Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018<br />
<br />
<br />
KHẢO SÁT THÁI ĐỘ VÀ NGUYỆN VỌNG BỆNH NHÂN CAO TUỔI<br />
VỀ Ý MUỐN CHĂM SÓC CUỐI ĐỜI<br />
Lê Đại Dương*, Thân Hà Ngọc Thể**, Nguyễn Văn Trí**<br />
TÓM TẮT<br />
Mở đầu: Chăm sóc cuối đời (CSCĐ) là một thành phần quan trọng không thể thiếu trong chuỗi chăm sóc<br />
liên tục của ngành y tế. Người cao tuổi (NCT) là một đối tượng đặc biệt cần CSCĐ và nhất là cá nhân hóa kế<br />
hoạch điều trị. Tuy vậy hầu như không có bằng chứng nào nhằm định hướng các kế hoạch cũng như chính sách y<br />
tế đặc biệt cho đối tượng này tại Việt Nam.<br />
Mục tiêu: Đánh giá thái độ và ý muốn của bệnh nhân cao tuổi nội trú khoa Lão – Chăm Sóc Giảm Nhẹ<br />
(CSGN) Bệnh Viện Đại Học Y Dược (BVĐHYD) về kế hoạch chăm sóc cuối đời bằng công cụ “Đánh Giá Thái<br />
Độ Người Cao Tuổi về Các Vấn Đề Cuối Đời” (AEOLI).<br />
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu cắt ngang mô tả đã được tiến hành trên các bệnh<br />
nhân NCT (>=60 tuổi) nhập viện nội trú tại khoa Lão – CSGN tại BVDHYD trong thời gian từ 01/03/2017 đến<br />
31/05/2017. NCT đồng ý tham gia sẽ được phỏng vấn mặt đối mặt bằng bảng câu hỏi AEOLI được việt hóa để<br />
đánh giá thái độ và ý muốn về CSCĐ.<br />
Kết quả: Đã có 47 BN đồng ý tham gia nghiên cứu và được phỏng vấn từ 207 BN cao tuổi nhập viện. Tỉ lệ<br />
đồng ý tham gia là 33,81%. Tuổi trung bình mẫu nghiên cứu là 73,96 ± 9,19 tuổi. 29 BN (61,7%) có chẩn đoán<br />
ung thư, nhưng chỉ có 1/3 là có hiểu biết về chẩn đoán ung thư và tiên lượng bệnh. NCT trong mẫu chúng tôi có<br />
thái độ mâu thuẫn về vấn đề thời gian sống thêm so với chất lượng cuộc sống (85% đồng ý sống bằng mọi giá<br />
nhưng 72% lại coi trọng chất lượng cuộc sống so với thời gian sống). 60% BN NCT muốn biết rõ tình trạng<br />
bệnh của mình và đặc biệt có đến 94% BN muốn được mất tại nhà.<br />
Kết luận: Hầu như tất cả NCT đều muốn mất tại nhà. Nhân viên y tế cần đẩy mạnh thảo luận trước các vấn<br />
đề liên quan CSCĐ ở NCT lúc họ còn đủ khả năng ra quyết định. Hệ thống chăm sóc y tế NCT tại nhà cần được<br />
phát triển như là một thành phần của hệ thống y tế để đảm bảo họ có một cái chết “đẹp” tại nhà, cùng với gia đình.<br />
Từ khóa: chăm sóc cuối đời, người cao tuổi, chăm sóc tại nhà<br />
ABSTRACT<br />
OLDER ADULTS’ ATTITUDES AND WISHES TOWARDS END OF LIFE CARE: A SURVEY OF<br />
OLDER INPATIENTS FROM A GERIATRIC – PALLIATIVE CARE WARD OF UNIVERSITY MEDICAL<br />
CENTER AT HO CHI MINH CITY<br />
Le Dai Duong, Than Ha Ngoc The, Nguyen Van Tri<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 278 - 285<br />
Background: End-of-life care (EoLC) is a vital component of the continuum of medical care. Older adults are<br />
unique kinds of client who would be greatly beneficial from good and individualized EoLC. However, there is almost<br />
no evidence to guide the planning and policy-making regarding EoLC for this vulnerable population in Vietnam.<br />
Objectives: To assess the attitudes and wishes towards EoLC of elderly inpatients of Geriatric – Palliative<br />
Care Wards at Univeristy Medical Center at Ho Chi Minh City (UMC HCMC) using Vietnamese version of the<br />
“Assess the attitudes of older people to end-of-life issues (AEOLI)”.<br />
Subjects and methods: A descriptive cross-sectional study was conducted in older patients who had been<br />
<br />
* Học viên BSNT, Bộ môn Lão khoa ** Bộ môn Lão khoa – Đại học Y Dược TP.HCM<br />
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Lê Đại Dương ĐT: 0908472724 Email: duongledai1988@gmail.com<br />
<br />
278 Chuyên Đề Nội Khoa<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
hospitalized to the Geriatric and Palliative Care ward at UMC HCMC from between March 1, 2017 and May 31,<br />
2017. Older patients were interviewed face-to-face with the Vietnamese version of AEOLI questionnaire to assess<br />
attitudes and wishes towards EoLC.<br />
