intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khái lược về văn học chữ Nôm ở Việt Nam - GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng

Chia sẻ: Huynh Thi Thuy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

169
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Khái lược về văn học chữ Nôm ở Việt Nam" giới thiệu đến các bạn thời kỳ sơ khai, diễn ca lịch sử, ngâm khúc, truyện Nôm, phú Nôm và văn tế Nôm, thơ Nôm đường luật, kịch bản tuồng và chèo,... Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khái lược về văn học chữ Nôm ở Việt Nam - GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng

KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM<br /> GS. TSKH. Nguyễn Quang Hồng<br /> 阮光紅教授<br /> 越南漢喃所<br /> <br /> MỞ ĐẦU<br /> Ngay từ đầu Công nguyên cho đến suốt 1000 năm Bắc thuộc sau đó, các dân tộc<br /> trên đất nước Việt Nam đã sống trong quá trình cộng cư với nhau và cả với người Hán<br /> từ phương Bắc đến. Quá trình cộng cư này cùng với sự tiếp xúc với chữ Hán và văn<br /> hóa Hán, các dân tộc Việt Nam đã dần dần chủ động sử dụng chữ Hán trước hết là<br /> trong hành chính và trong giáo dục, rồi cả trong sáng tác văn học, hình thành một nền<br /> văn học chữ Hán của chính dân tộc mình. Và từ khi thoát li khỏi sự đô hộ trực tiếp của<br /> phong kiến phương Bắc, thì bên cạnh chữ Hán vẫn tiếp tục được coi trọng, người dân<br /> bản địa Việt Nam còn sáng tạo ra chữ viết cho bản ngữ của mình. Đó là các hệ thống<br /> chữ viết ô vuông theo hình mẫu chữ Hán, được gọi là chữ Nôm: Người Kinh (tộc<br /> người Việt) có chữ Nôm Việt, người Tày người Dao có chữ Nôm Tày, Nôm Dao v.v.<br /> Với chữ Nôm Việt, ở Việt Nam đã hình thành nên một nền văn chương chữ Nôm<br /> (bên cạnh văn chương chữ Hán). Và chính trong lĩnh vực sáng tạo văn học chữ Nôm<br /> gắn liền với ngôn ngữ dân tộc đã tạo nên những tác phẩm có giá trị, chiếm những vị<br /> trí cao nhất trong văn học cổ điểnViệt Nam. Xin trình bày đôi nét khái quát về những<br /> chặng đường hình thành các thể loại cùng với những tác phẩm tiêu biểu của nền văn<br /> học chữ Nôm ở Việt Nam.<br /> <br /> A. THỜI KỲ SƠ KHAI<br /> <br /> Theo quốc sử Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư 大 越 史 記 全 書 , 1479)<br /> thì từ thế kỷ XIII dưới thời nhà Trần, ở Đại Việt đã có nhiều người làm thơ phú bằng<br /> chữ Nôm, đặc biệt có Nguyễn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố, song tác phẩm của họ đều đã<br /> thất truyền từ lâu.<br /> <br /> 1. Nguyễn Thuyên 阮 詮 (thế kỷ XIII) và Nguyễn Sĩ Cố 阮 士 故 (? - 1312)<br /> <br /> Nguyễn Thuyên không rõ năm sinh năm mất. Đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm<br /> 1247, thời Trần Nhân Tông 陳仁宗(1279-1293). Thượng thư bộ Hình. Năm 1282, có<br /> cá sấu vào sông Phú Lương. Vâng mệnh triều đình, ông lập đàn tế và làm bài tế văn<br /> bằng chữ Nôm ném xuống sông, cá sấu liền bỏ đi. “Vua cho rằng việc làm này giống<br /> như Hàn Dũ 翰愈, nên cho Nguyễn Thuyên đổi thành họ Hàn” (Đại Việt sử kí toàn<br /> thư).<br /> Theo sử sách và gia phả họ Nguyễn ở Cao Bằng, thì Nguyễn Thuyên là người<br /> đầu tiên dùng chữ Nôm để chép gia phả họ Nguyễn, viết quốc sử và làm thơ phú quốc<br /> âm. Tác phẩm có Phi sa tập (扉沙集), trong đó có thơ phú chữ Hán và cả chữ Nôm.<br /> Nhưng tất cả đều thất truyền. Theo nhận xét của người đương thời thì thơ chữ Nôm<br /> của Hàn Thuyên mở đầu cho việc kết hợp thơ ca dân gian người Việt với thể thức thơ<br /> 2006 台語文學學術研討會論文集 Tâi-gí Bûn-hk Hk-sýt Gián-thó-hōe Lūn-bûn-ch…p<br /> <br /> <br /> <br /> Đường (có biến đổi về số chữ và niêm luật) để có một thể thơ mà người đời sau gọi là<br /> thể thơ “Hàn luật”.<br /> Gần như cùng thời với Nguyễn Thuyên, có Nguyễn sĩ Cố (? - 1312). Ông lãnh<br /> chức Nội thị Học sĩ, tức thầy dạy hoàng tử mà sau này là vua Trần Nhân Tông. Ông<br /> nổi tiếng đương thời về tài làm thơ Nôm, nhưng tác phẩm cũng đều thất truyền.<br /> Tương truyền thơ ông có ý vị trào lộng, gần giống với Đông Phương Sóc 東 方 朔<br /> đời Hán.<br /> <br /> 2. Trần Khâm 陳欽(1258 - 1308) và Lý Đạo Tái 李道載 (1254 - 1334)<br /> <br /> Trần Khâm tức Trần Nhân Tông, vua thứ ba nhà Trần. Cùng vua cha thực hiện<br /> đại đoàn kết hoàng tộc và dân chúng, đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông (1285,<br /> 1287-88). Từ sau 1299 ông rời Kinh đô, làng mạc, lên ở hẳn núi Yên Tử, dựng chùa<br /> tu Phật, lập ra dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử mà ông là tổ thứ nhất.<br /> Trần Nhân Tông viết nhiều tác phẩm thiền học và thơ Thiền bằng Hán văn. Tác<br /> phẩm viết bằng chữ Nôm còn lại đến nay có một bài phú và một bài ca. Đó là bài Cư<br /> trần lạc đạo phú (居 陳 樂 道 賦) và bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca (得 趣<br /> 林 泉 成 道 歌). Cả hai bài này đều do người đời sau cho vào tập Thiền tông bản<br /> hạnh (禪 宗 本 行), khắc ván in lần đầu vào năm Cảnh Hưng 6 (1745). Đó là những<br /> bài ca ngợi cảnh thiền và lòng thiền, trong đó con người an nhiên tự tại, sống giữa đời<br /> trần mà cũng hòa vui trong đạo.<br /> Lý Đạo Tái tức là sư Huyền Quang, tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, cùng<br /> thời với Trần Nhân Tông. Ông cũng là người viết nhiều tác phẩm về thiền học, và cả<br /> thơ chữ Hán. Trong tập Thiền tông bản hạnh nói trên có bài Vịnh Hoa Yên tự phú (詠<br /> 華 煙 寺 賦) viết bằng chữ Nôm, tương truyền là do ông sáng tác.<br /> Gần đây trong giới nghiên cứu văn học và thiền học ở Việt Nam có người ngờ<br /> rằng những tác phẩm rất có giá trị văn học trên đây, chưa thật chắc chắn là tác phẩm<br /> của Trần Nhân Tông và Huyền Quang. Tuy nhiên, trước khi vấn đề được làm sáng tỏ,<br /> thì chúng ta vẫn có thể tạm tin rằng đây là những tác phẩm thơ phú chữ Nôm sớm<br /> nhất còn lại đến nay.