đối với công thức 1 và 2 thấy xuất hiện rễ bên cả ở phần cổ rễ và cả từ rễ chính, còn ở công thức 3 chỉ thấy rễ bên mọc ra từ rễ chính. Bảng 2. Sinh trưởng hệ rễ cây con 4 tháng tuổi Công thức Rễ chính Rễ bên Số rễ bình quân Chiều dài bình Số rễ bình quân Chiều dài bình quân quân 1 3,5 14 12 10,8 2 3,0 13 11 11,0 3
  4. 3 1,0 15 7 5,5 Khi cây con đạt đến 12 tháng tuổi, kết quả cuối cùng về sinh trưởng của cây con và của hệ rễ được thể hiện ở bảng 3. Bảng 3. Sinh trưởng đường kính, chiều cao và hệ rễ cây con 12 tháng tuổi Công Giá trị bình quân thức Đường Chiều Số rễ Số rễ Số rễ Số rễ Sinh Sinh Sinh kính cao chính cấp 1 cấp 2 cấp 3 khối khối khối gốc vút (cái) (cái) (cái) (cái) cả cây rễ lá (cm) ngọn (gam) (gam) thân (cm) (gam) 1 1,02 91,67 3,5 12,6 26,2 609 95 55 40 2 1,00 90,10 3,0 12,0 25,2 594 94 53 41 3 0,80 84,78 1,0 8,0 15,0 94 90 40 50 Từ số liệu này và kết quả kiểm tra sai dị từng đôi có thể khẳng định sự khác biệt giữa công thức 1 và 2 là không rõ rệt, nhưng sự khác biệt với công thức 3 (đối chứng) là rõ rệt. Nói cách khác, khi có tác động bằng cách cắt rễ mầm đã ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây con và hệ rễ của nó theo chiều hướng tích cực. Đặc biệt ở đây cần nhấn mạnh là số rễ cấp 3 ở công thức 1 và 2 lớn hơn rất nhiều (gấp hơn 6 lần) so với đối chứng; điều này rất quan trọng vì hệ rễ cám có tác dụng chủ yếu trong việc hút các chất dinh dưỡng. Ngoài ra, số liệu cũng cho thấy sinh khối tươi của phần rễ ở công thức 1 và 2 chiếm tỷ lệ lớn hơn trong tổng sinh khối tươi của cả cây, nhưng ở đối chứng thì ngược lại. Điều đó càng khẳng định khi cắt rễ mầm đã tạo ra một bộ rễ phát triển tốt hơn (hình 2). Kết quả trên cho thấy không có sự sai khác rõ rệt giữa 2 công thức 1 và 2, nhưng để áp dụng vào thực tế sản xuất chúng tôi đề nghị nên sử dụng công thức 1, vì rễ mầm rất non dễ gẫy nên chiều dài rễ càng ngắn sẽ thuận tiện cho việc cấy vào bầu hơn. 4
  5. Hình 1. Rễ cây Trám bình thường Hình 2. Bộ rễ Trám sau khi cắt mầm 12 tháng Tỷ lệ cây sống sau khi trồng Kết quả theo dõi tỷ lệ sống đến thời hạn cuối cùng theo quy trình nghiệm thu rừng trồng thể hiện ở bảng 4 Bảng 4. Tỷ lệ cây sống sau khi trồng 4 tháng Công thức Tỷ lệ cây sống (%) 1 (cây con được cắt rễ mầm) 100 2 (đối chứng- cây con không cắt rễ mầm) 60 2 2 Từ số liệu quan sát và kết quả kiểm tra thuần nhất về chất (‫ﻼ‬v =15.00 > ‫50ﻼ‬ =3.84) rõ ràng là các cây con được tạo ra từ biện pháp cắt rễ mầm đã cho tỷ lệ sống sau khi trồng cao hơn hẳn so với cây con không được tác động tạo bộ rễ. Sự chênh lệch này là rất đáng kể (khác biệt đến 40%) sẽ có giá trị không chỉ về kinh tế làm giảm chi phí cây con, vật tư và công lao động mà còn có ý nghĩa trong việc nhanh chóng tạo độ khép tán đồng đều của rừng do mật độ cây sống đảm bảo. KẾT LUẬN Đối với cây Trám mọc từ hạt, tác động bằng biện pháp cắt rễ mầm sẽ tạo ra cây con có hệ rễ cọc chùm và bộ rễ bàng rất phát triển. Thời kỳ cắt rễ mầm nên tiến hành ngay sau khi ủ trong cát hạt nứt nanh và rễ mầm mọc dài khoảng 1-2 cm, phần rễ để lại sau khi cắt đỉnh rễ khoảng 0,5 cm. Sau khi cắt đỉnh rễ mầm có thể cấy ngay vào bầu để tạo cây con có bầu. Cây Trám con được tạo bằng biện pháp cắt rễ mầm do có bộ rễ phát triển tốt nên đảm bảo tỷ lệ cây sống sau khi trồng rất cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Nông nghiệp và PTNT, Vụ khoa học công nghệ và chất lượng sản phẩm 2001. Văn bản kỹ thuật lâm sinh, tập 2 “Quy phạm kỹ thuật trồng rừng Trám trắng”, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Công ty giống và phục vụ trồng rừng, 1995. “Sổ tay kỹ thuật hạt giống và gieo ươm một số loại cây rừng”, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Phạm Đình Tam, 2000. “Kết quả nghiên cứu trồng rừng Trám trắng (Canarium album) làm nguyên liệu gỗ dán”, kết quả nghiên cứu khoa học lâm nghiệp giai đoạn 1996-2000, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr.71. 5
  6. Phạm Đức Tuấn, Nguyễn Hữu Lộc, 2004. “Hướng dẫn kỹ thuật trồng cây nông lâm nghiệp cho đồng bào miền núi”, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Triệu Văn Hùng, 1993. “Cây Trám trắng”, Tạp chí lâm nghiệp (9), tr.17-18. CANARIUM SEEDLINGS IN NURSERY Pham Duc Tuan Forestry Department Nguyen Quoc Tuan Vietnam Forestry University SUMMARY Canarium album species is a multipurpose tree and it has been planted a lot in Vietnam. However, the root system of Canarium seedlings is always developed not well. This is one of reasons causing the low survival rate of seedlings after planted. So the improvement for root system of Canarium seedlings is necessary in deed. Experiment consists 3 tests (CT1, CT2, CT3), each including 3 random blocks with enough quantity (>30): CT1- cutting sprout shoot of root, remainder is 0.5 cm long CT2- cutting sprout shoot of root, remainder is 1.0 cm long CT3- no cutting (control) The results show that no differences between CT1 and CT2, but CT3 is much different in deed. In CT3 there is only one tap-root and a few lateral roots. Meanwhile, in CT1 and CT2 the main roots growing in a bunch and there are a lot of lateral roots and specially rootlets are much more than 6 times in comparison with CT3. The results also show that after 4 months planted, the survival of Canarium seedlings with 12 months old from CT1 is much higher (100%) than from CT3 (60%). These results affirm that the measure to cut sprout shoot of root has created the well developed root system of Canarium seedlings, this contributed to improve the quality of Canarium seedlings. 6
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2