Results: From March 1, 2017 to May 31, 2017, 47 older patients consented to participate in the study and<br />
were interviewed from 207 older patients admitted to the geriatric and palliative care ward. The response rate was<br />
33.81%. The mean age of the sample was 73.96 ± 9.19 years of age. 29 patients (61.7%) were diagnosed with<br />
cancer, but only a third of those had a knowledge of cancer diagnosis and prognosis. Our sample demonstrated a<br />
paradoxical attitude about life expectancy over quality of life (85% agreed to live at all costs but 72% preferred<br />
quality of life over length of life). 60% of patients wanted to know their diagnoses and astoundingly 94% of<br />
patients wanted to die at home.<br />
Conclusion: Almost all older adults in our sample wanted to die at home. Healthcare workers should be<br />
encouraged to discuss openly and honestly those EoLC issues with older patients in a timely manner when they<br />
still possess their capacity for decision making. Home care services must at their disposal as part of the health<br />
system to ensure they could have a "good" death at home, with their loved ones.<br />
Key words: end-of-life care, elderly, home care<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ còn nhiều rào cản về mặt văn hóa, vấn đề về<br />
CSCĐ ít được đề cập và các nghiên cứu về thái độ<br />
“Sinh – lão – bệnh – tử” là qui luật không thể<br />
và ý muốn của NCT về các vấn đề CSCĐ dường<br />
tránh khỏi, tất cả mọi người đều phải trải qua giai<br />
như không tồn tại ở Việt Nam. Qui trình CSCĐ<br />
đoạn cuối đời. Dân số người cao tuổi (NCT) tại<br />
bao gồm 6 bước(14) mà bước quan trọng đầu tiên là<br />
Việt Nam vào 2013 chiếm khoảng 10% dân số.<br />
thảo luận người bệnh và gia đình khi cuộc sống<br />
Với khoảng 9 triệu NCT này, với tỉ lệ tử vong<br />
gần đi đến hồi kết, qua đó làm nền tảng xây dựng<br />
32,34 / 1000 NCT(1), mỗi năm tại Việt Nam sẽ có<br />
nên kế hoạch CSCĐ cá nhân hóa cho từng BN và<br />
hơn 297.000 NCT tử vong tại nước ta. Đối tượng<br />
gia đình. Quá trình này cần sự giao tiếp cởi mở và<br />
bệnh nhân (BN) này phải trải qua gánh nặng triệu<br />
chân thật, tôn trọng tự chủ, chú trọng ý muốn các<br />
chứng vô cùng nặng nề vào giây phút cuối đời.<br />
giá trị niềm tin của BN. Chính vì thế việc tìm hiểu<br />
Trong một nghiên cứu đoàn hệ trên 9.000 BN mắc<br />
thái độ và ý muốn của BN NCT nhằm định<br />
các bệnh giới hạn sự sống, đa phần các BN đều<br />
hướng sự trao đổi của nhân viên y tế và phát triển<br />
biểu hiện triệu chứng vô cùng phức tạp vào thời<br />
các chính sách y tế liên quan kế hoạch CSCĐ phù<br />
điểm 3 ngày trước khi mất: đau trung bình đến<br />
hợp là vô cùng cần thiết.<br />
nặng (34–45%), khó thở (28–83%), mệt (80%), rối<br />
loạn tri giác (24–34%), nôn ói (12%), lo âu bứt rứt Mục tiêu nghiên cứu<br />
(25%) … (5). Ngoài ra, cách NCT rời bỏ cuộc sống Đánh giá thái độ và ý muốn của BN cao tuổi<br />
này sẽ có tác động sâu sắc đến gia đình BN, có thể nội trú khoa Lão – Chăm Sóc Giảm Nhẹ (CSGN)<br />
để lại những hậu quả to lớn về mặt tâm lí, tài Bệnh Viện Đại Học Y Dược (BVĐHYD) về kế<br />
chính, ảnh hưởng đến sinh hoạt và công việc các hoạch chăm sóc cuối đời bằng công cụ “Đánh<br />
thành viên gia đình. Chính vì thế, chăm sóc cuối Giá Thái Độ Người Cao Tuổi về Các Vấn Đề<br />
đời (CSCĐ) – là giai đoạn chăm sóc đặc biệt ở BN Cuối Đời” – “Assess the attitudes of older people<br />
có tiên lượng sống dưới 6 tháng - có vai trò rất to end-of-life issues (AEOLI)”.<br />
quan trọng trong chuỗi chăm sóc y tế liên tục từ ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU<br />
lúc sinh đến lúc qua đời. Tuy vậy hiện tại nền y tế Đối tượng nghiên cứu<br />
Việt Nam vẫn chưa có chính sách y tế cụ thể về<br />
Các BN NCT nhập viện nội trú tại bệnh viện<br />
CSCĐ. Nhân viên y tế chưa được đào tạo bài bản<br />
BVDHYD. Dân số chọn mẫu là NCT (>= 60 tuổi)<br />
để quản lí BN ở giai đoạn này. Bên cạnh đó do<br />
