BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THÙY
KHẢO SÁT MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ ĐỊNH DƯỚI GIÁ
KHI IPO TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THÙY
KHẢO SÁT MỘT SỐ NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ ĐỊNH DƯỚI GIÁ
KHI IPO TẠI VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TS. LÊ ĐẠT CHÍ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TÓM TẮT
Việc định giá sai trong các đợt phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng
(IPO) đã được kiểm chứng rộng rãi trong các nghiên cứu tại nhiều nước trên thế giới.
Mục tiêu của bài nghiên cứu này là muốn kiểm chứng xem có hay không việc định
dưới giá trong các đợt IPO tại Việt Nam chịu tác động của các nhân tố quy mô phát
hành, giá khởi điểm, sự khác biệt trong tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội tại
năm IPO với năm cổ phiếu được niêm yết, tuổi công ty, uy tín của tổ chức bảo lãnh
phát hành, quy mô công ty, tỷ số ROA, tỷ số P/E và tỷ số nợ. Bài nghiên cứu thực hiện
nghiên cứu trên các công ty IPO thông qua phương thức đấu giá tại các sàn giao dịch
chứng khoán tập trung tại Việt Nam là Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ định dưới
giá tính trung bình khi IPO tại Việt Nam là 30,5%.
Kết quả nghiên cứu bằng phương pháp hồi quy Bình Phương Bé Nhất cho thấy
rằng hai nhân tố giá khởi điểm và sự khác biệt trong tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội tại năm IPO và năm cổ phiếu được niêm yết có mối tương quan ngược chiều
với mức độ định dưới giá; nhân tố quy mô phát hành có mối tương quan cùng chiều với
mức độ định dưới giá; nhân tố quy mô công ty có mối tương quan ngược chiều nhưng
không thực sự mạnh với mức độ định dưới giá. Các nhân tố còn lại bao gồm tuổi công
ty, uy tín của tổ chức bảo lãnh phát hành, tỷ số ROA, tỷ số P/E và tỷ số nợ không có
mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với mức độ định dưới giá trong các đợt IPO tại Việt
Nam. Cuối cùng, vì sự hạn chế của nghiên cứu và mô hình, các kết quả nghiên cứu có
thể không chính xác cho việc dự báo giá trong các đợt IPO tiếp theo tại Việt Nam.
Từ khóa: phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng, mức độ định dưới giá, giá
khởi điểm, ngày giao dịch đầu tiên, uy tín của nhà bảo lãnh phát hành.
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA .......................................................................................................
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................
MỤC LỤC ....................................................................................................................
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................
DANH MỤC CÁC BẢNG ..........................................................................................
DANH MỤC CÁC HÌNH ...........................................................................................
TÓM TẮT ....................................................................................................................
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ...................................................................................... 1
1.1. IPO và hiện tượng định dưới giá khi IPO ............................................................. 1
1.1.1. IPO - Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng ...................................... 1
1.1.2. Hoạt động IPO tại Việt Nam ............................................................................ 2
1.1.3. Hiện tượng định dưới giá khi IPO.................................................................... 5
1.2. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 10
1.3. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 11
1.4. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 12
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .................... 16
2.1. Quy mô phát hành .............................................................................................. 16
2.2. Giá khởi điểm ..................................................................................................... 17
2.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ................................................................................. 18
2.4. Tuổi công ty ....................................................................................................... 20
2.5. Uy tín của nhà bảo lãnh phát hành ..................................................................... 21
2.6. Các chỉ số kế toán .............................................................................................. 23
2.7. Vay nợ ................................................................................................................ 24
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................... 26
3.1. Thu thập dữ liệu ................................................................................................. 26
3.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 33
3.2.1. Mô hình ........................................................................................................... 33
3.2.2. Biến phụ thuộc ................................................................................................ 34
3.2.3. Biến độc lập ..................................................................................................... 35
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................. 41
4.1. Lý thuyết ............................................................................................................ 41
4.2. Kết quả thực nghiệm .......................................................................................... 41
4.2.1. Thống kê mô tả mẫu ........................................................................................ 41
4.2.2. Hệ số tương quan ............................................................................................ 43
4.2.3. Kết quả phân tích hồi quy ............................................................................... 44
4.3. Thảo luận các kết quả ......................................................................................... 51
4.3.1. Quy mô phát hành ........................................................................................... 52
4.3.2. Giá khởi điểm .................................................................................................. 53
4.3.3. Chênh lệch trong tốc độ tăng trưởng GDP ...................................................... 54
4.3.4. Quy mô công ty ............................................................................................... 54
4.3.5. Tuổi công ty .................................................................................................... 55
4.3.6. Uy tín của nhà bảo lãnh phát hành .................................................................. 55
4.3.7. Hệ số ROA, tỷ số P/E và tỷ lệ nợ .................................................................... 56
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI ................................... 57
5.1. Kết luận .............................................................................................................. 57
5.2. Giới hạn của đề tài ............................................................................................. 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Cách viết đầy đủ
Initial Public Offering IPO
Ordinary Least Squares OLS
Gross Domestic Product GDP
Return On Assets ROA
Price-Earnings Ratio P/E
Earnings Per Share EPS
Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM HSX
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
UPCoM Unlisted Public Company Market
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Thống kê đấu giá từ 01/2005 đến tháng 10/2013 ....................................... 3
Bảng 1.2: Lợi nhuận trung bình trong ngày đầu tiên tại một số quốc gia ................... 8
Bảng 2.1. Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước đây............................................... 25
Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm từ năm 2005 – 2012 ................ 28
Bảng 3.2: Tóm tắt giả thiết kỳ vọng của các biến ..................................................... 39
Bảng 4.1: Bảng thống kê mô tả ................................................................................. 42
Bảng 4.2. Bảng hệ số tương quan ............................................................................. 43
Bảng 4.3: Phân tích hồi quy mức độ định dưới giá (DUP) với các biến độc lập ...... 44
Bảng 4.4: Bảng ma trận hệ số tương quan cặp giữa các biến giải thích ................... 47
Bảng 4.5: Bảng tóm tắt kết quả chạy mô hình hồi quy phụ ...................................... 48
Bảng 4.6: Bảng kết quả kiểm định tự tương quan .................................................... 49
Bảng 4.7: Kết quả kiểm định phương sai thay đổi bằng phương pháp Harvey ........ 50
Bảng 4.8: Bảng so sánh kết quả hồi quy ................................................................... 51
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Tốc độ tăng trưởng GDP và số lượng đợt đấu giá qua các năm ................. 4
Hình 1.2: Lợi nhuận trung bình ngày đầu tiên tại các nước khu vực đồng Euro ........ 6
Hình 1.3: Lợi nhuận trung bình trong ngày đầu tiên tại Mỹ ....................................... 6
Hình 1.4: Lợi nhuận trung bình trong ngày đầu tiên tại Anh ...................................... 7
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. IPO và hiện tượng định dưới giá khi IPO
1.1.1. IPO - Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng
Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng còn gọi là IPO (Initial Public
Offering) được định nghĩa là việc chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng. Tại
sao các công ty phải tiến hành IPO? IPO đem lại lợi ích gì cho công ty? Trước hết, với
sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, các công ty có thể huy động được
nhanh và nhiều vốn thông qua việc tiến hành IPO trên thị trường chứng khoán. Cổ
phiếu của công ty cũng có thể đạt được tính thanh khoản rất cao và đạt được các giá trị
gia tăng về giá sau khi IPO. Đó là một trong những lý do chính khiến các doanh nghiệp
tiến hành IPO.
Tiền mặt cũng là một mục tiêu để các công ty tiến hành IPO. Số tiền này có thể
rất quan trọng trong việc thu hút nhân tài mới, phát triển các sản phẩm, gia tăng hàng
tồn kho và xây dựng cơ sở vật chất. Thông thường, các công ty đang thiếu vốn có thể
chọn IPO là một kênh để huy động thêm vốn bên cạnh các kênh khác như vay nợ, phát
hành trái phiếu, huy động sự góp thêm vốn của cổ đông hiện hữu hoặc vận động một
nhà đầu tư thứ ba hay đối tác chiến lược đầu tư vào công ty. Tuy nhiên có những công
ty quy mô lớn, không hề thiếu vốn cũng vẫn tiến hành IPO cho mục đích trở thành
công ty cổ phần đại chúng. Tại các nước phát triển, hầu hết các công ty trước khi đi
vào hoạt động hoặc sau một quá trình phát triển đều tiến hành IPO. Công việc này
được biết đến ở Việt Nam trong thời gian gần đây và được các công ty tiến hành khá
nhanh, mạnh khi cảm nhận được các thế mạnh của nó.
IPO có thể nâng cao uy tín cho một công ty. Điều này đặc biệt quan trọng cho
công ty trong việc thu hút thêm nhiều khách hàng. Nhìn từ góc độ tài chính, trở thành
công ty cổ phần đại chúng sẽ giúp giảm chi phí vốn cho công ty. Tại Việt Nam, các
công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán có thể được các ngân hàng đánh giá
2
cao hơn và áp dụng một mức lãi suất vay ưu đãi thấp hơn đáng kể so với các công ty
khác.
Cuối cùng, một điểm thuận lợi vô cùng quan trọng của việc IPO là làm tăng
giá trị tài sản ròng, giúp công ty thu hút được nguồn vốn lớn, lâu dài và dễ dàng huy
động thêm vốn trên thị trường thứ cấp.
Mặc dù có nhiều điểm thuận lợi nhưng một công ty IPO và trở thành công ty
cổ phần đại chúng cũng có nhiều điểm bất lợi. Phát hành cổ phiếu ra công chúng có thể
làm cho tỷ lệ sở hữu của các cổ đông hiện hữu thay đổi (được gọi là hiện tượng pha
loãng cổ phiếu) và trong một số trường hợp có thể làm cho cổ đông hiện hữu mất
quyền kiểm soát công ty. Bên cạnh đó, cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn luôn
bị biến động do chịu ảnh hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày. Việc phát hành
cổ phiếu ra công chúng cũng làm cho công ty phải gánh chịu thêm một khoản chi phí
khá cao cho đợt phát hành như chi phí thuê tổ chức bảo lãnh phát hành, chi phí thuê
công ty tư vấn, phí kiểm toán báo cáo tài chính, phí in ấn tài liệu, chi phí tổ chức vận
động, phí niêm yết…. Ngoài ra, hàng năm công ty phải đóng một mức phí nhất định
cho Sở giao dịch chứng khoán để duy trì niêm yết, công bố thông tin hay chi phí kiểm
toán báo cáo tài chính định kỳ. Một điểm bất lợi quan trọng khác mà các công ty IPO
đối mặt là việc công ty phải tuân thủ một chế độ công bố thông tin rộng rãi, nghiêm
ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các công ty khác. Việc công bố thông tin
rộng rãi có thể rỏ rỉ những bí mật kinh doanh của công ty cho các đối thủ.
1.1.2. Hoạt động IPO tại Việt Nam
Hiện nay có ba cơ chế xác định giá IPO bao gồm cơ chế chào bán với giá cố
định, cơ chế đấu giá và cơ chế lập danh sách. Ở Việt Nam hiện nay chưa có cơ chế lập
danh sách, chỉ có một số rất ít các đợt IPO chào bán với giá cố định, còn lại đa số là
IPO theo cơ chế đấu giá. Có một số ít các cuộc đấu giá IPO tại Việt Nam được thực
3
hiện tại một công ty chứng khoán và hiện nay cũng chưa có tài liệu nào thống kê về kết
quả các cuộc đấu giá IPO thực hiện tại các công ty chứng khoán. Phần lớn các cuộc
đấu giá khác được thực hiện tại một sàn giao dịch chứng khoán tập trung là Sở giao
dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Theo thông tin thống kê tại Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội, có tổng cộng 463 cuộc đấu giá chào bán cổ phiếu ra công
chúng diễn ra tại hai sở này từ tháng 01/2005 đến tháng 10/2013, trong đó bao gồm cả
những cuộc đấu giá không thành công do không có nhà đầu tư tham gia và những cuộc
đấu giá về bản chất không phải là đấu giá phát hành lần đầu ra công chúng (tức là
doanh nghiệp chào bán cổ phiếu ra không chúng nhưng không phải là lần đầu tiên).
Số liệu thống kê về các đợt đấu giá diễn ra tại Sở giao dịch chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội qua các năm như sau:
Bảng 1.1: Thống kê đấu giá từ 01/2005 đến tháng 10/2013
Sàn HSX HNX Tổng
Tổng số hồ sơ đăng ký đấu giá 230 254 484
Số đợt đấu giá bị hủy (do không 33 0 33 có nhà đầu tư tham gia)
Số đợt đấu giá được tổ chức 197 254 451
Số chứng khoán chào bán 1.606.016.647 1.412.861.038 3.018.895.685
66.638 tỷ Tổng giá trị chứng khoán mua 35.046 tỷ đồng 31.586 tỷ đồng đồng bán được
Nguồn: thống kê tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội
Năm 2007 là năm có số lượng các đợt đấu giá diễn ra nhiều nhất. Đây cũng là
năm tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 8,48%, mức cao nhất trong giai đoạn từ
4
2005-2011. Cũng trong năm này thị trường chứng khoán Việt Nam đạt được những
dấu ấn đáng ghi nhớ, chỉ số VNIndex đạt mốc cao nhất trong lịch sử, 1.170 điểm.
160
9.000%
8.000%
140
7.000%
120
6.000%
100
5.000%
80
4.000%
60
3.000%
40
2.000%
20
1.000%
.000%
0
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Số lượng đợt đấu giá
Tốc độ tăng trưởng GDP
Hình 1.1: Tốc độ tăng trưởng GDP và số lượng đợt đấu giá qua các năm
Trong số 463 cuộc đấu giá tại hai sàn chỉ có 127 cuộc đấu giá chào bán cổ
phiếu ra công chúng. Hầu hết các đợt IPO này là của các doanh nghiệp nhà nước tiến
hành cổ phần hóa một phần vốn của nhà nước hoặc các doanh nghiệp có tiền thân là
doanh nghiệp nhà nước thuộc hầu hết các ngành kinh tế. Các đợt IPO lớn thuộc về
những doanh nghiệp thuộc ngành tài chính - ngân hàng hoặc công ty con của các công
ty dầu khí nhà nước như: Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Tổng công ty Tài Chính
Dầu Khí Việt Nam, Tập đoàn Bảo Việt, Tổng công ty Phân Bón Và Hóa Chất Dầu Khí,
Tổng công ty Khí Việt Nam…
Có một đặc điểm khác nổi bật của các đợt IPO tại Việt Nam là khoảng thời
gian từ khi IPO đến khi cổ phiếu được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thường
kéo dài khá lâu. Các cổ phiếu IPO được niêm yết ngay trong năm nếu có hầu như đều
5
là những công ty đã niêm yết trên sàn trước đó1, sau khi IPO công ty làm thủ tục niêm
yết bổ sung cổ phiếu lên sàn. Đa số các trường hợp còn lại thường có khoảng thời gian
niêm yết chính thức khá lâu. Thậm chí có những công ty đã IPO từ năm 2005 nhưng
đến nay (tháng 10/2013) vẫn chưa niêm yết trên sàn giao dịch tập trung. Có hai nguyên
nhân có thể lý giải cho hiện tượng này. Thứ nhất, các công ty muốn lựa chọn thời điểm
thích hợp để niêm yết cổ phiếu trên sàn nhằm tối đa hóa giá trị công ty. Nguyên nhân
thứ hai được cho là phổ biến hơn là do tiêu chuẩn để được niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán tập trung thường rất nghiêm ngặt. Ví dụ, theo quy định tại Khoản 1 Điều
8 Nghị định 14/2007/NĐ-CP về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng
khoán quy định điều kiện niêm yết cổ phiếu, công ty niêm yết phải có vốn điều lệ đã
góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi
trên sổ kế toán. Với những điều kiện này không phải không ty nào cũng đáp ứng được.