<br /> <br /> 3. Hồ Quý Ly 胡季 釐 (1336 - 1407?)<br /> <br /> Hồ Quý Ly là vua đầu tiên triều nhà Hồ, một triều đại ngắn ngủi ở Việt Nam.<br /> Ông lên ngôi từ ngai vua nhà Trần năm 1400. Năm 1406, không chống cự nổi quân<br /> nhà Minh, cả ba cha con ông bị giặc bắt đưa về Trung Hoa, rồi sau mất ở đó. Hồ Quý<br /> Ly là ông vua có tinh thần cải cách táo bạo, cả về quân sự, kinh tế và văn hóa tư tưởng.<br /> Nhưng ông vấp phải sự chống đối của phái bảo thủ, không thu phục được nhân tâm,<br /> nên dễ thất bại.<br /> Riêng về ngôn ngữ văn tự, Hồ Quý Ly là ông vua đầu tiên nêu chủ trương<br /> dùng chữ Nôm tiếng Việt thay chữ Hán trong công văn, chiếu chỉ, và cho dịch kinh<br /> sách chữ Hán sang chữ Nôm. Chủ trương này về sau, vào cuối thế kỷ XVIII, vua<br /> Quang Trung 光 中 (Nguyễn Huệ 阮 惠, 1753 - 1792) cũng lại đề ra, song đều<br /> chưa kịp thực hiện. Bản thân Hồ Quý Ly cũng trước thuật bằng chữ Hán và sáng tác<br /> thơ văn chữ Nôm. Nhưng tất cả đều bị nhà Minh tiêu hủy. Sau này, khi thoát khỏi ách<br /> <br /> <br /> 1-2<br /> 〈KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM〉阮光紅教授<br /> <br /> <br /> <br /> thống trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã thu thập lại được 30 bài thơ chữ Nôm của ông,<br /> nhưng rồi đến lượt Nguyễn Trãi bị nạn, tất cả đều đã thất lạc.<br /> <br /> B. THƠ NÔM “HÀN LUẬT” 翰律國音詩<br /> <br /> Thơ Nôm “Hàn luật” (cải biến từ hai thể “thất ngôn tứ tuyệt” và “thất ngôn bát<br /> cú” của thể thức thơ Đường) đã xuất hiện từ thời sơ khai, có thể bắt đầu từ Hàn<br /> Thuyên. Song ngày nay chỉ có thể nhận diện thể thơ này qua các tác phẩm của<br /> Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, v.v.<br /> <br /> 1. Nguyễn Trãi 阮 廌 (1380 - 1442)<br /> <br /> Nguyễn Trãi (hiệu là Ức Trai 抑齋) thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm 1400 ngay<br /> sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, và được giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Khi giặc<br /> Minh xâm chiếm, ông bị quản thúc ở Thăng Long, sau thoát ra, lẩn tránh nhiều nơi,<br /> cuối cùng đến với Lê Lợi (黎 利), vạch chiến lược chống quân Minh trên chiến<br /> trường cũng như trong giao dịch thư từ. Sau thắng lợi, ông thay minh chủ viết bài<br /> Bình Ngô đại cáo (平 吳 大 告 ) bằng Hán văn, một bản “thiên cổ hùng văn” của<br /> dân tộc Việt Nam. Dưới triều Lê Thái Tổ 黎 太 祖 (Lê Lợi), Nguyễn Trãi được<br /> trọng dụng. Nhưng sau khi Lê Lợi mất, triều đình lục đục, gây bè kéo cánh, khiến<br /> Nguyễn Trãi khó bề được yên thân. Ông bèn xin về hưu trí ở Côn Sơn. Cuối năm<br /> 1442, vua trẻ Thái Tông ghé thăm trại Lệ Chi Viên của ông, đột nhiên bị cảm chết,<br /> ông cùng cả gia tộc bị khép tội và chịu án “tru di tam tộc”. Mãi 20 năm sau, ông mới<br /> được vua Lê Thánh Tông xuống chiếu rửa oan cho ông.<br /> Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam, được UNESCO<br /> công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Ông có một sự nghiệp trước tác đồ sộ, về<br /> nhiều lãnh vực. Ông làm nhiều thơ, bằng Hán văn và cả bằng chữ Nôm. Sau khi ông<br /> bị hại, tác phẩm của ông bị thất tán nhiều nơi. Đến năm 1467, vua Lê Thánh Tông cử<br /> người (Trần Khắc Kiệm 陳 克 儉) sưu tầm di cảo của ông, nhờ đó mới giữ được cho<br /> đến nay một phần những tác phẩm quý giá của ông.<br /> Dựa vào kết quả sưu tầm của Trần Khắc Kiệm ở thế kỷ XV, Dương Bá Cung (楊<br /> 伯 恭) ở thế kỷ XIX đã bỏ ra hàng chục năm tiếp tục sưu tầm, chỉnh lý để đến năm<br /> 1868 cho khắc in bộ Ức Trai di tập (抑 齋 遺 集) trong đó có Quốc âm thi tập (國<br /> 音 詩 集) gồm 254 bài thơ Nôm. Có thể tập thơ này vẫn chưa phải là toàn bộ những<br /> tác phẩm viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, nhưng đây chính là tập thơ chữ Nôm<br /> đầu tiên còn lại đến ngày nay, và nó chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong văn học<br /> sử Việt Nam.<br /> Thơ Nôm Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu tha thiết của ông dành cho nước cho dân<br /> với tinh thần nhân nghĩa sâu sắc, đồng thời cũng có cả nỗi thao thức dằn vặt từ cảnh<br /> ngộ riêng tư, một cái tôi trữ tình mang màu sắc của cả Nho, Phật và Lão. Tiếng Việt<br /> trong thơ giàu hình tượng, ngữ liệu dân gian được sử dụng thích đáng. Hình thức thơ<br /> tuy phỏng theo cách luật thơ Đường, nhưng có nhiều biến cải: Trong một bài tứ tuyệt<br /> hay bát cú, nhiều khi dùng xen những câu 6 tiếng, ở những vị trí không cố định. Nhịp<br /> thơ Đường thường ngắt theo kiểu 4-3, còn ở đây có cả cách ngắt nhịp 3-4, 3-3, một lối<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1-3<br /> 2006 台語文學學術研討會論文集 Tâi-gí Bûn-hk Hk-sýt Gián-thó-hōe Lūn-bûn-ch…p<br /> <br /> <br /> <br /> ngắt nhịp phổ biến của thi ca dân gian người Việt. Đây phải chăng chính là lối thơ<br /> “Hàn luật” mà Nguyễn Thuyên là người khởi xuớng.<br /> Để minh họa, trích lục một bài thơ tứ tuyệt của Nguyễn Trãi:<br /> 蓮 花<br /> 淋 洳 拯 变 /卒 和 清 > (污 泥 不 著 /守 潔 清)<br /> 君 子 堪 困 / 特 所名 > (君 子 難 比 / 其芳名)<br /> 闧 媫 香 / 店 月 凈 > (風 送 香 /月 夜 靜)<br /> 貞 乄 晫 / 固 埃 爭 > ( 独 己 有 / 誰 能 爭)<br /> (Phần chú chữ Hán là do Nguyễn Quang Hồng tạm dịch)<br /> <br /> 2. Hồng Đức quốc âm thi tập (洪德國音詩集)<br /> <br /> Đây là một tuyển tập thơ Nôm đầu tiên ở Việt Nam, gồm sáng tác của nhà vua<br /> đương thời là Lê Thánh Tông 黎 聖 宗 (Lê Tư Thành 黎 思 成 , 1442 - 1497) và<br /> một số triều thần, là kết quả của phong trào sáng tác thơ Nôm ở cung đình do nhà vua<br /> khởi xướng. Tập thơ sao chép nhiều lần, theo bản hiện còn (AB.292) gồm 283 bài,<br /> không ghi rõ tác giả từng bài, trong đó có lẫn một số bài của Nguyễn Trãi và Nguyễn<br /> Bỉnh Khiêm.