nhập viện nội trú tại khoa Lão – CSGN tại<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa 279<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018<br />
<br />
BVĐHYD trong thời gian từ 01/03/2017 đến hỏi về kiến thức các PTDTSS được hỗ trợ bằng<br />
31/05/2017. hình ảnh. Với mỗi phương tiện, người nghiên<br />
Phương pháp nghiên cứu cứu sẽ giải thích cách thực hiện sau khi hỏi câu<br />
Cắt ngang mô tả hỏi về kiến thức, nhằm tạo điều kiện cho người<br />
tham gia trả lời về ý muốn thực hiện các<br />
Phương pháp lấy mẫu<br />
PTDTSS. Mọi thông tin cá nhân đối tượng sẽ<br />
Lấy mẫu thuận tiện được mã hóa và giữ kín. Bảng câu hỏi dự kiến sẽ<br />
Tiêu chí chọn mẫu tiến hành trong 30 – 40 phút.<br />
Tiêu chí nhận vào: BN cao tuổi (>= 60 tuổi) Phân tích thống kê<br />
nhập viện tại khoa Lão – CSGN tại BVĐHYD Đánh giá thái độ của NCT về CSCĐ và<br />
trong khoảng thời gian từ 01/03/2017 đến<br />
PTTDTSS dựa vào tính điểm trên thang Likert,<br />
31/05/2017 đồng ý tham gia nghiên cứu.<br />
số điểm càng cao thể hiện không đồng ý càng<br />
Tiêu chí loại trừ tăng và điểm càng thấp thể hiện mức độ đồng ý<br />
BN có khó khăn trong giao tiếp do thính càng tăng. Để thuận tiện cho việc mô tả, mức độ<br />
giác hoặc thị giác, hay do tình trạng bệnh lí<br />
“rất đồng ý” và “đồng ý” sẽ được gộp chung<br />
nền. BN có tình trạng bệnh cấp tính chưa ổn<br />
dưới tiêu đề “đồng ý”, tương tự với “không<br />
định hay có tình trạng rối loạn nhận thức do<br />
đồng ý” và “rất không đồng ý” sẽ được gộp<br />
bệnh lí cấp tính (nhiễm trùng, sảng, rối loạn<br />
thành “không đồng ý”. Các biến số định danh<br />
điện giải …). Các trường hợp này sẽ được<br />
đánh giá lại nếu có cải thiện rối loạn nhận thức được biểu diễn dưới dạng bảng và biểu đồ.<br />
sẽ được xem xét mời tham gia nghiên cứu. Có KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
chẩn đoán từ bác sĩ (BS) là sa sút trí tuệ. BN Từ 01/03/2017 đến 31/05/2017, đã có 47 BN<br />
không thể trao đổi bằng tiếng Việt. đồng ý tham gia nghiên cứu và được phỏng vấn<br />
Qui trình nghiên cứu từ 207 BN cao tuổi nhập khoa. Tỉ lệ đồng ý tham<br />
Toàn bộ BN NCT nhập khoa lão – CSGN của gia là 33,81%.<br />
BVĐHYD trong thời gian nghiên cứu được mời Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 73,96<br />
tham gia. Nếu đồng ý, BN được phỏng vấn mặt<br />
tuổi, cao nhất là 97 tuổi. Tỉ lệ nam nữ là 1:1. Đa<br />
đối mặt bởi nghiên cứu viên sử dụng bảng câu<br />
phần là dân tộc Kinh (91,5%). Chỉ có 36,2% (17<br />
hỏi nghiên cứu (Phụ lục). Bộ công cụ thu thập<br />
BN) sống ở thành thị. Khoảng 80% BN có tôn<br />
bao gồm bảng câu hỏi Đánh Giá Thái Độ NCT<br />
về Các Vấn Đề Cuối Đời “Assess the attitudes of giáo. Đối tượng chăm sóc chính của BN đa phần<br />
older people to end-of-life issues (AEOLI)” của là con cái (57,4%), đặc biệt có tới 12,8% BN còn<br />
tác giả Catt và cộng sự (CS)(2) Bộ câu hỏi đã được có khả năng tự chăm sóc tại nhà.<br />
phát triển bởi một nhóm các nghiên cứu viên, Đặc điểm bệnh lí của mẫu nghiên cứu như<br />
chuyên gia CSGN, đặc biệt có sự tham gia của sau. Thời gian nằm viện trung bình là 12,34<br />
một nhóm BN cao tuổi. Thêm vào đó bộ công cụ ngày. Phần lớn mẫu nghiên cứu là các BN có<br />
cũng được đánh giá các tính chất đo lường tâm lí chức năng hoạt động tốt theo ECOG 1 và 2 (89%)<br />
trên đối tượng NCT. Nhóm tác giả đã có được sự – không bị giới hạn vận động tại ghế hoặc<br />
đồng thuận từ nhóm nghiên cứu sáng tác bộ<br />
giường. Có 29 BN (61,7%) có chẩn đoán ung thư<br />
công cụ là tác giả Catt và cs để chuyển ngữ và sử<br />
đi kèm, chỉ có 1/3 số ngày có hiểu biết về chẩn<br />
dụng cho nghiên cứu này. Ngoài ra bảng câu hỏi<br />
đoán ung thư.<br />
còn gồm các câu hỏi đánh giá các đặc điểm dân<br />
số học, bệnh lí và ý muốn NCT về CSCĐ và các Đặc điểm một thái độ về kế hoạch CSCĐ<br />
phương tiện duy trì sự sống (PTDTSS). Phần câu của mẫu nghiên cứu thể hiện trong bảng 1.<br />
<br />
<br />