1.1.3. Hiện tượng định dưới giá khi IPO
Việc xác định một chứng khoán bị định giá thấp được xác định dựa vào phần
trăm (%) chênh lệch giữa giá bán cho các nhà đầu tư và giá mà cổ phiếu này được giao
dịch trong ngày giao dịch đầu tiên của chứng khoán, thường là giá đóng cửa.
Một số nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng các nhà đầu tư thường đạt được
một lợi nhuận bất thường tương đối lớn trong một thời gian ngắn sau khi họ đầu tư vào
những cổ phiếu IPO. Việc này được gọi là định dưới giá khi IPO, có nghĩa là, có sự
khác biệt trong giá mà nhà đầu tư bỏ ra để mua cổ phiếu đó và giá đóng cửa trong ngày
giao dịch đầu tiên. Hiện tượng này không chỉ tồn tại ở một quốc gia mà nó đã lan rộng
ra toàn thế giới. Trong những năm 1980 lợi nhuận trung bình trong ngày đầu tiên IPO
1 Công ty được niêm yết khi chưa phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, cổ phiếu của công ty
thuộc sở hữu của cổ đông hiện hữu hoặc cổ đông chiến lược.
là 7%. Lợi nhuận trung bình trong ngày đầu tiên tăng lên gần gấp đôi trong thời gian từ
6
1990-1998 trước khi nhảy lên đến 65% trong những năm bùng nổ Internet vào năm
1999-2000 và sau đó quay trở lại mức 12% vào khoảng thời gian từ năm 2001-2003
(Loughran và Ritter, 2004).
Hình 1.2: Lợi nhuận trung bình ngày đầu tiên tại các nước khu vực đồng Euro
Nguồn: lấy từ trang dữ liệu IPO của Ritter- đại học Forida
Hình 1.3: Lợi nhuận trung bình trong ngày đầu tiên tại Mỹ
7
Nguồn: lấy từ trang dữ liệu IPO của Ritter- đại học Forida
Hình 1.4: Lợi nhuận trung bình trong ngày đầu tiên tại Anh
Nguồn: lấy từ trang dữ liệu IPO của Ritter- đại học Forida
Hình 1.5: Lợi nhuận trung bình trong ngày đầu tiên tại Nhật Bản
8
Nguồn: lấy từ trang dữ liệu IPO của Ritter- đại học Forida
Agathee và các cộng sự (2012) đã tìm kiếm các bằng chứng về việc định dưới
giá trong ngắn hạn khi IPO trên thị trường chứng khoán Mauritius từ năm 1989 đến
năm 2010 và tìm thấy mức độ định dưới giá trung bình là 13,14%.
Samarakoon (2010) cũng điều tra mức độ định dưới giá của các công ty IPO
niêm yết trên thị trường chứng khoán Langka Sri và thấy rằng mức độ định dưới giá
khi IPO trung bình là 34% trong giai đoạn từ 1987-2008.
Zhang và King (2008) nhận thấy rằng tỷ lệ định dưới giá là 0,873 cho cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán Trung Quốc và 0,613 cho cổ phiếu niêm yết trên
sàn NASDAQ. Mức độ định dưới giá ít rõ ràng hơn cho các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Singapore với tỷ lệ là 0,165. Đối với thị trường chứng khoán
Hồng Kông và New York tỷ lệ định dưới giá là -0,053 và -0,138, tức là tồn tại sự định
cao giá khi IPO.
Ngoài một số nghiên cứu ở trên còn rất nhiều các nghiên cứu khác đã chứng
minh sự tồn tại của mức độ định dưới giá ở rất nhiều các thị trường trong nhiều giai
đoạn khác nhau. Các nghiên cứu đã chỉ ra hiện tượng định dưới giá khi IPO đã tồn tại ở
hầu hết các thị trường chứng khoán trên toàn thế giới (Loughran, Ritter, and Rydqvist,
1994).
Bảng 1.2: Lợi nhuận trung bình trong ngày đầu tiên tại một số quốc gia
Lợi nhuận
Số quan trung bình Đất nước Nguồn Thời gian sát ngày
đầu tiên
Argentina Eijgenhuijsen và Van Der Valk 20 1991-1994 4.4%
9
Úc Lee, Taylor và Walter; Woo; 1,562 1976-2011 21.8%
Pham; Ritter
Brazil Aggarwal, Leal và Hernandez; 275 1979-2011 33.1%
Saito Ushisima
Canada Jog & Riding; Jog và 696 1971-2010 6.7%
Srivastava
Trung Quốc Chen, Choi, và Jiang; Jia và 2,102 1990-2010 137.4%
Zhang
Đan Mạch Jakobsen và Sorensen; Ritter 164 1984-2011 7.4%
Đức Ljungqvist; Rocholl: Ritter; 736 1978-2011 24.2%
Vismara
Hồng Kông McGuinness; Zhao và Wu; 1,259 1980-2010 15.4%
Ljungqvist và Yu; Fung, Gul,
và Radhakrishnan; Ritter
Ấn Độ Marisetty và Subrahmanyam; 2,964 1990-2011 88.5%
Ritter
410 1990-2012 25.7% Indonesia Suherman
273 1985-2009 16.4% Ý Arosio, Giudici và Paleari;
Cassia, Paleari và Redondi;
Vismara
Nhật Bản Fukuda; Dawson và Hiraki; 3,136 1970-2011 40.2%
Hebner và Hiraki; Pettway và
Kaneko; Hamao, Packer và
Ritter; Kaneko và Pettway
Jordan Al-Ali và Braik 53 1999-2008 149.0%
Hàn Quốc Dhatt, Kim và Lim; Ihm; Choi 1,593 1980-2010 61.6%
10
và Heo; Mosharian và Ng;
Cho; Joh; Ritter
Malaysia Isa; Isa và Yong; Yong; Ma 413 1980-2009 62.6%
Mexico Aggarwal, Leal và Hernandez; 88 1987-1994 15.9%
Eijgenhuijsen và Van Der Valk
New Zealand Vos và Cheung; Camp và 214 1979-2006 20.3%
Munro; Ritter
Ả Rập Saudi Al-Anazi, Forster và Liu 76 2003-2010 264.5%
Nga Ritter 40 1999-2006 4.2%
Singapore Lee, Taylor và Walter; 591 1973-2011 26.1%
Dawson; Ritter
Nam Phi Page và Reyneke; Ali, 285 1980-2007 18.0%
Subrahmanyam và Gleason;
Ritter
Tây Ban Nha Ansotegui và Fabregat; 128 1986-2006 10.9%
Alvarez Otera
Thái Lan Wethyavivorn và Koo-smith; 459 1987-2007 36.6%
Lonkani và Tirapat;
Ekkayokkaya và Pengniti
Đài Loan Chen 1,312 1980-2006 37.2%
Anh Dimson; Levis 4,877 1959-2011 16.1%
16.8% Hoa Kỳ Ibbotson, Sindelar và Ritter; 12,340 1960-2012
Ritter
Nguồn: bảng liệt kê được lấy từ báo cáo khoa học của Loughran, Ritter, và Rydqvist
(1994) và cập nhật bởi Kristian Rydqvist (2013).
1.2. Lý do chọn đề tài
11
Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng là một sự kiện quan trọng trước
khi doanh nghiệp chính thức được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung
để trở thành công ty cổ phần đại chúng. Để IPO được đánh giá là thành công thì việc
định giá doanh nghiệp để từ đó đưa ra mức giá khởi điểm là cực kỳ quan trọng. Tuy
nhiên trong thời gian qua các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành IPO, cũng như tại
nhiều nước khác trên thế giới, lại tồn tại một thực tế là mức giá khởi điểm được đưa ra
thường thấp hơn so với giá khớp lệnh trong phiên giao dịch đầu tiên. Điều này được
giới chuyên môn gọi là định dưới giá (underpricing).
Bài nghiên cứu sẽ đi sâu khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến việc định dưới
giá khi IPO, từ đó giúp các chủ thể liên quan như nhà đầu tư, các cổ đông hiện hữu, cơ
quan nhà nước…có thêm thông tin trong các hành xử của mình.
1.3. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới đã có rất nhiều bài nghiên cứu xem xét mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố đến mức độ định dưới giá khi IPO ở nhiều quốc gia khác nhau nhưng tính
đến thời điểm hiện tại chưa có nhiều bài nghiên cứu lấy bằng chứng thực nghiệm tại
Việt Nam.
Theo ghi nhận mới chi có hai bài nghiên cứu về đề tài này tại Việt Nam là
nghiên cứu của Gavriel Ayi Ayayi (2011) và bài thứ hai là của Trần Thị Hải Lý và
Dương Kha (2012).
Gavriel Ayi Ayayi (2011) nghiên cứu tại thị trường chứng khoán Việt Nam
trên mẫu gồm 30 công ty bao gồm cả những công ty IPO lần đầu và phát hành chứng
khoán bổ sung trong khoảng thời gian từ tháng tháng 02/2005 đến tháng 06/2007 và đã
tìm ra bằng chứng cho thấy có hiện tượng định dưới giá khi IPO tại thị trường chứng
khoán Việt Nam.
12
Trần Thị Hải Lý và Dương Kha (2012) trong bài nghiên cứu “Bằng chứng về
hiện tượng định dưới giá của các IPO tại Việt Nam” đã nghiên cứu các bằng chứng về
hiện tượng định dưới giá của các IPO tại Việt Nam bằng phương pháp hồi quy OLS,
OLS robust để hiệu chỉnh sai số và bootstrap đối với mẫu các công ty IPO trong giai
đoạn từ tháng 01/2005 đến tháng 07/2012 tại Việt Nam. Các nhân tố được xem xét bao
gồm: tỷ lệ mua vượt mức, quy mô công ty, độ trễ niêm yết, sở hữu nhà nước sau IPO,
mức giá khởi điểm. Kết quả nghiên cứu cho thấy hai nhân tố tỷ lệ mua vượt mức và
mức giá khởi điểm của các cuộc đấu giá có tương quan ngược chiều đến mức độ định
dưới giá, nhân tố điều kiện thị trường có tác động không thực sự mạnh. Các nhân tố
khác như quy mô, độ trễ niêm yết, tuổi công ty, sở hữu nhà nước sau IPO không có
tương quan với mức độ định dưới giá tại thị trường chứng khoán Việt Nam.
Bài nghiên cứu này sẽ kiểm chứng lại mức độ ảnh hưởng của nhân tố quy mô
công ty và tuổi công ty đã được đề cập trong bài nghiên cứu “Bằng chứng về hiện
tượng định dưới giá của các IPO tại Việt Nam” của Trần Thị Hải Lý và Dương Kha
(2012). Nhân tố độ trễ niêm yết cũng sẽ được xem xét nhưng được tiếp cận ở một góc
độ khác là sự khác biệt trong tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của
năm doanh nghiệp IPO và năm niêm yết chứng khoán tại sàn giao dịch chứng khoán
tập trung. Các nhân tố được xem xét trong bài nghiên cứu này bao gồm: quy mô phát
hành, giá khởi điểm, sự khác biệt trong tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO với
thời điểm niêm yết, tuổi công ty, uy tín của tổ chức bảo lãnh phát hành, quy mô công
ty, hệ số ROA, tỷ số P/E và tỷ lệ nợ. Bài nghiên cứu này sẽ xem xét tác động kết hợp
của các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài của công ty đến mức độ định dưới giá
khi IPO bằng phương pháp hồi quy Bình Phương Bé Nhất (OLS).
1.4. Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu này cũng cung cấp một bài kiểm tra thực nghiệm theo cấu trúc
bài nghiên cứu của Yuan Tian (2012) thực hiện nghiên cứu các công ty IPO trên thị
13
trường chứng khoán Luận Đôn từ năm 2002 đến năm 2012. Yuan Tian sử dụng
phương pháp hồi quy OLS để xem xét tác động của các nhân tố quy mô phát hành, tuổi
công ty, rủi ro hệ thống, uy tín của nhà bảo lãnh phát hành, tỷ số P/E, hệ số ROA và tỷ
lệ nợ lên mức độ định dưới giá. Kết quả nghiên cứu của Yuan Tian cho thấy rằng quy
mô phát hành, rủi ro hệ thống và tỷ lệ nợ có ảnh hưởng đến việc định dưới giá khi IPO;
nhân tố quy mô phát hành có ảnh hưởng đến việc định dưới giá ở mức độ thấp; các
nhân tố còn lại bao gồm tuổi công ty, tỷ số P/E, hệ số ROA và uy tín của nhà bảo lãnh
phát hành không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với mức độ định dưới giá.
Bài nghiên cứu này sẽ điều chỉnh lại mô hình của Yuan Tian để phù hợp với
thực tế tại Việt Nam bằng cách bằng việc loại bỏ nhân tố rủi ro hệ thống và thêm vào
một số nhân tố mới bao gồm giá khởi điểm, chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP tại thời
điểm IPO với thời điểm niêm yết và quy mô công ty.
Để phù hợp với mục đích dự báo, tất cả các biến tác giả đưa vào mô hình đều
là các dữ liệu có thể thu thập trước khi đợt đấu giá IPO diễn ra. Vì vậy biến rủi ro hệ
thống được đại diện bằng hệ số beta sẽ bị loại khỏi mô hình do tác giả không thu thập được biến này tại thời điểm trước khi đợt đấu giá IPO diễn ra2.
Biến giá khởi điểm được tác giả thêm vào mô hình do đặc điểm của các đợt
IPO tại Việt Nam. Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế lập
2 Beta hay còn gọi là hệ số beta, đây là hệ số đo lường mức độ biến động hay còn gọi là thước đo rủi ro hệ thống của một chứng khoán hay một danh mục đầu tư trong tương quan với toàn bộ thị trường Hệ số beta là một tham số quan trọng trong mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM). Beta được tính toán dựa trên phân tích hồi quy, và bạn có thể nghĩ về beta giống như khuynh hướng và mức độ phản ứng của chứng khoán đối với sự biến động của thị trường 3 Roadshow hay còn gọi là màn vận động. Đây là bước quan trọng góp phần thành công trong đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Vì là các công ty lần đầu phát hành ra công chúng nên các thông tin liên quan đến công ty hầu như không được nhiều người biết đến. Do đó, cần phải có một buổi gặp
danh sách để xác định giá cổ phiếu cho các đợt IPO. Theo cơ chế này, các công ty bảo lãnh phát hành thông qua các buổi roadshow3 sẽ đề nghị các nhà đầu tư cho biết số cổ
14
phiếu mà các nhà đầu tư muốn mua và mức giá cao nhất mà họ có thể chấp nhận mua
cổ phiếu IPO. Những số liệu này chỉ mang tính chất cung cấp thông tin, không phải là
những lệnh mua bán thật sự. Thông qua các thông tin này, công ty bảo lãnh phát hành
sẽ xác định mức cầu của thị trường. Sau đó, thông qua thẩm định về tổng mức cầu, chất
lượng và tính đáng tin cậy của các nhà đầu tư, mức giá mà công ty phát hành cổ phiếu
mong muốn... công ty tư vấn phát hành sẽ xác định mức giá phát hành và bắt đầu phân
bổ cổ phiếu cho nhà đầu tư. Ở Việt Nam chưa có công ty nào xác định giá IPO theo cơ
chế này mà chủ yếu áp dụng hình thức đấu giá theo kiểu Anh (đấu giá cố định giá sàn
có yêu cầu đặt cược 10% đối với nhà đầu tư). Vì vậy giá khởi điểm sẽ là một nhân tố
quan trọng đối với các IPO theo phương thức đấu giá.