<br /> Toàn tập thơ viết theo thể Đường luật thất ngôn bát cú, nhưng cũng có bài pha<br /> “lục ngôn” theo kiểu “Hàn luật” của Việt Nam. Nội dung nặng về những đề tài “cao<br /> quý”, vịnh người vịnh cảnh, thấm đậm tư tưởng Nho gia. Tuy nhiên, đây là thời thái<br /> bình thịnh trị, nên tập thơ cũng toát lên niềm lạc quan, tự hào dân tộc và thiện chí trau<br /> giồi ngôn ngữ dân tộc.<br /> <br /> 3. Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮 秉 謙 (1491 - 1585)<br /> <br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm sống chủ yếu vào thế kỷ XVI. Ông thi đỗ Trạng nguyên<br /> năm 1535 và làm quan với nhà Mạc. Ông chán ghét bọn gian thần, dâng sớ xin chém<br /> lộng thần, nhưng vua không nghe. Ông thác bệnh về quê. Nhưng sau vì hoàn cảnh bó<br /> buộc, ông lại ra làm quan cho đến năm 70 tuổi mới thực sự từ quan. Ông dựng am<br /> Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, ngồi dạy học trò. Ông là người được cả ba thế<br /> lực Mạc, Trịnh, Nguyễn thời bấy giờ tôn trọng, thường đến hỏi về những việc hệ<br /> trọng.<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm có làm thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Về thơ Nôm, ông còn<br /> để lại tập Bạch Vân quốc ngữ thi (白 雲 國 語 詩). Tuy nhiên, nguyên cảo thất lạc,<br /> các bản sao không thống nhất, lại lẫn lộn một số bài của Nguyễn Trãi, trong đó có<br /> khoảng 170 bài là thực sự của ông.<br /> Thơ quốc âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ yếu theo thể cách Đường luật,<br /> đôi khi pha những câu “lục ngôn”. Đây có thể là những bài thơ Nôm Đường luật<br /> cuối cùng có xen lẫn câu thơ lục ngôn với lối ngắt nhịp 3-4. Về sau này có rất nhiều<br /> nhà thơ viết theo thể Đường luật đã không tiếp tục sử dụng các câu lục ngôn như thế<br /> nữa, trừ một số bài tương truyền là của nữ sĩ Hồ Xuân Hương (xem dưới). Tập thơ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1-4<br /> 〈KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM〉阮光紅教授<br /> <br /> <br /> <br /> viết khi tác giả ở ẩn nên bao trùm không khí an nhàn ẩn dật, yêu quý thiên nhiên, xa<br /> lánh bụi đời, tuy không dứt lòng thương nước lo đời, quan tâm thế sự.<br /> <br /> C. DIỄN CA LỊCH SỬ 歷史演歌<br /> <br /> “Diễn ca lich sử” là những tác phẩm thơ Nôm trường thiên, mà phần lớn nội<br /> dung đều dựa vào quốc sử cùng với truyền thuyết dân gian. Diễn ca lịch sử sử dụng<br /> hai thể thơ dân tộc là “lục bát” (mỗi khổ hai câu: 6 - 8 tiếng) và “song thất lục bát”<br /> (mỗi khổ bốn câu: 6 - 8 - 7 - 7 tiếng, các câu “thất ngôn” đều ngắt nhịp 3 - 4).<br /> <br /> 1. Việt sử diễn âm (越 史 演 音)<br /> <br /> Việt sử diễn âm mới được phát hiện và xuất bản năm 1997 tại Hà Nội. Tác phẩm<br /> gồm 2.334 câu thơ, trong đó có 2.318 câu theo thể “lục bát”, 18 câu thất ngôn xen vào<br /> ở phần cuối. Chưa rõ tác giả là ai, nhưng lời thơ cho thấy tác giả đã sống và viết tác<br /> phẩm này vào khoảng giữa thế kỷ XVI, dưới thời nhà Mạc.<br /> Nội dung tác phẩm là kể lại lịch sử Việt Nam qua các triều đại từ thời sơ thủy<br /> đến thời nhà Mạc, qua đó thể hiện cảm xúc của mình đối với các sự kiện và nhân vật<br /> lịch sử. Điều đáng lưu ý là với tác phẩm này, lần đầu tiên xuất hiện thể loại diễn<br /> ca lịch sử, một thể loại cực kỳ quan trọng trong văn học chữ Nôm, được phát triển<br /> mạnh mẽ vào những thế kỷ sau đó. Đây cũng là lần đầu tiên có một tác phẩm chữ<br /> Nôm dài hơi viết theo thể “lục bát”, một thể thơ thuần túy của dân tộc Việt Nam.<br /> <br /> 2. Thiên Nam minh giám (天 南 明 監)<br /> <br /> Hiện chưa rõ tác giả là ai, có thể là do một nhà Nho trong tôn tthất chúa Trịnh<br /> vâng mệnh phủ chúa mà viết. Tác phẩm hoàn thành vào khoảng giữa thế kỷ XVII.<br /> Cũng là một tác phẩm diễn ca lịch sử Việt Nam, dài hơn 900 câu theo thể thơ<br /> Việt “song thất lục bát”. Đây là lần đầu tiên có một tác chữ Nôm dài hơi viết bằng<br /> thể “song thất lục bát”.Với thể loại diễn ca lịch sử thì tác phẩm này dường như là<br /> duy nhất hiện có được viết theo thể thơ này.<br /> <br /> 3. Thiên Nam ngữ lục (天 南 語 錄)<br /> <br /> Chưa rõ tác giả là ai, có thể là một nhà Nho, nhiều lần thi hỏng, sống ngao du ẩn<br /> dật. Về già mới viết sách này theo yêu cầu của chúa Trịnh, nhưng sau rồi cũng không<br /> dâng lên chúa, giữ lại làm của báu gia đình. Tác phẩm hoàn thành vào khoảng cuối<br /> thế kỷ XVII. Hiện có 6 dị bản, trong đó bản chép tay đầu thế kỷ XVIII mang ký hiệu<br /> AB.478 là cổ nhất và đầy đủ hơn cả.<br /> Cũng như Việt sử diễn âm thời nhà Mạc trước đây vào thế kỷ XVI hoặc Đại Nam<br /> quốc sử diễn ca (大 南 國 史 演 歌) sau này ở thế kỷ XIX (1870), Thiên Nam ngữ<br /> lục thuộc loại diễn ca lịch sử, viết theo thể “lục bát”. Nhưng đây là tác phẩm thành<br /> công nhất về nhiều phương diện, đặc biệt là ngôn ngữ văn học tiếp cận với lời nói dân<br /> gian, giàu hình tượng và cảm xúc với khối lượng phong phú các thành ngữ và tục ngữ<br /> tiếng Việt.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1-5<br /> 2006 台語文學學術研討會論文集 Tâi-gí Bûn-hk Hk-sýt Gián-thó-hōe Lūn-bûn-ch…p<br /> <br /> <br /> <br /> Điều quan trọng cần đặc biệt lưu ý là Thiên Nam ngữ lục là tác phẩm lục bát<br /> (văn vần nói chung) trường thiên có độ dài lớn nhất trong văn học Việt Nam. Tác<br /> phẩm gồm 8.136 câu thơ “lục bát”, kèm theo 2 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú và 31 bài<br /> vừa thơ vừa sấm ngữ bằng chữ Hán. Có thể nói đây là lần đầu tiên thể thơ “lục bát”<br /> được thử thách trong một tác phẩm thi ca trường thiên, chứng minh cho khả năng biểu<br /> đạt vô tận của thể thơ, chuẩn bị cho nó tiến tới hoàn thiện thêm trong hàng loạt truyện<br /> thơ Nôm trường thiên ở những thế kỷ sau.