280 Chuyên Đề Nội Khoa<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Bảng 1: Đặc điểm thái độ về kế hoạch CSCĐ của mẫu nghiên cứu (N=47)<br />
Số thứ Đồng ý Không Không ý<br />
Thái độ<br />
tự câu (%) đồng ý (%) kiến (%)<br />
Nếu tôi trong tình trạng bệnh rất nặng không có cơ hội hồi phục, tôi muốn các BS<br />
C1 87,2 2,1 10,7<br />
sẽ là người quyết định toàn bộ quá trình chăm sóc của tôi.<br />
Nếu tôi trong tình trạng bệnh rất nặng không có cơ hội hồi phục, tôi muốn được<br />
C5 42 50 8<br />
điều trị để kiểm soát hoàn toàn cơn đau, ngay cả khi thuốc có thể làm tôi lú lẫn.<br />
Nếu tôi trong tình trạng bệnh rất nặng không có cơ hội hồi phục, tôi muốn tự mình<br />
C9 21,3 74,5 4,2<br />
kiểm soát thuốc giảm đau hơn là phụ thuộc vào số thuốc BS và điều dưỡng phát.<br />
C20 Tôi tin là hầu hết mọi người đều bị đau đớn khi cái chết đến gần. 76,6 8,6 14,8<br />
Nếu tôi trong tình trạng bệnh rất nặng không có cơ hội hồi phục, tôi muốn được<br />
C15 53,2 38,3 8,5<br />
chăm sóc trong BV hơn là ở nhà.<br />
Nếu tôi trong tình trạng bệnh rất nặng không có cơ hội hồi phục, tôi muốn có sẵn<br />
C4 17 68,1 14,9<br />
một loại thuốc để chấm dứt cuộc sống của tôi khi tôi muốn.<br />
Nếu tôi trong tình trạng bệnh rất nặng không có cơ hội hồi phục, sự hỗ trợ về tâm<br />
C11 63,8 17 19,2<br />
linh và tôn giáo rất quan trọng với tôi.<br />
Nếu tôi trong tình trạng bệnh rất nặng không có cơ hội hồi phục, tôi muốn được<br />
C2 85,1 4,3 10,6<br />
sống bằng mọi giá.<br />
Nếu tôi trong tình trạng bệnh rất nặng không có cơ hội hồi phục, chất lượng cuộc<br />
C21 72,3 14,9 12,8<br />
sống của tôi quan trọng hơn thời gian tôi có thể sống thêm.<br />
C22 Tôi sợ bị bất lực và bị phụ thuộc hơn là tôi sợ cái chết. 55,3 21,3 23,4<br />
Tôi mong rằng cái chết và sự hấp hối sẽ được trao đổi cởi mở hơn trong xã hội của<br />
C12 63,8 10,6 25,6<br />
chúng ta.<br />
Hơn 50% số BN mong muốn rằng thông tin Trong mẫu nghiên cứu có khoảng 47% BN<br />
xấu nên được chia sẻ với cả BN và gia đình. đã có suy nghĩ về kế hoạch cuối đời cho bản thân<br />
Trong khi đó có 1 BN (2%) không muốn biết gì nhưng chỉ có 40% có ý muốn chia sẻ với gia đình<br />
về chẩn đoán bệnh của mình. về kế hoạch này. 42% số BN cảm thấy không<br />
Nhìn chung trên ¾ số BN trong mẫu nghiên thoải mái khi bàn luận về cái chết.<br />
cứu không có hiểu biết về các PTDTSS. Sau khi Về nơi qua đời mong muốn, hầu như toàn<br />
được giải thích thì >80% họ vẫn muốn được tiến bộ (94%) BN đều muốn qua đời tại nhà. 2 BN<br />
hành các phương pháp này với hi vọng được sống. muốn qua đời ở BV và 2% (1 BN) có ý kiến khác<br />
Trong các PTDTSS, ấn tim ngoài lồng ngực là là không muốn nghĩ tới điều này vì lí do của họ<br />
phương tiện được nhiều BN biết đến nhất và ít là còn muốn vui sống, chưa nghĩ đến.<br />
nhất là nội khí quản. Hơn 90% BN muốn được BÀN LUẬN<br />
sử dụng dinh dưỡng nhân tạo và tỉ lệ muốn Đặc điểm dân số nghiên cứu<br />
được ấn tim ngoài lồng ngực và nội khí quản là<br />
Dù cỡ mẫu không quá lớn nhưng nghiên<br />
thấp nhất 85%. Nhìn chung tỉ lệ hiểu biết về<br />
cứu đã thu nhận được một mẫu khá đa dạng về<br />
PTDTSS còn thấp và tỉ lệ muốn được dùng<br />
mặt tuổi với sự phân bố nhóm tuổi ở cả ba nhóm<br />
PTDTSS là rất cao.<br />
lần lượt là 51% ở nhóm Sơ lão, 34% ở nhóm<br />
Khi khảo sát đặc điểm ý muốn về điều quan Trung lão và 15% Đại lão. Tỉ lệ BN ở nông thôn<br />
trọng nhất trong giây phút cuối của mẫu nghiên cao trong nghiên cứu một phần do tiêu chuẩn<br />
cứu: tỉ lệ cao nhất là 55,3% muốn “ở cạnh gia đánh giá thành thị chỉ bao gồm các thành phố<br />
đình hay bạn bè”, sau đó là “không muốn bị trực thuộc trung ương, do đó một số đối tượng<br />
đau” (14,9%), tiếp đến lần lượt là “cảm thấy bình dù sống ở thành phố trực thuộc tỉnh vẫn được<br />
an” (8,5%), “Giữ được phẩm giá cá nhân” (6,4%), xếp là nông thôn. Lí do cho tiêu chuẩn này là do<br />
“mọi người lắng nghe tôn trọng mong ước bản sự phân bố về dịch vụ y tế khác cả về số lượng<br />