Ngoài ra, tác giả cũng đưa thêm biến chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP tại
thời điểm IPO với thời điểm niêm yết vào mô hình nghiên cứu. Đây là một biến mới
chưa từng xuất hiện trong bất cứ nghiên cứu nào trước đây. Mặc dù cũng có nhiều bài
nghiên cứu xem xét nhân tố GDP tuy nhiên tất cả những bài nghiên cứu này chỉ đề cập
đến tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO vào phương trình hồi quy mà chưa xét
đến tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm cổ phiếu được niêm yết. Thực tế tại Việt
Nam cho thấy, tính trung bình khoảng thời gian từ khi công ty tiến hành IPO đến khi
công niêm yết là gần 2 năm. Như vậy các biến số kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng
GDP là một đại diện) đã thay đổi gần như hoàn toàn. Thêm vào đó, thời điểm công ty
IPO là một nhân tố vô cùng quan trọng quyết định đến thành công của đợt IPO cũng
như thời điểm niêm yết sẽ ảnh hưởng đến giá đóng cửa trong ngày giao dịch đầu tiên.
Quan sát các dữ liệu trong quá khứ tại thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy, giai
đoạn từ năm 2005-2007 là giai đoạn Việt Nam có nhiều công ty IPO nhất và số lượng
các đợt IPO bị định dưới giá cũng nhiều nhất. Một công ty biết lựa chọn thời điểm IPO
gỡ giữa công ty phát hành, các nhà bảo lãnh phát hành và các nhà đầu tư tiềm năng để thuyết trình giới thiệu về công ty cũng như những kế hoạch kinh doanh của công ty
tốt sẽ giảm thiểu được nguy cơ cổ phiếu bị định giá thấp và tránh tổn thất tài sản của
15
công ty. Tương tự, thời điểm niêm yết tốt cũng góp phần làm tăng giá cổ phiếu của
công ty. Bài nghiên cứu này kết hợp tốc độ tăng trưởng GDP ở cả hai thời điểm IPO và
thời điểm niêm yết để thấy được ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng ở cả hai thời điểm.
Mục tiêu của bài nghiên cứu là xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ của
việc định dưới giá khi IPO tại Việt Nam. Những nhân tố này bao gồm quy mô phát
hành, giá khởi điểm, chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO với thời
điểm niêm yết, tuổi công ty, uy tín của tổ chức bảo lãnh phát hành, quy mô công ty, hệ
số ROA, tỷ số P/E và tỷ lệ nợ. Nghiên cứu này khá phổ biến hiện nay trên thế giới do
tầm quan trọng đặc biệt của các đợt IPO đối với nhà đầu tư cũng như tổ chức phát
hành. Tác giả cố gắng đưa nhiều biến quan sát vào bài nghiên cứu để tăng tính thuyết
phục cho kết quả nghiên cứu cũng như để phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam.
Bài nghiên cứu sử dụng một mẫu bao gồm các đợt chào bán cổ phiếu ra công
chúng trong khoảng thời gian từ tháng 01/2005 đến tháng 10/2013 và số cổ phiếu này
đã hoặc đang được niêm yết tại các sàn giao dịch chứng khoán.
Qua bài nghiên cứu này, tác giả hy vọng đây có thể là tài liệu tham khảo cho
các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp đang chuẩn bị phát hành chứng khoán lần
đầu ra công chúng để có ứng xử thích hợp trong quyết định đầu tư hoặc định giá cổ
phần doanh nghiệp IPO để tránh những tổn thất tài sản.
Nội dung các phần còn lại của bài nghiên cứu bao gồm: Phần 2 sẽ tóm tắt tổng
quan về thị trường chứng khoán Việt Nam và thực trạng hoạt động IPO tại Việt Nam.
Phần 3 sẽ tóm tắt các bằng chứng về định dưới giá khi IPO. Phần 4 giới thiệu về
phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu. Phần 5 là kết quả nghiên cứu và phần
cuối cùng là kết luận và giới hạn của bài nghiên cứu.
16
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1. Quy mô phát hành
Có hai quan điểm trái ngược nhau về ảnh hưởng của quy mô phát hành đến
mức độ định dưới giá. Quan điểm thứ nhất cho rằng quy mô phát hành càng lớn thì
mức độ định dưới giá càng thấp. Quan điểm thứ hai cho rằng quy mô phát hành càng
nhỏ thì mức độ định dưới giá càng thấp.
Để tìm ra mối quan hệ giữa giá của đợt IPO và quy mô phát hành trong các đợt
IPO ở thị trường chứng khoán Hàn Quốc, Kim, Krinsky, và Lee (1995) sử dụng một
mẫu gồm 260 công ty cổ phần hóa niêm yết trên thị trường chứng khoán Hàn Quốc từ
năm 1985-1990 làm các bài kiểm tra. Họ chạy thử nghiệm nhiều hồi quy và kết quả
cho thấy tác động của quy mô phát hành trên giá thị trường IPO là đáng kể, quy mô
phát hành có mối quan hệ đồng biến với giá thị trường cổ phiếu của các công ty cổ
phần hóa, tức là quy mô phát hành càng lớn thì mức độ định dưới giá càng thấp.
Trong lý thuyết “winner’s curse” của Rock (1986) cũng đề cập đến ảnh hưởng
của quy mô phát hành đến mức độ định dưới giá. Nếu quy mô phát hành càng lớn thì
càng có nhiều thông tin về giá trị nội tại của công ty IPO được công bố, do đó sẽ có ít
khả năng tồn tại việc bất cân xứng thông tin. Một số nghiên cứu gần đây cũng ủng hộ
cho lý thuyết này. Kennedy, Sivakumar và Vetzal (2004) đã nghiên cứu tầm quan trọng
của thông tin bất cân xứng đối với các công ty và người tham gia. Họ đã phát hiện ra
rằng các công ty còn tồi tệ hơn sau đó nếu IPO bị định giá sai so với nếu IPO được
định giá chính xác. Đặc biệt, phạm vi mà những nhà đầu tư quan tâm đến việc định
dưới giá khi IPO phụ thuộc vào việc họ có thể bán chúng bao nhiêu trong lần chào bán
đầu tiên. Càng nhiều cổ phiếu được bán ra thì càng có nhiều động cơ phải chịu các chi
phí quảng cáo cho việc phát hành và tạo ra thông tin để giảm việc định dưới giá làm
thất thoát tài sản của họ.
17
Có một quan điểm khác trái ngược với các quan điểm ở trên. Karlis (2010) cho
rằng quy mô phát hành có mối quan hệ đồng biến mới mức độ định dưới giá. Karlis lý
giải rằng một số công ty tốt có thể chọn để giữ lại một phần lớn cổ phiếu của họ và đây
là một tín hiệu cho việc cổ phiếu đang bị định giá thấp. Lý do đằng sau đó là những
công ty có thể bán cổ phiếu của họ sau đó với giá cao hơn. Ví dụ, các công ty phát
hành của chính phủ thường sử dụng chiến lược này để báo hiệu niềm tin vào cổ phiếu
của họ trong đợt IPO (Perotti, 1995; Mok và Hui, 1998). Vì vậy, khi nhà đầu tư nhận
được tín hiệu, họ sẽ sẵn sàng trả giá cao hơn cho những cổ phiếu của các công ty bán
cổ phiếu ra công chúng với số lượng ít, từ đó làm giảm mức độ định dưới giá khi IPO.
Điều này đồng nghĩa với việc số lượng cổ phiếu bán ra càng ít thì khả năng cổ phiếu bị
định dưới giá sẽ càng thấp.
2.2. Giá khởi điểm
Nghiên cứu trước đây về việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng đã
chứng minh được rằng hiện tượng định dưới giá có thể được giải thích do sự bất cân
xứng thông tin. Một lời giải thích cho hành vi giá bất thường được gọi là “winner’s
curse” (lời nguyền của người chiến thắng) được phát triển bởi Rock năm 1986. Theo
Rock có ba chủ thể chính tham gia vào thị trường IPO là tổ chức phát hành, tổ chức
bảo lãnh phát hành và nhà đầu tư. Rock xác định hai loại nhà đầu tư, bao gồm nhà đầu
tư có đầy đủ thông tin là người nhận ra giá trị thực sự của đợt IPO, và các nhà đầu tư
không hiểu rõ hoặc có sự hạn chế về thông tin để ước tính giá trị thực của đợt IPO. Các
nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư có đầy đủ thông tin và nhà đầu tư không có đủ thông tin
đều mong muốn tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua các chứng khoán bị định giá
thấp trong các đợt IPO để hưởng chênh lệch. Tuy nhiên theo Rock, các nhà đầu tư có
đầy đủ thông tin chỉ mua khi biết giá IPO bị định giá thấp trong khi đó các nhà đầu tư
không có đủ thông tin sẽ mua với giá ngẫu nhiên. Với mức giá không hấp dẫn sẽ chỉ có
nhà đầu tư không có đủ thông tin tham gia vào thị trường. Ngược lại, với một mức giá
18
hấp dẫn hơn thì nhu cầu của họ lại bị chia sẻ với những nhà đầu tư có đủ thông tin. Từ
thực tế này, các nhà đầu tư không có đủ thông tin sẽ có tâm lý e ngại và đề phòng khi
mua chứng khoán IPO và có xu hướng rời khỏi thị trường IPO trừ khi họ nhận thấy
chứng khoán đó thực sự hấp dẫn. Nếu điều này xảy ra trong thực tế sẽ làm giảm nhu
cầu về chứng khoán IPO. Rock cho rằng thị trường sơ cấp phụ thuộc vào sự tham gia
của các nhà đầu tư không có thông tin. Điều này yêu cầu các công ty IPO phải dành
một mức chiết khấu hay giảm giá để thu hút những nhà đầu tư không có thông tin tham
gia vào thị trường như một khoản bảo hiểm hay bù đắp cho sự không chắc chắn. Nói
cách khác, các đợt IPO phải được định thấp hơn giá kỳ vọng. Điều này có nghĩa là giá
khởi điểm càng thấp thì mức độ định dưới giá sẽ càng cao.
Allen và Faulhaber (1989), Welch (1989), Grinblatt và Hwang (1989) đã cố
gắng giải thích vấn đề định dưới giá khi IPO bằng cách sử dụng giả thuyết tín hiệu. Giả
thuyết này nói rằng có sự bất đối xứng thông tin giữa các tổ chức phát hành và các nhà
đầu tư. Như đã đề cập ở trên, các tổ chức phát hành sở hữu nhiều thông tin về đợt IPO
hơn các nhà đầu tư . Vì vậy, các nhà đầu tư có thể đối mặt với vấn đề “lemon” trong
IPO, tức là mua phải chứng khoán có giá trị thấp với giá cao. Họ sẽ nghĩ rằng các công
ty phát hành sẵn sàng bán cổ phiếu với giá trung bình chỉ vì cổ phiếu của họ có chất
lượng thấp (Welch và Ritter, 2002). Kết quả là, những cổ phiếu đưa ra mức giá khởi
điểm thấp sẽ có ít nhà đầu tư tham gia đặt mua dẫn đến mức giá mua thành công cũng
sẽ thấp và làm tăng mức độ định dưới giá cổ phiếu. Tổ chức phát hành hoặc nhà bảo
lãnh phát hành có thể sử dụng việc định giá khi IPO như một tín hiệu cho thấy chất
lượng của các cổ phiếu đang được cung cấp cho nhà đầu tư vì chi phí định dưới giá đối
một công ty xấu là đáng kể.
2.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Trên thế giới đã có rất nhiều bài nghiên cứu sử dụng tốc độ tăng trưởng GDP
đại diện cho các biến số điều kiện kinh tế vĩ mô để tìm ra mối liên hệ với lợi nhuận
19
trong ngày đầu tiên IPO. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu này đều chỉ đưa tốc độ tăng
trưởng GDP tại thời điểm IPO vào phương trình hồi quy mà chưa xét đến tốc độ tăng
trưởng GDP tại thời điểm cổ phiếu được niêm yết (M.S Wei Leong, 2012; Mustafa
Hakan, Sevin và Hilal, 2012) và hầu hết các bài nghiên cứu này đều không tìm ra mối
tương quan giữa tốc độ tăng trưởng GDP và lợi nhuận của cổ phiếu IPO trong ngày đầu
tiên. Chỉ có một số ít nghiên cứu tìm ra mối tương quan ví dụ như Hiromasa Nakamura
(2003). Hiromasa Nakamura trong luận án tiến sĩ của ông nghiên cứu về mối quan hệ
giữa lợi nhuận trong ngày đầu tiên IPO với các điều kiện kinh tế vĩ mô tại 21 quốc gia
chia thành hai nhóm: các nước phát triển và các nước đang phát triển. Sử dụng mô hình
hồi quy OLS, Hiromasa Nakamura đã đi đến kết luận rằng tốc độ tăng trưởng GDP
thực tế của một quốc gia với lợi nhuận trong ngày đầu tiên IPO có tương quan cùng
chiều với nhau. Ông nhận thấy rằng nếu tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của một nước
càng cao thì tỷ lệ lợi nhuận trong ngày đầu tiên IPO sẽ càng cao và ngược lại.
Liên quan thời điểm IPO và thời điểm niêm yết, Taufil Mohd K. N. (2007) đã
tiến hành một cuộc kiểm tra thực nghiệm để tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến
mức độ định dưới giá liên quan đến những quy định của đợt IPO. Cuộc điều tra được
tiến hành trên 546 đợt IPO trên thị trường chứng khoán Kuala Lumpur trong khoảng
thời gian từ năm 1990 đến 2002 và phát hiện ra rằng độ dài khoảng thời gian từ khi
thiết lập giá cho đến khi cổ phiếu được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập
trung có mối quan hệ nghịch biến đến mức độ định dưới giá. Tức là khoảng thời gian
từ khi thiết lập giá cho đến khi cổ phiếu được niêm yết trên sàn càng dài thì mức độ
định dưới giá càng cao. Taufil Mohd K. N. lý giải rằng nguyên nhân chính đằng sau
hiện tượng này là sự thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô theo chiều hướng tốt lên
đã làm cho giá cổ phiếu khi niêm yết trên sàn được trả giá cao hơn.
20
2.4. Tuổi công ty
Ritter (1984) cho rằng các công ty nhỏ và mới thành lập định giá cổ phiếu của
họ khi IPO thấp hơn nhiều so với các công ty lớn và có lịch sử lâu đời. Trong nghiên
cứu của mình, ông khẳng định IPO của các công ty mới thành lập có tỷ lệ lợi nhuận
ban đầu cao hơn so với các công ty trưởng thành hơn.
Clark (2002) đã chứng minh rằng mức độ định dưới giá khi IPO phụ thuộc vào
độ tuổi của công ty. Ông đã sử dụng một mẫu với 1.234 công ty và chia chúng thành
hai nhóm công ty là nhóm công nghệ cao và các nhóm không sử dụng công nghệ cao.
Từ kết quả kiểm tra, dữ liệu cho thấy có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi
công ty tại thời điểm IPO với diễn biến giá cổ phiếu. Cụ thể, các công ty sử dụng công
nghệ cao cho thấy một mối quan hệ nghịch biến giữa tuổi công ty và tỷ lệ lợi nhuận
trong ngày đầu tiên, điều này trái ngược với các công ty không sử dụng công nghệ. Tuy
nhiên, Ritter (1991) cũng như Clarkson và Merkley (1994) tin tưởng rằng mặc dù có sự
khác nhau trong ngành hàng, độ tuổi công ty có mối quan hệ nghịch biến với mức độ
định dưới giá. Ritter tìm ra rằng có mối quan nghịch biến giữa các công ty có lịch sử
lâu đời trong tất cả các ngành công nghiệp với mức độ định dưới giá khi IPO. Điều đó
chỉ ra rằng các công ty có lịch sử thành lập lâu đời sẽ có ít rủi ro bị định dưới giá khi
IPO hơn các công ty có thời gian hoạt động ngắn. Các nguyên nhân có thể giải thích
cho vấn đề này là các công ty lâu đời không sử dụng công nghệ cao thì thu nhập của họ
phải được ổn định và bền vững, vì vậy họ không cần phải định giá thấp cổ phiếu của họ
để thu hút các nhà đầu tư. Đối với các công ty công nghệ cao mới thành lập, họ không
có doanh thu quá khứ cũng như lợi nhuận vì vậy cổ phiếu của họ không hấp dẫn đối
với các tổ chức đầu tư lớn dẫn đến việc định giá thấp các cổ phiếu có vẻ là lựa chọn
duy nhất (Karlis, 2000).