<br /> <br /> D. NGÂM KHÚC (THỂ NGÂM) 國音吟曲<br /> <br /> “Ngâm khúc” là một thể loại thơ Nôm trường thiên. Đó là những tác phẩm trữ<br /> tình dài hơi, chuyên sử dụng thể thơ “song thất lục bát” để phô diễn tình cảnh và tâm<br /> tư của nhân vật trữ tình. Có 2 tác phẩm tiêu biểu cho thể loại này là Chinh phụ ngâm<br /> khúc và Cung oán ngâm khúc. Ngoài ra còn có Ai tư vãn (哀思 輓) là tiếng khóc và<br /> lời thở than của công chúa Lê Ngọc Hân (1770 - 1799), vợ vua Quang Trung, sau cái<br /> chết đột ngột của nhà vua.<br /> <br /> 1. Chinh phụ ngâm khúc (征 妇 吟 曲)<br /> <br /> Nguyên tác Hán văn của nhà thơ Việt Nam Đặng Trần Côn (鄧 陳 琨, thế kỷ<br /> XVIII), dài 438 câu theo thể “trường đoản cú”, xuất hiện năm 1741. Liền ngay sau đó<br /> lần lượt có 4 bản dịch sang thơ Nôm. Bản dịch thành công nhất được lưu hành rộng<br /> rãi, theo ván khắc năm 1902, gồm 412 câu thơ, thể “song thất lục bát”. Bản này tương<br /> truyền là do bà Đoàn Thị Điểm (段 氏 點 , 1705 - 1748) chuyển dịch. Song gần đây<br /> có nhiều người nghiêng về phía khẳng định Phan Huy Ích (潘 輝 益, 1750 - 1822)<br /> mới là dịch giả của bản hiện đang lưu hành.<br /> Chinh phụ ngâm là một lời độc thoại nội tâm mà nhân vật trữ tình duy nhất trong<br /> tác phầm là một người vợ có chồng gặp thời loạn phải ra đi chinh chiến. Lý tưởng lập<br /> công danh không ngăn được nỗi niềm cô quạnh và ước mong được sống hạnh phúc<br /> cùng chồng nơi quê nhà.<br /> Đây có thể là tác phẩm ngâm khúc đầu tiên mà thành công của nó chứng minh<br /> cho khả năng của thể “song thất lục bát” trong việc phô diễn những cảnh tượng bi<br /> tráng và tâm trạng sầu muộn triền miên của nhân vật trữ tình.<br /> Để minh họa, trích một khổ thơ mở đầu tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc (theo<br /> bản khắc AB.26, năm 1902):<br /> 糓 俼 坦 常 欺 陿 桙<br /> 客 牤 紅 蜫 餒 迍 邅<br /> 籑 箕 深 瀋 層 珕<br /> 為 埃 蔐 孕 朱 戼 餒 尼<br /> (天 地 風 塵 .紅 顏 多 迍 .<br /> 悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因)<br /> (Phần chú chữ Hán là theo nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1-6<br /> 〈KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM〉阮光紅教授<br /> <br /> <br /> <br /> 2. Cung oán ngâm khúc (宮 怨 吟 曲)<br /> <br /> Tác giả khúc ngâm là Nguyễn Gia Thiều 阮嘉韶 (1741 - 1798), sinh trưởng<br /> trong một gia đình quý tộc, là cháu ngoại chúa Trịnh Cương (鄭 綱, ? - 1729). Ông<br /> học rộng, am hiểu nhiều môn nghệ thuật: âm nhạc, hội họa, kiến trúc, trang trí. Cung<br /> oán ngâm khúc theo bản in khắc ván đầu thế kỷ XX dài 356 câu, theo thể “song thất<br /> lục bát”.<br /> Khúc ngâm trường thiên này là lời tự bạch nỗi niềm cô đơn chán chường của<br /> người cung nữ bị bỏ rơi, đồng thời cũng là lời gửi gắm những suy tư của tác giả về<br /> nhân sinh và thế giới. Tác phẩm rất giàu sức biểu cảm: có tiếng nói trữ tình từ cảnh<br /> ngộ cá nhân của nhân vật trữ tình, vừa có tiếng nói triết lý về kiếp nhân sinh từ những<br /> suy tư của tác giả.<br /> Với tác phẩm này, thể “song thất lục bát” đã đi đến chỗ hoàn thiện ở mức<br /> đỉnh điểm: cách luật hoàn toàn chặt chẽ, chuẩn mực, không chấp nhận những ngoại lệ<br /> như ở các tác phẩm khác. Ngôn ngữ văn học ở đây được gọt giũa kỹ càng, biện pháp<br /> điệp từ sử dụng rất khéo léo, tạo được cảm xúc.<br /> <br /> E. TRUYỆN NÔM (THỂ TRUYỆN) 國音敘事詩<br /> <br /> Đây là một thể loại văn học viết theo văn vần, có cốt truyện (tức là một loại tiểu<br /> thuyết văn vần), rất phát triển ở Việt Nam (mà ở Trung Hoa hầu như không có), đặc<br /> biệt thịnh hành từ cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Có tới hàng<br /> trăm tác phẩm thuộc loại này, mà đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn Du.<br /> Truyện Nôm sử dụng thể thơ “lục bát” là chủ yếu, song cũng có một số ít tác<br /> phẩm dùng thể Đường luật. “Truyện Nôm Đường luật” (唐律 國 音 敘 事 詩)<br /> thường dựa theo một cốt truyện đơn giản để viết thành một loạt các bài thơ “thất ngôn<br /> bát cú” (七 言 八 句 )liên hoàn. “Truyện Nôm lục bát” (六 八 體 國 音 敘 事<br /> 詩) chỉ dùng thể “lục bát”, đôi khi có thể xen kẽ vài bài thơ Đường luật. Trong số các<br /> truyện Nôm hơn phân nửa tác phẩm không mang tên tác giả (thường được gọi là<br /> “Truyện Nôm khuyết danh” 缺 名 國 音 敘 事 詩).<br /> <br /> 1. Truyện Vương Tường (王 祥 傳 )<br /> <br /> Cốt truyện mượn từ tích đời Hán, viết về cuộc đời của Vương Tường (tức Vương<br /> Chiêu Quân 王 昭 君) được tuyển làm cung nữ dưới thời Hán Nguyên Đế 漢 元 帝,<br /> vì không đút lót nên thợ vẽ Mao Diên Thọ 毛 延 壽 vẽ xấu đi, khiến nhà vua<br /> không để ý đến. Nhân có vua nuớc Hồ cầu thân, vua Hán liền đem Chiêu Quân gả cho<br /> vua Hồ. Đến lúc ấy vua Hán mới biết nàng đẹp, lấy làm tiếc. Sang đến cung vua nước<br /> Hồ, nàng tự vẫn.<br /> Đây là một truyện tiêu biểu cho loại “Truyện Nôm Đường luật”. Không rõ tác<br /> giả là ai. Giới nghiên cứu ước đoán tác phẩm này ra đời khá sớm, vào khoảng đầu thế<br /> kỷ XVI. Truyện gồm 49 bài thơ “thất ngôn bát cú”, trong đó có 38 bài chính truyện,<br /> 10 bài là lời than tiếc của người đời và 1 bài kết luận. Câu thơ trau chuốt, bút pháp thơ<br /> Đường vững vàng. Song có thể là do hạn chế của khuôn khổ thơ cách luật “thất ngôn<br /> bát cú”, khó diễn tả liền mạch cốt chuyện, nên kết cấu có phần rời rạc. Đây là nhược<br /> <br /> <br /> 1-7<br /> 2006 台語文學學術研討會論文集 Tâi-gí Bûn-hk Hk-sýt Gián-thó-hōe Lūn-bûn-ch…p<br /> <br /> <br /> <br /> điểm chung của loại “Truyện Nôm Đường luật” (hiện chỉ còn 3 truyện), khiến nó<br /> không phát triển và tỏ ra “lép vế” hẳn so với loại “Truyện Nôm lục bát”.