thân” (6,4%) và “cảm thấy không là gánh nặng và chất lượng ở các thành phố trực thuộc trung<br />
cho mọi người” (4,3%). ương và các thành phố hạng khác. Điểm nổi bật<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa 281<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018<br />
<br />
về mặt dân số học của mẫu nghiên cứu là tỉ lệ nặng không thể hồi phục, thái độ của NCT<br />
theo tôn giáo khá cao 72%, nhiều nhất là đạo chúng tôi rất đồng tình với chuyện sống bằng<br />
Phật và đạo Thiên Chúa. Đặc biệt, có đến 13% mọi giá, khác biệt hoàn toàn với NCT của Catt là<br />
NCT vẫn còn có khả năng tự chăm sóc bản thân. rất không đồng ý. Tuy vậy cả hai nhóm đều<br />
Đặc điểm bệnh lí dân số nghiên cứu không đồng ý với việc thử mọi điều trị tối tân<br />
Trong mẫu của chúng tôi, tỉ lệ BN NCT có nhất bất kể hậu quả, và thái độ này là khác biệt<br />
chẩn đoán ung thư đi kèm chiếm tỉ lệ cao 64%. không ý nghĩa thống kê. Có lẽ do cả hai nhóm<br />
Trong số đó, 2/3 số BN không có hiểu biết về chẩn đều coi trọng chất lượng cuộc sống hơn thời gian<br />
đoán và tiên lượng bệnh của họ. Điều này sẽ giới sống thêm và sợ bị phụ thuộc hơn là sợ cái chết.<br />
hạn khả năng tự ra quyết định và chuẩn bị các kế Ta có thể thấy dù vẫn muốn sống bằng mọi giá<br />
hoạch cá nhân và y tế trong tương lai. Trong thực nhưng NCT trong mẫu nghiên cứu này vẫn sợ lệ<br />
tế lâm sàng, một hiện tượng thường gặp là người thuộc, sợ bị bất lực và không muốn thử các<br />
nhà với lí do không muốn BN lo lắng và sợ hãi về phương tiện điều trị tối tân nhất trong điều kiện<br />
bệnh sẽ giới hạn việc BS trao đổi thông tin trực bệnh nặng, không thể phục hồi. Họ không sợ cái<br />
tiếp với BN. Mọi thông tin chỉ được trao đổi giữa chết và coi trọng chất lượng cuộc sống hơn. Tuy<br />
người nhà và BS; qua đó mọi quyết định liên nhiên đây chỉ là thái độ, việc chuyển từ thái độ<br />
quan chăm sóc y tế sẽ diễn ra giữa BS và gia đình thành quyết định thực sự về chăm sóc y tế cần có<br />
mà không có sự tự chủ của BN. hiểu biết tốt hơn về điều trị và thông tin cụ thể<br />
về chẩn đoán. Hai yếu tố đó là hai yếu tố vẫn<br />
Đặc điểm thái độ và ý muốn NCT về CSCĐ<br />
còn hạn chế ở BN NCT do đặc thù của nền y tế.<br />
Đặc điểm thái độ của NCT trong mẫu chúng<br />
Ở vấn đề điều trị đau, thái độ của hai nhóm<br />
tôi sẽ được so sánh với kết quả nghiên cứu của tác<br />
hoàn toàn khác nhau. Về vấn đề điều trị kiểm<br />
giả Catt – trên đối tượng NCT >=75 tuổi tại Hoa<br />
soát đau hoàn toàn dù điều trị làm giảm mức độ<br />
Kì trong cộng đồng(3). Với câu hỏi thái độ về khả<br />
nhận thức, mức độ không đồng tình của NCT<br />
năng ra quyết định, có sự khác biệt rõ rệt về thái<br />
Việt Nam cao hơn nhiều so với NCT của Catt.<br />
độ giữa hai nhóm dân số, NCT của chúng tôi có<br />
Điều này có thể do NCT Việt Nam vẫn muốn<br />
thái độ đồng tình nhiều hơn về việc dù bệnh có<br />
tỉnh táo đến giây phút cuối để nhìn con cái, nhà<br />
không chữa khỏi thì họ vẫn để BS quyết định<br />
cửa lần cuối trước khi qua đời. Tuy cả hai nhóm<br />
toàn bộ điều trị và chăm sóc. Trong khi đó, NCT<br />
NCT đều không đồng tình với việc tự kiểm soát<br />
của Catt có suy nghĩ ngược lại. Điều này có thể lí<br />
thuốc giảm đau mà không theo điều trị của BS,<br />
giải do khác biệt về mặt văn hóa và khác biệt về<br />
NCT chúng tôi có mức độ đồng ý cao hơn nhiều.<br />
cả bối cảnh y tế. Tại các nước phương Tây luôn đề<br />
Điều này tương ứng với thái độ về việc ra quyết<br />
cao giá trị của bản thân, BN luôn được khuyến<br />
định y tế, NCT vẫn không muốn tự kiểm soát<br />
khích phát huy quyền tự chủ. Ngoài ra các qui tắc<br />
điều trị của mình dù bản thân họ là người đánh<br />
y đức cũng yêu cầu BS phải tôn trọng quyền tự<br />
giá mức độ đau bản thân tốt nhất. Lí do có thể là<br />
chủ của BN. Trong khi đó ở nước ta, BN thường<br />
sự thiếu kiến thức về thuốc và sợ tác dụng phụ<br />
không hiểu rõ về bệnh tình của bản thân, thiếu<br />
của thuốc, cũng như sợ giảm nhận thức do điều<br />