21
2.5. Uy tín của nhà bảo lãnh phát hành
Trong nỗ lực để giải thích hành vi bảo lãnh phát hành, Rogue (1973) đã lựa
chọn ra 250 công ty mẫu từ năm 1965 đến năm 1969 để kiểm tra một vài biến độc lập
bao gồm uy tín của nhà bảo lãnh phát hành. Nghiên cứu cho rằng bảo lãnh có uy tín có
nhiều đòi hỏi khắt khe hơn so với bảo lãnh không có uy tín, bảo lãnh phát hành càng uy
tín thì đợt IPO sẽ càng được chú ý hơn đến giá trị nội tại. Bằng cách chạy thử nghiệm
mô hình hồi quy, ông đã tìm ra sự tồn tại mối quan hệ nghịch biến giữa uy tín của nhà
bảo lãnh phát hành và việc định dưới giá khi IPO. Tức là nếu nhà bảo lãnh phát hành
càng có uy tín thì khả năng chứng khoán bị định dưới giá khi IPO sẽ càng thấp.
Carter và Manaster (1990) đã chứng minh rằng, mức độ rủi ro sẽ thấp hơn đối
với những bảo lãnh phát hành có uy tín. Với những bảo lãnh phát hành không có uy tín,
có khả năng cao của việc định dưới giá. Do đó, có mối mối quan hệ giữa tỷ lệ lợi nhuận
thấp trong ngày giao dịch đầu tiên tương xứng với uy tín của nhà bảo lãnh phát hành.
Có một kết luận tương tự giữa các ngân hàng đầu tư có uy tín với việc định dưới giá
khi IPO qua nghiên cứu của Johnson và Miller (1988), Megginson và Weiss (1991),
Sharma và Seraphim (2010). Tất cả các kết luận đều có chung ý kiến rằng cách thức
công ty chuẩn bị IPO có thể thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà bảo lãnh phát hành.
Nhìn chung, các công ty có triển vọng lớn về tài chính có khả năng thuê những
nhà bảo lãnh phát hành chất lượng cao. Điều này sẽ gửi một tín hiệu tích cực cho công
chúng. Thị trường sẽ giả định rằng nếu đợt IPO không thực hiện theo đúng như dự
kiến, công ty sẽ thu hồi được khoản tổn thất từ nhà bảo lãnh phát hành có uy tín. Bảo
lãnh phát hành có chất lượng cao sẽ ngăn chặn ngay từ đầu nguy cơ bị định dưới giá.
Bằng việc thuê những nhà bảo lãnh có uy tín, công ty có thể bảo vệ chính họ chống lại
các đối thủ khác.
Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu ủng hộ quan điểm cho rằng uy tín của
nhà bảo lãnh phát hành có quan hệ đồng biến với mức độ định dưới giá. Willenborg
22
(1999) trình bày lý thuyết của ông về tác động tích cực của danh tiếng của nhà bảo lãnh
phát hành đến mức độ định dưới giá khi IPO. Ông chỉ ra rằng các công ty có thể có
những lý do khác nhau cho việc tìm kiếm tổ chức bảo lãnh phát hành của họ. Trong
nghiên cứu của mình, các mẫu được chia thành hai nhóm: nhóm có tổ chức bảo lãnh
phát hành có uy tín cao và nhóm thứ hai bao gồm các công ty còn lại. Từ quan điểm
của các nhà đầu tư, nếu các tổ chức phát hành thuê tổ chức bảo lãnh phát hành có uy
tín hơn, điều này có thể cung cấp cho thị trường các tín hiệu rằng báo cáo tài chính của
tổ chức phát hành được phân tích một cách chính xác và giá chào bán sẽ không được
cao hơn giá trị thực. Hiệu ứng truyền tín hiệu thông tin này sẽ thu hút các nhà đầu tư.
Mặt khác, ngay cả khi các cổ phiếu được định giá quá cao, với tổ chức bảo lãnh phát
hành uy tín, các nhà đầu tư cũng có cơ hội tốt hơn để lấy lại khoản đầu tư của mình nếu
xảy ra tranh chấp. Điều này cho thấy hiệu ứng tín hiệu bảo hiểm cũng sẽ tăng nhu cầu
về cổ phiếu IPO. Nếu nhà bảo lãnh phát hành nhận thức được vấn đề này, họ sẽ có xu
hướng định giá cổ phiếu IPO thấp hơn để giảm rủi ro chứng khoán giảm giá và những
chi phí pháp lý liên quan đến việc kiện tụng của các nhà đầu tư về việc khuyến nghị
đầu tư vào những công ty có rủi ro cao.
Từ quan điểm của nhà bảo lãnh, nếu tổ chức phát hành và tổ chức bảo lãnh có
một hợp đồng bảo lãnh phát hành theo đó bảo lãnh phát hành sẽ mua tất cả các cổ
phiếu của các công ty phát hành và thiết lập một mức giá IPO để bán cho các nhà đầu
tư. Tổ chức phát hành sẽ giảm giá giá cổ phiếu tạo tính thanh khoản và đền bù cho rủi
ro cao cho nhà đầu tư. Trong trường hợp này nhà bảo lãnh sẽ được hưởng lợi từ tính
kinh tế theo quy mô hoặc từ danh tiếng của họ (Karlis, 2000). Theo Beatty và Ritter
(1986), nhà bảo lãnh phát hành có ba động cơ để định dưới giá. Trước hết, nhà bảo
lãnh sẽ biện minh rằng họ không thể ước tính chính xác giá trị của các cổ phiếu. Thứ
hai, nhà bảo lãnh phát hành có thể được hưởng lợi từ danh tiếng của họ. Cuối cùng, nếu
nhà bảo lãnh cố tình “gian lận” thì các nhà đầu tư sẽ ghi nhớ điều đó và họ có thể
không còn được hưởng lợi từ danh tiếng của họ nữa. Vì vậy, từ nghiên cứu trên cho
23
danh tiếng của bảo lãnh nên có một mối quan hệ đồng với mức độ định dưới giá khi
IPO bởi vì các nhà bảo lãnh uy tín bị ràng buộc bởi quyền lợi của mình để thiết lập
mức giá thấp hơn.
2.6. Các chỉ số kế toán
Riffe and Thompson (2000) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa giá cả các đợt
IPO với các thông tin kế toán của công ty. Họ nhận thấy rằng lợi nhuận trong ngày đầu
tiên IPO có mối tương quan với các đặc điểm liên quan đến thông tin kế toán của công
ty ví dụ như chỉ số giá trên thu nhập P/E, chỉ số giả cả sổ sách, chỉ số ROA, tỷ lệ nợ,
tổng tài sản…
Pan Jie (2009) trong bài nghiên cứu của mình đã tìm ra mối quan hệ đồng biến
giữa thu nhập mỗi cổ phần với giá khởi điểm và mối quan hệ nghịch biến của hệ số
ROA với mức độ định dưới giá khi IPO bằng việc nghiên cứu một mẫu các công ty
IPO từ năm 1996 đến năm 2004 tại Trung Quốc.
Zamzi Ahmad (2007) đã tiến hành nghiên cứu trên 117 đợt IPO từ năm 1995
đến 2005 trên thị trường chứng khoán Dhaka (Bangladesh). Bằng phương pháp hồi
quy, Zamzi Ahmad đã phát hiện ra có mối quan hệ đồng biến giữa quy mô công ty với
mức độ định dưới giá.
Dựa trên các nghiên cứu trước đây, Almisher và Kish (2000) đã phân tích rằng
thông tin kế toán là một đại diện cho rủi ro kỳ vọng trong thị trường IPO. Họ tập hợp
2.078 công ty tiến hành IPO ở Hoa Kỳ từ năm 1990 đến 1995 trên sàn NASDAQ và
NASDAQ OTC. Sau khi chạy mô hình hồi quy, họ đã chứng minh được rằng có mối
quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa thông tin kế toán với lợi nhuận của đợt IPO trong
ngày đầu tiên giao dịch trên thị trường. Liên kết quan trọng này không thể bỏ qua việc
việc họ dùng tổng lợi nhuận hay lợi nhuận ròng ; hoặc việc những giao dịch mẫu đó ở
NASDAQ, NASDAQ OTC hay tổng hợp của cả hai . Như vậy, thông tin kế toán có thể
24
được sử dụng như là mức độ rủi ro kỳ vọng của công ty khi chúng tham gia vào thị
trường IPO.
2.7. Vay nợ
Vay nợ là một cách để huy động vốn. Khi công ty tăng tiền cho vốn lưu động
hoặc chi tiêu vốn, họ thường bán trái phiếu hoặc hối phiếu cho các nhà đầu tư. Đổi lại,
nhà đầu tư sẽ trở thành chủ nợ và nhận thanh toán định kỳ. Tuy nhiên, nếu công ty có
các quyền chọn tăng trưởng, họ sẽ yêu cầu giữ lại nhiều tiền mặt hơn và ít có động lực
để phân phối cổ tức cho các nhà đầu tư.
Theo Smith và Watts (1992), công ty có tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ sẽ
yêu cầu vay nợ ít hơn do một số vấn đề liên quan đến vay nợ. Các công ty có tiềm năng
tăng trưởng cao sẽ có ít động cơ để chia cổ tức hơn các công ty tăng trưởng thấp. Vì
vậy, một khi họ quyết định chào bán cổ phiếu ra công chúng, thị trường sẽ nhìn thấy
những rủi ro. Để bù đắp cho những rủi ro đó, các công ty thường đưa ra một mức giảm
giá cho các đợt IPO. Do đó, vay nợ tương quan thuận với mức độ định dưới giá.
Christopher B.Barry và Vassil T. Mihov (2006) đã tìm ra mối quan hệ đồng
biến giữa việc vay nợ với mức độ định dưới giá khi IPO bằng việc nghiên cứu một mẫu
gồm hơn 5.000 công ty IPO trong giai đoạn 1980-2002 và nhận thấy rằng các công ty
có vay nợ cao có xu hướng định giá thấp cổ phiếu khi IPO hơn các công ty sử dụng
vốn đầu tư mạo hiểm.
25
Bảng 2.1: Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước đây
Tương quan nghịch chiều Nhân tố Tương quan cùng chiều
Rock (1986); Kennedy,
Sivakumar và Vetzal (2004); Karlis (2010); Perotti (1995); Quy mô phát hành Kim, Krinsky, và Lee (1995); Mok và Hui (1998)
Yuan Tian (2012)
Rock (1986); Welch và Ritter Giá khởi điểm (2002)
GDP Hiromasa Nakamura (2003)
Ritter (1984 ); Clark (2002);
Tuổi công ty Ritter (1991); Clarkson và
Merkley (1994); (Karlis, 2000)
Karlis (2000); Beatty và Ritter Rogue (1973); Trueman và
(1986) Titman (1985); Carter và
Manaster (1990); Johnson và Uy tín của nhà bảo
Miller (1988); Megginson và lãnh phát hành
Weiss (1991); Sharma và
Seraphim (2010)
Tổng tài sản Zamzi Ahmad (2007)
Pan Jie (2009) Smith và Watts (1992); Smith
và Watts (1992); Christopher ROA, P/E, DEBT B.Barry và Vassil T. Mihov
(2006); Yuan Tian (2012)
26
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thu thập dữ liệu
Thu thập thông tin là một khâu cực kỳ quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng thời gian nghiên cứu. Nhìn chung thị trường chứng khoán Việt Nam còn khá sơ
khai so với các thị trường chứng khoán phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam cũng chưa
có một cơ quan lưu giữ các số liệu về chứng khoán một cách đầy đủ và có hệ thống nên
công việc thu thập dữ liệu cho bài nghiên cứu tương đối khó khăn. Dữ liệu của bài
nghiên cứu được thu thập thủ công từ nhiều nguồn khác nhau. Các thông tin cần thiết
cho bài nghiên cứu được khai thác chủ yếu từ Báo cáo kết quả đấu giá cổ phiếu, Bản
cáo bạch phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (hay còn gọi là bản công bố
thông tin), báo cáo thường niên, báo cáo tài chính, lịch sử giao dịch của cổ phiếu trong
ngày giao dịch đầu tiên… Có một số chỉ tiêu không thể lấy trực tiếp trên Bản cáo bạch
của công ty mà phải tính gián tiếp qua các chỉ tiêu khác, ví dụ như tỷ số P/E, ROA hay
quy mô phát hành.
Hiện nay có ba cơ chế xác định giá IPO bao gồm cơ chế chào bán với giá cố
định, cơ chế đấu giá và cơ chế lập danh sách. Ở Việt Nam hiện nay chưa có cơ chế lập
danh sách, chỉ có một số ít các đợt IPO chào bán với giá cố định còn lại đa số là IPO
theo cơ chế đấu giá. Ngoài ra, theo dữ liệu thu thập được tại Sở giao dịch Chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội chỉ ghi nhận kết quả đấu
giá IPO từ năm 2005, vì vậy dữ liệu của bài nghiên cứu này sẽ chỉ tập trung vào những
công ty IPO theo cơ chế đấu giá qua sàn giao dịch chứng khoán tập trung (bao gồm Sở
giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội)
trong giai đoạn từ tháng 01/2005 đến tháng 10/2013.
Tính đến tháng 10/2013 có 463 cuộc đấu giá được ghi nhận tại Sở giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Trong
463 cuộc đấu giá này bao gồm cả những cuộc đấu giá của các công ty chào bán lần thứ
27
hai hoặc lần thứ ba (tức là bản chất không phải là đấu giá phát hành cổ phiếu lần đầu ra
công chúng), các cuộc đấu giá của những công ty được niêm yết tại sàn giao dịch
chứng khoán tập trung hoặc chưa được niêm yết. Do mục đích của bài nghiên cứu, mẫu
sẽ chỉ gồm những công ty IPO đã niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Khi đối
chiếu với danh sách các công ty niêm yết, tác giả tìm được 127 cuộc đấu giá IPO (theo
đúng bản chất là đấu giá phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng) của 127 công ty
đang niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, Sở giao dịch
chứng khoán Hà Nội và sàn UpCom.
Cách thức thu thập các chỉ tiêu cụ thể như sau:
Giá IPO: là giá trúng thầu bình quân của đợt đấu giá IPO. Thông tin này được
lấy trong Báo cáo kết quả đấu giá cổ phiếu do cơ quan tổ chức đấu giá công bố (Sở
giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Sở giao dịch chứng khoán Hà
Nội).
Giá đóng cửa trong ngày giao dịch đầu tiên: được thu thập từ dữ liệu lịch sử
vào ngày giao dịch đầu tiên của cổ phiếu tại sàn giao dịch nơi cổ phiếu đó được niêm
yết. Thông thường các công ty sẽ niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung
sau thời điểm IPO nên thông tin giá đóng cửa trong ngày giao dịch đầu tiên được thu
thập khá dễ dàng. Tuy nhiên, cũng có những công ty đã niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán tập trung trước thời điểm IPO, vì vậy thông tin giá đóng cửa trong ngày
giao dịch đầu tiên phải được lấy chính xác vào ngày mà số cổ phiếu chào bán ra công
chúng đó chính thức được giao dịch (theo thông báo niêm yết cổ phiếu bổ sung do sàn
giao dịch tập trung nơi cổ phiếu đó được niêm yết công bố).