<br /> <br /> 2. Tống Trân Cúc Hoa (宋 珍 菊 花)<br /> <br /> Tống Trân Cúc Hoa là câu chuyện thuần túy Việt Nam, không lấy tích từ Trung<br /> Hoa như nhiều truyện khác. Tác phẩm kể chuyện đôi trái gái nhà nghèo Tống Trân và<br /> Cúc Hoa, vượt qua mọi gian nan thử thách từ phía các thế lực quan lại và quý tộc,<br /> bằng tất cả lòng kiên trinh và tài năng của mình, để bảo vệ tình yêu. Trong truyện còn<br /> kể chuyến đi sứ của Tống Trân, thể hiện tài năng và lòng tự tôn dân tộc của chàng<br /> trong việc bang giao. Mặc dù bị chàng chối từ, nhưng công chúa nước Tàu vì quá yêu<br /> chàng, đã vượt bể sang nước Việt tìm chàng. Và Cúc Hoa đã vui lòng để cho chàng<br /> cưới thêm công chúa Trung Hoa.<br /> Đây là một tác phầm tiêu biểu cho loại “Truyện Nôm lục bát khuyết danh”<br /> còn gọi là “truyện Nôm dân gian” (những truyện loại này hiện còn hơn 100 tác phẩm).<br /> Truyện gồm 1689 câu thơ lục bát, xuất hiện vào khoảng từ giữa thế kỷ XVIII sang<br /> đầu thế kỷ XIX. Ngôn ngữ văn học trong tác phẩm rất gần với lời ăn tiếng nói của dân<br /> gian. Hầu như không dùng điển cố và rất ít từ Hán Việt. Trong truyện nhiều khi mang<br /> đậm nét truyện kể truyền miệng, do đó có phần thiếu trau chuốt.<br /> <br /> 3. Truyện Kiều (翹 傳)<br /> <br /> Tác giả là Nguyễn Du 阮 攸 (1765 - 1820), nhà đại thi hào dân tộc Việt Nam.<br /> Sinh trưởng trong một gia đình danh gia vọng tộc (cha làm quan đến Tể tướng, anh<br /> làm quan đến Tham tụng, nhưng gặp nhiều trắc trở). Năm 1783 thi Hương đậu Tam<br /> trường, sau không thi tiếp nữa. Thuở nhỏ ở Thăng Long, lớn lên gặp thời tao loạn (từ<br /> khởi nghĩa Tây Sơn đến Nguyễn Ánh khôi phục lại Nhà Nguyễn) phải nay đây mai đó,<br /> cuối cùng về quê ở Nghệ An, sống gần với dân gian. Có ra làm quan với nhà Nguyễn<br /> một thời gian, từng được cử đi sứ nhà Thanh.<br /> Nguyễn Du có một sự nghiệp sáng tác văn học đồ sộ, cả bằng chữ Hán và bằng<br /> chữ Nôm. Riêng về văn chương chữ Nôm, ngoài Truyện Kiều, ông còn để lại một vài<br /> tác phẩm ngắn, mà tiêu biểu là bài Văn tế thập loại chúng sinh (十 類 眾 生 祭 文),<br /> là một bài văn chiêu hồn đối với mọi kiếp người đã chết trong bất cứ cảnh ngộ nào,<br /> thể hiện lòng thương người bao la của nhà thơ.<br /> Truyện Kiều là cách gọi tắt của người đời sau, nguyên tên do tác giả đặt là Đoạn<br /> trường tân thanh (斷 腸 新 聲). Cốt truyện dựa theo tiểu thuyết chương hồi Kim<br /> Vân Kiều truyện (金 雲 翹 傳) của Thanh Tâm Tài Nhân 青 心 才 人 ở Trung<br /> Hoa. Nhưng nếu như tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân không gây được chú ý ở<br /> ngay Trung Quốc, thì Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du là tác phẩm văn học<br /> kiệt xuất, ngay từ khi vừa ra đời (khoảng 1804 - 1809) đến nay đã được mọi tầng lớp<br /> dân chúng Việt Nam yêu thích, và được thế giới nhiệt liệt đón nhận, được dịch ra<br /> nhiều thứ tiếng khác nhau. Nguyễn Du là người Việt Nam thứ hai (thế hệ sau Nguyễn<br /> Trãi) được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.<br /> Truyện Kiều kể chuyện 15 năm lưu lạc của nhân vật chính là nàng Thúy Kiều 翠<br /> 翹 . Thúy Kiều là một tiểu thư xinh đẹp, tài hoa, có tình yêu tự do và trong sáng với<br /> <br /> <br /> <br /> 1-8<br /> 〈KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM〉阮光紅教授<br /> <br /> <br /> <br /> chàng thư sinh Kim Trọng 金 重 . Chế độ phong kiến suy tàn với đầy rẫy những thế<br /> lực (đặc biệt là quan lại liên kết với thương gia) đã xô đẩy nàng vào cảnh đời ca kỹ,<br /> tôi đòi. Toàn bộ câu chuyện với mọi diễn biến về tình tiết và tâm lý nhân vật làm<br /> thành bản cáo trạng đối với những bất công, tàn bạo trong xã hội, là tiếng kêu xé lòng<br /> đối với tình yêu và thân phận những con người bị chà đạp, là ước vọng vươn tới giành<br /> lại quyền sống cho họ. Tác phẩm thấm đượm tinh thần nhân đạo sâu sắc, với bút pháp<br /> hiện thực giàu chất trữ tình.<br /> Bản in cũ nhất và còn lại trọn vẹn cho đến nay là bản Liễu Văn Đường 1871 và<br /> bản Duy Minh Thị 1872. Truyện Kiều là tác phẩm truyện Nôm có độ dài lớn nhất,<br /> gồm 3.254 câu thơ, theo thể “lục bát”. Đây là tác phẩm thành công và tiêu biểu về<br /> nhiều phương diện, là đỉnh cao của văn học Việt Nam thời Trung đại. Riêng về mặt<br /> ngôn ngữ thơ, tác giả đã rất nhuần nhuyễn trong việc sử dụng ngữ liệu Trung Hoa kết<br /> hợp với ngữ liệu dân gian Việt Nam. Tiếng Việt trong Truyện Kiều đánh dấu cho trình<br /> độ tinh luyện, chuẩn mực và giàu sức biểu hiện. Đây là tác phẩm truyện thơ Nôm<br /> trường thiên mà trong đó thể thơ “lục bát” đạt tới mức điển phạm, chuẩn mực,<br /> không chấp nhận bất cứ những gì thố sơ, vụng về, phá cách như trong các truyện Nôm<br /> khác.<br /> Để minh họa, trích hai khổ đầu (4 câu) từ văn bản Truyện Kiều khắc in năm<br /> 1871:<br /> 炧 璏 瑉 憥 圡 些 > (百 年 身 世 事 情 )<br /> 岲 才 岲 命 窖 卥 唙 饒 > (色 才 二 字 兩 生 相 嫌 )<br /> 惐 戈 沒 局 帀 盙 > (一 經 滄 海 桑 田 )<br /> 仍 調 饢 獕 乑 僘 妿 峼 > (事 於 眼 見 太 煩 心 傷 )<br /> (Phần chú chữ Hán là theo bản dịch của Lê Dụ 黎 裕 ở Hà Nội, 1946)<br /> <br /> F. PHÚ NÔM (國 音 賦) VÀ VĂN TẾ NÔM (國 音 祭 文)<br /> <br /> Trong văn học Việt Nam (cũng như ở Trung Hoa), phú là một thể văn có từ rất<br /> rất sớm, có phú chữ Hán và phú chữ Nôm. Phú chữ Nôm có thể bắt đầu từ thời Trần<br /> (thế kỷ XIII), như hai bài phú đã nhắc đến ở trên của vua Trần Nhân Tông và sư<br /> Huyền Quang. Nội dung của phú Nôm thường ca ngợi cảnh sắc non sông, xưng tụng<br /> công tích anh hùng, hoặc phê phán trào lộng, nghị luận sự tích, nhân vật.