kiến thức y học nên không dám tự ra quyết định<br />
trị đau triệt để. Có một sự khác biệt hoàn toàn về<br />
mà sẽ giao quyền đó cho người thân hay BS. Mặt<br />
thái độ giữa hai nhóm về vấn đề đau lúc cuối<br />
khác, về phía nhân viên y tế, quyết định y khoa<br />
đời, NCT chúng tôi rất đồng tình với niềm tin<br />
vẫn dựa chủ yếu vào BS mà không phải là việc<br />
rằng hầu hết mọi người đều bị đau khi cái chết<br />
chia sẻ quyết định giữa BS và BN, gia đình BN.<br />
đến gần. Điều này cho thấy NCT có nỗi sợ rất<br />
Về mục chất lượng cuộc sống và thời gian lớn với đau, và họ tin rằng đau nhiều hơn lúc<br />
sống cũng cho thấy sự khác biệt về thái độ giữa qua đời. Do đó nhân viên y tế cần quan tâm<br />
hai nhóm dân số. Nếu trong tình trạng bệnh<br />
<br />
<br />
282 Chuyên Đề Nội Khoa<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
đánh giá và điều trị đau tốt hơn ở NCT nhất là là NCT trong mẫu của chúng tôi vẫn chưa có<br />
giai đoạn cuối đời. Tuy nhiên cần chú ý là NCT đầy đủ kiến thức về các PTDTSS mà trong tương<br />
rất sợ tác dụng phụ và phụ thuộc hoàn toàn vào lai có thể họ phải sử dụng bất kể họ có muốn<br />
BS về việc điều trị đau. hay không. Trong bối cảnh nước ta, việc áp dụng<br />
Ý muốn của BN cao tuổi về các vấn đề chăm sóc các PTDTSS là bắt buộc cho mọi trường hợp BN<br />
cuối đời và các PTDTSS suy hô hấp tuần hoàn, sẽ không tránh khỏi<br />
Về vấn đề ý muốn đối tượng được chia sẻ những trường hợp sử dụng PTDTSS mà không<br />
thông tin liên quan chẩn đoán và tiên lượng mang lại lợi ích gì cho BN. Trong những trường<br />
bệnh, trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có hợp đó việc giới hạn những điều trị này là vô<br />
56% BN NCT muốn cả bản thân và gia đình cùng cần thiết. Tuy vậy việc giới hạn các điều trị<br />
biết thông tin xấu. Đặc biệt có đến 38% chỉ này sẽ cần thái độ, đánh giá của BS; cũng như<br />
muốn gia đình biết mà bản thân BN không hiểu biết từ phía BN, gia đình về những chọn lựa<br />
muốn biết. Kết quả này thấp hơn ở các quốc PTDTSS, chẩn đoán và tiên lượng bệnh; cũng<br />
gia khác có nền văn hóa tương tự Việt Nam. như trao đổi chi tiết cởi mở giữa nhân viên y tế<br />
Các nghiên cứu trên đối tượng BN ung thư ở và BN cũng như gia đình họ. Sau khi được giới<br />
châu Á cho thấy BN rất muốn BS trung thực và thiệu và giải thích về các PTDTSS, tỉ lệ muốn sử<br />
trao đổi hiểu biết về thông tin bệnh của dụng các PTDTSS dao động từ 80 - 90%. Một<br />
họ(4).Các nghiên cứu toàn quốc trên BN ung phần lí do của tỉ lệ cao này có thể do hiểu biết<br />
thư giai đoạn cuối ở Đài Loan cho thấy đa của BN về PTDTSS chỉ ở mức lợi ích mà chưa<br />
phần BN muốn BS thông tin cho BN trước hiểu rõ tác hại cũng như tỉ lệ hiệu quả thay đổi<br />
người nhà và muốn tự mình biết thông tin theo tình huống lâm sàng của PTDTSS. Tỉ lệ<br />
bệnh thay vì chỉ cho người nhà biết(12,13). 72,5% chọn lựa dinh dưỡng nhân tạo là cao nhất 90%<br />
BN ung thư ở Nhật muốn biết thông tin bệnh có thể do đây là phương pháp ít xâm lấn và ít<br />
và 32% muốn biết thông tin về tiên lượng sống gây khó chịu nhất so với các phương pháp còn<br />
còn của bản thân(9). 65,5% NCT trong mẫu lại. Thêm vào đó cũng có thể do quan điểm về<br />
nghiên cứu các BN ung thư gốc châu Á muốn ăn uống trong tín ngưỡng văn hóa Việt Nam cho<br />
biết càng nhiều thông tin về bệnh càng tốt và rằng nếu qua đời mà không có dinh dưỡng thì sẽ<br />
gần 90% muốn có người thân bên cạnh khi thành “ma đói” và không được đầu thai chuyển<br />
nhận thông tin xấu về bệnh(10). Nói tóm lại, kiếp. Gia đình luôn rất quan tâm và nhấn mạnh<br />
NCT trong mẫu của chúng tôi vẫn có xu vai trò dinh dưỡng nhân tạo trong tình huống<br />
hướng muốn hiểu rõ thông tin bệnh của bản BN không thể ăn uống được.<br />
thân. Tuy vậy một số vẫn có ý muốn không Vấn đề quan trọng nhất trong phần đánh giá<br />
biết (40%). Do đó trong thực hành lâm sàng, ý muốn của NCT là địa điểm qua đời mong<br />