Dữ liệu giá IPO và giá đóng cửa trong ngày giao dịch đầu tiên sẽ được dùng để
tính toán mức độ định dưới giá của cổ phiếu IPO.
28
Giá khởi điểm: là mức giá thấp nhất mà tổ chức phát hành có thể bán cổ phiếu
cho nhà đầu tư. Giá khởi điểm có thể được thu thập trong bản cáo bạch của công ty
IPO, trên Thông báo đấu giá cố phần hoặc trên Báo cáo kết quả đấu giá do cơ quan tổ
chức đấu giá công bố.
Quy mô phát hành: Quy mô phát hành phản ánh quy mô nguồn vốn tối thiểu
mà doanh nghiệp kỳ vọng sẽ thu về sau khi IPO trong trường hợp số cổ phiếu chào bán
được bán hết. Quy mô phát hành được tính bằng cách lấy số lượng cổ phiếu chào bán
nhân với giá khởi điểm. Số lượng cổ phiếu chào bán và giá khởi điểm có thể được thu
thập trong bản cáo bạch của công ty IPO, trên Thông báo đấu giá cố phần hoặc trên
Báo cáo kết quả đấu giá do cơ quan tổ chức đấu giá thông báo.
Chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO và thời điểm niêm yết:
chỉ tiêu này được tính toán bằng hiệu số giữa tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm
doanh nghiệp IPO với tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm doanh nghiệp niêm yết cổ
phiếu tại sàn giao dịch chứng khoán. Để đơn giản trong tính toán, tác giả sử dụng tốc
độ tăng trưởng bình quân GDP tính theo năm. Đầu tiên, năm doanh nghiệp IPO được
thu thập trong thông báo đấu giá do cơ quan tổ chức đấu giá ban hành. Năm cổ phiếu
IPO chính thức giao dịch sẽ được thu thập từ các sàn giao dịch chứng khoán nơi cổ
phiếu đó niêm yết (HSX, HNX hoặc UpCom). Tiếp theo, tương ứng với từng năm sẽ
gắn với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm của năm đó. Tốc độ tăng trưởng GDP
từ năm 2005 – 2012 được thu thập từ tổng cục thống kê như trong Bảng 4.1.
Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm từ năm 2005 – 2012
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Tốc độ tăng 8,4% 8,17% 8,48% 6,23% 5,32% 6,78% 5,89% 5,03% trưởng GDP
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
29
Tuổi công ty: được tính bằng khoảng cách thời gian từ khi doanh nghiệp thành
lập cho tới thời điểm tiến hành IPO. Thông tin này được lấy trên bản cáo bạch của
công ty.
Uy tín của tổ chức bảo lãnh phát hành: thông tin về tổ chức bảo lãnh phát
hành của đợt IPO được lấy trong bản cáo bạch của công ty. Ở các nước trên thế giới
khi một công ty tiến hành IPO sẽ cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành. Bảo lãnh phát
hành chứng khoán là việc cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi
chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát
hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành phân phối chứng khoán ra công chúng4. Tổ
chức bảo lãnh phát hành thường là một ngân hàng đầu tư. Tại Việt Nam không có loại
hình ngân hàng đầu tư mà chủ yếu là các ngân hàng thương mại và quy định về tổ chức
bảo lãnh phát hành được thực hiện theo điểm 14, điều 6 của Luật Chứng Khoán số
70/2006/QH11: “Tổ chức bảo lãnh phát hành là công ty chứng khoán được phép hoạt
động bảo lãnh phát hành chứng khoán và Ngân hàng Thương mại được Ủy Ban Chứng
Khoán Nhà Nước chấp thuận bảo lãnh phát hành trái phiếu theo điều kiện do Bộ Tài
chính quy định”. Ngoài ra, việc tổ chức bảo lãnh phát hành nhận mua một phần hay
toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn
lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành rất ít mà chủ yếu là tư vấn và hỗ trợ
tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán và phân phối
chứng khoán ra công chúng. Thông thường các công ty chứng khoán nhận nhiệm vụ
bảo lãnh phát hành cho một công ty IPO cũng đồng thời đảm nhận nhiệm vụ của tổ
chức tư vấn phát hành, tức là cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo
4 Khoản 22 Điều 6 Luật chứng khoán 2006
cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán.
30
Uy tín của nhà bảo lãnh phát hành được xác định dựa vào thị phần bảo lãnh
phát hành trên thị trường. Hiện nay tại Việt Nam chưa có thống kê về thị phần bảo lãnh
phát hành chứng khoán. Tuy nhiên, theo thông tin tác giả thu thập được từ báo cáo tài
chính năm 2007 của các công ty chứng khoán (tác giả chọn năm 2007 làm năm tính
toán do đây là năm thị trường IPO diễn ra sôi động nhất với 74 cuộc đấu giá tại Sở giao
dịch chứng khoán Thành phồ Hồ Chí Minh và 51 cuộc đấu giá tại Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội), doanh thu từ bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành chứng khoán đứng
đầu thị trường là Công ty Cổ phần Chứng Khoán Bảo Việt và Công ty Cổ phần Chứng
Khoán Sài Gòn với con số lần lượt là 52 tỷ đồng và 51,6 tỷ đồng.
Bài nghiên cứu xác định danh tiếng của nhà bảo lãnh phát hành như một biến
giả. Cổ phiếu của một công ty IPO được coi là có tổ chức bảo lãnh phát hành uy tín nếu
như tại thời điểm IPO công ty thuê tổ chức tư vấn bảo lãnh phát hành là Công ty Cổ
phần Chứng Khoán Bảo Việt hoặc Công ty Cổ phần Chứng Khoán Sài Gòn. Ngoài ra,
có một số cuộc đấu giá có từ hai tổ chức bảo lãnh phát hành trở lên (IPO của Công ty
Phát Triển Nhà Đà Nẵng, Công ty Khoan và Dịch Vụ Khoan Dầu Khí) hay tổ chức bảo
lãnh phát hành là một định chế tài chính lớn của nước ngoài (IPO của Ngân hàng
Ngoại Thương Việt Nam có tổ chức bảo lãnh phát hành là Credit Suisse Limited của
Singapore) cũng được xem là có tổ chức bảo lãnh phát hành uy tín.
Sau khi thiết lập biến giả với giá trị bằng “1” nếu công ty IPO có tổ chức bảo
lãnh phát hành uy tín và bằng “0” cho các trường hợp còn lại, kết quả có 32 cuộc IPO
có tổ chức bảo lãnh phát hành uy tín và 42 đợt IPO không có tổ chức bảo lãnh phát
hành uy tín.
Quy mô công ty: được tính bằng tổng tài sản tại thời điểm cuối năm trước năm
doanh nghiệp IPO. Chỉ tiêu này được lấy trong bản cáo bạch hoặc báo cáo tài chính của
công ty.
31
Hệ số ROA: được tính bằng cách thu thập tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp
tại thời điểm cuối năm trước năm doanh nghiệp tiến hành IPO và lợi nhuận ròng (lợi
nhuận sau thuế) trong năm tài chính trước năm doanh nghiệp tiến hành IPO. Chẳng hạn
nếu doanh nghiệp có ngày niêm yết trong nằm khoảng từ ngày 01/01/2009 đến ngày
31/12 năm 2009 thì tổng tài sản sẽ được lấy vào thời điểm 31/12/2008 và lợi nhuận sau
thuế là của năm 2008. Sau khi lấy được tổng tài sản và lợi nhuận sau thuế, ROA sẽ
được tính theo công thức:
ROA =
Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản
Tỷ số P/E: là chỉ số giá thị trường trên thu nhập mỗi cổ phần được tính vào
thời điểm cuối năm trước năm IPO. Do không xác định được giá thị trưởng của cổ
phiếu IPO tại thời điểm cuối năm trước năm IPO nên tỷ số P/E trong bài nghiên cứu
này được tính theo công thức:
P/E = Giá chào bán Thu nhập mỗi cổ phần
Trong đó E hay là thu nhập mỗi cổ phần trong năm tài chính trước năm doanh
nghiệp IPO.
Có rất ít bản cáo bạch tính toán và công bố chỉ tiêu thu nhập mỗi cổ phần nên
chỉ tiêu này được tính toán gián tiếp thông qua việc thu thập các thông tin khác dựa
trên công thức tính toán chỉ tiêu này như sau:
Thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) = Thu nhập của cổ đông thường Số cổ phần thường đang lưu hành
Trong đó:
32
• Thu nhập của cổ đông thường: được tính bằng lợi nhuận sau thuế của năm trước
năm doanh nghiệp IPO trừ đi phần cổ tức của các cổ đông ưu đãi trong năm đó.
• Số cổ phần đang lưu hành: được tính vào thời điểm cuối năm trước năm doanh
nghiệp IPO bằng công thức:
Số cổ phần đang lưu hành = (Vốn điều lệ thực góp - Vốn cổ phiếu quỹ) Mệnh giá cổ phiếu5
Tỷ số nợ: Được tính theo công thức:
Tỷ số nợ =
Nợ phải trả Tổng tài sản
Hoặc:
Tỷ số nợ =
Nợ phải trả Tổng nguồn vốn
Trong đó: Nợ phải trả = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn
Nợ phải trả và tổng tài sản (hay tổng nguồn vốn) được lấy vào thời điểm cuối
năm trước năm doanh nghiệp IPO. Thông thường chỉ tiêu này có thể lấy trực tiếp trong
bản cáo bạch của doanh nghiệp.
Cuối cùng, sau khi thu thập tất cả các thông tin cần thiết của 127 công ty đang
niêm yết tại sàn giao dịch (HSX, HNX và UpCom), có 53 công ty bị loại ra khỏi mẫu
5 Ở Việt Nam mệnh giá cổ phiếu quy ước là 10.000 đồng. Tuy nhiên vẫn có một số công ty có mệnh
giá cổ phiếu tại thời điểm IPO là 100.000 đồng (ví dụ như Công ty Sữa Việt Nam, Công ty Bao Bì
Nhựa Tân Tiến,,,). Để thống nhất trong đơn vị tính toán, các công ty có mệnh giá cổ phiếu là 100.000
đồng sẽ được quy đổi sang mệnh giá 10.000 đồng.
do không tìm thấy bản cáo bạch hoặc báo cáo tài chính vào năm tài chính trước năm
33
doanh nghiệp IPO và các công ty trước khi niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán có chia cổ tức6. Kết quả cuối cùng còn lại 74 công ty đủ tiêu chuẩn để tiến hành nghiên
cứu.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Mô hình
Bài nghiên cứu này sử dụng phương pháp hồi quy Bình Phương Bé Nhất
(OLS) để kiểm định mối quan hệ giữa việc định dưới giá trong các đợt IPO và những
nhân tố khác. Mô hình chung được sử dụng như sau:
DUPi = α+ ∑βiXi+ε (1)
Trong đó:
• DUP là mức độ định dưới giá
• α là hệ số chặn của mô hình
• ∑ βiXi là tổng của các biến độc lập
• ε là sai số
Mô hình hồi quy OLS sẽ tiến hành kiểm định 9 biến bao gồm quy mô phát
hành, giá khởi điểm, chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP của thời điểm IPO với thời
điểm niêm yết, tuổi công ty, uy tín của tổ chức tư vấn bảo lãnh phát hành, quy mô công
ty, hệ số ROA, tỷ số P/E và tỷ lệ nợ. Mô hình hồi quy được viết lại như sau:
DUPi= α + β1LNSIZE + β2LNSPRICE + β3DGDP + β4LNAGE + β5DUMMY +
β6LNASSET + β7LNPE + β8DEBT + β9ROA +ε (2)
6 Việc công ty chia cổ tức bằng tiền mặt hoặc cổ phiếu sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Để đơn giản trong tính toán tác giả đã loại các công ty này ra khỏi mẫu.
Trong đó:
34
• LNSIZE đại diện cho quy mô phát hành.
• LNSPRICE đại diện cho giá khởi điểm
• DGDP đại diện cho chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO với
thời điểm niêm yết.
• LNAGE đại diện cho tuổi công ty
• DUMMY đại diện cho uy tín của nhà bảo lãnh phát hành. Một biến giả được
thiết lập với giá trị bằng “1” nếu công ty IPO có tổ chức tư vấn bảo lãnh phát hành uy
tín và bằng “0” cho các trường hợp còn lại.
• ROA đại diện cho hệ số thu nhập ròng trên tổng tài sản.
• PE đại diện cho tỷ số P/E.
• DEBT đại diện cho tỷ số nợ.
3.2.2. Biến phụ thuộc
Biến phụ thuộc được sử dụng trong nghiên cứu này là mức độ định dưới giá
(viết tắt là DUP). DUP thường được sử dụng để kiểm tra các vấn đề định giá sai cho
ngày giao dịch đầu tiên của đợt IPO. Nó được gọi là lợi nhuận bất thường trong ngày
đầu tiên. DUP được tính theo công thức:
DUP = (Pi1 – Pi0)/ Pi0
Trong đó:
• Pi1 là giá đóng cửa trong ngày đầu tiên của chứng khoán i
• Pi0 là giá trúng thầu bình quân của chứng khoán i
Nếu DUP > 0 có nghĩa là IPO bị định dưới giá.
Nếu DUP < 0 có nghĩa là IPO bị định giá cao.
DUP = 0 có nghĩa là IPO được định giá đúng.
35
Theo quan sát từ dữ liệu của bài nghiên cứu cho thấy, trong số 74 đợt IPO có
38 đợt IPO định dưới giá (DUP > 0) và 36 đợt IPO định giá cao (DUP < 0).
Giá trúng thầu bình quân của đợt IPO được thiết lập thông qua quá trình đấu
giá. Ở Việt Nam hiện nay đa số là đấu giá theo kiểu Anh. Trong một đợt đấu giá sẽ có
nhiều mức giá trúng thầu được sắp xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp tương ứng với số
cổ phiếu đặt mua cho đến khi số cổ phiếu chào bán được bán hết. Mỗi nhà đầu tư sẽ
thanh toán tiền bằng mức giá đấu thành công của riêng họ. Giá trúng thầu bình quân
được tính bằng trung bình theo tỷ trọng của từng mức giá trúng thầu tương ứng với số
lượng cổ phiếu đặt mua tại mức giá đó.
Giá đóng cửa trong ngày giao dịch đầu tiên là mức giá mà nhà đầu tư sẵn sàng
trả cho cổ phiếu của công ty IPO khi nó chính thức được niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán. Nếu giá trúng thầu bình quân thấp hơn giá đóng cửa trong ngày đầu tiên thì cổ phiếu đó đã bị định giá thấp7.
3.2.3. Biến độc lập
Quy mô phát hành (LNSIZE)
Được tính bằng tích số của giá chào bán và số lượng chứng khoán chào bán.
Đây là một biến đã được nghiên cứu trong nhiều bài nghiên cứu trước đây. Họ đã
chứng minh được rằng quy mô phát hành có mối quan hệ nghịch chiều với mức độ
định dưới giá. Cụ thể, càng nhiều cổ phiếu được phát hành thì xác suất định dưới giá
càng thấp. Sau khi dữ liệu quy mô phát hành được thu thập, biến này sẽ được lấy
logarit nhằm làm giảm sự biến động của dữ liệu trong mẫu cũng như với các biến khác.
Bài nghiên cứu này đặt giả thiết quy mô phát hành có tương quan nghịch chiều với
7 Để đơn giản trong tính toán, tác giả bỏ qua tính toán tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu và thị trường trong khoảng thời gian từ khi IPO đến khi cổ phiếu được niêm yết.
mức độ định dưới giá như kết quả của đa số các bài nghiên cứu.