<br /> Những tác phẩm và tác gia nổi tiếng về phú Nôm có thể kể: Phụng thành xuân<br /> sắc phú (鳳 城 春 色 賦 ) của Nguyễn Giản Thanh 阮 簡 青 (1482 - ?), Tịch cư<br /> ninh thể phú (寂 居 寧 體 賦) và Đại Đồng phong cảnh phú (大 同 風 景 賦) của<br /> Nguyễn Hàng 阮 行 (thế kỷ XVI), Ngã Ba Hạc phú (我 巴 鶴 賦)của Nguyễn Bá<br /> Lân 阮 伯 燐 (1701 - 1785), Trương Lưu hầu phú(張 留 侯 賦), Quách Tử Nghi<br /> phú (郭 子 儀 賦) của Nguyễn Hữu Chỉnh 阮 有 整 (? - 1787), Tụng Tây Hồ phú<br /> (訟 西 湖 賦) của Nguyễn Huy Lượng 阮 輝 亮 (? - 1808), Chiến tụng Tây Hồ<br /> phú (戰 訟 西 湖 賦) của Phạm Thái 範 泰 (1777 - 1813), Hàn nho phong vị phú<br /> (寒 儒 風 味 賦) của Nguyễn Công Trứ 阮 功 著 (1778 - 1858), Tài tử đa cùng<br /> phú (才 子 多 窮 賦) của Cao Bá Quát 高 伯 适 (1808 - 1885), v.v.<br /> <br /> <br /> <br /> 1-9<br /> 2006 台語文學學術研討會論文集 Tâi-gí Bûn-hk Hk-sýt Gián-thó-hōe Lūn-bûn-ch…p<br /> <br /> <br /> <br /> Văn tế với tư cách là những tác phẩm văn học còn lại với thời gian thường không<br /> chỉ mang chức năng nghi lễ tín ngưỡng, mà đó là những tác phẩm chứa chan tình cảm<br /> với những người đã khuất, những người thân thiết của tác giả hoặc những anh hùng<br /> liệt sĩ, những người có số phận bất hạnh trong xã hội. Văn tế có thể viết bằng nhiều<br /> thể thức khác nhau, có thể văn biền ngẫu, có thể là song thất lục bát. Song phần lớn là<br /> những bài văn tế viết theo thể phú.<br /> Có những bài văn tế nổi tiếng của các tác giả như: Văn tế chị (祭 姊文) của<br /> Nguyễn Hữu Chỉnh (? - 1787), Văn tế thập loại chúng sinh (十 類 眾 生 祭 文)<br /> của Nguyễn Du (1765 - 1820), Văn tế Trương Quỳnh Như (祭 張 瓊 茹 文) của<br /> Phạm Thái (1777 - 1813), Văn tế nghiã sĩ Cần Giuộc (芹 勺 義 士 祭 文) của<br /> Nguyễn Đình Chiểu 阮 廷 沼 (1822 - 1888) v.v.<br /> <br /> G. THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT (唐 律 國 音 詩)<br /> <br /> Văn nhân người Việt làm quen với cách luật thơ Đường từ rất sớm. Bước đầu thử<br /> mô phong thể thơ này để làm thơ tiếng Việt, các nhà thơ đã không theo sát thể thức<br /> Đường luật như khi làm thơ chữ Hán, mà có cải biến ít nhiều, tạo thành lối thơ Việt<br /> hóa “Hàn luật”. Lối thơ Đường luật Việt hóa này đã không được các thế hệ thi nhân<br /> đời sau kế thừa và phát huy. Từ thế kỷ XVII trở đi văn đàn Việt Nam hầu như vắng<br /> bóng các bài thơ Nôm “phá cách” như vậy (trừ một số bài tương truyền là của Hồ<br /> Xuân Hương, mang sắc thái trào phúng theo lối dân gian), thay vào đó là những bài<br /> thơ chữ Nôm tuân thủ nghiêm chỉnh cách luật thơ Đường.<br /> Có thể nói rằng các nhà thơ Việt Nam thời trung đại ai cũng từng làm thơ Đường<br /> luật, chữ Hán và cả chữ Nôm. Tuy nhiên, không phải tác giả nào cũng thực sự thành<br /> công. Trong số các nhà thơ để lại ấn tượng rõ nét nhất về thơ Nôm Đường luật có thể<br /> kể đến: Bà Huyện Thanh Quan 婆 縣 清 觀 (tên thực là Nguyễn Thị Hinh 阮 氏<br /> 馨 , đầu thế kỷ XIX) với chùm bài thơ mang nặng tâm trạng hoài cổ; Nguyễn Khuyến<br /> 阮 勸 (1835 - 1909) và những bài thơ diễn tả cảnh trí mùa thu với nỗi cô quạnh nơi<br /> đồng quê thôn dã; Phan Văn Trị 潘 文 治 (1830 - 1910) với nhiều bài thơ vịnh vật<br /> vịnh cảnh và 10 bài thơ họa chế giễu bọn văn nhân cam tâm theo giặc Pháp. Sáng tác<br /> nhiều và thành công hơn cả là Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương.<br /> <br /> 1. Hồ Xuân Hương 胡 春 香 (cuối XVIII đầu XIX)<br /> <br /> Cho đến nay, giới nghiên cứu vẫn chưa biết chính xác năm sinh năm mất cùng<br /> thời gian sáng tác của bà, cũng như chưa xác định được rõ toàn bộ tác phẩm của bà.<br /> Bà nổi tiếng là “bà chúa thơ Nôm”, với khoảng hơn 50 bài thơ Nôm luật Đường, được<br /> sưu tập và chép lại vào năm 1893. Trong số đó có lẫn một số bài của người khác. Gần<br /> đây phát hiện tập Lưu hương ký (留 香 記), trong đó có 24 bài thơ chữ Hán và 26 bài<br /> thơ chữ Nôm, ngờ rằng đó là thơ của Hồ Xuân Hương, song cũng chưa thật chắc<br /> chắn.<br /> Thơ Nôm Hồ Xuân Hương nói về những cảnh ngộ riêng tư của người phụ nữ,<br /> những nỗi khổ và bất công mà họ phải hứng chịu: làm vợ lẽ, chửa hoang, góa chồng.<br /> Nhưng thái độ của bà là không kêu than, không bi lụy, mà với đầy đủ ý thức về giới<br /> tính, bà khuyên chị em hãy ngẩng cao đầu làm người, đòi lại quyền bình đẳng cho họ<br /> <br /> <br /> 1-10<br /> 〈KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM〉阮光紅教授<br /> <br /> <br /> <br /> trong cuộc sống. Với giọng trào lộng, bà thách thức, trêu chọc những “hiền nhân quân<br /> tử” mà thực ra là lũ đàn ông dốt nát, ngây ngô, không đáng để phục tùng, tôn trọng.<br /> Bà được độc giả Việt Nam và thế giới đánh giá cao như là biểu tượng của tinh thần tự<br /> trọng giới tính và thách thức với tất cả những nỗi bất công mà người phụ nữ phải chịu<br /> đựng trong một xã hội phong kiến "trọng nam khinh nữ".<br /> Thơ Nôm Hồ Xuân Hương tuân thủ nghiêm chỉnh thể cách Đường luật, nhưng bà<br /> đã phá tan hình thức “nghiêm trang” ấy bằng cách triệt để khai thác các biện pháp tu<br /> từ của tiếng Việt: ngôn ngữ đời thường tự nhiên được sử dụng thích hợp, cùng với<br /> cách chơi chữ song quan mập mờ giữa thanh và tục, khiến cho người đọc cảm thấy<br /> hứng thú như đi vào khám phá những điều bất ngờ ngay trong hàm nghĩa của từ ngữ<br /> câu thơ. Chính thơ Hồ Xuân Huơng mở đầu cho xu hướng thơ Nôm trào phúng ở<br /> các thế hệ nhà thơ sau bà. Cũng cần lưu ý là trong số những tác phẩm tương truyền là<br /> của Hồ Xuân Hương, có lẫn nhiều bài chưa hẳn là của bà (kể cả những bài mở đầu<br /> bằng một câu "lục ngôn"), mà có khả năng là của người đương thời hoặc đời sau làm<br /> thác lời bà. Những bài này mang đậm tính trào phúng và gần với dân gian.<br /> <br /> 2. Trần Tế Xương 陳 濟 昌 (1870 - 1907)<br /> <br /> Ông được học hành từ nhỏ, đi thi rất sớm, nhưng mãi lận đận trong khoa cử, chỉ<br /> đỗ Tú tài năm 24 tuổi mà thôi. Bởi đó người ta gọi ông là Tú Xương 秀 昌 . Ông<br /> sống một cuộc đời nghèo khổ của một trí thức Nho học giữa một thành thị nhỏ (Nam<br /> Định) mà chế độ phong kiến đã suy tàn và thực dân Pháp bắt đầu công cuộc “bảo hộ”.