các BS trước khi thông báo tin xấu nên tìm muốn. Rất nhiều BN thể hiện sự không chắc chắn<br />
hiểu ý muốn của cả BN và người nhà về đối do không biết mình sẽ mất ở đâu khi đưa ra câu<br />
tượng sẽ nhận thông tin, qua đó làm tăng cơ trả lời này nhưng khi được đưa các lựa chọn là<br />
hội BN hiểu rõ tình trạng bệnh của mình nếu “nhà”, “bệnh viện”, “viện dưỡng lão” hay nơi<br />
BN muốn. khác thì 92% (46 BN) chọn nhà là nơi qua đời<br />
Xét về kiến thức và ý muốn sử dụng các mong muốn. Lí do cho việc hầu hết NCT của<br />
PTDTSS, bảng khảo sát đưa ra 5 chọn lựa về chúng tôi mong muốn được mất tại nhà có thể<br />
PTDTSS là “ấn tim ngoài lồng ngực”, “nội khí tập họp thành 4 chủ đề chính: “qua đời với người<br />
quản”, “máy thở”, “lọc thận nhân tạo” và “dinh thân xung quanh”, “cảm giác gắn bó với mái<br />
dưỡng nhân tạo”. Tỉ lệ hiểu biết về các PTDTSS ấm”, “nơi hỗ trợ về mặt tâm linh tôn giáo” và”tiết<br />
này chỉ ở mức dưới 30% rất thấp. Vấn đề nổi bật kiệm chi phí”. Việc hiểu rõ lí do tại sao BN chọn<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa 283<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018<br />
<br />
nhà là nơi qua đời mong muốn rất quan trọng vì cường độ được chăm sóc tại nhà càng cao thì tỉ<br />
nếu trong trường hợp BN không thể về nhà được số W chênh của việc mất tại nhà càng lớn(8). Bên<br />
do một lí do khách quan nào đó, chúng ta có thể cạnh đó Gomes còn chứng minh được tính hiệu<br />
thay đổi môi trường BV để ít nhất có được các quả về mặt điều trị và chi phí với cả BN và<br />
yếu tố mà BN mong muốn có được khi qua đời ở người nhà qua một tổng quan hệ thống khác của<br />
nhà. Chẳng hạn như việc đánh giá tình trạng BN COCHRANE: tăng khả năng BN có thể mất tại<br />
sớm và thông báo với gia đình, hỏi BN về ý muốn nhà, giảm bớt gánh nặng triệu chứng cho BN(6).<br />
hỗ trợ tâm lí tâm linh cuối đời. Một trong những nguyên nhân khiến BN thay<br />
Tuy nhiên ở phần thái độ NCT của chúng tôi đổi địa điểm mất mong muốn từ nhà sang BV là<br />
tỏ thái độ đồng tình hơn với việc chăm sóc tại nỗi sợ và sự bất lực của người chăm sóc cũng<br />
BV với tỉ lệ 50%. Điều này cho thấy sự sai biệt như của BN khi triệu chứng không kiểm soát<br />
giữa thái độ và mong muốn của BN. Mặc dù BN được. Dịch vụ chăm sóc tại nhà và hỗ trợ 24/7 có<br />
mong muốn mất ở nhà nhưng có thể do nhiều thể cung cấp lời khuyên và giúp người nhà kiểm<br />
yếu tố họ vẫn muốn được chăm sóc tại BV như: soát những tình huống không phải nhập viện.<br />
lo sợ triệu chứng sẽ không được kiểm soát tốt, Qua đó ta thấy việc phát triển hệ thống CSGN<br />
hay gia đình cảm thấy bất lực khi cho BN về nhà và lão khoa tại nhà, kết hợp mạng lưới BS gia<br />
mà không có sự hỗ trợ về mặt y tế ... Thực tế là ý đình và y tế phường xã nhằm giảm bớt chi phí y<br />
định về nơi qua đời mong muốn là một ý định tế đồng thời mở rộng địa bàng phủ sóng đến cả<br />
có trạng thái động, sẽ thay đổi theo thời gian bởi vùng nông thôn là một hướng phát triển chiến<br />
rất nhiều yếu tố tác động qua lại như đau không lược của hệ thống y tế để tạo điều kiện cho BN<br />
kiểm soát được, các biến cố cấp tính như té ngã, được mất tại nhà.<br />
sự bất lực của người nhà trong việc chăm sóc BN KẾT LUẬN<br />
tại nhà, mức độ phụ thuộc của BN tăng dần, hay NCT trong mẫu chúng tôi có thái độ mâu<br />
tránh tác động tiêu cực lên trẻ nhỏ(7). Khảo sát thuẫn về vấn đề thời gian sống thêm so với chất<br />
trên dân số chung tại Vương Quốc Anh cho thấy lượng cuộc sống (85% đồng ý sống bằng mọi giá<br />
60% người trưởng thành cho rằng họ sẽ thay đổi nhưng 72% lại coi trọng chất lượng cuộc sống so<br />
ý định ban đầu về việc muốn mất ở nhà sang với thời gian sống). 60% BN NCT muốn biết rõ<br />
mất ở một nơi khác nếu không có được sự hỗ trợ tình trạng bệnh của mình và 94% BN muốn<br />
từ gia đình, bạn bè, các hỗ trợ y tế và xã hội được mất tại nhà.<br />
khác(11). Tính chất động của nơi qua đời mong<br />
Hầu như tất cả NCT đều muốn mất tại nhà.<br />
muốn càng làm nổi bật vai trò của việc trao đổi<br />
Nhân viên y tế cần đẩy mạnh thảo luận trước các<br />
sớm nhằm nắm bắt được ý muốn của BN, cũng<br />
vấn đề liên quan CSCĐ ở NCT lúc họ còn đủ<br />
như định kì kiểm tra lại để xác định ý muốn mới<br />
khả năng ra quyết định. Hệ thống chăm sóc y tế<br />
hay những vấn đề có thể giải quyết để BN có thể<br />
NCT tại nhà cần được phát triển như là một<br />
mất tại nơi họ mong muốn.<br />
thành phần của hệ thống y tế để đảm bảo họ có<br />
Và trên hết là phát triển mô hình CSCĐ tại một cái chết “đẹp” tại nhà, cùng với gia đình.<br />
nhà. Do trong một tổng quan hệ thống bởi tác<br />
giả Gomes đã phát hiện các yếu tố sẽ tăng khả TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Bui Thi Tu Quyen, Pham Viet Cuong (2016), Patterns of<br />
năng BN mất tại nhà là mức hoạt động chức Mortality in the Elderly in Chi Linh, Hai Duong, Vietnam,<br />
năng thấp, thời gian bệnh kéo dài, có sự hỗ trợ Period 2004–2012. AIMS Public Health.<br />
từ gia đình, mong muốn BN là mất ở nhà, đồng 2. Catt S, et al. (2005), The development of a questionnaire to<br />
assess the attitudes of older people to end-of-life issues (AEOLI).<br />
thuận ý muốn mất ở nhà từ phía gia đình, tình Palliat Med, 19 (5), pp. 397-401.<br />
trạng kinh tế xã hội tốt và yếu tố liên quan mạnh 3. Catt S, et al. (2005), Older adults' attitudes to death, palliative<br />
treatment and hospice care. Palliat Med, 19 (5), pp. 402-10.<br />
nhất là được nhận dịch vụ chăm sóc tại nhà, và<br />
<br />
<br />
284 Chuyên Đề Nội Khoa<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
4. Eng TC, Yaakup H, Shah SA, Jaffar A, Omar K (2012), Leicestershire: a cross-sectional survey. British Journal of Cancer,<br />
Preferences of Malaysian cancer patients in communication of 90 (8), pp. 1474-1478.<br />
bad news. Asian Pac J Cancer Prev, 13 (6), pp. 2749-52. 11. Shucksmith J, Carlebach S, Whittaker V, British Social Attitudes<br />
5. Freeborne N, Lynn J, Desbiens AN (2000), Insights about dying Survey, 2012, National Centre for Social Research: United<br />
from the SUPPORT project. The Study to Understand Kingdom.<br />
Prognoses and Preferences for Outcomes and Risks of 12. Tang ST, et al. (2006), Congruence of knowledge, experiences,<br />
Treatments. J Am Geriatr Soc, 48 (5 Suppl), pp. S199-205. and preferences for disclosure of diagnosis and prognosis<br />
6. Gomes B, Calanzani N, Curiale V, McCrone P, Higginson I between terminally-ill cancer patients and their family<br />
(2013), Effectiveness and cost-effectiveness of home palliative caregivers in Taiwan. Cancer Invest, 24 (4), pp. 360-6.<br />
care services for adults with advanced illness and their 13. Tang ST, Lee SY (2004), Cancer diagnosis and prognosis in<br />
caregivers. Cochrane Database Syst Rev, (6), pp. Cd007760. Taiwan: patient preferences versus experiences. Psychooncology,<br />
7. Gomes B, Calanzani N, Gysels M, Hall S, Higginson I (2013), 13 (1), pp. 1-13.<br />
Heterogeneity and changes in preferences for dying at home: a 14. (2008), End of Life Care Strategy - promoting high quality care<br />
systematic review. BMC Palliat Care., 12, pp. 7-7. for all adults at the end of life, Department of Health London,<br />
8. Gomes B, Higginson I (2006), Factors influencing death at home pp<br />
in terminally ill patients with cancer: systematic review. BMJ :<br />
British Medical Journal, 332 (7540), pp. 515-521.<br />
9. Ichikura K, et al. (2015), Breaking bad news to cancer patients in Ngày nhận bài báo: 18/11/2017<br />
palliative care: A comparison of national cross-sectional surveys Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/11/2017<br />
from 2006 and 2012. Palliat Support Care, 13 (6), pp. 1623-30.<br />
10. Muthu KD, Symonds P, et al (2004), Information needs of Asian Ngày bài báo được đăng: 15/3/2018<br />
and White British cancer patients and their families in<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Nội Khoa 285<br />