36
Giả thiết 1: Quy mô phát hành có tương quan nghịch chiều với mức độ định dưới giá
Giá khởi điểm (LNSPRICE)
Giá khởi điểm là mức giá thấp nhất mà tổ chức phát hành có thể bán cổ phiếu
cho nhà đầu tư. Từ mức giá khởi điểm này, các nhà đầu tư sẽ đưa ra mức giá mà nhà
đầu tư có thể trả cho cổ phiếu IPO nhưng không được thấp hơn mức giá khởi điểm.
Tính toán giá khởi điểm là một quá trình phức tạp. Thông thường một tổ chức định giá
chuyên nghiệp sẽ được thuê để định giá doanh nghiệp dựa trên nhiều phương pháp
khác nhau như phương pháp chiết khấu dòng thu nhập, phương pháp P/E, phương pháp
tài sản ròng.... Giá trị doanh nghiệp là cơ sở để xác định mức giá khởi điểm. Giá khởi
điểm thường do cơ quan có quyền lực cao nhất trong công ty quyết định. Cũng giống
như biến quy mô phát hành, sau khi dữ liệu được thu thập, biến này sẽ được lấy logarit
nhằm làm giảm sự biến động của dữ liệu trong mẫu cũng như với các biến khác. Theo
kết quả của các nghiên cứu trước đây, giá khởi điểm có quan hệ nghịch biến với mức
độ định dưới giá, tức là giá khởi điểm đưa ra càng cao thì khả năng cổ phiếu bị định
dưới giá càng thấp. Bài nghiên cứu cũng đặt giả thiết Giá khởi điểm có tương quan
nghịch chiều với mức độ định dưới giá theo kết quả của đa số các bài nghiên cứu.
Giả thiết 2: Giá khởi điểm có tương quan nghịch chiều với mức độ định dưới giá
Chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO và thời điểm niêm yết (DGDP)
Trong một số nghiên cứu trước đây người ta đã chứng minh được tầm quan
trọng của tốc độ tăng trưởng GDP với mức độ định dưới giá và mối quan hệ này là
nghịch chiều. Do đặc điểm của các công ty IPO tại Việt Nam là khoảng thời gian từ khi
IPO đến khi niêm yết chính thức trên sàn giao dịch chứng khoán thường rất lâu nên
điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi đã tác động rất lớn đến thị trường chứng khoán mà cụ
thể là giá giao dịch trong ngày đầu tiên của cổ phiếu. Bài nghiên cứu này sẽ kết hợp tốc
độ tăng trưởng GDP ở cả hai thời điểm để cho ra biến Chênh lệch tốc độ tăng trưởng
37
GDP tại thời điểm IPO và thời điểm niêm yết. Sự kết hợp này chưa từng được khảo sát
trong bất kỳ nghiên cứu nào trước đây. Tác giả kỳ vọng biến này sẽ có mối tương quan
nghịch chiều với mức độ định dưới giá.
Giả thiết 3: Chênh lệch chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO với thời
điểm niêm yết có tương quan nghịch chiều với mức độ định dưới giá
Tuổi công ty (LNAGE)
Được xác định bằng số năm kể từ khi doanh nghiệp được thành lập cho đến
thời điểm doanh nghiệp IPO. Sau khi dữ liệu được thu thập, biến này cũng được lấy
logarit nhằm làm giảm sự biến động của dữ liệu trong mẫu cũng như với các biến khác.
Tuổi công ty là một trong những nhân tố điển hình ảnh hưởng đến mức độ định dưới
giá đã được nghiên cứu nhiều trong các nghiên cứu trước. Độ tuổi của công ty thể hiện
mức độ của sự trưởng thành của công ty. Theo các kết quả nghiên cứu trước đây, một
công ty có thời gian hoạt động càng lâu sẽ ít có khả năng bị định giá thấp khi IPO. Bài
nghiên cứu này đặt thiết tuổi công ty có tương quan nghịch chiều với mức độ định dưới
giá theo hầu hết các kết quả nghiên cứu trước đây.
Giả thiết 4: Số năm thành lập công ty có tương quan nghịch chiều với mức độ định
dưới giá
Uy tín của tổ chức tư vấn bảo lãnh phát hành (DUMMY)
Bài nghiên cứu xác định uy tín của nhà bảo lãnh phát hành như một biến giả
với giá trị bằng “1” nếu nhà bảo lãnh phát hành uy tín và bằng “0” nếu tổ chức bảo
lãnh phát hành không có độ uy tín cao. Theo hầu hết các kết quả nghiên cứu trước đây,
uy tín của nhà bảo lãnh phát hành có tương quan ngược chiều với mức độ định dưới
giá. Tuy nhiên cũng có một số nghiên cứu cho rằng uy tín của tổ chức bảo lãnh phát
hành có tương quan cùng chiều với mức độ định dưới giá. Bài nghiên cứu này đặt giả
38
thiết uy tín của nhà bảo lãnh phát hành có tương quan ngược chiều với mức độ định
dưới giá theo kết quả của số đông các nghiên cứu.
Giả thiết 5: Uy tín của nhà bảo lãnh phát hành có tương quan hệ nghịch chiều với mức
độ định dưới giá
Quy mô công ty (LNASSET)
Được tính bằng chỉ tiêu tổng tài sản của công ty tại thời điểm cuối năm trước
khi công ty tiến hành IPO. Sau khi thu thập dữ liệu, biến này cũng được lấy logarit
nhằm làm giảm sự biến động của dữ liệu trong mẫu cũng như với các biến khác. Theo
các kết quả nghiên cứu trước đây, có nhiều nghiên cứu cho thấy quy mô công ty có
tương quan ngược chiều với mức độ định dưới giá nhưng cũng có một số ít nghiên cứu
cho kết quả ngược lại. Nghiên cứu này đặt giả thiết quy mô công ty có tương quan
ngược chiều với mức độ định dưới giá.
Giả thiết 6: Quy mô công ty có tương quan nghịch chiều với mức độ định dưới giá
Hệ số ROA (ROA)
Được tính toán vào thời điểm cuối năm trước khi công ty tiến hành IPO. Thông
thường, thị trường sẽ nhận được một tín hiệu tích cực với tỷ số ROA cao. Điều này có
thể dẫn tới khả năng cao hơn IPO bị định dưới giá. Vì vậy, bài nghiên cứu kỳ vọng
ROA sẽ có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với việc định dưới giá khi IPO.
Giả thiết 7: ROA có tương quan cùng chiều với mức độ định dưới giá
Tỷ số P/E (PE)
Được tính toán vào thời điểm cuối năm trước khi công ty tiến hành IPO. Sau
khi thu thập dữ liệu, biến này cũng được lấy logarit nhằm làm giảm sự biến động của
dữ liệu trong mẫu cũng như với các biến khác. Theo kết quả của các nghiên cứu trước
đây, tỷ số P/E đồng biến với mức độ định dưới giá, tức là các đợt IPO bị định giá thấp
39
đáng kể đối với các công ty có tỷ số P/E cao. Bài nghiên cứu đặt giả thiết tỷ số P/E
đồng biến với mức độ định dưới giá theo kết quả của đa số các bài nghiên cứu.
Giả thiết 8: Tỷ số P/E có tương quan cùng chiều với mức độ định dưới giá
Tỷ lệ nợ (DEBT)
Được tính bằng cách lấy tổng nợ chia cho tổng tài sản của công ty. Giả thiết
của bài nghiên cứu này là tỷ lệ nợ có mối tương quan cùng chiều với mức độ định dưới
giá tương tự như kết quả của các nghiên cứu trước đây.
Giả thiết 9: Tỷ số nợ có tương quan cùng chiều với mức độ định dưới giá
Bảng 3.2: Tóm tắt giả thiết kỳ vọng của các biến
Tương quan Các nghiên cứu khác Các nghiên cứu cùng Biến với DUP kỳ quan điểm quan điểm vọng
Karlis (2010); Perotti Rock (1986); Kennedy,
(1995); Mok và Hui Sivakumar và Vetzal
(1998) (2004); Kim, Krinsky, và LNSIZE Nghịch chiều
Lee (1995); Yuan Tian
(2012)
Rock (1986); Welch và LNSPRICE Nghịch chiều Ritter (2002)
Hiromasa Nakamura DGDP Nghịch chiều (2003)
Ritter (1984 ); Clark
(2002); Ritter (1991); LNAGE Nghịch chiều Clarkson và Merkley
(1994); (Karlis, 2000)
DUMMY Nghịch chiều Rogue (1973); Trueman Karlis (2000); Beatty và
40
Ritter (1986) và Titman (1985); Carter
và Manaster (1990);
Johnson và Miller
(1988); Megginson và
Weiss (1991); Sharma và
Seraphim (2010)
LNASSET Nghịch chiều Zamzi Ahmad (2007) -
ROA Cùng chiều - Pan Jie (2009)
P/E Cùng chiều - -
- Smith và Watts (1992);
Smith và Watts (1992);
Christopher B.Barry và DEBT Cùng chiều
Vassil T. Mihov (2006);
Yuan Tian (2012)
41
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Lý thuyết
Bài nghiên cứu xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ định dưới giá khi
IPO tại Việt Nam và mối quan hệ giữa các biến độc lập với mức độ định dưới giá khi
IPO thông qua mẫu nghiên cứu gồm 74 công ty IPO trong khoảng thời gian từ tháng
01/2005 đến tháng 10/2013 tại Sở giao dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí Minh và
Sở giao dịch Chứng Khoán Hà Nội. Phương pháp được sử dụng trong bài nghiên cứu
là OLS. Các nhân tố được đưa ra xem xét bao gồm: quy mô phát hành, giá khởi điểm,
chênh lệch trong tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO và thời điểm niêm yết, tuổi
công ty, uy tín của nhà bảo lãnh phát hành, tổng tài sản, hệ số ROA, tỷ số P/E và tỷ lệ
nợ.
4.2. Kết quả thực nghiệm
4.2.1. Thống kê mô tả mẫu
Mô hình hồi quy của bài nghiên cứu được xây dựng như sau:
DUPi= α + β1LNSIZE + β2LNSPRICE + β3DGDP + β4LNAGE + β5DUMMY +
β6LNASSET + β7ROA + β8LNPE + β9DEBT + ε
Từ chương trình EVIEW ta có được bảng thống kê mô tả các biến của mô hình như
trong bảng 4.1.
42
Bảng 4.1: Bảng thống kê mô tả
DUP
LNSIZE LNSPRICE DGDP
LNAGE DUMMY LNASSET ROA
LNPE
DEBT
Mean
0.305001 25.29279
9.940940 0.013742 2.634480
0.432432
27.08834
0.081286 2.555943 0.593098
Median
0.025755 24.96162
9.672470 0.011500 2.673554
0.000000
26.64749
0.059661 2.206171 0.626472
Maximum
8.633911 29.90829
11.84940
0.034500 3.891820
1.000000
32.74978
0.509739 9.305651 0.966780
Minimum
-0.901836 23.15169
9.210340
-0.005700 0.000000
0.000000
23.73221
-0.026047 -0.124807 0.006351
Std. Dev.
1.295099 1.545973
0.781610 0.013852 0.777315
0.498795
1.709828
0.086461 1.702175 0.212977
Skewness
4.037344 0.939503
0.927645 0.182175 -0.831616 0.272772
1.198513
2.269699 1.957611 -0.648042
Kurtosis
24.76960 3.537699
2.639444 1.436356 3.877668
1.074405
4.846582
10.37521 8.128405 3.199133
Jarque-Bera
1662.274 11.77767
11.01398
7.948012 10.90465
12.35040
28.22977
231.2494 128.3576 5.301753
Probability
0.000000 0.002770
0.004058 0.018798 0.004286
0.002080
0.000001
0.000000 0.000000 0.070589
Sum
22.57009 1871.667
735.6296 1.016900 194.9515
32.00000
2004.537
6.015153 189.1398 43.88927
Sum Sq. Dev. 122.4415 174.4723
44.59673
0.014008 44.10800
18.16216
213.4163
0.545711 211.5101 3.311233
Observations
74
74
74
74
74
74
74
74
74
74
Nhìn vào bảng 4.1 ta thấy mức độ định dưới giá DUP trung bình từ mẫu quan
sát là 30,5001%, giải thích rằng trong số 74 đợt IPO, mức định dưới giá trung bình là
30,5001%. Mức độ định dưới giá nhiều nhất là 863,3911% và thấp nhất là -90,186%.
Kết quả này đã chứng minh tồn tại sự định giá sai trong các đợt IPO tại Việt Nam.
Tương tự với giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất của các biến
độc lập:
• Biến chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP giữa thời điểm IPO với thời điểm niêm
yết có giá trị trung bình là 1,3742%, giá trị lớn nhất là 3,45% và giá trị nhỏ nhất
là -0,57%.
• Biến ROA có giá trị trung bình là 8,1286%, giá trị lớn nhất là 50,9739% và nhỏ
nhất là -2,6047%.
43
• Biến Tỷ lệ nợ có giá trị trung bình là 59,3098%, giá trị lớn nhất là 96,6780% và
giá trị nhỏ nhất là 0,6351%.
• Các biến còn lại bao gồm LNSIZE, LNSPRICE, LNAGE, LNPE do đã được
logarit nên các giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất không mang ý
nghĩa giải thích trong thực tế.
4.2.2. Hệ số tương quan
Bảng 4.2. Bảng hệ số tương quan
Bảng hệ số tương quan trong bảng 4.2 đo lường mối tương quan giữa biến phụ
thuộc DUP với từng biến độc lập. Các hệ số tương quan của DUP với các biến
44
LNDPRICE, DGDP, LNAGE, LNASSET, LNPE, DEBT là âm cho thấy mối quan hệ
của biến phụ thuộc DUP với các biến này là ngược chiều nhau. Các hệ số tương quan
của DUP với các biến LNSIZE, DUMMY, ROA là dương cho thấy mối quan hệ của
biến phụ thuộc DUP với các biến này là cùng chiều với nhau.
4.2.3. Kết quả phân tích hồi quy
Dependent Variable: DUP Method: Least Squares Date: 11/03/13 Time: 23:02 Sample: 1 74 Included observations: 74
Coefficient
Prob.
Std. Error
Variable LNSIZE LNSPRICE DGDP LNAGE DUMMY LNASSET ROA LNPE DEBT C
0.210479 0.256019 10.85713 0.193265 0.308132 0.180501 2.325715 0.104019 0.862530 2.778330
0.0613 0.0062 0.0037 0.7284 0.3683 0.1330 0.4470 0.5239 0.1880 0.0982
t-Statistic 1.905187 -2.831834 -3.015511 -0.348742 0.906107 -1.521823 0.765064 -0.640807 1.330709 1.678130
R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic)
0.401002 -0.725005 -32.73978 -0.067400 0.279201 -0.274690 1.779321 -0.066656 1.147777 4.662401 0.234501 Mean dependent var 0.126852 S.D. dependent var 1.210171 Akaike info criterion 93.72888 Schwarz criterion -113.7461 Hannan-Quinn criter. 2.178395 Durbin-Watson stat 0.035124
0.305001 1.295099 3.344489 3.655849 3.468694 2.165830
Bảng 4.3: Phân tích hồi quy mức độ định dưới giá (DUP) với các biến độc lập
Từ bảng kết quả hồi quy 4.3, phương trình (2) được viết lại như sau:
45
DUPi = 4,662401 + 0,401002LNSIZE - 0,725005LNSPRICE - 32,73978DGDP
- 0,0674LNAGE + 0,279201DUMMY - 0,27469LNASSET + 1,779321ROA
- 0,066656LNPE + 1,147777DEBT + ε
Hệ số R2 của mô hình là 23,45% giải thích rằng mô hình hồi quy xây dựng phù hợp với
tập dữ liệu ở mức 23,45%. Nói cách khác, 23,45% sự thay đổi trong mức độ định dưới
giá có thể được giải thích bởi các biến trong mô hình.