<br /> Tú Xương sáng tác rất nhiều, nhưng không ghi chép lại, nên thất lạc không ít.<br /> Hiện có tập Vị thành giai cú tập biên (渭 城 佳 句 集 編) trong đó chép nhiều thơ<br /> Nôm của ông, nhưng cũng có nhiều bài của người khác. Hầu hết sáng tác của Tú<br /> Xương đều bằng tiếng Việt. Trong số hơn 100 bài thơ Nôm còn lại của ông, có bài<br /> theo thể lục bát, có bài theo thể song thất lục bát, nhưng phần nhiều là làm theo thể<br /> Đường luật (thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú).<br /> Tú Xương là nhà thơ chuyển tiếp từ văn học của xã hội phong kiến sang văn học<br /> của xã hội mang tính chất thành thị theo lối tư bản chủ nghĩa. Thơ ông phác họa<br /> những mẩu người, mẩu đời rất đa dạng, cụ thể và chân xác từ đời sống thực tế của<br /> thành phố nơi ông sống, và cũng chính từ thực tế của bản thân ông. Qua đó ta thấy<br /> được những nét đặc trưng của một xã hội phong kiến suy tàn trên con đường thực<br /> dân hóa, với những biểu hiện lai căng chứa nhiều mâu thuẫn trong đạo đức và lối<br /> sống.<br /> Mặc dù sử dụng lối thơ Đường cổ điển, nhưng Tú Xương đã phá bỏ tính ước lệ,<br /> tượng trưng, quy phạm của thơ cổ điển. Cùng với sự chân thực trong chất liệu cuộc<br /> sống, Tú Xương đưa vào ngôn ngữ thơ ông những từ ngữ của đời thường, thậm chí cả<br /> tiếng lóng, tiếng bồi, tiếng nghề nghiệp của cư dân thành thị. Trong thơ ông có cả<br /> giọng nói trữ tình lẫn tiếng cười châm biếm, đặc biệt là nghệ thuật châm biếm trào<br /> lộng của ông rất sắc sảo, tự nhiên. Về mặt này, ông đã tiếp thu tiếng cười của văn học<br /> dân gian, kế thừa phong cách của Hồ Xuân Hương, làm gương cho nhiều nhà thơ trào<br /> phúng thời hiện đại.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1-11<br /> 2006 台語文學學術研討會論文集 Tâi-gí Bûn-hk Hk-sýt Gián-thó-hōe Lūn-bûn-ch…p<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> H. CA TRÙ (歌 籌)<br /> <br /> “Ca trù” là một hoạt động hát xướng vừa chuyên nghiệp vừa dân gian. Có nhiều<br /> làn điệu, mối làn điệu đều có bài bản riêng về âm nhạc, về ca từ. Lời ca trong các làn<br /> điệu ca trù thường do các nhà thơ sáng tác. Ca từ trên đại thể là bằng chữ Nôm tiếng<br /> Việt, thỉnh thoảng xen lẫn vài câu Hán văn. Nghệ nhân trình diễn thường vừa hát vừa<br /> múa,do vai nữ (gọi là “đào” 桃) thực hiện. Đôi khi cũng có sự tham gia phụ trợ của<br /> vai nam (gọi là “kép” 甲 ). Có người ngồi cầm chầu, nếu chỗ nào hay thĩ gõ trống<br /> ném thẻ (tức “trù”) để thưởng cho con hát. Ca trù còn được gọi là “hát ả đào”, “hát cô<br /> đầu”, ...<br /> Sinh hoạt hát xướng này có thể ra đời từ rất sớm ở Việt Nam. Dân gian còn nhắc<br /> nhớ câu chuyện một ả đào có công chống giặc Minh xâm luợc (thế kỷ XV). Bản ca từ<br /> sớm nhất còn lại đến nay là bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào (代 擬 八<br /> 甲 賞 桃 文) của Lê Đức Mao 黎 德 毛 (1462 - 1529). Bài ca từ này gồm 9 đoạn,<br /> 128 vế, viết theo thể lục bát, vừa song thất lục bát. Đây cũng là tư liệu cổ nhất còn lại<br /> về hai thể thơ này.<br /> Có một lối hát ca trù phổ biến ở các thành thị từ Nghệ An trở ra, rất thịnh hành<br /> vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, mà ca từ đòi hỏi phải tuân thủ theo một thể thức<br /> riêng, gọi là thể “hát nói” 唱 說 體 . Tuy ca từ “hát nói” có khuôn khổ định sẵn,<br /> song số tiếng trong các câu có thể dài ngắn khác nhau (6,7,8 tiếng đều dùng), do đó<br /> tạo được tiết tấu thanh thoát, biến chuyển, không gò bó. Đây cũng là loại ca từ nòng<br /> cốt của ca trù, được nhiều nhà thơ tích cực tham gia sáng tác và nhập cuộc diễn xướng:<br /> Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), Cao Bá Quát (1808 - 1855), Nguyễn Khuyến (1835<br /> - 1909), Dương Khuê 楊 奎 (1839 - 1902), Chu Mạnh Trinh 朱 孟 貞 (1862 -<br /> 1905), v.v.<br /> Trong ca từ “hát nói”, đặc biệt là trong tác phẩm của Nguyễn Công Trứ, chữ<br /> “tài” và chữ “tình” được đề cao, nhưng tài và tình ở đây không theo quy phạm của<br /> Nho gia, mà muốn thoát ra theo hướng khẳng định cái tôi cá nhân, hướng tới cuộc<br /> sống tự do phóng khoáng, đắm mình trong sự tự thưởng thức tài hoa của bản thân và<br /> hưởng thụ mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống, đặc biệt là tranh thủ hưởng thụ<br /> thú vui thanh sắc.<br /> <br /> I. KỊCH BẢN TUỒNG VÀ CHÈO “象” 與 “嘲” 劇 版<br /> <br /> “Tuồng” là một loại kịch hát truyền thống của Việt Nam, hình thành từ thời<br /> Lý-Trần (thế kỷ XIII), phát triển mạnh ở ngoài Bắc dưới thời Lê mạt (thế kỷ XVIII)<br /> và ở trong Nam dưới triều Nguyễn (thế kỷ XIX). Kịch bản tuồng có tới hàng trăm vở,<br /> nhiều vở thất truyền, hiện có khoảng 50 vở đang lưu trữ trong nước và ở nước ngoài.<br /> Tuồng có hai loại: “Tuồng thầy” (象師) và “tuồng đồ” (象 徒).<br /> “Tuồng thầy” (còn gọi “tuồng pho”) mang tính bác học, chủ yếu diễn trong sân<br /> khấu cung đình. Kịch bản viết bằng chữ Nôm, pha lẫn nhiều câu chữ Hán. Hầu hết các<br /> vở tuồng pho đều do vua quan và nhà văn quý tộc soạn, lấy cốt truyện từ lịch sử các<br /> triều đại Trung Hoa, nội dung thường đề cao trung quân ái quốc, ca ngợi anh hùng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1-12<br /> 〈KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM〉阮光紅教授<br /> <br /> <br /> <br /> nghĩa sĩ hy sinh vì nghĩa lớn. Tiêu biểu cho loại tuồng này là vở Sơn hậu (山 厚),<br /> hiện còn bản chép tay (năm 1832).<br /> “Tuồng đồ” mang tính bình dân, gần với dân gian, chủ yếu do các nhà nho<br /> nghèo soạn. Tích chuyện không lấy từ Trung Hoa, mà tự sáng tác hoặc dựa vào<br /> chuyện kể dân gian. Nội dung thường châm biếm, đả kích quan lại địa phương, giàu<br /> chất hài hước. Tuồng đồ vẫn dùng văn vần chữ Nôm, nhưng nói nhiều hơn hát, gần<br /> với khẩu ngữ tiếng Việt. Tuồng đồ thịnh hành ở trong Nam, chủ yếu ở tỉnh Bình Định.<br /> Kịch bản ít được ghi chép hơn tuồng pho. Tiêu biểu cho loại tuồng này là vở Di tình<br /> (移 情), còn gọi theo tên các nhân vật chính là Nghêu Sò Ốc Hến (螯 繱 礖 蜆 ).<br /> “Chèo” cũng là một loại kịch hát truyền thống của người Việt, phổ biến chủ yếu<br /> ở các tỉnh phía Bắc (từ Nghệ An trở ra). Chèo hình thành trên cơ sở ca vũ dân gian,<br /> bắt đầu từ thế kỷ XIII, thịnh hành vào thế kỷ XIX. Chèo là hình thức kể chuyện bằng<br /> các phương tiện hát múa dân gian. Tích chuyện có thể cải biên từ các truyện thơ Nôm,<br /> nhưng cũng có những vở chèo chuyên biệt và rất được công chúng bình dân ưa<br /> chuộng, như vở Kim Nham (金 岩) gọi theo tên của vai nam chính, hoặc còn gọi theo<br /> tên của vai nữ chính là Súy Vân (翠 雲).<br /> <br /> J.NHẬN XÉT BỔ XUNG<br /> <br /> Tiếng Việt và tiếng Hán cùng một loại hình đơn lập ( 孤 立 語 類 型 ) - âm<br /> tiết tính (分 節 語 類 型), mỗi âm tiết đều hầu như có nghĩa và là một ngữ tố. Bởi<br /> vậy hầu như tất cả các thể thức văn vần và biền văn trong Hán ngữ đều có thể được<br /> chuyển tải sang ứng dụng cho thi ca tiếng Việt. Thơ Nôm Đường luật và phú Nôm<br /> chính là sự ứng dụng thành công các thể thơ phú Trung Hoa vào Việt Nam. Tuy nhiên,<br /> sức sống và mức độ thịnh hành của chúng lại hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng thích<br /> nghi của chúng với văn hóa bản địa và nhu cầu thẩm mỹ của người Việt Nam qua các<br /> thời đại. Sự thịnh hành ở giai đoạn đầu và gần như mất đi ở giai đoạn sau của thể thơ<br /> “Hàn luật” (cải tạo từ thể Đường luật) là một thí dụ rõ nét cho xu thế này.<br /> Trong khi đó thì ngay từ đầu, văn học chữ Nôm của người Việt đã tự tìm tòi sáng<br /> tạo cho mình những thể thức riêng so với văn học chữ Hán ở Trung Hoa và ở Việt<br /> Nam. Tiêu biểu là hai thể thơ dân tộc bắt nguồn từ dân gian là “lục bát” và “song thất<br /> lục bát”, mà cách luật hoàn toàn khác biệt với thi luật Trung Hoa: từ số tiếng (câu thơ<br /> dài ngắn khác nhau), gieo vần (vần chân và cả vần lưng), ngắt nhịp (nhịp lẻ trước,<br /> nhịp chẵn sau), đến cấu trúc khổ thơ và khả năng liên kết các khổ thơ với nhau. Nhờ<br /> đó văn học Nôm đã có được nhiều tác phẩm trữ tình (thể ngâm) và tác phẩm tự sự (thể<br /> truyện) trường thiên, đạt tới giá trị nghệ thuật cao mà văn học chữ Hán (cả Việt Nam<br /> và Trung Hoa) không hề có được. Chính các khổ thơ “lục bát” và “song thất lục bát”<br /> lại cũng thường xuyên có mặt trong các thể loại khác của văn học chữ Nôm.<br /> Tuy nhiên, ngược lại, văn xuôi bằng chữ Nôm tuy không phải hoàn toàn vắng<br /> bóng, nhưng thành tựu thì tỏ ra hết sức mờ nhạt so với văn xuôi chữ Hán. Không chỉ ở<br /> Trung Hoa, nơi mà từ lâu đã có truyền thống viết truyện truyền kỳ và tiểu thuyết<br /> chương hồi, mà ngay ở Việt Nam cũng dễ dàng tìm thấy những tiểu thuyết chương hồi<br /> và truyện truyền kỳ bằng Hán văn. Tất cả những câu chuyện như thế, từ truyền kỳ,<br /> tiểu thuyết chương hồi và cả hí khúc chữ Hán, người Việt Nam đều sẵn sàng “diễn<br /> âm”, nghĩa là viết lại chúng dưới dạng văn vần “lục bát” và “song thất lục bát”. Nền<br /> văn xuôi tự sự và tiểu thuyết tiếng Việt chỉ thực sự hình thành và phát triển từ sau khi<br /> <br /> <br /> 1-13<br /> 2006 台語文學學術研討會論文集 Tâi-gí Bûn-hk Hk-sýt Gián-thó-hōe Lūn-bûn-ch…p<br /> <br /> <br /> <br /> tiếp xúc với văn học phương Tây và chữ Quốc ngữ La tinh hóa được phổ biến, chủ<br /> yếu là từ cuối thế kỷ XIX đến nay.<br /> Văn liệu Trung Hoa (bác học) thường được đọc với âm Hán Việt hoặc chuyển<br /> dịch sang tiếng Việt và ngữ liệu Viêt Nam thuần túy (dân gian) luôn luôn là hai nguồn<br /> chất liệu (ngữ liệu và thi liệu) làm nên tác phẩm văn học chữ Nôm. Và các tác phẩm<br /> văn học Nôm, bất kể là trong loại thể nào, đều có thể nghiêng về bên này (bác học)<br /> hoặc bên kia (dân gian) theo xu hướng thẩm mỹ của nhà văn và của công chúng. Song<br /> những tác phẩm đạt tới giá trị nghệ thuật cao đều là những kết tinh của sự phối hợp<br /> hài hòa của cả hai nguồn chất liệu đó, bảo đảm cho khả năng diễn tả phong phú và đa<br /> dạng của ngôn ngữ văn học Nôm.<br /> Cũng cần nhắc tới một điều là ở Việt Nam, càng về sau thì văn chương chữ Nôm<br /> (tiếng Việt) càng phát triển mạnh, thậm chí có người chỉ chuyên sáng tác bằng chữ<br /> Nôm. Trong chính giới và cả trong văn giới, từ vua quan đến văn nhân, đều có những<br /> người thời này thời khác tỏ ra hào hứng với văn học chữ Nôm, mặc dù đôi khi cũng<br /> có kẻ coi thường, nhất là đối với loại truyện thơ bình dân. Thái đọ trọng Hán khinh<br /> Nôm đã từng bị nhà thơ Phạm Đình Toái, tác giả Đại Nam quốc sử diễn ca (大南国史<br /> 演歌) chỉ trích: "Uống nước quên nguồn, người xưa chê trách. Trái thầy mà học,<br /> người hiền vốn tránh. Nước ta ở thiên về phương Nam, tiếng nói khác với Trung<br /> Quốc. Những học sĩ nho sinh, tuy tập theo văn tự Trung Hoa, song hát vịnh nói năng<br /> đều chẳng lìa bỏ thanh âm của bản quốc. Lẽ nào lại có thể chỉ một điều cho chữ Hán<br /> là thanh cao mà lại chối bỏ tiếng ta, chê là thô bỉ" (Trích Quốc âm từ điệu) [飲 水 忘<br /> 源, 昔 人 所 刺 . 倍 師 而 學, 賢 者 辟 之 . 我 國 偏 居 南 服 , 音 語<br /> 與 中 國 殊 . 學 士 儒 生 ,雖 習 中 華 文 字 ,而 咏 歌 言 語 不 離 本<br /> 國 之聲 音 . 豈 可 專 以 文 字 為 清 騷 而 反 斥 國 音 為 粗 鄙 -- 摘<br /> 自 "國 音 詞 調 "ư].<br /> Viết tại Hà Nội, đầu thángTám, 2006.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1-14<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2