Nhìn vào bảng 4.3 ta thấy có ba biến có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với DUP là
biến LNSIZE, biến LNSPRICE và biến DGDP. Biến LNASSET có mối quan hệ với
DUP nhưng không thực sự mạnh.
• Biến LNSIZE có mối tương quan cùng chiều với DUP với hệ số là 0,401002 tại
mức ý nghĩa 5%. Điều này có nghĩa là khi các yếu tố khác không đổi, nếu LNSIZE
tăng thêm 1 đơn vị thì DUP tăng thêm 0,401002 đơn vị. Kết quả này không phù
hợp với giả thiết 1 của mô hình là “Quy mô phát hành có tương quan cùng chiều
với mức độ đình dưới giá”.
• Biến LNSPRICE có mối tương quan ngược chiều với DUP với hệ số -0,725005 tại
mức ý nghĩa 1%. Điều này có nghĩa là khi các yếu tố khác không đổi, nếu
LNSPRICE tăng thêm một đơn vị thì DUP giảm 0,725005 đơn vị. Kết quả này phù
hợp với giả thiết 2 của mô hình là “Giá khởi điểm có tương quan nghịch chiều với
mức độ định dưới giá”.
• Biến DGDP có mối tương quan ngược chiều với DUP với hệ số -32,73978 tại mức
ý nghĩa 1%. Đây là một biến có mức độ ảnh hưởng thực sự mạnh đến mức độ định
dưới giá. Kết quả cho thấy trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu DGDP
tăng thêm một đơn vị thì DUP sẽ giảm 32,73978 đơn vị. Kết quả này phù hợp với
giả thiết 3 của mô hình là “Chênh lệch chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP tại thời
điểm IPO với thời điểm niêm yết có tương quan nghịch chiều với mức độ định
dưới giá”.
46
• Biến LNASSET có mối tương quan nghịch chiều với DUP với hệ số -0,27469 ở
mức ý nghĩa 10%. Kết quả này phù hợp với giả thiết 6 của mô hình là “Quy mô
công ty có tương quan nghịch chiều với mức độ định dưới giá”.
• Các biến còn lại là LNAGE, DUMMY, ROA, LNPE và DEBT không có mối quan
hệ có ý nghĩa thống kê với DUP. Mô hình hồi quy đã thất bại trong việc chứng
minh tầm quan trọng của các biến này đến mức độ định dưới giá.
Để kiểm tra kết quả của mô hình hồi quy có đáng tin cậy hay không, tác giả
tiến hành một số kiểm định để kiểm tra tính đúng đắn của mô hình bao gồm kiểm định
đa cộng tuyến, kiểm định tính tự tương quan và kiểm định phương sai thay đổi.
Kiểm định đa cộng tuyến
Trong mô hình phân tích hồi quy đa biến, chúng ta giả thiết giữa các biến giải
thích Xi của mô hình độc lập tuyến tính với nhau, tức là các hệ số hồi quy với một cụ
thể là số đo tác động riêng phần của biến tương đó khí tất cả các biến khác trong mô
hình được giữ cố định. Tuy nhiên, nếu giả thiết này bị vi phạm tức là các biến giải
thích có tương quan thì chúng ta không thể tách biệt sự ảnh hưởng riêng biệt của một
biến nào đó. Hiện tượng này gọi là đa cộng tuyến.
Từ bảng kết quả hồi quy 4.3 ta thấy dấu của các biến phụ thuộc LNSIZE,
DUMMY, LNPE khác với dấu kỳ vọng nên tác giả nghi ngờ tồn tại hiện tượng đa cộng
tuyến trong mô hình.
Sử dụng phần mềm EVIEW tác giả xây dựng được bảng ma trận hệ số tương
quan cặp giữa các biến giải thích như bảng sau:
47
Bảng 4.4: Bảng ma trận hệ số tương quan cặp giữa các biến giải thích
LNSIZE LNSPRICE DGDP
LNAGE
DUMMY LNASSET
ROA
LNPE
DEBT
LNSIZE
1.000000
0.470352
0.002253
-0.021091
0.226248
0.791078
0.030375
0.120271
-0.003012
LNSPRICE 0.470352
1.000000
-0.059094
0.010341
0.193470
0.182562
0.307551
0.084558
0.051065
DGDP
0.002253
-0.059094
1.000000
0.130731
0.007652
0.006237
-0.218954 0.174120
0.212751
LNAGE
-0.021091
0.010341
0.130731
1.000000
-0.084237
0.122223
-0.142200 0.034816
0.148836
DUMMY
0.226248
0.193470
0.007652
-0.084237
1.000000
0.250738
0.156001
0.046654
-0.038278
LNASSET 0.791078
0.182562
0.006237
0.122223
0.250738
1.000000
-0.106703
-0.021526 0.256704
ROA
0.030375
0.307551
-0.218954
-0.142200
0.156001
-0.106703
1.000000
-0.455493
-0.368963
LNPE
0.120271
0.084558
0.174120
0.034816
0.046654
-0.021526
-0.455493 1.000000
0.004854
DEBT
-0.003012
0.051065
0.212751
0.148836
-0.038278
0.256704
-0.368963 0.004854
1.000000
Gọi R là hệ số tương quan giữa các biến.
Nếu R = 1 thì hai biến có tương quan cùng chiều với nhau
Nếu R = -1 thì hai biến có tương quan hoàn toàn và ngược chiều với nhau
Nếu 1 Nhìn vào Bảng 4.4 ta thấy hệ số tương quan chéo giữa các biến nằm trong khoảng (-0,455493; 0,470352), nhỏ hơn 1. Về mặt trực quan lý thuyết ta có thể nhận định không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình. Để khẳng định chắc chắn hơn về việc có tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình hay không, tác giả tiến hành chạy mô hình phụ với biến phụ thuộc lần lượt là các biến độc lập của mô hình gốc. Từ mô hình hồi quy gốc: DUPi= α + β1LNSIZE + β2LNSPRICE + β3DGDP + β4LNAGE + β5DUMMY + β6LNASSET + β7ROA + β8LNPE + β9DEBT + ε 48 Ta chạy mô hình hồi quy phụ với biến phụ thuộc lần lượt là LNSIZE, LNSPRICE, DGDP, LNAGE, DUMMY, LNASSET, ROA, LNPE, DEBT và biến độc lập là các biến độc lập còn lại của mô hình hồi quy gốc ta có được bảng tóm lược các kết quả sau: Bảng 4.5: Bảng tóm tắt kết quả chạy mô hình hồi quy phụ Biến độc lập R2 VIF Biến phụ
thuộc LNSIZE 0.810526 5.277768981 LNSPRICE 0.498992 1.995976112 DGDP 0.113042 1.127449101 LNAGE 0.111066 1.124942909 DUMMY 0.150718 1.1774652 LNASSET 0.789376 4.747797022 ROA 0.503845 2.015499189 LNPE 0.360059 1.562644056 DEBT 0.405496 1.682074469 LNSPRICE, DGDP, LNAGE, DUMMY,
LNASSET, ROA, LNPE, DEBT
LNSIZE, DGDP, LNAGE, DUMMY,
LNASSET, ROA, LNPE, DEBT
LNSIZE, LNSPRICE, LNAGE, DUMMY,
LNASSET, ROA, LNPE, DEBT
LNSIZE, LNSPRICE, DGDP, DUMMY,
LNASSET, ROA, LNPE, DEBT
LNSIZE, LNSPRICE, DGDP, LNAGE,
LNASSET, ROA, LNPE, DEBT
LNSIZE, LNSPRICE, DGDP, LNAGE,
DUMMY, ROA, LNPE, DEBT
LNSIZE, LNSPRICE, DGDP, LNAGE,
DUMMY, LNASSET, LNPE, DEBT
LNSIZE, LNSPRICE, DGDP, LNAGE,
DUMMY, LNASSET, ROA, DEBT
LNSIZE, LNSPRICE, DGDP, LNAGE,
DUMMY, LNASSET, ROA, LNPE Với nhân tử phóng đại phương sai VIF [VIF = 1/(1- R2 hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình. Kiểm định tự tương quan Tự tương quan là hiện tượng các giá trị trong cùng một thành phần của các biến có sự tương quan với nhau. Hậu quả là các nhiễu cũng diễn ra hiện tượng tự tương quan. Nếu mô hình có hiện tượng tự tương quan thì sẽ vi phạm giả thiết của phương pháp hồi quy OLS và dẫn đến kết quả hồi quy không đáng tin cậy. 49 Sử dụng kiểm định Breusch-Godfrey trong EVIEW ta có được kết quả trong Bảng 4.6: Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic
Obs*R-squared 0.346459 Prob. F(2,62)
0.817891 Prob. Chi-Square(2) 0.7085
0.6644 Test Equation:
Dependent Variable: RESID
Method: Least Squares
Date: 11/03/13 Time: 16:23
Sample: 1 74
Included observations: 74 Presample missing value lagged residuals set to zero. Prob. Coefficient Std. Error 0.005948
0.002447
-0.129241
0.010213
0.047374
-0.003075
-0.062041
0.006477
-0.033341
-0.129002
-0.084379
0.061567 0.216936
0.259264
11.32656
0.200067
0.316845
0.187017
2.372181
0.105583
0.887583
2.811460
0.133574
0.134919 0.9782
0.9925
0.9909
0.9595
0.8816
0.9869
0.9792
0.9513
0.9702
0.9635
0.5299
0.6498 Variable
LNSIZE
LNSPRICE
DGDP
LNAGE
DUMMY
LNASSET
ROA
LNPE
DEBT
C
RESID(-1)
RESID(-2) t-Statistic
0.027419
0.009438
-0.011410
0.051048
0.149518
-0.016445
-0.026154
0.061344
-0.037564
-0.045884
-0.631702
0.456325 1.18E-15
1.133118
3.387429
3.761061
3.536475
2.001472 R-squared
Adjusted R-squared
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
F-statistic
Prob(F-statistic) 0.011053 Mean dependent var
-0.164406 S.D. dependent var
1.222721 Akaike info criterion
92.69293 Schwarz criterion
-113.3349 Hannan-Quinn criter.
0.062993 Durbin-Watson stat
0.999989 Bảng 4.6: Bảng kết quả kiểm định tự tương quan Nhìn vào Bảng 4.6 cho thấy Prob. Chi-Square(2) = 66,44% > 5% có nghĩa là không có hiện tượng tự tương quan bậc 2 trong mô hình. Kiểm định phương sai thay đổi 50 Một giả thiết quan trọng trong mô hình hồi quy là các yếu tố nhiễu xuất hiện trong mô hình hồi quy có phương sai không thay đổi. Để kiểm tra, chúng ta sử dụng kiểm định Harvey trong EVIEW và có được bảng kết quả sau: 0.2796
0.2696
0.1011 Heteroskedasticity Test: Harvey
1.253555 Prob. F(9,64)
11.08987 Prob. Chi-Square(9)
14.64676 Prob. Chi-Square(9) F-statistic
Obs*R-squared
Scaled explained SS Test Equation:
Dependent Variable: LRESID2
Method: Least Squares
Date: 11/03/13 Time: 23:16
Sample: 1 74
Included observations: 74 Coefficient Prob. Std. Error t-Statistic 5.810986
0.440225
0.535475
22.70810
0.404221
0.644470
0.377524
4.864324
0.217559
1.804016 0.9089
0.8066
0.4096
0.1742
0.0422
0.6053
0.8794
0.6430
0.7217
0.9141 Variable
C
LNSIZE
LNSPRICE
DGDP
LNAGE
DUMMY
LNASSET
ROA
LNPE
DEBT 0.114854
0.245775
-0.830090
-1.374011
-2.073337
0.519385
0.152356
0.465701
-0.357810
-0.108345 R-squared
Adjusted R-squared
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
F-statistic
Prob(F-statistic) 0.667413
0.108196
-0.444492
-31.20118
-0.838087
0.334728
0.057518
2.265320
-0.077845
-0.195456
0.149863 Mean dependent var
0.030313 S.D. dependent var
2.531120 Akaike info criterion
410.0202 Schwarz criterion
-168.3507 Hannan-Quinn criter.
1.253555 Durbin-Watson stat
0.279584 -2.079299
2.570377
4.820289
5.131649
4.944494
1.761193 Bảng 4.7: Kết quả kiểm định phương sai thay đổi bằng phương pháp Harvey Nhìn vào Bảng 4.7 ta thấy Prob. Chi-Square(9) = 26,96% > 5% có nghĩa là không có hiện tượng phương sai thay đổi. 51 Như vậy các giả thiết của mô hình hồi quy không bị vi phạm, kết quả của mô hình hồi quy có thể tin cậy được 4.3. Thảo luận các kết quả
Bảng 4.8: Bảng so sánh kết quả hồi quy Tương Kết quả Các nghiên Các nghiên cứu khác quan với tương cứu cùng quan Biến quan điểm với kết quả DUP kỳ quan với điểm với kết nghiên cứu vọng DUP quả nghiên cứu Rock (1986); Kennedy, LNSIZE Ngược Cùng Karlis (2010); Sivakumar và Vetzal chiều chiều Perotti (1995); (2004); Kim, Krinsky, Mok và Hui và Lee (1995); Yuan (1998) Tian (2012) LNSPRICE Nghịch Nghịch Rock (1986); chiều chiều Welch và Ritter (2002); Trần Thị Hải Lý và Dương Kha (2012) DGDP Nghịch Nghịch Hiromasa chiều chiều Nakamura (2003) LNAGE Nghịch Không Trần Thị Hải Lý Ritter (1984 ); Clark chiều và Dương Kha (2002); Ritter (1991); tương (2012) Clarkson và Merkley quan (1994); (Karlis, 2000) DUMMY Nghịch Không Rogue (1973); Trueman chiều tương và Titman (1985); Carter quan và Manaster (1990); 52 Johnson và Miller (1988); Megginson và Weiss (1991); Sharma và Seraphim (2010); Karlis (2000); Beatty và Ritter (1986) LNASSET Nghịch Nghịch Zamzi Ahmad Trần Thị Hải Lý và chiều (2007) Dương Kha (2012) chiều ROA Không Yuan Tian Cùng chiều (2012) tương Cùng Yuan Tian P/E chiều (2012) Cùng DEBT Smith và Watts (1992); chiều Christopher B.Barry và quan
Không
tương
quan
Không
tương
quan Vassil T. Mihov (2006); Yuan Tian (2012) 4.3.1. Quy mô phát hành Theo các kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy, hầu hết các nghiên cứu trước đây đều cho rằng quy mô phát hành có quan hệ nghịch biến với mức độ dưới giá. Do chi phí chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng là tương đối lớn nên nếu đơn vị phát hành với số lượng lớn thì chi phí IPO trên mỗi đơn vị cổ phiếu sẽ giảm đi (Kennedy, Sivakumar và Vetzal, 2004). Ngoài ra, theo lý thuyết “winner’s curse” của Rock (1986) cũng cho rằng, càng nhiều cổ phiếu được bán ra thì sẽ càng có nhiều thông tin về giá trị nội tại của cổ phiếu được công bố nên sẽ làm giảm tình trạng bất cân xứng thông tin từ đó làm giảm mức độ định dưới giá. 53 Tuy nhiên, từ bảng kết quả hồi quy trong Bảng 4.3 cho thấy quy mô phát hành có mối tương quan đồng biến với mức độ định dưới giá. Điều này có nghĩa là quy mô phát hành càng lớn thì mức độ định dưới giá càng cao. Kết quả này ủng hộ quan điểm của Karlis (2010), Perotti (1995); Mok và Hui (1998). Nhìn nhận từ thực tế tại thị trường Việt Nam cho thấy, thị trường chứng khoán Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố tâm lý. Do thực trạng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là có độ minh bạch không cao, độ tin cậy của các báo cáo tài chính thấp. Chính vì thế các nhà đầu tư đã có tâm lý lo ngại và đề phòng. Khi một công ty chào bán lần đầu ra công chúng với số lượng ít, nhà đầu tư sẽ nghĩ rằng cổ phiếu đang bị định giá thấp vì công ty (là chủ thể nắm nhiều thông tin hơn) đang giữ lại phần lớn cổ phiếu của họ. Kết quả là họ sẵn sàng trả giá cao hơn cho cổ phiếu của những công ty chào bán với số lượng ít và làm giảm mức độ định dưới giá. 4.3.2. Giá khởi điểm Từ bảng kết quả hồi quy 4.3 cho thấy giá khởi điểm có tương quan nghịch chiều với mức độ định dưới giá. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Trần Thị Hải Lý và Dương Kha (2012) cũng như các lý thuyết thông tin bất cân xứng của Rock (1986) và tín hiệu thị trường của Welch và Ritter (2002). Các doanh nghiệp ý thức được giá trị doanh nghiệp và các triển vọng phát triển trong tương lai của họ, họ sẽ không chấp nhận bị thất thoát tài sản vào tay các cổ đông mới bằng việc đưa ra một mức giá khởi điểm cao. Đến lượt mình giá khởi điểm cao sẽ truyền tín hiệu đến cho các cổ đông làm tăng mức cầu cổ phiếu cũng như tăng giá đấu thầu mà nhà đầu tư có thể mua cổ phiếu từ đó làm giảm mức độ định dưới giá khi IPO. 4.3.3. Chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP Trong hầu hết các nghiên cứu trước đây có đề cập đến biến tốc độ tăng trưởng kinh tế đều không tìm ra mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa biến tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức độ định dưới giá (M.S Wei Leong, 2012; Mustafa Hakan, Sevin và 54 Hilal, 2012). Tuy nhiên tất cả những bài nghiên cứu này chỉ đề cập đến tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO vào phương trình hồi quy mà chưa xét đến tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm cổ phiếu được niêm yết. Thực tế tại Việt Nam cho thấy, tính trung bình khoảng thời gian từ khi công ty tiến hành IPO đến khi công niêm yết là gần 2 năm. Như vậy các biến số kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng GDP là một đại diện) đã thay đổi gần như hoàn toàn. Thêm vào đó, thời điểm công ty IPO là một nhân tố vô cùng quan trọng quyết định đến thành công của đợt IPO cũng như thời điểm niêm yết sẽ ảnh hưởng đến giá đóng cửa trong ngày giao dịch đầu tiên. Quan sát các dữ liệu trong quá khứ tại thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy, giai đoạn từ năm 2005- 2007 là giai đoạn Việt Nam có nhiều công ty IPO nhất và số lượng các đợt IPO bị định dưới giá cũng nhiều nhất. Một công ty biết lựa chọn thời điểm IPO tốt sẽ giảm thiểu được nguy cơ cổ phiếu bị định giá thấp và tránh tổn thất tài sản của công ty. Tương tự, thời điểm niêm yết tốt cũng góp phần làm tăng giá cổ phiếu của công ty. Bài nghiên cứu này kết hợp tốc độ tăng trưởng GDP ở cả hai thời điểm IPO và thời điểm niêm yết để thấy được ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng ở cả hai thời điểm. Kết quả từ mô hình cho thấy đây là một biến có tương quan chặt chẽ đến mức độ định dưới giá. 4.3.4. Quy mô công ty Từ kết quả hồi quy, quy mô công ty có tương quan cùng chiều với mức độ định dưới giá (mức ý nghĩa nghĩa 13%). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Zamzi Ahmad (2007), ngụ ý rằng các công ty có quy mô càng lớn thì mức độ định dưới giá càng thấp. Quan sát từ thực tế các đợt IPO tại Việt Nam cho thấy các công ty có quy mô tài sản lớn (thường là các ngân hàng, các tập đoàn kinh tế lớn của nhà nước) với uy tín của và lợi thế của mình thường đưa ra mức giá khởi điểm cao đã giúp hạn chế tình trạng bị định dưới giá khi IPO. Đứng trên quan điểm của các nhà đầu tư, họ cũng đánh giá cao những công ty có quy mô lớn dựa trên quan điểm các công ty lớn sẽ đứng vững trong môi trường cạnh trường ngày càng gay gắt và khủng hoảng kinh tế. 55 4.3.5. Tuổi công ty Rất nhiều các nghiên cứu trước đây đã chứng minh tuổi công ty có mối quan hệ nghịch biến với mức độ định dưới giá, tức là các công ty càng có bề dày lịch sử thì khả năng bị định dưới giá sẽ càng thấp (Ritter, 1984; Clark, 2002; Clarkson và Merkley, 1994; Karlis, 2000). Tuy nhiên ở Việt Nam, có một số lượng lớn các công ty IPO có nguồn gốc là những công ty nhà nước. Hầu hết những công ty này đều có số năm hoạt động lớn nhưng nhà đầu tư lại không đánh giá cao do quan niệm các công ty nhà nước thường ít năng động, bộ máy cồng kềnh, kinh doanh kém hiệu quả…Ngoài ra, có nhiều công ty nhà nước trước đây hoạt động theo cơ chế bao cấp sau đó được tái cấu trúc, tổ chức lại vào những năm 1988 -1995 và nhiều công ty không có có sở hữu nhà nước nhưng trong quá trình hoạt động đã chia tách, sáp nhập, chuyển đổi…nên khoảng thời gian hoạt động trước đó cũng không mang nhiều ý nghĩa. 4.3.6. Uy tín của nhà bảo lãnh phát hành Uy tín của nhà bảo lãnh phát hành theo các nghiên cứu trước đây có ảnh hưởng nghịch biến đến mức độ định dưới giá như Rogue (1973), Carter và Manaster (1990)…và một số khác tìm ra mối quan hệ đồng biến với mức độ định dưới giá như Willenborg (1999), Beatty và Ritter (1986), (Karlis, 2000). Tuy nhiên kết quả nghiên cứu cho thấy uy tín của nhà bảo lãnh phát hành không có mối tương quan đến mức độ định dưới giá. Điều này được lý giải là do các công ty chứng khoán ở Việt Nam chưa thực sự hoạt động theo đúng chức năng của một tổ chức bảo lãnh phát hành so với các thị trường tài chính phát triển trên thế giới. Việc tổ chức bảo lãnh phát hành nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành còn rất hạn chế mà chủ yếu là tư vấn và hỗ trợ tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán và phân phối chứng khoán ra công chúng. Chính điều này đã làm giảm đi 56 tầm quan trọng của nhân tô uy tín của tổ chức bảo lãnh phát hành đến mức độ định dưới giá. 4.3.7. Hệ số ROA, tỷ số P/E và tỷ lệ nợ Trong bài nghiên cứu tỷ số P/E, tỷ lệ nợ và tỷ số ROA không có nhiều ảnh hưởng đến mức độ định dưới giá, trái với kết quả nghiên cứu của nhiều nghiên cứu trước đây. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là tại Việt Nam các số liệu kế toán có độ tin cậy thấp hoặc các nhà đầu tư không dành nhiều quan tâm đến các dữ liệu trong quá khứ. 57 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI 5.1. Kết luận Nghiên cứu này xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ định dưới giá khi IPO trên thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua nghiên cứu một mẫu gồm 74 đợt IPO tiến hành IPO thông qua hình thức đấu giá tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Kết quả cho thấy mức độ định dưới giá trung bình là 30,5%. Điều này chứng tỏ rằng tồn tại sự định giá sai cổ phiếu khi IPO tại Việt Nam. Có chín nhân tố được tiến hành khảo sát trong nghiên cứu này bao gồm quy mô phát hành, giá khởi điểm, sự khác biệt trong tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tại năm IPO với năm cổ phiếu được niêm yết, tuổi công ty, uy tín của tổ chức bảo lãnh phát hành, quy mô công ty, tỷ số ROA, tỷ số P/E và tỷ số nợ. Phân tích hồi quy theo phương pháp OLS chỉ ra rằng tại thị trường chứng khoán Việt Nam, trong chín nhân tố tiến hành khảo sát thì chỉ có nhân tố quy mô phát hành, giá khởi điểm, chênh lệch tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm IPO và thời điểm niêm yết có tương quan với mức độ định dưới. Nhân tố quy mô công ty có ảnh hưởng đến mức độ định dưới giá nhưng các bằng chứng không thực sự mạnh. Các nhân tố còn lại không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê đến mức độ định dưới giá bao gồm tỷ số P/E, tỷ lệ nợ, tuổi công ty, uy tín của nhà bảo lãnh phát hành và hệ số ROA. 5.2. Giới hạn của đề tài Có một số hạn chế có thể ảnh hưởng đến kết quả của việc nghiên cứu. Đầu tiên là vấn đề thu thập dữ liệu. Do các dữ liệu bị thiếu và vấn đề bảo mật, tác giả không thể nhận được tất cả các thông tin cần thiết cho việc phân tích hồi quy. Kết quả, chỉ có một số lượng hạn chế các đợt IPO có thể thu thập được từ thị trường và kết luận của bài nghiên cứu có thể bị sai lệch vì vấn đề này. 58 Hạn chế thứ hai, mẫu của bài nghiên cứu khá nhỏ, chỉ 74 quan sát. Tuy nhiên, do hạn chế của tác giả, bài nghiên cứu chưa sử dụng phương pháp OLS robust để khảo sát trên các mẫu nhỏ nhằm làm tăng mức độ tin cậy của kết quả. Hạn chế thứ ba, khi tính mức độ định dưới giá của đợt IPO, để đơn giản trong tính toán, tác giả đã bỏ qua tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu và thị trưởng trong khoảng thời gian từ khi IPO đến khi cổ phiếu được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. Việc bỏ qua này có thể làm cho kết quả nghiên cứu sai lệch so với thực tế. Hạn chế thứ tư, bài nghiên cứu sử dụng giá trúng thầu bình quân là một căn cứ để tính mức độ định dưới giá. Giá trúng thầu bình quân được tính là giá đấu thành công của tất cả các nhà đầu tư. Tuy nhiên không phải nhà đầu tư nào trúng thầu cũng mua cổ phiếu. Trong thực tế cho thấy có một số cuộc đấu giá có giá trúng thầu cao bất thường. Ví dụ, giá đấu thành công cao nhất của Công ty Thủy Điện Thác Mơ là 56 triệu đồng/cổ phiếu, của Công ty Nhiệt Điện Phả Lại là 50 triệu đồng/cổ phiếu, của Công ty Nhiệt Điện Bà Rịa là 20 triệu đồng/cổ phiếu, Công ty Dược Phẩm Bến Tre là 29,5 triệu đồng/cổ phiếu…Mức mức giá cao bất thường như vậy đã góp phần lớn vào việc đẩy giá trúng thầu bình quân lên cao nhưng sau đó các nhà đầu tư đưa ra mức giá này thường bỏ tiền đặt cọc và không mua cổ phiếu. Do thiếu thông tin nên tác giả đã không thể loại bỏ những nhà đầu tư trúng thầu nhưng không mua cổ phiếu để tính toán mức giá trúng thầu bình quân thực của đợt IPO. Nếu loại bỏ được phần này ra thì mức độ định dưới giá sẽ cao hơn nữa. Hạn chế thứ năm, bài nghiên cứu sử dụng giá đóng cửa trong ngày đầu tiên là một căn cứ để tính mức độ định dưới giá mà chưa đề cập đến giá của cổ phiếu trong một tuần, hai tuần, một tháng hay ba tháng sau niêm yết. Thực tế tại Việt Nam cho thấy, hầu hết tại thời điểm niêm yết các công ty chưa lưu ký chứng khoán đầy đủ tại trung tâm lưu ký chứng khoán nên có thể dẫn đến tình trạng thiếu nguồn cung tạm thời vào thời điểm niêm yết và đẩy giá giao dịch của cổ phiếu trong ngày đầu tiên lên cao. 59 Hạn chế cuối cùng và không kém phần quan trọng là các nhân tố đưa ra để xem xét trong bài nghiên cứu còn hạn chế. Trong thực tế, giá cả của chứng khoán có thể phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố ngoài chín nhân tố được đề cập trong bài nghiên cứu. Tác giả khuyến nghị ngoài các nhân tố đã được nghiên cứu trước đây, các nghiên cứu tại Việt Nam trong tương lai cũng nên xem xét việc đưa thêm vào nhiều biến độc lập như ngành hàng, tỷ lệ lạm phát, chỉ số VN Index, tỷ lệ sở hữu nhà nước, lãi suất thị trường, giá vàng, giá dầu…. TIẾNG VIỆT 1. Trần Thị Hải Lý & Dương Kha (2012). Bằng chứng về hiện tượng định dưới giá của các IPO tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế , 26-37. TIẾNG ANH 1. Almisher, M. A., Buell, S. G., & Kish, R. J. (January 01, 2002). The relationship between systematic risk and underpricing of the ipo market. Research in Finance : a Research Annual, 19. 2. Beatty, R.P. & Ritter, J.R. (1984). Investment Banking, Reputation, and Underpricing of Initial Public Offerings. Journal of Financial Economics,15, 213-232. 3. Carter, R. & Manaster, S. (1990). Initial Public Offerings and Underwriter Reputation. The Journal of Finance, 45, 4, 1045-1067. 4. Clark, D. T. (2002). A Study of the Relationship Between Firm Age-at-IPO and Aftermarket Stock Performance. Financial Markets, Institutions and Instruments, 11, 4, 385-400. 5. Clarkson, P. M., & Merkley, J. (1994). Ex Ante Uncertainty and the Underpricing of Initial Public Offerings: Further Canadian Evidence. Canadian Journal of Administrative Sciences / Revue Canadienne Des Sciences De L'administration, 11, 2, 54-67. 6. Grinblatt, M., & Hwang, C. Y. (1989). Signalling and the Pricing of New Issues. Journal of Finance, 44, 2, 393-420. 7. Hiromasa N. (2003). Analysis of Initial Returns Rate in the IPOMarket among 21 Countries 8. Kennedy, D., Sivakumar, R., & Vetzal, K. (2006). The implications of IPO underpricing for the firm and insiders: Tests of asymmetric information theories. Journal of Empirical Finance, 13, 1, 49-78. 9. Kristian R. (2013). Initial Public Offerings: International Insights 10. Loughran, T., & Ritter, J. (2004). Why Has IPO Underpricing Changed over Time?. Financial Management, 33, 3, 5-37. 11. Megginson, W. L., & Weiss, K. A. (1991). Venture Capitalist Certification in Initial Public Offerings. Journal of Finance, 46, 3, 879-903. 12. Rogue, D. E. (1973). On the Pricing of Unseasoned Equity Issues: 1965-1969. Journal of Financial and Quantitative Analysis, 8, 1, 91-103. 13. Ritter, J.R. (1984). The ‘hot issue’ market of 1980. Journal of Business ,57, 215- 240. 14. Rock, K. (1986). Why new issues are underpriced. Journal of Financial 15. Yuan Tian (2012). An examination factors influencing Under-Pricing Of IPOs on the London Stock Exchange. 16. Zamzi Ahmad (2007). Why IPOs are underpriced? Evidence from the Dhaka Stock Exchange, Bangladesh. CÁC TRANG WEB 18. www.hsx.vn 19. www.hnx.vn < http://www.hnx.vn/web/18114/daugia>Phụ
Phụ i)] <10 ta kết luận không có
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO